Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Bài giảng Đông Hồ khám phá thơ Nôm Mạc Thiên Tích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.84 KB, 14 trang )

Đông Hồ khám phá thơ Nôm Mạc Thiên Tích
Trương Minh Đạt
Khoảng năm 1970, ở miền Bắc, cụ Thúc Ngọc Trần Văn Giáp viết về Hà Tiên thập vịnh của Mạc Thiên
tích(1). có nêu nghi vấn: “Nghe nói Hà Tiên thập vịnh có hai tập, một tập thơ chữ Hán, một tập thơ chữ Nôm,
nếu quả đúng như vậy thì tập thơ Nôm chưa tìm thấy”.
Cũng vào năm 1970, ở miền Nam hai nhà xuất bản Mạc Lâm và Quỳnh Lâm cho phổ biến hai quyển Đăng
đàn và Văn học Hà Tiên của Đông Hồ, để kỷ niệm chu niên ngày qua đời của ông.
Trong Đăng đàn in bài nói chuyện tại Câu lạc bộ văn hóa Sài Gòn vào năm 1960 của Đông Hồ. Ông nói:
“Điều đáng cho chúng ta thán phục, đáng cho chúng ta ca tụng từ trước đến nay và mãi mãi về sau là thi phái
Chiêu anh các Hà Tiên đã để lại cho chúng ta áng văn chương Nôm giá trị không ít”(2).
Câu nói đó tóm tắt một thành tựu lớn nhất trong cuộc đời khảo cứu văn học miền Nam của ông: Khám phá tác
phẩm văn chương chữ Nôm Mạc Thiên Tích. Việc này xảy ra năm 1960. Năm ấy ông cùng nữ sĩ Mộng Tuyết
công bố một tập sách nhỏ nhan đề Hà Tiên thập cảnh và Đường vàoTiên, trong đó ông nói điều lạ nhất xưa
nay: “Cũng là 10 bài thơ đó, riêng Mạc Thiên Tích có làm 10 bài thơ Nôm, hầu hết theo vần 10 bài Hán. Về 10
bài Nôm này, phần nhiều các sách đều chỉ biết có 10 bài thất ngôn Đường luật.Thực thì không chỉ có 10 bài
Đường luật mà thôi đâu. Nguyên toàn tập thơ Nôm là một ngâm khúc làm thể song thất lục bát, phân làm mười
đoạn. Mỗi đoạn là một cảnh, kết đoạn đó bằng bài thơ Đường luật. Tuy phân đoạn từng cảnh như thế mà vần
thơ vẫn cứ nối tiếp, cắn liền nhau, từ câu cuối đoạn trên xuống câu đầu đoạn dưới, từ cảnh thứ nhất đến cảnh
thứ mười...
Tôi nói như vậy là để ai muốn chép 10 bài Hà Tiên thập vịnh này, nên chép cho có thứ tự từ trên xuống dưới,
trước sau không chép lộn xộn được. Tuy là 10 bài nhưng thực là một khúc, thứ đệ phân minh ... Vì khi làm
người làm đã nghĩ đặt có thứ tự trước sau”(3).
Do phát hiện mới mẻ này, ông Đông Hồ được chính quyền Sài Gòn thời đó mời ra thỉnh giảng chứng chỉ văn
chương Quốc âm tại Đại học Văn khoa từ niên 1964-1965.
Như vậy là tác phẩm chữ Nôm của Mạc Thiên Tích đã được tìm thấy.
