Tải bản đầy đủ (.doc) (199 trang)

Năng lực công tác dân vận của chính trị viên theo tư tưởng hồ chí minh (commissars’ capacity of mass mobilization according to ho chi minh’s thought)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1006.32 KB, 199 trang )

2

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

ĐẶNG VĂN KHƯƠNG

NĂNG LỰC CƠNG TÁC DÂN VẬN CỦA
CHÍNH TRỊ VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Mã số

: 922 90 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS Nguyễn Văn Thế
2. TS Hà Đức Long

HÀ NỘI - 2021


3

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tôi, các số liệu nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN



Đặng Văn Khương


4

MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.
Những cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án
1.2.
Khái quát kết quả nghiên cứu các công trình khoa học có liên quan
đến đề tài luận án và những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG
LỰC CƠNG TÁC DÂN VẬN CỦA CHÍNH TRỊ VIÊN
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1.
Thực chất năng lực cơng tác dân vận của chính trị viên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh
2.2.
Những nhân tố cơ bản quy định năng lực công tác dân vận của
chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ YÊU CẦU NÂNG CAO NĂNG LỰC
CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CHÍNH TRỊ VIÊN THEO TƯ

TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
3.1.
Thực trạng năng lực cơng tác dân vận của chính trị viên theo
tư tưởng Hồ Chí Minh
3.2.
Yêu cầu nâng cao năng lực cơng tác dân vận của chính trị viên
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chương 4 GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO NĂNG
LỰC CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CHÍNH TRỊ VIÊN HIỆN
NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
4.1.
Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực
cơng tác dân vận của chính trị viên hiện nay theo tư tưởng Hồ
Chí Minh
4.2.
Đổi mới tổ chức hoạt động công tác dân vận ở đơn vị cấp phân đội
đội nhằm nâng cao năng lực công tác dân vận của chính trị viên
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
4.3.
Phát huy vai trị nhân tố chủ quan của chính trị viên nhằm nâng
cao năng lực cơng tác dân vận của chính trị viên theo tư tưởng
Hồ Chí Minh
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC CƠNG
BỐ CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

5
10

10
26
30
30
58
75
75
100
118

118
131
145
161
163
164
174


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Trong suốt q trình hoạt động của mình, Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng,
lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã luôn thấm nhuần quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách
mạng và vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Một
trong những sáng tạo đó là tư tưởng của Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận. Theo
Người cơng tác dân vận có vai trị hết sức quan trọng trong việc khơi dậy động
lực, niềm tin, khát vọng phát triển của dân tộc và sẽ trở thành hiện thực khi vận

động được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia làm chủ sự nghiệp cách
mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận là nền tảng tư tưởng để
Đảng ta hoạch định chủ trương, đường lối tiến hành cơng tác dân vận trong
tiến trình cách mạng Việt Nam; là cơ sở khoa học để Đảng ta đấu tranh chống
những quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân và công tác dân vận của Đảng. Tư tưởng đó là phương châm, hành động,
là mục tiêu phấn đấu của các chủ thể công tác dân vận hiện nay.
Đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, công tác dân vận là một bộ phận
công tác dân vận của Đảng; một mặt hoạt động của cơng tác đảng, cơng tác
chính trị trong qn đội. Bất luận trong mọi giai đoạn lịch sử, đội ngũ cán bộ
chính trị nói chung, chính ủy - chính trị viên nói riêng, ln là người đứng
mũi, chịu sào đồng thời là người chịu trách nhiệm cao nhất ở đơn vị về mặt
chính trị, trong đó, chính trị viên là người trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
thực hiện hoạt động công tác dân vận ở cấp phân đội. Năng lực cơng tác dân
vận của chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh là thức phát triển cao của
năng lực công tác dân vận, phản ánh và thể hiện đặc điểm khả năng nhận thức
đúng đắn và vận dụng sáng tạo của họ đối với tư tưởng của Hồ Chí Minh về
cơng tác dân vận, phù hợp với từng điều kiện lịch sử cụ thể nhằm góp phần
xây dựng và củng cố mối quan hệ đồn kết gắn bó máu thịt quân dân, xây


6

dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo sự đồng thuận trong xã hội về nhận
thức và hành động cách mạng.
Hiện nay, đa số chính trị viên trong quân đội có bản lĩnh chính trị vững
vàng, nhận thức cơ bản, hệ thống, chuyên sâu tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác dân vận; khả năng xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác dân
vận ở đơn vị theo tư tưởng Hồ Chí Minh là khá tốt, góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác dân vận của Quân đội trong thời gian vừa qua. Tuy

nhiên, trước yêu cầu về đổi mới công tác dân vận của Qn đội hiện nay, vẫn
cịn một bộ phận chính trị viên bộc lộ những hạn chế, thiếu sót trong nhận
thức và tiến hành công tác dân vận. Ở bộ phận này, khả năng tuyên truyền vận
động, giáo dục, thuyết phục chưa thực sự “khéo”; khả năng thuyết phục để
dân hiểu, dân tin, dân làm theo có lúc chưa đạt được kết quả như mong muốn,
khả năng nhận diện và đấu tranh quan điểm sai trái của các thế lực thù địch
còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu văn hóa
ngày càng sâu rộng, tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
cùng với việc các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn
giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền” để xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước,
Quân đội, chia rẽ khối đại đồn kết tồn dân tộc, tình đồn kết qn dân, thúc
đẩy “phi chính trị hóa” Qn đội đã và đang đặt ra những thách thức không
nhỏ cho công tác dân vận của Đảng và Quân đội hiện nay. Theo đó, việc nâng
cao chất lượng tồn diện của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng làm công
tác dân vận, đặc biệt là năng lực công tác dân vận của chính trị viên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là thực sự cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn cao. Thế
nhưng, đến nay ít có cơng trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống, toàn
diện về vấn đề này dưới góc độ triết học. Vì vậy, nghiên cứu năng lực
cơng tác dân vận của chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.


