Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận NHẬN THỨC và vận DỤNG của ĐẢNG TA về QUY LUẬT QUAN hệ sản XUẤT PHÙ hợp với TRÌNH độ PHÁT TRIỂN của LỰNG LƯỢNG sản XUẤT TRONG CÔNG CUỘC đổi mới đất nước HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.45 KB, 32 trang )

NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA VỀ QUY LUẬT
QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT
TRIỂN CỦA LỰNG LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY

Quá trình thay thế, phát triển đi lên của lịch sử xã hội lồi người
từ chế độ cơng xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ
phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa, đễn xã hội cộng sản tương lai, là
do sự tác động của các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát tiển của lực lượng sản xuất là quy luật
phổ biến cơ bản nhất.
I.

BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ
QUAN HỆ SẢN XUẤT

Nguyên cứu chủ nhĩa duy vật lịch sử chúng ta hiểu phương thức
sản xuất là biểu hiện cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất
vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người là sự
thống nhất giữa lưc lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ
sản xuất tương ứng. Trong đó lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
là các khái niệm dùng để chỉ quan hệ mà C.Mác gọi là “quan hệ song
trùng” của bản thân sự sản xuất xã hội: Quan hệ của con người với tự
nhiên và quan hệ của con người với con người.


2

Lực lượng sản xuất lần đầu tiên được C.Mác nêu từ năm 1848
trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, nhưng nội dung của tác phẩm
được ông nêu sâu sắc thêm trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết


học”, “Lao động làm thuê và tư bản”, “Tiền công và lợi nhuận” và đặc
biệt là trong bộ “Tư bản”. Thông qua sự phân tích các yếu tố trong q
trình sản xuất C.Mác đã vạch ra bản chất của quá trình sản xuất .
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên là sự thống nhất hữu cơ giữa lao động đã được tích luỹ và lao
động sống, nhĩa là toàn bộ những yếu tố vật và người của nền sản xuất
cần thiết để từ những đối tượng của tự nhiên sản xuất ra những vật có
khả năng thoả mãn những nhu cầu của con người. Lực sản xuất bao
gồm người lao động với những kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản
xuất trước hết là cơng cụ lao động. Trình độ của lực lượng sản xuất
phụ thuộc các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, mà người lao động
là yếu tố quan trọng nhất, “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể
nhân loại”1.
Người lao động giữ vị trí số một, là chủ thể tích cực, sáng tạo có
vai trị quyết định nhất trong lực lượng sản xuất. Bởi lẽ, người lao
động với lao động cơ bắp và lao động trí tuệ, cùng quá trình lịch sử lâu
dài của xã hội lồi người, trí tuệ hình thành phát triển cùng với lao
động, làm cho lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao hơn; con
người chế tạo ra các công cụ lao động, cải tiến đối tượng lao động, rồi
chính con người quyết định việc sử dụng các phương tiện, công cụ lao
1

V.I Lênin: toàn tập , Nxb tiến bộ ,Mãtcơva, 1977, tập 38, tr 430


3

động và ngun vật liệu trong sản xuất; Khơng có con người với trí
tuệ, biết chế tạo và sử dụng cơng cụ lao động thì cũng khơng có bất cứ
tư liệu lao động nào và quá trình lao động nào. Cơng cụ lao động dù có

năng động đến đâu cũng là sản phẩm của đơi bàn tay và khối óc của
con ngươì, với bản chất của con người là hoạt động có mục đích và
sáng tạo, bằng chí tuệ và các thế hệ công cụ sản xuất mới nhằm tác
động vào tự nhiên có hiệu quả hơn. Chính sự phát triển không ngừng
của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động
hố, đưa xã hội loài người chuyển qua nền văn minh từ thấp đến cao,
tự nó cũng đã nói lên tính vơ tận và sức mạnh vơ cùng to lớn của trí
tuệ con người.
Trình độ người lao động thể hiện ở sự khéo léo, ở kỹ năng kỹ
xảo, kinh nghiệm mà mỗi người lao động tích luỹ, rút kinh nghiệm và
đặc biệt nhất là trình độ khoa học kỹ thuật, khả năng tiếp thu ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất. Khi sự phát triển
của cách mạng công nghiệp, cách mạng khoa học kỹ thuật, rồi cách
mạng công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, cũng như để sử
dụng có hiệu quả những thành tựu do các cuộc cách mạng đó đem lại,
trình độ năng lực trí tuệ của người lao động khơng ngừng được nâng
cao, phần giá trị do lao động trí tuệ của họ tạo ra trong quá trình sản
xuất và được kết tinh ở sản phẩm ngày càng tăng: Từ chỗ chiếm tỷ lệ
không đáng kể ở thời kỳ tiền cách mạng công nghiệp, ngày nay ở các
nước phát triển, đối với một số loại sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao,
hàm lượng giá trị do trí tuệ tạo ra và được kết tinh trong sản phẩm có