Đối với vấn đề thơ Nôm của họ Mạc, đến nay vẫn còn nhiều chi tiết liên quan mà chúng ta cần ra sức tiếp tục
khảo cứu đến nơi đến chốn. Công việc này đương nhiên là hữu ích và cần thiết. Nhưng thiết tưởng công tác
khoa học vốn là vô bờ bến, ta không thể cầu toàn, mặc dù sự vẹn toàn chính là lý tưởng ở phía trước, thúc đẩy
khoa học tiến lên. Đời sống mỗi người thì có giới hạn, kết qủa việc làm cũng tuỳ thuộc những điều kiện khách
quan. Nhất là hoàn cảnh lịch sử đất Hà Tiên trong thế kỷ XVIII, XIX, XX luôn trải qua tai họa chiến tranh; tàn
phá rồi xây dựng, không biết bao nhiêu lần; nhà cửa bị đốt phá, dân cư phiêu tán, không gì có thể tồn tại. Đối


với tác phẩm chữ Nôm của Mạc Thiên Tích mà đòi cho có được bản khắc hoặc bản in là điều quá đáng và vô
vọng. Trong văn học sử chưa thấy nói họ Mạc có cho khắc in các tập sách chữ Nôm bao giờ. Nhưng đời sau
thì không thể có được. Đến như quyển Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, ở ngay triều đình, sách
thuộc viện Quốc sử quán mà còn chưa được khắc in nữa là... Vì thế nếu nghiên cứu nền văn học miền Nam, ta
cố sao khảo sát tiếp cận tác phẩm cách nào tương đối phù hợp, khi điều kiện khách quan cho phép.
Cuộc đấu lý khá sôi nổi, hấp dẫn và đầy “ngoạn mục” giữa ông Nguyễn Quảng Tuân (NQT) và ông Cao Phi
Hồng (CPH) gần đây trên Tạp chí Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh số 12, 13, 15, 17 cho thấy vấn đề
thơ Nôm của Mạc Thiên Tích chưa đến nỗi nguội lạnh, bị lãng quên. Bằng những luận chứng vững vàng, sinh
động, cả hai đối thủ đều tỏ ra không khoan nhượng, quyết bảo vệ lập trường của mình. Các tác giả nhìn vấn đề
ở hai thế đối lập dưới góc độ khác nhau, vì thế khi cuộc tranh luận tạm thời im tiếng - vì khó có thể kéo dài
hơn nữa - độc giả vẫn có cảm tưởng; cuộc thảo luận chưa ngã ngũ. Đôi bên vẫn giữ hai cực đoan. Sự thật vẫn
chưa lộ rõ mặt mày - điều nghi ngờ vẫn còn đó. Tiếng nói kết thúc của NQT vẫn là mạnh tin rằng “ tác giả
những bài thơ chữ Nôm không phải Mạc Thiên Tích”. Còn ông CTH thì cương quyết Mạc Thiên Tích đúng là
tác giả mười bài Hà Tiên Quốc âm thập vịnh. Ông CPH nói thế nhưng vẫn còn một thắc mắc chưa cởi bỏ được
: “ Tôi (Cao Phi Hồng) đã thắc mắc và đặt vấn đề tìm hiểu quá trình hình thành của văn bản gồm có 334 câu
lục bát gián thất do Đông Hồ công bố” vì “ngoài Đông Hồ vẫn không có ai công bố mười khúc ngâm lục bát
gián thất tương tự...”(4).
Trước khi kết thúc cuộc tranh cãi, ông CPH nói: “Những người nghiên cứu chúng ta nên cẩn thận, kỹ càng
chính chắn hơn khi viết về Chiêu anh Các và Mạc Thiên Tích”.
Chúng tôi nhất chí với ông Cao Phi Hồng trên quan điểm này. Nay xin trình ra đôi điều hiểu biết của tôi về các
bài thơ lục bát gián thất và 10 bài thơ luật Nôm, nói gọn là tác phẩm chữ Nôm của Mạc Thiên Tích. Điều sẽ
trình bày xin tóm gọn trong hai ý chính:
1- Tôi cho rằng bản thân quý vị tiên phong (tức là những người đầu tiên giới thiệu các bài thơ Nôm của mạc
Thiên Tích) không biết một cách thấu đáo về tác phẩm chữ Hán lẫn chữ Nôm của họ Mạc. Có thể so sánh
những vị ấy như những người đầu tiên vớ được bộ phận rời của một bức tranh điêu khắc chôn vùi lâu năm...
những phát hiện hồi đầu thế kỷ XX chỉ là những phần rời, lẻ vụn. Đến năm 1960, mới được Đông Hồ sắp xếp
lại có hệ thống.