7

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực cơng tác dân vận
của chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh; đề xuất giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao năng lực cơng tác dân vận của chính trị viên theo

tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan những cơng trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đề tài.
Làm rõ thực chất và những nhân tố cơ bản quy định năng lực công tác
dân vận của chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đánh giá thực trạng và xác định yêu cầu cơ bản về nâng cao năng lực
cơng tác dân vận của chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đề xuất giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực công tác dân vận của
chính trị viên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Bản chất và những nội dung có liên quan đến năng lực cơng tác dân
vận của chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh
về cơng tác dân vận; năng lực cơng tác dân vận của chính trị viên và thực chất
năng lực cơng tác dân vận của chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Về khơng gian: Luận án nghiên cứu và khảo sát khách thể là chính trị
viên ở một số đơn vị đủ quân, làm nhiệm vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu
thuộc binh chủng hợp thành: Quân đoàn 1, Quân đoàn 2; Quân khu 1, Quân
khu 2, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội.
Về thời gian: Số liệu khảo sát, điều tra, thu thập từ năm 2015 đến nay.


8

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trị
của quần chúng nhân dân; tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận; đường

lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân vận, công tác dân vận.
Cơ sở thực tiễn
Luận án dựa vào thực tiễn triển khai và tổ chức thực hiện công tác dân
vận của chính trị viên ở đơn vị; các báo cáo tổng kết cơng tác đảng, cơng tác
chính trị; báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác dân vận của các đơn vị
cơ sở, kết quả điều tra, khảo sát, trao đổi, phỏng vấn và những vấn đề thực tế
liên quan tới năng lực cơng tác dân vận của chính trị viên hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, cũng như số liệu của các cơng trình khoa học đã công bố.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài của luận án vận dụng hệ thống phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và phương pháp tiếp cận giá trị nghiên
cứu các vấn đề đặt ra; sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân
tích, tổng hợp, trừu tượng hố, khái qt hố, hệ thống - cấu trúc, lơgíc và lịch sử,
điều tra xã hội học, phỏng vấn trực tiếp, quan sát, so sánh, phương pháp nghiên
cứu các tài liệu và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Quan niệm về năng lực công tác dân vận của chính trị viên theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Những nhân tố cơ bản quy định năng lực công tác dân vận của chính trị
viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xác định yêu cầu cơ bản về nâng cao năng lực công tác dân vận của
chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Giải pháp nâng cao năng lực cơng tác dân vận của chính trị viên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.


9

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học để đội
ngũ cán bộ làm cơng tác dân vận nói chung và đội ngũ chính trị viên nói riêng
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác “dân vận khéo” của quân đội ta
trong giai đoạn hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa
học, giảng dạy, học tập các nội dung có liên quan đến cơng tác dân vận cho
các đối tượng trong hệ thống nhà trước quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Kết cấu của luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục các
cơng trình đã được công bố của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


10

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Những cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan
đến đề tài luận án
1.1.1. Những cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan
đến tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận và năng lực
công tác dân vận của cán bộ, đảng viên
Những cơng trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác dân vận
Tác giả Trần Hậu (2013), “Minh triết Hồ Chí Minh về dân, dân vận và
đại đồn kết tồn dân tộc” [43] và tác giả Nguyễn Đình Hịa (2015), “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng Cộng
sản Việt Nam [44], các tác giả đã khẳng định vai trò của cơng tác dân vận
trong việc khơi dậy tinh thần đồn kết tồn dân tộc, góp phần quan trọng

vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử. Đặc
biệt, tác giả Trần Hậu đã làm rõ bản chất khái niệm “dân” trong quan niệm
của Hồ Chí Minh và chỉ ra nội hàm, “dân” là một khái niệm rất cụ thể, rõ
ràng. Dân không phải là cái trừu tượng, khơng xác định, mà chính là những
người bằng xương, bằng thịt, sống và làm việc quanh ta, hàng ngày, hàng
giờ giao tiếp, trao đổi, chia sẻ mọi việc với chúng ta. Hồ Chí Minh đã nhìn
thấy từng con người cụ thể trong cộng đồng, hiểu rõ họ, thông cảm và trân
trọng đặc điểm riêng về tâm lý, lứa tuổi, nghề nghiệp, hồn cảnh xã hội,
tơn giáo, dân tộc và ln đặt mình vào hồn cảnh của họ để thấu hiểu mong
muốn họ, gần gũi họ và động viên khích lệ họ, lôi kéo họ về với cách
mạng, phát huy sức mạnh nhân dân trong mọi công việc.
Tác giả lý giải minh triết Hồ Chí Minh về dân vận xuất phát từ những
nội dung cốt lõi về “Dân” trong tư tưởng của Người. Dân vận, theo Hồ Chí
Minh là vận động tất cả các lực lượng của mỗi một người dân khơng để sót
một người nào, góp thành lực lượng tồn dân để thực hành những cơng việc


11

nên làm, những nhiệm vụ được giao. Tác giả đã chỉ ra những đặc điểm dân
vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
Một là, phát động và khai thác mọi tiềm năng của mỗi người dân, bắt
đầu từ từng người dân, phát huy tính tích cực xã hội và khơng để khả năng
nào của họ bị lãng phí, dù là khả năng hạn chế, dụng nhân như dụng mộc.
Hai là, không bỏ sót một ai, vận động mọi người khơng phân biệt đối
xử. Mọi người dân đều tìm được chỗ đứng xứng đáng của mình trong xã hội
và được làm chủ xã hội, đều có được cơ hội để thể hiện vai trị làm chủ đó mà
khơng bị loại trừ.
Ba là, mục đích của dân vận là tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân để
hoàn thành những việc nên làm và những nhiệm vụ được giao. Đó là những