4

thể đạt tới 80 - 90% tổng gía trị sản phẩm đối với các loại sản phẩm
đó, những vật liệu, năng lượng, lao động cơ bắp chỉ tạo thành từ 10 20% giá trị sản phẩm 2. Hiện nay với tốc độ phát triển như vũ bão của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghện hiện đại đang dẫn
các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền
kinh tế trí thức. ở những nước này, lao động trí tuệ ngày càng chiếm tỷ

lệ cao, nguồn lợi mà họ thu được từ chất xám chiếm 1/2 giá trị tài sản
quốc gia, ví như ở Nhật Bản riêng nguồn lợi do tin học mang lại đã
chiếm tới 40%3. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt tới mức, nhờ nó con
người có thể sáng tạo ra những máy móc “ Bắt trước” hay phỏng theo
những đặc tính trí tuệ của chính con người, rõ ràng bằng những kỹ
thuật, cơng nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con người làm ra
mà nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ trong lịch sử
phát triển của mình.
Tư liện sản xuất bao gồm tư liện lao động và đối tượng lao động,
trước đây đối tượng lao động chủ yếu là những bộ phận của tự nhiên,
ngày nay đối tượng lao động ngày càng là sản phẩm của lao động, của
khoa học công nghệ mà hàm lượng vật liệu tự nhiên trong đó ngày
càng giảm, khơng phụ thuộc một cách tiên quyết vào nguồn tài nguên
thiên nhiên mà phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên con người với năng
lực trí tuệ cao. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện
lao động , trong đó cơng cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất và cách
mạng nhất. Công cụ lao động là kết tinh trí tuệ của con người, nó do
2
3

tạp trí triết học , số 3,năm 2003, tr 22
tạp trí triết học, số 1,năm 1993, trang24


5

con người chế tạo ra, nhưng khi sử dụng nó đã thiết thực giúp con
người nối dài bàn tay và các khí quan của mình. Do đó trình độ phát
triển của cơng cụ lao động là thước đo trình độ tự nhiên của con
người ,nó là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất, do sự hồn thiện

của cơng cụ sản xuất gây ra những biến đổi sâu sắc trong lực lượng
sản xuất và dẫn tới những cải biến trong xã hội, những sự thay đổi
trong các quan hệ sản xuất, các hình thức kinh tế xã hội. Để giảm bớt
lao động nặng nhọc và nâng cao năng xuất lao động, con ngưịi khơng
ngừng cải tiến, hồn thiện và chế tạo ra những công cụ sản xuất mới.
Ngày nay q trình tư động hố ở nhiều nước phát triển đã ở vào giai
đoạn cao, công cụ lao động ngày càng hiện đại, đồng thời các phương
tiện lao động như đường xá, cầu cảng, giao thông liên lạc cũng được
hiện đại hố tương ứng. Do vậy địi hỏi người lao động phải khơng
ngừng nâng cao trình độ để sử dụng được những tư liệu hiện đại đó.
Khi lực lượng ở trình độ càng cao thì phân cơng lao động hố
càng sâu, quy mô sản xuất càng mở rộng, việc ứng dụng kỹ thuật hiện
đại vào sản xuất ngày càng phổ biến . Một vấn đề cần đề cập đến ở đây
là tính chất của lực lượng sản xuất, khi người lao động trình độ cịn
thấp, sử dụng cơng cụ thủ công là chủ yếu, phân công lao động kém
phát triển, từng người có thể đảm nhiệm tất cẩ các khâu của quá trình
sản xuất thì lực lượng sản xuất mang tính cá thể. Khi sản xuất dựa trên
kỹ thuật cơ khí hiện đại, nhiều người lao động cùng tham gia vào một
dây truyền sản xuất, mỗi người đảm nhận một khâu trong dây truyền


6

đó, chun mơn hố ngày càng sâu thì lực lượng sản xuất mang tính
chất xã hội hố ngày càng rộng .
Qua nguyên cứu lịch sử chúng ta thấy rằng lực lượng sản xuất
nhất là công cụ sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất có ý
nghĩa quyết định năng xuất lao động, những cơng cụ chỉ có thể trở nên
“sống động” phát huy được tác dụng khi kết hợp được với nhân tố con
người, bởi vì ngay từ thời kỳ mà cơng cụ sản xuất hồn tồn là thủ

cơng thì nó đã khơng ngừng được con người cải tiến, sử dụng các chất
liệu khách nhau, làm ra nhiều kiểu dáng khác nhau cho phù hợp với
đều kiện cụ thể cho quá trình lao động sản xuất được dễ dàng hơn và
năng xuất cao hơn. Khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp thì các công cụ và các phương tiện ngày càng phong phú đa
dạng, các thế hệ máy móc được đổi mới hồn thiện rất nhanh chóng và
tính chất xã hội hố ngày càng cao.Chúng ta thấy rõ rất nhiều sản
phẩm công nghiệp hiện nay từ khi sản xuất từng chi tiết đến khi được
lắp ráp hoàn thành là sự kết hợp liên kết sản xuất của nhiều nhà máy,
nhiều công ty thậm trí được thực hiện ở rất nhiều nước khác nhau trên
thế giới .
Về quan hệ sản xuất, trước hết xét về mặt khái niệm quan hệ sản
xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế vật chất giữa con người với con
người trong quá trình sản xuất. Chúng ta thấy rằng trong quá trình vận
động và phát triển của xã hội , con người phải quan hệ với tự nhiên,
dựa vào tự nhiên để sản xuất ra của cải vật chất, từng bước nâng cao
điều kiện sống của mình. Trong q trình đó, con người khơng tồn tại


7

một cách độc lập mà có quan hệ với gắn bó với nhau. Bởi vậy mà
C.Mác đã viết: “Trong sản xuất người ta không chỉ quan hệ với tự
nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau
theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với
nhau . Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và
quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất chỉ diễn ra trong
khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó”4.
Như vậy là trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, con người
dù muốn hay không cũng buộc phải thực hiện các mối quan hệ nhất