2- Cuộc ráp nối sít sao các mảnh vỡ, đặt lại trật tự các bài thơ, do Đông Hồ thực hiện, làm nổi lên giá trị không
chối cãi của một bộ phận văn chương chữ Nôm có tính cổ điển và độc đáo nửa phần phía Nam của đất nước.
Cổ vật được phục hồi hoàn chỉnh hình dạng ban đầu, tự nó xác định tác giả và xuất xứ.

Trong phần chứng minh tôi sẽ sử dụng hai tư liệu tương đối xưa nhất cùng một giai đoạn lịch sử:
1) Tập gia phả bằng chữ Nôm duy nhất còn tồn tại cho phép 35 bài thơ chữ Hán và chữ Nôm mà ông Vũ Văn
Kính mệnh danh là Gia phả Hà Tiên; ông Đông Hồ cho biết tác giả là cụ Trần Đình Quang tự Dưỡng Hối.
2) Cuốn Thần chú thỉnh tiên của dịch giả La Thành Đầm tự Mộ Tần, xuất bản năm 1907 do nhà in và xuất bản
Phát Toán Sài Gòn. Sách chép 10 bài Hà Tiên thập cảnh ca trù, tức là 334 câu thơ song thất lục bát và 10 bài
thơ Nôm Đường luật.
Để thấy được tính chất chân thực của các áng văn chữ Nôm, mà tôi tạm mệnh danh là những tác phẩm trong
luồng, xin tóm tắt các giai đoạn xuất hiện:
Một: - Trước 1903, trong Gia phả Hà Tiên có chép 4 bài thơ luật Nôm thuộc Hà Tiên thập cảnh và 1 bài Tổng
luận – sách không công bố.
Hai: - Năm 1903, ông Lê Quang Chiểu công bố 10 bài thơ luật Nôm trong Quốc âm thi hiệp tuyển không có
bài Tổng luận, vì lẽ Lê Quang Chiểu không biết có bài này.
Ba: - Năm 1904, ông Nguyễn Phương Chánh công bố 10 bài thơ luật Nôm và bài Tổng luận. Các bài thơ được
sắp xếp theo thứ tự của các cảnh trong bài Tổng luận.
Bốn: - Năm 1907, La Thành Đầm công bố 334 câu song thất lục bát mà không nắm vững cái thứ tự trước sau
của mỗi bài thơ. Lý do vì toàn bộ thơ chữ Hán xưa không còn lại mấy.
Năm: - Năm 1926, Đông Hồ in lại trong Nam phong. Trên 30 năm sau, ông xếp các bài thơ Nôm thành một
liên khúc không gián đoạn từ bài đầu đến bài cuối.
Không phải dễ để nhận thức sự hình thành của một tác phẩm, nên cần phải đi vào chi tiết:
A. Những người công bố lần đầu các bài thơ chữ Nôm của Mạc Tích Thiên không rành về tác phẩm chữ Nôm
lẫn chữ Hán do họ Mạc làm ra:
Trong số những người này tôi sẽ tuần tự nói đến:
a) Cụ Trần Đình Quang với quyển Gia phả Hà Tiên.
b) Cụ Lê Quang Chiểu trong sách Quốc âm thi hiệp tuyển (1903).
c) Cụ Lê Phương Chánh với 10 bài Hà Thiên thập cảnh vịnh và 1 bài Tổng luận (1904).
d) Cụ La Thành Đầm với sách Thần chú thỉnh tiên (1907).
e) Cụ Đông Hồ trong Nam phong (1926).