việc có lợi cho dân, cho nước, cho cả cộng đồng, trong đó có lợi ích của bản
thân mỗi người.
Bốn là, cách dân vận tốt nhất là làm sao cho mọi người hành động trên cơ
sở hiểu biết rõ ý nghĩa của việc mình làm, có sự hướng dẫn, giúp đỡ của lực
lượng lãnh đạo. Đó là sự kết hợp giữa tính tự giác của người dân và tinh thần
phụ trách của người lãnh đạo với tư cách người phục vụ, người đầy tớ của dân.
Tác giả Hồng Chí Bảo (2014), “Những giá trị bền vững của tác phẩm
“Dân vận” [8]. Tác giả lý giải điều cốt yếu lý luận dân vận theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, lý luận đó gắn chặt với thực hành đạo đức và phong cách dân vận; đặt cơ
sở cho công tác dân vận, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền là Dân chủ.
Với quan niệm tính khoa học và nghệ thuật của dân vận và công tác dân vận, giá
trị cốt lõi của tác phẩm là “dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng”, tác giả
nhấn mạnh: “Công tác dân vận vừa là khoa học, vừa là một nghệ thuật. Chung
đúc lại, năng lực và trình độ dân vận là một năng lực văn hóa, là sự tinh tế
trong ứng xử văn hóa với nhân dân, phải hiểu dân để dân tin” [8, tr. 15]. Theo
đó, tác giả đã chỉ ra quan điểm nhân dân và nhân văn Hồ Chí Minh, chỉ dẫn về
nội dung dân vận là gì? Ai là người làm cơng tác dân vận và phương cách trong
công tác dân vận như thế nào? tác phẩm Dân vận của Hồ Chí Minh thực sự là
một thơng điệp mà Hồ Chí Minh gửi tới tất cả chúng ta, cho ta hiểu. “Nước ta là


12

nước dân chủ”, “Dân vận là gì?”, “Ai phụ trách dân vận” và điều quan trọng
nhất, thiết thực nhất “Dân vận phải thế nào”, cả bốn mục ấy đã hội đủ những giá
trị bền vững mà chúng ta phải dày công suy nghĩ để hiểu cho đúng và làm cho
tốt theo chỉ dẫn của Người.
Tác giả Trần Đình Huỳnh, Đặng Xn Kỳ (2013), Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cơng tác dân vận trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay [49], đã đề
cập đến quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận

và cơng tác dân vận. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, quan điểm, nội
dung, phương thức tiến hành công tác dân vận và lực lượng làm công tác dân
vận. Tác giả cũng chỉ ra phẩm chất, năng lực cần có của người làm cơng tác
dân vận trong giai đoạn hiện nay. Để cập đến tính tất yếu sự vận dụng tư
tưởng dân vận và công tác dân vận của Hồ Chí Minh của Đảng ta hiện nay;
tác giả cũng đã chỉ rõ những mặt đã làm được và những điểm cịn khó khăn
trong q trình vận dụng tư tưởng của Người.
Tác giả Phạm Duy Hoàng (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc [45], đã phân
tích, làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận một cách có
hệ thống. Sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan tạo
nên nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận, trở thành
văn hóa dân vận Hồ Chí Minh. Tiền đề tư tưởng, lý luận của sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân vận là chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa
dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Đặc biệt, tác giả khẳng định, quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân là cơ sở quan
trọng nhất tác động trực tiếp đến sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận.
Quan niệm về “dân”, “dân vận” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa,
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tinh hoa của triết học phương Đông,
phương Tây và những tư tưởng tiến bộ của dân tộc ta Hồ Chí Minh đã đưa ra
quan điểm về dân rất hiện đại, phong phú, mang đậm bản sắc dân tộc: “Theo Hồ


13

Chí Minh, “dân” là tất cả những người lao động bình thường, đơng đảo trong xã
hội, khơng phân biệt già trẻ, gái trai, dân tộc, tôn giáo, giàu nghèo, quý tiện,
“dân” là tất cả những người lao động trong xã hội và trong khối “dân” đó bao
gồm cả sĩ, nơng, công, thương” [45, tr. 66]. Cùng với chữ “dân”, Hồ Chí Minh

thường dùng khái niệm “Đồng bào”; “Dân” cịn được hiểu “bốn phương vô sản
đều là anh em”. Như vậy, phạm trù “dân” trong quan niệm của Hồ Chí Minh là
một phạm trù rất rộng nhưng vẫn bao hàm tính giai cấp, không chỉ giới hạn trong
phạm vi của mối quan hệ giai cấp, mà còn trên cơ sở truyền thống yêu nước, sự
gắn bó cố kết cộng đồng và tinh thân cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Dưới góc độ triết học, tác giả luận rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của
quần chúng nhân dân; nhân dân là gốc của nước, của cách mạng, là nhân tố quy
định mọi thắng lợi và dân là lực lượng rất đông, không thuần nhất, muốn phát
huy được sức mạnh cần phải được giác ngộ, tổ chức và lãnh đạo [45, tr. 68].
Trên cơ sở đó, tác giả luận giải có hệ thống, những nội dung bản chất của tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân vận; vị trí, vai trị của dân vận; mục tiêu nguyên tắc
thực hành dân vận, thực hiện được mục tiêu dân vận cần phải thực hành gắn liền
với các nguyên tắc: “Một là, tất cả vì lợi ích của nhân dân; hai là, thực hành và
phát huy dân chủ; ba là, đoàn kết toàn dân” [45, tr. 88].
Tác giả Trương Thị Mai (2019), “Tác phẩm dân vận của Hồ Chí Minh giá trị lý luận và thực tiễn cho công tác dân vận hiện nay” [60], tác giả luận giải
dân vận là tâm huyết của Người dành cho mỗi cán bộ, đảng viên, khẳng định sâu
sắc quan điểm xuyên suốt tư tưởng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, dân
vận là trách nhiệm của hệ thống chính trị và đồng thời cịn phản chiếu sinh động,
trọn vẹn cả tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh: “Dân vận kết tinh
dịng chảy tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân và công tác vận động quần chúng của Đảng” [60, tr. 7].
Tác giả đã chỉ rõ những nội dung công tác dân vận rất cụ thể theo tư
tưởng Hồ Chí Minh: Là việc làm giải thích cho mỗi người dân hiểu rõ ràng về
quyền lợi và nhiệm vụ để họ hăng hái làm cho kỳ được; bất kỳ việc to hay