định với nhau. Quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất,
phân phối trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất đó gọi là quan hệ sản
xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối
quan hệ giữa người với người trong qúa trình sản xuất trên ba mặt cơ
bản:
- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
- Quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất
- Quan hệ về phân phối kết quả sản xuất
Ba nội dung trên là ba mặt cơ bản của quan hệ sản xuất, chúng có
mối quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ đối với tư liệu sản xuất
đóng vai trị quyết định. Sau đây lần lựợt chúng ta phân tích làm rõ nội
dung trên ba mặt của quan hệ sản xuất.
Về mặt quan hệ đối với tư liệu sản xuất, quan hệ sở hữu đối với
tư liệu sản xuất nói lên rằng trong q trình sản xuất, người lao động
4

C.Mác và Ăngghen,toàn tập, tập 6, Nxb chính trị quốc gia hà nội 1993,tr 552


8

đang sử dụng những tư liệu sản xuất đó là của ai, và ai là người có
quyền định đoạt tư liệu sản xuất đó, hoặc là quan hệ sở hữu phản ánh
quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất chứa đựng các quyền chiếm hữu
quyền sử dụng và quyền định đoạt. Các quyền này có thể hợp nhất
trong một chủ thể, cũng có khi tách rời nhau và thuộc các chủ thể khác
nhau, nhưng quyền định đoạt có tính quyết định bao giờ cũng thuộc về
người sở hữu và lợi ích kinh tế xã hội của người sở hữu.
Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
đóng vai trị quyết định vì nó quyết định bản chất của quan hệ sản

xuất. Bởi vậy cho nên quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ
bản, quan hệ trung tâm của quan hệ sản xuất. Chính nó quyết định mục
đích, hình thức tổ chức kinh doanh, phương thức quản lý, chi phối việc
phân phối sản phẩm làm ra, cũng tức là quyết định địa vị của các tập
đoàn người trong hệ thống sản xuất xã hội. Trong xã hội có phân chia
giai cấp, giai cấp nào nắm quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ
yếu thì giai cấp đó nắm quyền chi phối tổng sản phẩm xã hội, nắm
quyền thống trị xã hội. Tuy nhiên trong sự tác động lẫn nhau của các
yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, thì quan hệ về tổ chức và quản lý,
quan hệ phân phối sản phẩm cũng có vai trị rất quan trọng.
Q trình phát triển của lịch sử từ trước đến nay ta thấy có hai
loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất là sở hữu công cộng và
sở hữu cá nhân. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất phân
công lao động của xã hội đã làm cho các hình thức sở hữu về tư liệu
sản xuất ngày càng ttrở nên đa dạng.


9

Trong thời kỳ công xã nguyên thuỷ, do lực lượng sản xuất thấp
kém, đối với con người giá trị tự nhiên là thần bí xa lạ. Để chống đỡ
với những hiện tượng tự nhiên và tồn tại, con người phải dựa vào
nhau. Các hoạt động kinh tế chủ yếu mang tính chất chiếm đoạt các
sản phẩm có sẵn trong tự nhiên như săn bắt hái lượm. Do vậy chỉ có
một hình thức sở hữu duy nhất là sở hữu cơng cộng của thị tộc bộ lạc.
Nhưng từ xã hội nô lệ qua xã hội phong kiến đến xã hội tư bản, do lực
lượng sản xuất ngày càng phát triển, phân cơng lao động ngày càng
sâu sắc thì các hình thức sở hữu khác ra đời và ngày càng phong phú,
đó là sở hữu tư nhân, sở hữu nhà nước và các hình thức sở hữu hỗn
hợp. Ngay hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cũng có nhiều

loại khác nhau, đó là sở hữu nhỏ của những người nông dân, của các
thủ công cá thể, sở hữu của các chủ nô lệ, các điền chủ thời phong kiến
và sở hữu của các nhà tư bản. Các hình thức sở hữu tư nhân trên đây
đã hàm chứa các kiểu quan hệ sản xuất khác nhau giữa người với
người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất cho xẫ
hội, tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Hiện nay, vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất có thêm nội dung và
tính chất mới đó là sở hữu trí tuệ. Bởi tri thức đang được coi là nguồn
lực kinh tế chủ yếu, các nhân tố sản xuất truyền thống là đất đai, lao
động và tư bản không bị mất, nhưng tầm quan trọng của nó khơng cịn
như cũ, các yếu tố sản xuất truyền thống phân theo quy luật lợi nhuận
giảm dần, còn tri thức lại tạo ra cơ chế lợi nhuận tăng dần. Trong nền
kinh tế trí thức, trí tuệ là nguồn lực cơ bản nhất của quốc gia. Ai nắm


10

được trí tuệ, thì có khả năng điều tiết chi phối nó và người đó có sức
mạnh chi phối sự phát triển của xã hội theo mục tiêu và lợi ích của
mình. Điều có phần quan trọng hơn là trong xã hội tri thức, người lao
động làm thuê sở hữu cơng cụ sản xuất - trí tuệ của bản thân họ. Các
Mác đã có phát kiến vĩ đại cho rằng, người cơng nhân nhà máy khơng
có và khơng thể sờ hữu tư liệu sản xuất và do vậy, bị “tha hố”. Ơng
chỉ rõ người cơng nhân khơng thể sở hữu máy hơi nước và không thể
lấy máy hơi nước đi cùng với mình, khi họ chuyển từ cơng việc này
sang công việc khác. Nhà tư bản cần phải sở hữu động cơ hơi nước, và
cần phải kiểm sốt nó. Thế nhưng những đầu tư thực sự trong xã hội
tri thức khơng phải vào máy móc hay cơng cụ, mà chính vào người
cơng nhân tri thức, khơng có người cơng nhân tri thức thì cho dù máy
móc có hiện đại và tinh vi đến đâu chăng nữa cũng không thể hoạt