1. Trước hết là quyển Gia phả Hà Tiên của cụ Trần Đình Quang tự Dưỡng Hối:
Nữ sĩ Mộng Tuyết cho chúng tôi mượn nguyên Bản gốc là bản chép tay. Đây là quyển sách được cụ Đông Hồ
sử dụng lần đầu để viết Hà Tiên Mạc thị sử (Nam phong số 107 tháng7 năm 1926). Trong lần biên soạn lại Hà

Tiên Mạc sử in lần 2 ở Nam phong số 143, tháng 10-1926, cụ Đông Hồ viết: “Những sách Mạc gia phả thì tôi
có được đọc qua 3 bản. Một bản tản văn chữ Nôm của ông Trần Đình Quang tên tự là Dưỡng Hối soạn độ
ngoài hai mươi năm nay là bản do tôi đã dò theo mà biên dịch năm trước(5).
Đây là quyển sách “xung quanh quét nước vỏ cây, góc phía bên trái bị gián nhấm mất một chữ (xem hình sao
chụp tờ đầu quyển sách). Sách gồm 55 tờ đôi khổ 13 x 26cm. Bìa giấy đầu, không đề ngày tháng cũng không
có tên người viết hoặc chép. Câu đầu, trang 1: “Tôi xét trong tập Gia phả Hà Tiên đời trước biên để lại rằng
ông Mạc Thiên Cửu là người ở đất Trung Hoa...)
Quyển này được ông Vũ Văn Kính khảo sát trong tập Thư mục và văn bản Chiêu anh các. Sách của Vũ Văn
Kính ở dạng đánh máy gồm 60 trang, nội dung chia làm hai phần, phần thư mục và phần văn bản. ở phần đầu,
trang 9, tiết 8 viết về quyển Gia phả Hà Tiên như sau: “Tôi xét thấy trong tập Gia phả Hà Tiên đời trước biên
để lại rằng: “Bản chính (...) giấy bản đã ngả mầu, bị mọt ăn mất mấy chữ, lề đóng xuyên từ bên nọ sang bên
kia. Tự dạng chữ Nôm cũng như hình thức tài liệu có thể dự đoán là tác phẩm được viết vào đầu thế kỷ XX”.
Khi phát biểu Tại cuộc hội thảo 250 năm Tao đàn Chiêu anh các ở Kiên Giang - ngày 13 và 14 tháng 11 năm
1986 - ông Vũ Văn Kính cũng nói về quyển gia phả này: “... Xin không đi sâu vào chi tiết bản gia phả, mà chỉ
nói bản này có phụ thêm ở cuối 10 bài thơ Nôm đề rõ là nguyên tác của Mạc Thiên Tích”. Thí dụ “MạcTiên
Công nguyên tác Kim Dự lan đào Quốc âm luật”. Bài khác cũng thế, chỉ khác tên bài thơ. Trong 10 bài thơ
Nôm ở đây có 4 bài nội dung giống những bài do 3 vị đã giới thiệu, còn 6 bài thơ kia thì khác hoàn toàn... (Ba
vị mà ông Vũ Văn Kính kể là Lê Quang Chiểu (1903), Nguyễn Phương Chánh (1904), và ông Đông Hồ (1926)
TMD chú thích). “Bốn bài giống ấy là Bình Sơn điệp thuý, Kim Dự lan đào, Đông Hồ ấn nguyệt, Thạch Động
thôn văn”. Bốn bài này còn thấy viết trên4 cột ở Tiền sảnh Trung Nghĩa Từ Lăng Mạc Cửu”(6).
Dịp này ông Vũ Văn Kính có nêu lên vấn đề:
“Vậy những bài thơ Nôm này có thật của Mạc Thiên Tích không?... Còn 334 câu song thất lục bát ở đầu 10 bài
thơ Đường luật miêu tả cảnh của đề tài, lời thơ cũng như gieo vần rất sít sao với vần của bài thơ này thực sự
của Mạc ThiênTích thì điều đó ông rất giỏi tiếng Việt”(6).
Năm 1986, sự nghiệp thơ văn chữ Nôm của Mạc Tích Thiên lại được đặt lên bàn mổ, vì lại có thêm ý kiến
nghi ngờ.