14

nhỏ cũng đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến dân, cùng dân đặt kế hoạch cho
thiết thực; động viên, tổ chức toàn dân thi hành và thi hành xong phải cùng

dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng. Qua đó,
tác giả đưa ra 4 nguyên lý cơ bản của nghiệp vụ dân vận theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, trở thành phương thức triển khai trong nhận thức và hành động của các chủ
thể tiến hành công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay. Thứ nhất, từng cán bộ, cơ
quan, tổ chức đều phải làm công tác vận động quần chúng gắn với nhiệm vụ,
quyền hạn và cơng việc hàng ngày của mình; thứ hai, trong thực hiện nhiệm vụ
dân vận cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, phân công rõ ràng, tạo
sức mạnh tổng hợp; thứ ba, coi trọng công tác tuyên truyền, vận động, để dân
hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm, tuyên truyền là phải thật thà nhúng tay vào việc;
thứ tư, người làm công tác dân vận phải có tinh thần xung phong, nêu gương, làm
mẫu từ lời nói đến hành động. Tác giả đưa ra 4 giải pháp thực hiện đổi mới nội
dung phương thức công tác dân vận theo tư tưởng, đạo đức, phong cách dân vận
Hồ Chí Minh về nhận thức, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò
của các lực lượng gắn với thực hiện tốt phong trào thi đua “Dân vận khéo”.
Tác giả Ngô Văn Thạo (2019), “Công tác dân vận với việc xây dựng
niềm tin, khát vọng phát triển của toàn dân tộc trong tình hình hiện nay”
[106], tác giả đã nêu bật nội dung tác phẩm “Dân vận” của Hồ Chí Minh,
đó là cẩm nang soi rọi lý luận và thực tiễn công tác dân vận của Đảng ta
hiện nay, là cơ sở lý luận để Đảng ta đề ra chủ trương, chính sách về công
tác dân vận trong các giai đoạn cách mạng, đồng thời là kim chỉ nam cho
hành động của các chủ thể tiến hành công tác dân vận. Tác giả khẳng
định: “Tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể coi là
Cương lĩnh dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam, có giá trị lý luận và
thực tiễn sâu sắc” [106, tr. 27]. Đồng thời, tác giả nhấn mạnh là làm rõ
việc thực hiện công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc khơi
dậy niềm tin, khát vọng phát triển của toàn dân tộc có vai trị quan trọng, có
thể quyết định đến sự phát triển của đất nước.


15


Trong giai đoạn hiện nay, rất cần sự nhận thức và vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về công dân vận vào khơi dậy động lực, niềm tin của toàn
dân tộc để thực hiện thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ, giải pháp phát triển đất
nước. Tác giả chỉ rõ: “Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
dân vận trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng niềm tin và khát vọng phát
triển của tồn dân tộc có vai trị rất quan trọng, thậm chí có tính quyết định
đối với sự phát triển” [106, tr. 27].
Tác giả Thào Xuân Sùng (2018), “Thực hiện tốt phương pháp dân
vận Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương, chính sách hợp lịng dân”
[102]; tác giả Hồng Chí Bảo (2019), “Về tính dễ hiểu trong phương pháp
tuyên truyền của Hồ Chí Minh” [9] và tác giả Trần Minh Trưởng (2019),
“Phương pháp dân vận qua bài báo “Dân vận” của Hồ Chí Minh” [ 112].
Các tác giả đã phân tích luận giải tiếp cận phương pháp dân vận theo tư
tưởng Hồ Chí Minh dưới góc độ triết học là phương cách để thực hiện tốt
công tác dân vận. Đặc biệt, tác giả Trần Minh Trưởng đã khái quát và làm
rõ 3 phương pháp dân vận của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ quan điểm sự
nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tác giả xác định:
“Phương pháp dân vận của Hồ Chí Minh là “lấy dân làm gốc” [112, tr. 51], cội
nguồn, gốc rễ tư tưởng “lấy dân làm gốc” là vấn đề quan hệ máu thịt, gắn
bó giữa Đảng với nhân dân. Nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
coi đây là động lực quan trọng khơi dậy sức mạnh của nhân dân trong
thực hiện nhiệm vụ cách mạng, do đó, tác giả chỉ ra phương pháp “dân
vận khéo” là phải biết phát huy dân chủ. Dân vận theo Hồ Chí Minh
khơng chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, vận động nhân dân một cách
trực tiếp mới mang hiệu quả, mà nó còn biểu hiện qua hoạt động gián
tiếp của các tổ chức lãnh đạo, tổ chức chính trị xã hội, ở đội ngũ cán
bộ, đảng viên thông qua sự nêu gương trong nhận thức và hành động,
bằng hành động thực tiễn, bằng việc làm cụ thể, có sức tác động đến tư
tưởng, tình cảm và hành động cách mạng của nhân dân. Do vậy , tác giả



16

khẳng định, phương pháp dân vận Hồ Chí Minh là: “dân vận bằng phương
pháp nêu gương” [112, tr. 54].
Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí
Minh về năng lực cơng tác dân vận của cán bộ, đảng viên
Tác giả Nguyễn Bá Quang (2013), Học tập và làm theo phong cách
“dân vận khéo” Hồ Chí Minh [97], đã đề cập đến vấn đề lý luận và thực tiễn tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân vận. Đặc biệt, tác giả đã đề cập khá sâu sắc đến quan
điểm “dân vận khéo” Hồ Chí Minh: “Dân vận là công tác khoa học, nhưng cũng
là nghệ thuật, nhằm giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và dân. Muốn làm tốt
cơng tác dân vận, cán bộ phải có tâm trong sáng, có trách nhiệm, có tri thức khoa
học, tóm lại phải có tâm và có tài” [97, tr. 80]. Đồng thời, phân tích làm rõ một
số kỹ năng cần thiết, quan trọng của người làm công tác dân vận, như khả năng
tuyên truyền, giáo dục giác ngộ nhân dân, khả năng nắm bắt tình hình.., mà
thường được gọi khái quát với cụm từ “dân vận khéo”. Trên cơ sở đó, tác giả đã
đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện có hiệu quả phương pháp dân
vân khéo theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay.
Tác giả Nguyễn Văn Hùng (2016), “Những phẩm chất quan trọng
của người cán bộ tham mưu về công tác dân vận của Đảng” [47] đã chỉ rõ
mục tiêu của công tác dân vận là tuyên truyền, vận động, tập hợp, động
viên và tổ chức các tầng lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng và thực hiện
thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ, các chủ chương, chính sách của Đảng và
Nhà nước để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Để
đáp ứng được yêu cầu đó, tác giả cũng chỉ ra những yêu cầu cao về phẩm
chất và năng lực cần có của người làm cơng tác dân vận theo tư tưởng Hồ
Chí Minh. Theo đó, phẩm chất và năng lực của người làm cơng tác dân vận
phải là người có uy tín cao, có khả năng thuyết phục, cảm hóa, thu hút

người khác. Tác giả nhấn mạnh, kinh nghiệm và thực tiễn công tác dân vận
cho thấy: “Kết quả công tác dân vận phần lớn phụ thuộc vào phương pháp