động được.
Về quan hệ trong tổ chức và quản lý, chúng ta thấy rằng thích
ứng với một kiểu quan hệ sở hữu là một chế độ tổ chức và quản lý sản
xuất nhất định. Trong các chế độ mà nền kinh tế dựa trên chế độ tư
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì người sở hữu tư liệu sản xuất là kể
bóc lột cịn người lao động khơng có tư liệu sản xuất là người bị quản
lý và bị bóc lột. Điển hình của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất trong
lịch sử phát triển xã hội lồi người phải kể đến ba loại hình là sở hữu
chiếm hữu nô lệ, sở hữu phong kiến và sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa. Trong các chế độ xã hội mà tư liệu sản xuất dựa trên chế độ
cơng hữu thì mọi thành viên đều có vị trí bình đẳng trong tổ chức lao


11

động xã hội và phân phối sản phẩm. Chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất đã từng tồn tại trong buổi đầu của xã hội loài người - chế độ công
xã nguyên thuỷ, và trong chế độ cộng sản chủ nghĩa mà loài người
đang hướng tới mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội.
Tất nhiên thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất trong chế
độ cộng sản chủ nghĩa, thực hiện bình đẳng trong tổ chức quản lý và
các mặt quan hệ khác là một q trình và nó chỉ có thể thực hiện tư
thấp đến cao thông qua nhiều bước trung gian qúa độ.
Tuy phụ thuộc vào quan hệ đối với tư liệu sản xuất nhưng trong
thực tế quan hệ tổ chức và quản lý cũng có vai trị rất quan trọng. Ngay
cả khi chế độ sở hữu chưa có gì thay đổi nếu có một phương thức quản
lý hợp lý thì sản xuất vẫn phát triển. Trong nhiều trường hợp nó là yếu
tố quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ và hiệu quả của nền kinh tế,
và khi lợi ích của người lao động mâu thuẫn với chủ sở hữu và quản lý
thì quan hệ tổ chức được điều chỉnh, mâu thuẫn được tháo gỡ thì quan

hệ trên mang tính hợp tác, dân chủ hơn và do vậy có thể khai thác
được tính chủ động sáng tạo của người lao động.
Về quan hệ phân phối sản phẩm, là cách thức phân phối kết quả
sản xuất cho những người có quan hệ với trình độ đó và điều đó phụ
thuộc vào quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất. Do hình thức sở hữu
rất đa dạng nên phương thức phân phối cũng rất phức tạp. Chính ở
những khía cạnh này đã bộc lộ những mâu thuẫn về lợi ích giữa những
người tham gia vào quá trình sản xuất và đã xuất hiện các quan hệ
khác nhau trong cách thức phân phối. Trong lịch sử phát triển của xã


12

hội , người ta đã từng biết tới các phương thức phân phối gắn với chế
độ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất thuộc giai cấp chủ nô, của giai cấp
địa chủ phong kiến và giai cấp tư sản, Dưới chế độ bóc lột, người lao
động bị chèn ép, bị bóc lột và quan hệ phân phhối là khơng bình đẳng.
Sống dưới chế độ tư bản người lao động được tự do về thân thể, tự do
đi làm thuê, việc phân phối được tính theo chi phí sản xuất hàng hố
và nó được xác định thơng qua thị trường. Các Mác đã bóc trần cách
phân phối mà ở đó nhà tư bản đã chiếm đoạt gía trị thặng dư do bóc lột
khơng cơng của người cơng nhân, ở đó tuy người lao động tự do về
thân thể nhưng lại bị trói chặt hơn vào guồng máy kinh tế tư bản và
phương thức phân phối mang tính bóc lột trở nên tinh vi hơn được che
đậy kín hơn.
Trong ba nội dung trên đây của quan hệ sản xuất thì quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trị quyết định nó chi phối các
mặt khác của quan hệ sản xuất . Khi chế độ sở hữu thay đổi căn bản thì
chế độ quản lý phân phối cũng thay đổi căn bản, chẳng hạn như khi
chế độ sở hữu công cộng kiểu thị tộc bộ lạc được thay thế bằng chế độ

sở hữu tư nhân dưới chế độ chiếm hữu nơ lệ thì quan hệ quản lý khơng
như trước đây nữa, mà tính chất thống trị , chuyên chế và quan hệ
phân phối mang tính chất bất bình đẳng có lợi cho kẻ nắm giữ tư liệu
sản xuất.
Sau chế độ công xã nguyên thuỷ nền kinh tế xã hội tồn tại nhiều
hình thức quan hệ sản xuất, nhiều thành phần kinh tế khác nhau, phản
ánh trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. Giữa nhiều mối quan