Qua ý kiến của Vũ Văn Kính, ta chưa tỏ lộ được chi tiết cụ thể nào để nói được quyển Gia phả Hà Tiên là của
cụ Trần Đình Quang tự Dưỡng Hối ngoài câu nói của Đông Hồ và được nữ sĩ Mộng Tuyết cất giữ. Nhưng ông
Kính cũng nói: “Tự dạng chữ Nôm cũng như hình thức tài liệu có thể dự đoán là tác phẩm viết vào đầu thế kỷ
XX”, còn cụ Đông Hồ nói: “Bản ... chữ Nôm của cụ Trần Đình Quang... soạn độ ngoài hai mươi năm nay”...

Ta hãy lui về thời điểm 1900, năm bản lề bước vào thế kỷ XX. Năm đó ở Hà Tiên có sự kiện mang tính chất
lịch sử trong sinh hoạt văn hóa của xứ này. Hội Lạc Thiện Hà Tiên (gồm những người sùng kính họ Mạc) vừa
hoàn thành công trình kiến thiết tu bổ miếu thờ 3 vị họ Mạc, tức Mạc Công tam vị miếu (hay Mạc Công từ,
hay Trung nghĩa từ) tại chân núi Bình Sơn (Xem Văn hóa nguyệt san số 80 tháng 4 năm 1963). Thờ gian tu sửa
là 3 năm, 1897 đến 1900. Phải chăng cụ Trần Đình Quang tự Dưỡng Hối soạn Gia phả Hà Tiên vào dịp này?
Có thể lắm. Bởi vì nếu so cách chép 4 bài thơ Nôm ở trên cột Trung Nghĩa từ và trong quyển Gia phả Hà Tiên,
ta thấy đó là hai văn bản chép ở hai nơi cùng một quy cách. Về mặt ngôn ngữ, lời dẫn nhập trên cột, mỗi đề bài
khởi đầu bằng câu: “Lệnh Công nguyên tác... (Kim Dự lan đào Quốc âm luật”). Về thứ lớp, tùy thuộc vào
bước đi của khách lễ bái. Từ đền thờ bước ra đi vào Hội quán Lạc Thiện, khách sẽ đọc bài thơ số 1 trên cái cột
phía đầu tiên bên tay phải: “Lệnh Công nguyên tác Bình Sơn điệp thúy...” từ đó ngược chiều kim đồng hồ theo
cách đọc từ phải sang trái, khách sẽ đọc 4 bài theo thứ tự:
1- Bình Sơn điệp thúy.
2 - Kim Dự lan đào.
3 - Đông Hồ ấn nguyệt.
4 - Thạch Động thôn vân.
Xem trong Gia phả Hà Tiên cũng thế: sau 12 bài thơ chữ Hán (tờ 45a đến tờ 49a) thì khởi sự chép 4 bài thơ
chữ Nôm vừa rập theo thứ lớp đó và khởi đầu bằng: “Mạc Tiên Công nguyên tác Bình Sơn điệp thuý Quốc âm
luật” (tờ 49a đến tờ 50b).
Sau bài Thạch Động thôn vân tác giả chép 6 bài hoàn toàn mới lạ, xưa nay không ai biết cũng chẳng thấy ai
nhắc nhở. Theo tôi, sáu bài này cần xét lại, chưa chắc đều xứng đáng là tác phẩm của Mạc Thiên Tích. Bởi vì
trong 6 bài đó, bài Tiêu tự thần chung lời và tứ thơ rất bình thường, thậm chí quá ngô nghê, Thế mà trên đầu
bài cứ ghi là: “Mạc Tiên Công nguyên tác Tiêu tự thần chung Quốc âm luật”, còn 5 bài kia, ta có thể kể đó là 5
bài “ngoài luồng” vì không có chữ Mạc Tiên Công nguyên tác” mà chỉ ghi vẻn vẹn “Lộc Trĩ thôn cư Quốc âm
luật” hoặc đằng trước chỉ có chữ Hựu (又): “Hựu Thạch Động thôn vân Quốc âm luật”.