17

dân vận, khéo vận động, khéo tuyên truyền là một trong những kỹ năng
quan trọng của người cán bộ dân vận” [47, tr. 26].
Tác giả Nguyễn Hữu Lập (2017), “Học và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh về công tác dân vận” [52]. Tác giả đã trình bày sự
hịa quyện biện chứng giữa tư tưởng, đạo đức và phong cách dân vận của Hồ
Chí Minh. Theo tác giả, Hồ Chí Minh là tấm gương sáng, mẫu mực trong quá
trình tự học, tự rèn và thực hành dân vận. Đó là sự tự nhận thức về sức mạnh
của quần chúng nhân dân, sự cần thiết phải tiến hành công tác dân vận. Vấn
đề quan trọng thể hiện ở năng lực lãnh đạo công tác dân vận phải luôn xuất
phát từ thực tiễn, nhiệm vụ cách mạng, từ mong muốn nguyện vọng của nhân
dân, từ yêu cầu đòi hỏi khách quan của dân tộc để tư duy về công tác dân vận,
đưa ra nội dung lãnh đạo, chỉ đạo sát đúng. Từ nhận thức chuyển thành hành
động thực tiễn cơng tác dân vận, Hồ Chí Minh đã thể hiện rất rõ năng lực
thực tiễn thông qua việc nắm chắc phương pháp dân vận, hiểu rõ đối tượng
dân vận và tiến hành đúng nguyên tắc dân vận, mang lại hiệu quả rất cao và
trở thành phong cách dân vận Hồ Chí Minh. Tác giả nhấn mạnh phong cách
dân vận Hồ Chí Minh nổi bật với những đặc điểm:
Thứ nhất, ln xuất phát từ thực tiễn cách mạng, lợi ích và nguyện
vọng của dân để tư duy về công tác dân vận; thứ hai, luôn diễn đạt
ngắn gọn, dễ hiểu nhất về yêu cầu, nhiệm vụ công tác dân vận và
trách nhiệm của người dân trong từng giai đoạn cách mạng; thứ ba,
luôn đề cao dân chủ, tôn trọng dân, lắng nghe dân, học hỏi dân,
cùng dân bàn bạc, thống nhất kế hoạch, sau đó hướng dẫn, làm mẫu
cho dân thực hành [52, tr. 41].

Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác dân vận theo tư tưởng, đạo đức, phong cách dân
vận Hồ Chí Minh. Theo đó, người tiến hành công tác dân vận nhất thiết phải
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách dân vận Hồ Chí Minh, coi
đó là chuẩn mực khi thực hiện công tác dân vận hiện nay, đặc biệt là năng lực
nhận thức nhiệm vụ công tác dân vận, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và năng lực


18

hoạt động thực tiễn công tác dân vận thông qua phương pháp dân vận và tuân
thủ những nguyên tắc khi tiến hành dân vận.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền (2017), “Xây dựng đội ngũ cán bộ làm
tốt công tác tuyên truyền theo quan điểm Hồ Chí Minh” [48]; tác giả Bùi Hồng
Vạn (2017), “Học tập phong cách tuyên truyền Hồ Chí Minh” [117]. Theo các
tác giả, người cán bộ làm cơng tác dân vận phải có năng lực tun truyền,
mang đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và luật pháp của nhà nước:
“Người cán bộ làm công tác dân vận, tuyên truyền phải có đạo đức phẩm chất
cách mạng, đặc biệt là đạo đức nghề nghiệp; có trình độ lý luận chun mơn;
phải thành thạo nghiệp vụ, thạo nói, thạo viết, thạo tuyên truyền” [117, tr. 52].
Bên cạnh đó, cần phải có năng lực chun mơn trong nhận thức và hành động,
năng lực nghiên cứu và tổng kết lý luận, năng lực thu hút và lôi cuốn quần
chúng để làm cầu nối giữa Đảng với nhân dân và ngược lại, đây là năng lực
quan trọng không thể thiếu đối với cán bộ dân vận trong giai đoạn hiện nay.
Tác giả Cao Thị Hải Yến (2018), “Hồ Chí Minh với công tác dân vận
tại Cao Bằng những năm 1941 - 1942” [120], đã đề cập đến những nội dung
căn bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận, năng lực tiến hành công
tác dân vận, những bài học kinh nghiệm có giá trị rất lớn đối với cơng tác dân
vận hiện nay. Theo tác giả, năng lực công tác dân vận của cán bộ, đảng viên
theo tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở năng lực nhận thức nhiệm vụ,

quy trình, các bước vận động quần chúng nhân dân, đặc biệt, phải am hiểu rõ
ràng, mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nghĩa là
phải “nhận thức đúng nhiệm vụ cách mạng, trở thành những hạt nhân tích cực
trong cơng tác dân vận ở cơ sở” [120, tr. 85].
Năng lực làm chủ tình huống, nắm rõ đối tượng dân vận là nội dung
hết sức quan trọng, cấu thành năng lực công tác dân vận của cán bộ, đảng
viên trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, cán bộ dân vận phải xác định đối
tượng tuyên truyền cần cụ thể là nông dân hay công nhân, người già hay trẻ
nhỏ và đặc biệt phải hiểu rõ phong tục, tập quán của nhân dân, không làm trái