13

hệ tác động qua lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Các
Mác và Ănghen đã nhận thấy có một mối quan hệ bản chất tất yếu,
mối quan hệ này xác lập quy luật liên hệ giữa hai mặt của nền sản
xuất, đó là quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Được biểu hiện trình độ lực lượng sản
xuất quyết định quan hệ sản xuất .
Giữa nhiều mỗi Quan hệ tác động qua lại của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển cuả lực lượng sản xuất khơng chỉ có sự tác động
qua lại giữa chúng phải xác lập được mối quan hệ. Sự phù hợp này
được xét từ lực lượng sản xuất, phải lấy lực lượng sản xuất làm chuẩn.
Sự phù hợp do yêu cầu của lực lượng sản xuất đặt ra nhằm đáp ứng
yêu cầu của lực lượng sản xuất Các Mác viết : “ Trong sự sản xuất xã
hội ra đời sống của mình. Con người ta có những quan hệ nhất định,
tất yếu không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản
xuất những quan hệ này phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuât vật chất của họ”5 . Sự phù hợp này cũng chính là yêu
cầu của quy luật là sợi dây liên hệ quy định sự hình thành của quan hệ
sản xuất và buộc quan hệ sản xuất phải tất yếu biến đổi theo sự biến
đổi của lực lượng sản xuất, nếu khơng có sự phù hợp thì các mối quan

hệ của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất sẽ là khơng xác định,
khơng có “ điểm tựa” để tác động lẫn nhau của lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất và phương thức sản xuất.

5

C.Mác và Ăngghen tuyển tập, gồm 6 tập, tập 2 Nxb sự thật hà nội,1981 tr637


14

Quan hệ sản xuất, do tính thể chế, tính pháp luật nên chậm biến
đổi, trong khi đó lực lượng sản xuất thường xuyên biến đổi, phát triển,
nên sẽ phá vỡ trạng thái phù hợp, tạo ra mâu thuẫn . Đó là mâu thuẫn
tích cực, mâu thuẫn do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra, đòi
hỏi phải được tiếp tục phát triển; lúc đó yêu cầu phù hợp của quy luật
đòi hỏi phải thay quan hệ sản xuất đã khơng cịn tác dụng, lỗi thời
bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản
xuất. Các Mác viết : “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng
các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ mâu thuẫn với những
quan hệ sản xuất hiện có, hay đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những
quan hệ sản xuất đó, - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó
từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển”6. Trong tác
phẩm “Hệ tư tưởng Đức” Các Mác và Ăng ghen viết : “ Chúng ta vẫn
xuất phát từ công cụ sản xuất và ở đây đã thể hiện rõ tính tất yếu của
sở hữu tư nhân, ở những giai đoạn cơng nghiệp nhất định. Trong cơng
nghiệp khai khống, sở hữu tư nhân cịn hồn tồn ăn khớp với lao
động. Trong cơng nghiệp nhỏ và trong tồn bộ nơng nghiệp, cho tới
nay, sở hữu là hiệu quả tất yếu của những cơng cụ sản xuất hiện có.
Trong cơng nghiệp lớn thì mâu thuẫn giữa cơng cụ sản xuất và sở hữu

tư nhân chỉ là sản vật của một nền cơng nghiệp đã phải đạt đến một
trình độ phát triển cao mới có thể tạo ra mâu thuẫn ấy”7. Quan hệ sản
xuất phù hợp tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, nhưng
khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp đã mâu thuẫn với lực lượng
6
7

C.Mác và Ăngghen, tồn tập, t 13,Nxb chính trị quốc gia ,hà nội 1993,tr 15
C.Mác và Ăngghen, tuyển tập, gồm 6 tập , t 1,Nxb sự thật ,hà nội 1980,tr 332


15

sản xuất thì khi đó: “ Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất, Mác viết, - những quan hệ ấy trở thành những xiềng
xích của lực lượng sản xuất . Khi đó bắt đầu của một của một cách
mạng xã hội”8. Khi đã mâu thuẫn, quan hệ sản xuất chẳng những
khơng cịn cần thiết đối với lực lượng sản xuất, mà còn trở thành
những ràng buộc, cản trở gây khó khăn cho phát triển của lực lượng
sản xuất. Vì vậy cần phải thay quan hệ sản xuất cũ, đã khơng cịn phù
hợp bằng quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất mới.
Lực lượng sản xuất mang tính kế thừa, là kết quả của sự phát
triển kinh tế xã hội loài người, các thế hệ sau khi ra đời đã có những
lực lượng sản xuất do thế hệ trước để lại. Đó là những cơ sở hạ tầng
của sản xuất, là những công cụ sản xuất và những tri thức mà thơng
qua đào tạo lớp người sau có thể học tập sử dụng các tư liệu lao động
đã có và tiếp tục sáng tạo ra những tư liệu lao động mới.

Từ


tính

khách quan của lực lượng sản xuất và tính quyết định của nó đối với
quan hệ sản xuất nên con người không thể tuỳ tiện tạo lập một quan hệ
sản xuất theo ý muốn chủ quan, cho dù điều đó là hết sức tốt đẹp về
đạo lý và là nguyện vọng của con người luôn hướng tới hoặc ngược lại
ngưịi ta cũng khơng thể duy trì một quan hệ sản xuất đã lạc hậu để
bảo vệ lợi ích của một số người trong xã hội. Các Mác đã chỉ ra: “
Khơng một hình thức xã hội nào diệt vong trước khi các lực lượng sản
xuất mà hình thái xã hội đó tạo được địa bàn đầy đủ cho phát triển
8

