Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Gián án Tìm hiểu văn bia từ góc nhìn thể loạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.54 KB, 7 trang )

Tìm hiểu văn bia từ góc nhìn thể loại

Văn bia (Bi văn) là từ dùng để chỉ bài văn khắc trên bia đá. Theo khảo chứng của các nhà nghiên cứu Trung
Quốc thì văn bia vốn là một hình thức được chuyển hóa từ minh văn trên đồ vật đúc đồng thời Ân - Chu.
Chính vì vậy, văn bia thời kỳ đầu, do ảnh hưởng của minh văn, thường được viết bằng văn vần, ngắn, đơn giản
và cổ kính. Phải đến sau đời Hán văn bia mới phát triển thành hình thức có thêm bài tự dài ở trên để hình thành
nên kết cấu trên tự dưới minh. Tự thì dùng văn xuôi, minh thì dùng áp vận. Tức là ở trên có bài văn xuôi ghi
lại sự việc, ở dưới có bài ca ngợi bằng văn vần. Trên thực tế chúng đều là những bộ phận tổ thành của văn bia,
cho nên gọi chung là Văn bia.
Văn bia du nhập vào nước ta cùng với quá trình trị nhậm của các quan lại Trung Quốc dưới thời Bắc thuộc, khi
đã có hình thức ổn định kiểu trên tự dưới minh. Bia Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn ở
Đông Sơn Thanh Hóa có niên đại Đại Nghiệp nhà Tùy (năm 618), văn bia do viên Kiểm hiệu quận Giao Chỉ là
Nguyễn Nhân Khí người ở Lạc Dương, đạo Hà Nam, Trung Quốc viết, hay bia Thiên uy kính tân tạc hải phái
bi dựng ở bờ kênh Thiên Uy - một địa điểm thuộc hải phận Việt Nam - có niên hiệu Hàm Thông nhà Đường
(năm 870), văn bia do Bùi Hình, Chưởng Thư ký của Tiết độ sứ Giao Châu Cao Biền soạn, là những minh
chứng cho nhận định này.
Có lẽ do được thừa hưởng phong khí Tùy - Đường nên đến thời Lý, văn bia đã có kết cấu rất hoàn chỉnh,
không bài nào không đầy đủ cả hai thành phần tự và minh, đồng thời văn viết rất điêu luyện với bài tự và bài
minh đều khá dài. Tên bia thời kỳ này thường được đề là “… bi minh” hoặc “… bi minh tính tự”, chẳng hạn
Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh, hoặc Viên Quang tự bi minh tính tự v.v… Điều đó cho thấy phần minh
lúc này được coi là chủ thể của văn bia, còn phần văn xuôi đóng vai trò là phần tự của bài minh. Tuy nhiên khi
đọc kỹ cả hai phần minh và tự trong văn bia thời kỳ này, có thể thấy bài tự chính là bài diễn giải bài minh ra
văn xuôi, hoặc nếu hiểu ngược lại thì bài minh chỉ là bài tóm tắt của bài tự. Đồng thời bài minh vốn là chủ thể,
nhưng thường được viết bằng giọng văn cổ kính, lại thêm bị gò vào thể vận văn tứ tự nên rất cô đọng, khó
hiểu, ngược lại bài tự được viết bằng văn xuôi, diễn giải được sự việc rất chi tiết rõ ràng và dễ hiểu nên dường
như bài tự lại là chủ thể của văn bia, bài minh ở dưới chỉ mang tính chất tán tụng, không còn quan trọng. Sang
thời Trần các bài minh bắt đầu ngắn dần, cho đến cuối thời Trần đã thấy xuất hiện các văn bia không có bài
minh và tên bia thường được dùng kèm với chữ “ký”, như Khai Nghiêm tự bi ký. Đến thời Lê, do ảnh hưởng
của thể ký, văn bia ngày càng mang hình thức của một bài ký. Tuy vẫn có văn bia có đầy đủ kết cấu tự và minh
nhưng thường dùng một cách trang trọng cho những sự kiện hoặc nhân vật quan trọng (thường ở văn bia lăng
mộ). Rồi dần dần văn bia chủ yếu chỉ có bài ký, nếu có thêm phần minh văn thì chỉ còn là vài câu tán tụng