19

với phong tục, tập quán của từng địa phương, hay từng tộc người nhất định.
Từ đó, cán bộ dân vận mới đưa ra phương pháp tuyên truyền, vận động đúng và
trúng, mang lại hiệu quả cao. Theo tác giả, năng lực công tác dân vận của cán bộ,
đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh cịn thể hiện ở năng lực kiểm tra, đánh giá,
rút kinh nghiệm sau mỗi lần tiến hành dân vận, để sau đó chỉ ra những cái chưa hợp
lý, những vấn đề cần sửa chữa, khắc phục, cần bổ sung khơng ngừng hồn thiện và
phát triển. Tác giả nhận định, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, người cán bộ muốn làm
tốt cơng tác dân vận thì bản thân phải nhận thức rõ nhiệm vụ quan trọng của cơng
tác dân vận là làm gì, mục đích: “là thức tỉnh, cổ vũ, đoàn kết và tập hợp quần
chúng trong tổ chức cách mạng” [120, tr. 87] và đối tượng dân vận là ai? Nhận thức
này không phải tự nhiên có, phải được đào tạo, giáo dục thường xuyên mới hình
thành và phát triển. Năng lực cơng tác dân vận được biểu hiện qua phương pháp
vận động, tuyên truyền, hay chính là q trình tiến hành cơng tác dân vận. Q trình
đó phải được thực tiễn kiểm nghiệm, qua những bài học, những buổi thực hành trên
lớp và ngay trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân ở địa bàn
cụ thể. Tác giả chỉ rõ: “Sau những buổi lên lớp là những buổi thực hành. Người
đóng vai một quần chúng, các học viên đóng vai cán bộ tuyên truyền, vận động

quần chúng. Sau buổi tập, Người rút kinh nghiệm chỉ ra chỗ sai, chỗ đúng của mỗi
người” [120, tr. 84].
1.1.2. Những cơng trình khoa học tiêu biểu liên
quan đến năng lực công tác dân vận của đội ngũ cán bộ
Quân đội nhân dân Việt Nam và năng lực cơng tác dân
vận của chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Tác giả Trần Xuân Trường (2018), “Một đội quân dân vận giỏi theo tư
tưởng Hồ Chí Minh” [113]. Tác giả tiếp cận luận giải công tác dân vận của
quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở tư tưởng qn sự Hồ Chí Minh,
đó là sự thống nhất mối quan hệ giữa chính trị và quân sự. Theo Hồ Chí Minh
quân đội ra đời để đấu tranh vũ trang nhưng không bao giờ đấu tranh vũ trang
thuần túy mà đấu tranh vũ trang gắn với đấu tranh chính trị, trên cơ sở đấu


20

tranh chính trị của quần chúng nhân dân làm nịng cốt, một quân đội như vậy
là: “không chỉ giỏi đấu tranh vũ trang mà cịn giỏi đấu tranh chính trị, một đội
quân làm dân vận giỏi” [113, tr. 793]. Tác giả đã minh chứng quân đội dân vận
giỏi theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong từng giai đoạn lịch sử, đồng thời trong
giai đoạn hiện nay cần vận dụng sáng tạo tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh vào
dân vận trên địa bàn thành phố, các khu công nghiệp, nghĩa là dân vận giỏi
không chỉ trong chiến tranh mà cả trong hịa bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tác giả Vũ Đình Tấn (2001), Đổi mới cơng tác dân vận của Quân đội
nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh [105].
Tác giả đã đề cập những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cơng tác dân
vận của Qn đội và khẳng định tư tưởng đó là những quan điểm rất cơ bản và
sâu sắc, có ý nghĩa rất quan trọng trong định hướng công tác dân vận của Quân
đội: “Tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh đối với cơng tác dân vận của quân đội
luôn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam trong mọi giai đoạn cách mạng, trong xác

định mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung để tìm ra phương thức, giải pháp tiến
hành” [105, tr. 32]. Theo đó, tác giả đề cập nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
cơng tác dân vận trong Qn đội được tác giả nêu rõ trên 3 nội dung cơ bản: Một
là, Quân đội nhân dân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ, vì nhân dân quên
mình là tiêu chuẩn cơ bản; Hai là, dân vận là nhiệm vụ chính trị quan trọng là
chức năng cơ bản của quân đội ta; Ba là, mỗi quân nhân là một cán bộ dân vận
giỏi. Cơng trình cịn đề cập đến quá trình rèn luyện của người quân nhân cách
mạng về cơng tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Là chiến sĩ cách mạng, các quân nhân không những phải giác ngộ
cách mạng mà cịn phải có trách nhiệm tuyên truyền, vận động giác ngộ cách
mạng nhân dân. Chính trị viên trong Qn đội là người chủ trì cơng tác dân
vận, lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động công tác dân vận ở đơn vị cơ sở hiện nay.
Theo đó, kết quả công tác dân vận ở đơn vị phản ánh trình độ, năng lực của
người chủ trì. Trong đó, năng lực nhận thức nhiệm vụ công tác dân vận từ


21

thực tiễn, đặc điểm, nhiệm vụ của đơn vị và địa bàn đóng quân của đơn vị
hết sức quan trọng, nghĩa là phải có năng lực tiến hành điều tra, nghiên cứu
nắm tình hình. Qua đó, tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn bộ đội thực
hiện tốt công tác dân vận là khâu rất quan trọng, quyết định đến định hướng,
nội dung, phương thức hoạt động công tác dân vận ở đơn vị. Nhận thức rõ
nhiệm vụ, người chính trị viên phải đặt ra kế hoạch rõ ràng, tổ chức tuyên
truyền, giáo dục cho cấp dưới thuộc quyền thực hiện tốt nhiệm vụ cơng tác
dân vận. Từ đó, mỗi chiến sĩ dân vận trở thành chiến sĩ dân vận khéo bằng
những việc làm thiết thực hiệu quả, cảm hóa quần chúng nhân dân, tuyên
truyền vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng. Đó
chính là năng lực cảm hóa quần chúng bằng những việc làm cụ thể, bằng sự
nêu gương của chính trị viên và các chiến sĩ dân vận, cũng như toàn bộ cán

bộ, chiến sĩ trong đơn vị khi tiếp xúc với nhân dân.
Tuy nhiên, năng lực của chính trị viên khơng phải có sẵn, mà được hình
thành và phát triển trong học tập, giáo dục, đào tạo và nhất là trong hoạt động
thực tiễn cơng tác dân vận, cũng như q trình tự hồn thiện năng lực cơng
tác dân vận của chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là quá trình tự tu
dưỡng, rèn luyện và học tập của chủ thể. Tác giả nhấn mạnh:
Muốn là một cán bộ dân vận giỏi phải qua học hỏi, phải được huấn
luyện, giáo dục. Bộ đội phải học ở nhân dân, học hỏi lẫn nhau, học
ngay trong thực tiễn công tác dân vận. Cấp trên phải dạy cho cấp
dưới, cán bộ phải dạy cho chiến sĩ làm công tác dân vận. Đối với
cán bộ không những phải biết vận động quần chúng trong Quân đội
mà phải biết dân vận tốt, hơn thế nữa phải dạy cho cấp dưới biết
cách dân vận [105, tr. 31]
Tác giả Đặng Sỹ Lộc (2010), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách của
người chính trị viên và việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chính
trị viên hiện nay” [56], tiếp cận dưới góc độ triết học, tác giả đã luận giải tư