C.Mác và Ăngghen, tồn tập, t 13,Nxb chính trị quốc gia ,hà nội 1993,tr 15


16

vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới cao hơn, cũng
không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện vật chất của những
quan hệ đó chưa chín muồi trong lịng bản thân xã hội cũ”9.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lòng xã hội phong
kiến đã dẫn đến sự ra đời của sở hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất
và cùng với nó các quan hệ phân phối, quản lý tổ chức của nền kinh tế
tư bản ra đời, thay thế quan hệ sản xuất phong kiến. Sự tồn tại và biến
đổi quan hệ sản xuất là do lực lượng sản xuất quyết định. Lực lượng
sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất như thế ấy. Lực lượng sản
xuất là yếu tố động nhất, nó khơng ngừng biến đổi, bởi trong quá trình
sản xuất người lao động dần dần tích luỹ được kinh nghiệm nâng cao
kỹ năng, kỹ xảo của mình, họ tìm cách cải tiến cơng cụ sản xuất để

làm ra càng nhiều của cải vật chất vì chính lợi ích của mình. Đạt được
những kết quả xã hội đó chính là từ sự phát triển của lực lượng sản
xuất và tùy theo sự biến đổi của lực lương sản xuất mà quan hệ sản
xuất, quan hệ kinh tế giữa người ta với nhau cũng biến đổi. C. Mác đã
viết: “ Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực
lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người
thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức
sản xuất... loài người thay đổi tất cả những quan hệ sản xuất xã hội
của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa , cái
cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản cơng
nghiệp”10. Ngay trong các nước tư bản chủ nghĩa, sự phát triển mạnh
9

C.Mác và Ăngghen, tồn tập, t 13,Nxb chính trị quốc gia ,hà nội 1993,tr 16
C.Mác và Ăngghen, tồn tập, t 4,Nxb chính trị quốc gia ,hà nội 1995,tr 187

10


17

mẽ của khoa học kỹ thuật và lực lượng sản xuất đã phá bỏ cái vỏ chật
hẹp của sở hữu tư nhân tư bản trong buổi bình minh của nó. Các hình
thức sở hữu ngày càng càng được đa dạng hóa và thích ứng với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất,
nhưng quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối của nó, điều này
được biểu hiện quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất
theo hai chiều hướng. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của
lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy, ngược lại khi khơng phù hợp thì nó

sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp được
biểu hiện: là cả ba mặt của quan hệ sản xuất phải đáp ứng trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất; Quan hệ sản xuất phải tạo điều kiện, sử
dụng và kết hợp tốt giữa tư liệu sản xuất và sức lao động bảo đảm tái
sản xuất mở rộng có hiệu quả; Nó mở ra những điều kiện thích hợp
cho việc kích thích vật chất, tinh thần đối với người lao động. Khi
quan hệ sản xuất phù hợp nó sẽ thành động lực thúc đẩy sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất khơng cịn thích ứng với
trình độ của lực lượng sản xuất nó sẽ trở thành vật cản, thậm trí kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một thời gian nhất định,
nhưng không thể làm tan rã lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất là do nhu cầu của xã hội và do mâu thuẫn bên trong của
lực lượng sản xuất, là mâu thuẫn giữa trình độ khả năng của lực lượng
sản xuất với nhu cầu chinh phục cải tạo tự nhiên, nhu cầu biến đổi đối
tượng sản xuất. Mâu thuẫn này thường xuyên đặt ra, liên tục phát sinh


18

trong quá trình sản xuất. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong này đòi
hỏi phải áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất, đưa
những phát minh sáng chế vào sản xuất, làm cho công cụ sản xuất
không ngừng được hồn thiện. Sự khơng phù hợp của quan hệ sản xuất
với lực lượng sản xuất có thể xẩy ra trong các trường hợp quan hệ sản
xuất đã lạc hậu lỗi thời hoặc quan hệ sản xuất phát triển khơng đồng
bộ, cũng có thể quan hệ sản xuất tiến bộ được con người tạo dựng theo
ý muốn chủ quan của mình khi mà những cơ sở vật chất bảo đảm cho
quan hệ sản xuất mới đó chưa xuất hiện, hoặc khi mâu thuẫn đã bộc lộ
gay gắt đòi hỏi phải giải quyết nhưng con người không phát hiện được,
cũng như phát hiện được mà không giải quyết hay giải quyết một cách

sai lầm, chủ quan, thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở
thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất.
Cũng cần phải lưu ý rằng, trong lịch sử phát triển của các phương
thức sản xuất xã hội đã qua, quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là mặt
quan trọng nhất của quan hệ sản xuất. Sự thay đổi chế độ sở hữu sẽ
kéo theo sự thay đổi chế độ quản lý và phân phối, cả ba mặt này sẽ dần
được củng cố và hoàn thiện, cùng với sự phát triển kinh tế. Khi quan
hệ sở hữu về cơ bản chưa biến đổi, những cải tiến quản lý và phân
phối có thể tạo nên sự phát triển đáng kể của sản xuất hoặc trong
trường hợp ngược lại, chế độ quản lý và phân phối có thể hạn chế, kìm
hãm sự phát triến sản xuất khi nó ảnh hưởng đến lợi ích, làm cho
người lao động sản xuất kinh doanh khơng cịn động lực và không
quan tâm đến kết quả sản xuất và như vậy nó sẽ phá hoại sản xuất làm


19

cho lực lượng sản xuất không phát triển được, sự kìm hãm của quan hệ
sản xuất chỉ là tạm thời. Trong các trường hợp quan hệ sản xuất đã lạc
hậu, mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất sẽ nảy
sinh. Biểu hiện mâu thuẫn này trong xã hội là sự đối kháng giai cấp và
cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội, làm cho
quan hệ sản xuất cũ lỗi thời lạc hậu bị xóa bỏ, thay thế nó bằng quan
hệ sản xuất mới, quy định bản chất của nền kinh tế xã hội và mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển sang một thời kỳ mới.