Vậy ta có thể nói cách không lầm: quyển Gia phả Hà Tiên chỉ ghi nhận được 4 bài thơ chữ Nôm “trong
luồng”, 7 bài thơ chữ Hán phù hợp với những bài xướng của Mạc Thiên Tích, 1 bài thơ chữ Nôm đề là Hà
Tiên thập cảnh Tổng luận, và 1 bài thơ chữ Hán thuộc tập Minh Bột di ngư có tựa đề Lư Khê nhàn điếu, là
đáng kể.
Xưa nay, các sách vở phổ biến các bài này. Thế, rõ ràng soạn Gia phả Hà Tiên là cụ Trần Đình Quang tự
Dưỡng Hối trong điều kiện eo hẹp, không biết rành về tác phẩm chữ Nôm của Mạc Thiên Tích(7).

2. Cụ Lê Quang Chiểu trong sách Quốc âm thi hiệp tuyển (QATHT). Sách do nhà Claude et CieImprimeurs
Editeurs, xuất bản năm 1903. So với Trần Đình Quang, Lê Quang Chiểu chép đủ 10 bài “trong luồng” (còn
Trần Đình Quang chép chỉ 4 bài). Nhưng Lê Quang Chiểu mắc khuyết điểm chép 10 bài ấy không theo thứ tự
lớp lang gì cả.
Cụ Nguyễn Phương Chánh công bố 10 bài Hà Tiên thập cảnh ăn nhịp các câu trong bài Tổng luận. Xin ghi
nhớ, trong Gia phả Hà Tiên (1900) có bài Hà Tiên thập cảnh Tổng luận đặt trước tất cả các bài thơ được mệnh
danh là “Mạc Tiên Công nguyên tác...”(trang 44b). Bài này được cụ Nguyễn Phương Chánh sử dụng làm tư
liệu nền tảng để sửa sai cụ Lê Quang Chiểu sau khi cụ Chiểu công bố mười bài thơ Nôm. Một năm sau khi
sách QATHT ra đời, cụ Nguyễn Phương Chánh trưng ra bài Tổng luận, làm khuân mẫu ghi chép 10 bài Hà
Tiên thập cảnh, có nghĩa là sắp xếp các cảnh theo thứ tự bài Tổng luận:
a/ Đông Hồ ấn nguyệt ở trước Lộc Trĩ thôn cư ( Đông Hồ Lộc Trĩ luôn dòng chảy).
b/ Nam Phố trừng ba ở trước Lư khê nhàn điếu (Nam Phố Lư Khê một mạch xanh).
c/ Tiêu Tự thần chung ở trước Giang Thành dạ cổ (Tiêu Tự Giang Thành chuông trống ỏi).
d/ Châu Nham lạc nhạn ở trước Kim Dự lan đào (Châu Nham Kim Dữ cá chim doanh).
e/ Bình Sơn điệp thuý ở trước Thạch Động thôn vân (Bình Sơn Thạch Động là rường cột) (xem Nông cổ mín
đàm số 159, ngày 29-9-1904) hoặc quyển Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới của Bùi Đức
Thịnh, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1992, trang 73 -76).
Trong thư gửi toà soạn NCMD, Nguyễn Phương Chánh viết: “Tôi là đứa học trò dốt, thấy sự thay và dấu tích
xưa, nên cắp nắp biên lại gửi cho quý quán đăng in ra cho các xứ văn nhân ai chưa thấy thì trước là xem chơi
giải buồn, sau nữa đặng nhớ dấu tích của người”. xin chú ý câu nói “ Thấy sự thay và dấu tích xưa” tác giả ám
chỉ việc cụ Lê Quang Chiểu công bố 10 bài thơ Hà Tiên thập cảnh không đúng, không hợp thứ tự trước sau,
“Thấy sự thay” là thấy điều thay đổi khác đi “còn dấu tích xưa” chính là Hà Tiên thập cảnh Tổng luận được
ông trưng ra làm mẫu. Tự cho mình là “đứa học trò dốt” chỉ là cách nói khiêm tốn ngầm tự cao, ý muốn chê Lê
Quang Chiểu là dốt (?!).