khuôn sáo. Từ thời kỳ này về sau, văn bia hầu hết được đặt tên kèm theo chữ ký (đôi khi là chí), thành “… bi
ký”, như Thánh Thọ tự bi ký, Trùng tu Hoa đình bi ký, Hồng Đức tiến sĩ đề danh bi ký, v.v…
Văn bia thực chất là loại văn ứng dụng dùng để “ký” hoặc “chí” (ghi chép) những sự việc cần ghi nhớ, chính
vì vậy cổ nhân thường xếp chúng vào thể ký. Chẳng hạn Bùi Huy Bích trong Hoàng Việt văn tuyển, ở quyển 2
là phần về ký, tuyển chọn 15 bài thì trong đó có đến 9 bài là văn bia. Đồng thời hầu hết các văn tập, như Kim
mã hành dư của Ngô Thì Nhậm, Phương Đình văn tập của Nguyễn Văn Siêu v.v… cũng đều xếp văn bia vào
thể ký. Gần đây Nguyễn Đăng Na trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại cũng đã xếp văn bia vào loại
ký(1). Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy văn bia về phương diện loại hình vẫn mang những đặc trưng riêng về
hình thức cũng như trong nội dung của nó, có những nguyên tắc nhất định khi viết, do đó theo chúng tôi văn
bia nên được xem xét như một thể loại riêng biệt. Vấn đề này nếu bạn đọc quan tâm xin đọc bài Đặc điểm thể
loại văn bia của Trịnh Khắc Mạnh đăng trên Tạp chí Hán Nôm, số 4-1993.
Nhìn chung về hình thức, văn bia thường có hai dạng, một dạng mang cấu trúc gồm hai phần là trên tự (hoặc
ký) dưới minh như đã nói ở trên, còn dạng kia chỉ gồm một bài ký (hoặc chí). Bài ký lại thường có cấu trúc
gồm hai phần chính, là phần dẫn và phần ký sự, phần dẫn thường là một đoạn văn hay một câu văn ngắn mang
tính nghị luận để dẫn dắt vào vấn đề được nêu ra ở phần ký. Phần ký là phần chính của văn bia, nêu nội dung
văn bia. Tuy cũng có những văn bia không tuân thủ nguyên tắc này, nhất là những văn bia có niên đại muộn về
sau, nhưng về cơ bản đều có hai phần như vậy. Chẳng hạn văn bia Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh (Lý,
Thiên Phù Duệ Vũ năm thứ 7, 1126) mở đầu là phần luận về Phật pháp khá sâu sắc để dẫn dắt đến sự kiện kiến
tạo chùa Linh Xứng:
“Phật tổ soi tỏ chữ thực mà chỉ thẳng chữ tâm, thánh nhân thích ứng theo thời mà thông suốt muôn biến.
“Muôn” là sự phân tán của “một”, “một” là cội gốc của “muôn”. Còn như các bậc hiển thánh thỉnh thoảng ra
đời, khuôn phép thay nhau dấy lên, nhóm cái đã phân tán để đưa nó về cội gốc; ôm cái một để thâu tóm cái
muôn. Tạc nên hình tượng để biểu thị “sự thâu tóm”; dựng nên đền tháp để có “sự hướng về”. Hết tâm sức để
kinh doanh, bỏ châu ngọc mà không tiếc. Cho nên đường thì đặt ranh giới bằng dây vàng, hiên thì phô sự quý
giá của rèm châu. Tuy rằng hết đỗi trang nghiêm, mà vẫn không hề xa xỉ. Bởi vì mục đích là ở sự tìm cái
“nhất” và cái “chân”, chứ đâu phải chỉ cốt làm cho bụng dạ và con mắt chói lòa để khoe khoang sự tráng lệ
vậy! Từ khi có Phật giáo tới nay đã hơn hai ngàn năm mà sự thờ phụng ngày càng thêm mới. Hễ có cảnh đẹp
núi non thì không nơi nào là không mở mang để xây dựng chùa chiền, nhưng không có các bậc vương công đại
nhân giúp đỡ thì sao có thể làm nên được”(2).
Còn như bia Nhân Hậu bi ký (Nguyễn, Tự Đức thứ 10, 1857) lại chỉ có một câu ngắn gọn để nêu lý do tôn bầu