20

Cách mạng xã hội nổ ra, là lúc mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất

với quan hệ sản xuất đã trở nên cực kỳ gay gắt, lực lượng sản xuất khi
đó đã phát triển cao, địi hỏi phải có quan hệ sản xuất mới. Giai cấp
cách mạng, sau khi giành được chính quyền, đưa những quan hệ mới những quan hệ mà vì nó đã tiến hành đấu tranh - vào các q trình
kinh tế - xã hội là có thể tạo nên sự phù hợp nhất định giữa quan hệ
sản xuất với lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn được giải guyết thì
cũng là lúc quá trình phù hợp mới được xác lập, nhưng trên cơ sở mới
của lực lượng sản xuất, mâu thuẫn giải quyết đến đâu thì sự phù hợp
được xác lập đến đó. Cũng như việc giải quyết mâu thuẫn, quá trình
phù hợp cũng diễn ra dần dần từng bước, từ ít đến nhiều, từ thấp đến
cao, từ từng mặt đến toàn bộ. Khi sự phù hợp đạt được về cơ bản, thì
có thể nói là đã tạo ra một sự thống nhất giữa quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất. Trong sự vận động của các quá trình sản xuất của xã
hội sự phù hợp và mâu thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng sản
xuất ln chuyển hóa, thay đổi lẫn nhau. Khi mâu thuẫn khi phù hợp,
từ phù hợp đến mâu thuẫn và mâu thuẫn được giải quyết sẽ tạo ra được
sự phù hợp mới cao hơn, sự phát triển của lực lượng sản xuất lại dẫn
đến mâu thuẫn. Cứ như thế phù hợp mâu thuẫn chuyển hóa lẫn nhau
tạo nên quá trình tiến lên của lực lượng sản xuất, quá trình đổi mới liên
tục các quan hệ sản xuất, quá trình thay đổi tiến bộ hơn của các lực
lượng sản xuất, đưa xã hội chuyển từ phương thức sản xuất này sang
phương thức sản xuất khác. Đó là sự vận động của quy luật phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.


21

II . NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG
GIAI ĐOẠN
ĐỔI MỚI HIỆN NAY
Cách mạng tháng 8 năm 1945 là trang sử hào hùng, một móc son

chói lọi trong trang sử vàng dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm
của dân tộc. Nó khơng chỉ là tiếng chng báo hiệu sự sụp đổ của chủ
nghĩa thực dân Pháp đã thống trị nước ta gần một thế kỷ, mà còn là
tiếng kèn chào mừng lực lượng dân chủ, tiến bộ thế giới chống chủ
nghĩa đế quốc đã lớn mạnh không ngừng. Cách mạng tháng tám thực
sự mở ra kỷ nguyên mới đối với nước ta - Kỷ nguyên độc lập, tự chủ
và tiến lên chủ nghĩa xã hội .
Với mong ước lớn lao của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Đảng ta
là làm sao cho toàn thể nhân lao động được hoàn toàn tự do, ấm no và
hạnh phúc, nên sau khi chiến thắng Điện biên phủ. Bác Hồ và Đảng ta
đã nhanh tróng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
thực tiễn của Việt nam, tạo ra các tiền đề đưa Miền Bắc đi lên chủ
nhĩa xã hội. Tháng 9 năm 1954 Bộ chính trị đã ra nghị quyết và thơng
qua nhiệm vụ kế hoạch ba năm (1955-1957) tập trung khôi phục kinh
tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, đồng thời hoàn thành cải cách dân
chủ , tạo cơ sở vững chắc đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội .


22

Đến năm 1975, sau 20 năm khôi phục cải tạo, xây dựng và phát
triển, nền kinh tế tương đối thuần nhất với hai hình thức chủ yếu là sở
hữu tồn dân và sở hữu tập thể.
Ngay sau khi miền Nam hồn tồn giải phóng và thống nhất Tổ
quốc, nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Có thể nói
giai đoạn từ năm 1975 đến 1985 là giai đoạn tìm tịi quan điểm, lý luận
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở thời kỳ này dưói sự lãnh đạo
của Đảng nhân dân ta đã làm nên rất nhiều thành tựu quan trọng trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng bên cạnh đó Đảng ta đã phạm
một số khuyết điểm, sai lầm, nóng vội chủ quan duy ý chí, như chủ

chương xây dựng một quan hệ sản xuất đi trước mở đường tạo điều
kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Như vậy xét về thực chất là
chưa nhận thức đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, đã vơ tình tách quan hệ sản xuất ra
khỏi lực lượng sản xuất
Biểu hiện rõ nhất ở việc cải tạo xã hội chủ nhĩa diễn ra một cách
rất nóng vội về mặt thời gian, ồ ạt về số lượng và diện rộng, muốn xóa
bỏ ngay và hết các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Dẫn đến các
biện pháp thực hiện gò ép hướng tới mục tiêu chủ quan, bất chấp quy
luật khách quan là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Trong khi nền kinh tế nước ta còn phổ
biến là sản xuất nhỏ, cá thể dựa trên kỹ thuật thủ công nhưng lại muốn
xã hội hóa nhanh về quan hệ sản xuất. Chính do khơng phù hợp đó đã