22

cách chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư cách đó biểu hiện trên
những nội dung như phẩm chất chính trị; đạo đức lối sống; năng lực hồn
thành nhiệm vụ, phong cách làm việc khoa học. Người cán bộ chính trị
phải thực sự tiêu biểu về phẩm chất chính trị mới có thể dẫn dắt bộ đội đi
đúng, cùng với phẩm chất, đạo đức lối sống để hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao. Theo Hồ Chí Minh thì cần phải có năng lực tồn diện, phải giỏi
chun mơn, cơng tác dân vận là chun mơn của chính trị viện và nghề
nào cũng phải học, phải thông thạo, phải có phong cách làm việc khoa học.
Tiếp cận một cách tồn diện về phẩm chất, năng lực cơng tác của chính trị
viên, tác giả đưa ra 4 giải pháp cơ bản đó là: Tiếp tục đổi mới và nâng cao

chất lượng tuyển chọn nguồn đào tạo; tiếp tục hoàn thiện mơ hình, mục tiêu
đạo tạo chính trị viên; tích cực đổi mới chương trình nội dung đào tạo, bồi
dưỡng chính trị viện và đa dạng hóa hình thức, phương pháp đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ này. Đó là cơ sở giúp luận án trong định hướng những giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực công tác dân vận của chính trị viện
theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay.
Tác giả Trần Hậu Tân (2010), “Nâng cao phẩm chất, năng lực của đội
ngũ chính trị viên quân đội ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [103], đã
khẳng định tầm quan trọng, vị trí của chính trị viên, tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính trị viên và sự cần thiết phải nâng cao phẩm chất, năng lực của chính trị
viên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo tác giả, hoạt động của chính
trị viên là hoạt động lãnh đạo, làm công tác đối với con người, tác động vào
xây dựng nhân cách từng con người và từng tập thể quân nhân. Đối với nhân
dân, chính trị viên phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu bộ đội. Muốn
được như vậy chính trị viên phải đốc thúc bộ đội siêng giúp dân, hăng hái
đánh giặc. Không những thế người chính trị viên phải dạy cho bộ đội phải biết
kính trọng dân, thương yêu dân, giúp đỡ dân bằng những việc làm thực tế,
miệng nói, tay làm. Đối với quân địch, chính trị viên phải biết giáo dục cho bộ


23

đội lòng căm thù giặc, nắm vững âm mưu thủ đoạn của địch, không được chủ
quan khinh địch, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu; đồng
thời phải biết cách tuyên truyền khôn khéo, thiết thực để giác ngộ địch, lơi
kéo họ về phía ta.
Tác giả Trần Thu Truyền (2011), Bồi dưỡng phương pháp tác phong
công tác của đội ngũ chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam giai
đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh [111] đã tập trung làm rõ tư tưởng
Hồ Chí Minh về phương pháp, tác phong cơng tác của chính trị viên; về một

số nội dung như yêu cầu, vai trị, đặc trưng, con đường hình thành phẩm chất,
năng lực và phương pháp tác phong cơng tác của chính trị viên. Phương pháp,
tác phong cơng tác của chính trị viên là một bộ phận trong nhân cách của họ
và có mối liên hệ chặt chẽ với phẩm chất, năng lực của họ.
Theo tác giả, “Phương pháp tác phong công tác được coi là phẩm chất,
năng lực của người chính trị viên được biểu hiện thơng qua q trình cơng tác”
[111, tr. 40]. Vì vậy, năng lực cơng tác dân vận của chính trị viên cũng được
biểu hiện rõ nét trong tác phong công tác dân vận khi tiếp xúc với nhân dân.
Đặc biệt, tác giả đã lý giải khá rõ nét tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của đội
ngũ chính trị viên trong quân đội. Một trong những vai trị mà Hồ Chí Minh đã
xác định đối với chính trị viên, là người trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện
công tác dân vận, vận động quần chúng của Đảng trong quân đội. Để hoàn
thành tốt nhiệm vụ đó, chính trị viên phải có đầy đủ phẩm chất, năng lực,
phong cách dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Thơng qua năng lực tổ chức
thực hiện nhiệm vụ để đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ cơng tác dân vận
của đơn vị chính trị viên phụ trách, đánh giá phẩm chất, năng lực của cán bộ
chính trị ở năng lực lãnh đạo: “Đội ngũ chính trị viên là lực lượng trực tiếp chỉ
đạo, thực hiện công tác dân vận, công tác vận động quần chúng của Đảng trong
quân đội” [111, tr. 31]. Đồng thời, tác giả cũng chỉ rõ yêu cầu về phẩm chất
năng lực của chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo đó, “Chính trị
viên phải có năng lực tồn diện, đáp ứng vai trị của người chủ trì về chính trị”