Nhưng Nguyễn Phương Chánh là ai? Ta cũng nên biết sơ qua nhân vật này. ở NCMD số 88 ngày 7/5/1903 và
số 129 ngày 25/2/1904 có nhiều bài thơ của Nguyễn Thần Hiến và Nguyễn Phương Chánh. Ông Nguyễn
Phương Chánh làm thư ký ở Hà Tiên, rất tâm đắc với Nguyễn Thần Hiến. Hai cụ này đều là bạn thơ rất thân
của một nhân vật mà ở phần sau sẽ giới thiệu nhiều hơn, đó là cụ Lê Thành Đầm. Cụ Nguyễn Phương Chánh
có một bài Phụng đính thất ngôn đường luật rất đặc sắc Mừng Thông ngôn La phủ Thành Đầm hồi hương.
Tám chữ đầu câu là tám chữ cuối câu đọc liên tiếp từ trên xuống dưới sẽ là hai ý, nói rõ chủ đích bài thơ. Tạm

chép lại để ghi nhớ về cụ:
Thơ rượu canh khuya ngọn gió lò
Mừng cho quý hữu giỏi lần mò
La vang tiếng nhạn kêu chào hỏi
Thành việc khen ai khéo liệu lo
Đầm ấm phụng loan rày đã toại
Lại qua anh én mới nên cho
Hồi đưa lúc rước đều như một
Hương lửa từ đây dáng học trò.
Câu thủ ý “Thơ mừng La Thành Đầm lại hồi hương”, câu vĩ ý là “Lò mò hỏi lo, toại cho một trò”. Thủ vĩ đều
tuyệt nên gọi là Phụng đính. Xem thế tài nghệ thi thơ Nguyễn Phương Chánh không phải kém, nên ông nóng
lòng việc Lê Quang Chiểu công bốthơ của Mạc Thiên Tích không đúng quy cách cũng là chuyện dễ hiểu.
4. Quyển Thần chú thỉnh tiên - Ca trù thập cảnh Hà Tiên dịch giả La Thành Đầm (1907):
Sau khi cụ Nguyễn Phương Chánh công bố 11 bài thơ Nôm thì cụ La Thành Đầm lên tiếng. Đừng quên rằng
La Thành Đầm đi xa mới trở về Hà Tiên năm 1904 - Có lẽ thời gian xa quê cũng là thời gian ông thâu nhặt
được những câu thơ song thất lục bát Hà Tiên thập cảnh ca trù ở đâu đó. Về Hà Tiên, ông mới dịch từ chữ
Nôm ra Quốc ngữ và ông cho xuất bản kèm trong tập sách nhỏ có nhan đề: Thần chú thỉnh tiên, Ca trù thập
cảnh Hà Tiên (Phát Toán - Imprimeur Editeur - Sài Gòn - 1907). Để khỏi mô tả dông dài cái bìa quyển sách,
mời quý vị xem ảnh chụp tờ bìa và trang 17 có đăng Hà Tiên thập cảnh ca trù. Xưa nay mọi người đều lầm
tưởng ông Đông Hồ là người đầu tiên và là người duy nhất công bố 334câu thơ song thát lục bát (được ông sửa
tên đến 4 lần). Thực ra ông là người thứ hai, ông sao lục in lại. Bản thơ chữ Nôm này được cụ La Thành Đầm
công bố sớm hơn gần 20 năm trước, khi Đông Hồ mới được một tuổi (Đông Hồ sinh năm 1906). Theo cách
ghi trên bìa sách và thực tế cách xếp của văn bản, ta có thể vững tin đây không phải tác phẩm do la Thành

×