23

trở thành xiềng xích kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển trong nhiều
năm.
Trọng nhận thức về quan hệ sản xuất cũng chưa nhận thấy rõ sự tác
động cả ba nội dung thống nhất, trong đó chỉ nhấn mạnh đến quan hệ
sở hữu, đẩy nhanh quá trình xây dựng kinh tế quốc doanh và tập thể
hóa kinh tế cá thể. Trong khi quản lý lại mất dân chủ phân phối lại
mang tính chất bình qn, chỉ chú ý đến lợi ích nhà nước, chưa coi
trọng khuyến khích vật chất đối với người lao động. Vì vậy đã dẫn đến
hậu quả là thiết lập chế độ sở hữu “cha chung không ai khóc” dẫn đến
sử dụng nguồn lực của nền kinh tế kém hiệu quả.
Những hạn chế trên đây đều xuất phát từ nhận thức giản đơn, giáo
điều về một mô hình chủ nghĩa xã hội. Trước đây nói về một mơ hình
chủ nghĩa xã hội , chúng ta thường nói đến chế độ sở hữu là quá trình

biến tư liệu sản xuất trở thành sở hữu toàn dân và tập thể , cuối cùng đi
đến một hình thức sở hữu duy nhất là sở hữu tồn dân, từ đó dẫn đến
cơng hữu hóa hàng loạt, càng nhanh càng tốt. Trong thực tiễn đã chỉ ra
quan điển đó là sai lầm, nhưng nhận thức trên khơng chỉ có ở Việt
Nam mà ở tất cả các nước trong hệ thống Xã hội chủ nghĩa mà điển
hình là ở Liên Xơ trước đây.
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một đất nước có nền sản
xuất nơng nghiệp lạc hậu, phải trải qua nhiều năm chiến tranh buộc
Đảng ta phải đổi mới cả trong nhận thức lý luận và chỉ đạo thực tiễn
công cuộc xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất ở nước ta.


24

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 chủ
trương đổi mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống kinh tế xã hội phải đi từ đổi mới kinh tế đến từng bước đổi mới
chính trị, nhưng phải có bước đi thích hợp, trước hết là phải đổi mới tư
duy, đặc biệt là tư duy kinh tế. Với mốc lịch sử quan trọng này, ở nước
ta đã khơng cịn thực hiện mơ hình kinh tế kế hoạch hoa tập trung mà
chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực chất của công cuộc đổi mới trong lĩnh vực xây dựng và hoàn
thiện quan hệ sản xuất ở nước ta tự năm 1986 là nhận thức đúng, đầy
đủ hơn quy luật khách quan và vận dụng phù hợp vào hoàn cảnh Việt
Nam. Nước ta đang trong quá trình tiến lên từ một nền sản xuất nhỏ tới
một lần sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đó là q trình chuyển từ nền
kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế hàng
hóa khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà tồn tại khách quan, cần

thiết trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều kiện tiền đề của
sản xuất hàng hóa là sự phân công lao động và sự khác biệt cả chế độ
sở hữu về tư liệu sản xuất. Vì vậy phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần đa dạng các hình thức sở hữu, cơng hữu phải giữ vai trị chi phối
là xu hướng tất yếu ở nước ta hiện nay. Điều này cho phép phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đồng thời giữ được bản chất của chế độ
xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích các thành phần kinh tế
là giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong


25

và bên ngồi cho cơng nghiệp hóa, hiện đạị hóa, nâng cao hiệu quả
kinh tế - xã hộ và cải thiện đời sống nhân dân.
Nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thi trường sẽ vận động theo quy
luật khách quan của nó, tất yếu sẽ phát huy tác dụng thúc đẩy các đơn
vị kinh tế hướng vào mục tiêu là phân phối và sử dụng các nguồn lực
của nền kinh tế có hiệu quả. Nhưng đồng những mặt trái của kinh tế
thị ttrường cũng sẽ bộc lộ, vì vậy nhà nước cần phải hồn thiện pháp
luật, có chính sánh điều tiết nền kinh tế vĩ mô, hướng các mục tiêu
kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng đổi mới . Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI của đảng đã nhấn mạnh : “ Muốn đưa nền kinh tế thoát khỏi
rối ren , mất cân đối , phải rứt khoát xắp xếp lại nền kinh tế quốc dân
theo cơ cấu hợp lý , trong đó các vùng , các thành phần kinh tế ...
phải được bố trí cân đối , đan kết với nhau phù hợp với điều kiện thực
tế , bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định”10.
Để tạo điều kiện cho kinh tế phát triển phải mở rộng quan hệ hàng
hóa tiền tệ , và để tạo cho sản xuất hàng hóa phát triển , cần có sự đa

dạng hóa các lọai hình sở hữu và gắn với nó là sự tham gia hoạt động
của nhiều chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế khác . Đây là
vấn đề quy luật đòi hỏi chúng ta phải tơn trọng để có chủ trương chính
sách và biện pháp sử dụng sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh
tế . Từ nhận ấy Đại hội Đảng VI đã đưa ra quan điểm về nền kinh tế
nhiều thàn phần : “ Đi đôi phát triển nền kinh tế quốc doanh , kinh tế
10

Văn kiện đại hội Đảng VI,tr 47


×