24

[111, tr. 35], năng lực tồn diện đó bao gồm năng lực về quân sự, chính trị,
năng lực dân vận, năng lực về tuyên truyền, tổ chức.
Tác giả Ngô Xuân Lịch (2016), “Cội nguồn sức mạnh bảo đảm cho
Quân đội chiến đấu và chiến thắng” [54], khẳng định công tác dân vận được
xác định là nội dung quan trọng, là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản lâu dài của

cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá trình chiến đấu và phát triển, Quân đội
luôn tổ chức và tiến hành tốt công tác dân vận; dựa chắc vào dân, giúp đỡ dân,
bảo vệ dân và được dân tin yêu, che chở, đùm bọc, ni dưỡng. Đó là cội
nguồn sức mạnh bảo đảm cho Quân đội chiến đấu và chiến thắng. Tác giả đề
cập đến nội dung bồi dưỡng, nâng cao năng lực công tác dân vận cho đội ngũ
cán bộ làm công tác dân vận mà trực tiếp là người chủ trì về chính trị, chính trị
viên được đặc biệt chú trọng. Theo tác giả:
Đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận phải có trình độ, năng lực, phẩm
chất đạo đức tốt, có kỹ năng cơng tác vận động quần chúng theo
phong cách Bác Hồ: Cán bộ dân vận phải óc nghĩ, mắt trơng, tai nghe,
chân đi, miệng nói, tay làm, biết nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân
tin, ln gần dân, học dân và có trách nhiệm với dân [54, tr. 14].
Tác giả Đoàn Văn Tự (2016), “Yêu cầu về phẩm chất, năng lực của
chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [116], đã khái quát và phân tích
nội dung yêu cầu về phẩm chất của chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tác giả lý giải tư cách của chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ
đội, người chính trị viên tốt thì bộ đội tốt. Theo đó, đối với chính trị viên thì:
“Phẩm chất chính trị, tư cách đạo đức khơng chỉ có ý nghĩa định hướng cho
bản thân mà cịn trở thành phẩm chất hàng đầu của họ trong việc định hướng
chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền trong giải quyết các mối
quan hệ giữa đơn vị mình với xã hội, với nhân dân và kẻ thù” [116, tr. 75].
Q trình phân tích u cầu về phẩm chất tác giả luôn đặt trong mối quan hệ
với năng lực của chính trị viên, để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ thì người


25

chính trị viên phải có năng lực tồn diện, đặc biệt là năng lực tổ chức hoạt
động của bộ đội. Cấu trúc năng lực của chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí
Minh được tác giả khẳng định: “Năng lực của chính trị viên bao hàm cả năng

lực nhận thức và năng lực hành động, thể hiện trình độ trí tuệ cao và trình độ
thực tiễn giỏi” [116, tr. 76]. Đồng thời, người chính trị viên phải là người mẫu
mực nêu gương, nói đi đơi với làm, phải thực sự gần gũi bộ đội, phải thực sự
là người bạn, người chị, người anh của bộ đội. Như vậy, tác giả không trực
tiếp bàn đến năng lực công tác dân vận của chính trị viên, nhưng cũng trực
tiếp bàn đến năng lực của chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tác giả Hà Đức Long (2019), Phát triển nhân cách chính trị viên trong Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh [55], đã luận giải dưới
góc độ triết học, chỉ ra thực chất và những nhân tố tác động đến phát triển nhân
cách chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả đã đánh giá
thực trạng, chỉ ra xu hướng, những yêu cầu và giải pháp cơ bản nhằm phát triển
nhân cách chính trị viên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo tác giả, phẩm
chất và năng lực là hai yếu tố căn cốt hình thành nên nhân cách của chính trị viên,
cơng việc chính trị viên phức tạp chừng nào thì cần họ có đủ năng lực chừng ấy.
Tác giả đã chỉ ra tư tưởng Hồ Chí Minh về năng lực của chính trị viên tiếp cận trên
quan điểm tồn diện, chính trị viên có đầy đủ năng lực trên các mặt công tác, trên
nhiều lĩnh vực trong các hoạt động với nhiều đối tượng khác nhau: “Năng lực của
người chính trị viên bao hàm cả năng lực nhận thức và năng lực hành động thể hiện
trình độ trí tuệ cao và trình độ tổ chức thực tiễn giỏi” [55, tr. 21].
Tác giả đã bàn đến năng lực cơng tác dân vận của chính trị viên là năng
lực tổ chức, giáo dục, chỉ huy bộ đội giỏi. Để thực hiện được điều đó, chính
trị viên phải thực sự hiểu biết toàn diện những tri thức khoa học chính trị,
qn sự, văn hóa, khoa học kỹ thuật và khả năng tổ chức chỉ huy các hoạt
động quân sự, khi cần thiết. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, năng lực của chính
trị viên cịn được thể hiện ở việc xử lý tốt các mối quan hệ, đối với bộ đội, đối
với nhân dân, đối với quân địch. Trong hoạt động dân vận, chính trị viên
thường xuyên tiếp xúc với nhân dân không chỉ việc đưa bộ đội ra ngoài đơn vị


26


mà dân vận ngay trong chính đơn vị mình. Theo đó, năng lực cơng tác dân vận
của chính trị viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải có: “Năng lực xử lý tốt
các mối quan hệ” [55, tr. 47]. Như vậy, năng lực cơng tác dân vận của chính trị
viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải bao hàm cả năng lực nhận thức, năng
lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ thông qua sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo lý
luận về dân vận và công tác dân vận của Hồ Chí Minh vào thực tiễn cơng tác
dân vận của mình.
Tác giả Trần Quang Phương (2019), “Thấm nhuần tư tưởng của Bác
Hồ, Quân đội đẩy mạnh công tác dân vận, thực hiện tốt chức năng đội quân
công tác” [96], tác giả khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân
vận là cẩm nang soi sáng, giúp cán bộ, chiến sĩ Quân đội thực hiện tốt công
tác dân vận, tăng cường đoàn kết quân dân, tạo nguồn sức mạnh để Quân đội
hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao. Để thực hiện tốt cơng việc đó, tác
giả chỉ rõ cần có nội dung, giải pháp về xây dựng đội ngũ cán bộ làm cơng
tác dân vận có chất lượng cao, giỏi thuyết phục, khéo tuyên truyền, trong đó
có chính trị viên, đây là giải pháp hết sức quan trọng và để thực hiện được
nội dung đó theo tác giả phải:
Cần đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, bồi
dưỡng cho đội ngũ sĩ quan Quân đội về công tác dân vận ngay từ
trong các nhà trường; tăng cường tập huấn, bồi dưỡng kiến thức
kinh tế - xã hội, pháp luật, tơn giáo, năng lực, trình độ và kỹ năng
nghiệp vụ công tác dân vận cho đội ngũ cán bộ dân vận chuyên
trách. [96, tr. 15]
1.2. Khái qt kết quả nghiên cứu các cơng trình
khoa học có liên quan đến đề tài luận án và những vấn
đề luận án tập trung giải quyết
1.2.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học đã
cơng bố có liên quan đến đề tài luận án



×