Hậu phật của một làng: “Vi đức kỳ thịnh, hưởng vu khắc thành; hữu công ư dân, hâm hồ bất dĩ”(3) [Làm việc
đức sẽ được hưởng phúc; có công với dân sẽ được mến mộ].
Ngoài hai phần chính đó ra, một văn bia hoàn chỉnh còn có thêm các chi tiết khác như phần tên bia, thường cho
biết bia của địa phương nào hoặc loại bia gì, chẳng hạn Trùng tu Pháp Vân tự bi ký là văn bia ghi việc trùng tu
chùa Pháp Vân, Ngọc Đình xã bi là bia của xã Ngọc Đình, hay Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chí là bia mộ
của Phụng thánh phu nhân, ngoài ra các văn bia công đức thường có thêm phần ghi công đức của những người
có công lao trong sự việc đó kèm theo đóng góp của họ; rồi phần niên hiệu, ngày tháng dựng bia, phần lạc
khoản ghi tên họ chức tước của người soạn văn bia, người khắc chữ.
Văn bia hầu hết được viết bằng biền văn xen tản văn, hoặc tản văn xen biền văn, về sau cũng xuất hiện văn bia
chỉ dùng tản văn.
Văn bia có số lượng tương đối nhiều và nội dung khá phong phú. Chính vì vậy, để dễ nắm bắt, cần phải
phân biệt văn bia thành các tiểu loại khác nhau. Ở đây chúng tôi tạm phân loại văn bia theo ba nội dung chính.
Một là thuật đức, ca ngợi hiền tài, nội dung này nằm trong các văn bia lăng mộ, từ đường, văn bia đề danh. Hai là
ghi công, nội dung này thuộc về các văn bia công đức. Ba là ghi việc, là các văn bia nhằm ghi lại các sự việc cần
ghi nhớ, hoặc như các loại giao kèo, khế ước v.v… Dưới đây xin được nói riêng về từng loại:
Văn bia kiến trúc tu tạo kiêm ghi công (hoặc văn bia công đức)
Đây là loại văn bia chiếm số lượng lớn và có giá trị cao về sử liệu cũng như văn học trong kho tàng văn bia
nước ta. Thời xưa phàm có xây dựng sửa chữa đình chùa, miếu vũ, từ đường, đúc chuông, tô tượng, hoặc xây
sửa cầu đường, mở chợ… người ta thường lập bia hoặc khắc chuông để ghi lại sự việc và ghi công đức cho
những người hưng công hội chủ. Đồng thời, ngoài việc ghi về nguyên do, quá trình xây dựng, quy mô công
trình và người khởi xướng ra, thường còn có phần ca ngợi Phật pháp hoặc quyền phép và sự linh nghiệm của
thần linh, nhằm mục đích tuyên dương tôn giáo. Đương nhiên vì là bia công đức, chỉ nhằm ca công tụng đức
nên các văn bia này cũng thường xen lẫn những phần khoa trương sáo rỗng. Tuy vậy, nếu bài văn được viết
bởi một số bậc danh bút, khi viết về đình chùa cầu chợ lại đồng thời miêu tả hình thế núi sông thắng cảnh, quy
mô kiến trúc, hoặc ca ngợi chính tích công nghiệp của một ai đó bằng văn bút tài hoa, có sắc thái, thì nhìn từ
góc độ nghệ thuật cũng có những giá trị nhất định. Trong lịch sử phát triển của loại văn bia này, có thể nói,
những văn bia đậm chất văn học nhất là các văn bia thời Lý.
Tuy văn bia công đức thời Lý còn lại không nhiều nhưng có khá nhiều bài xuất sắc như Bảo Ninh Sùng Phúc
tự bi của Lý Thừa Ân, Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh và Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh của Thiền
sư Pháp Bảo, Đại Việt Lý gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên linh tháp bi của Nguyễn Công Bật, Cổ Việt thôn Diên

Phúc tự bi minh của Nguyễn Công Diễm, Càn Ni sơn Hương Nghiêm tự bi minh (khuyết danh), Viên Quang tự
bi minh tính tự của Dĩnh Đạt, Báo Ân thiền tự bi của Ngụy Tư Hiền.
Những văn bia này tuy chỉ là ghi công đức xây dựng trùng tu chùa tháp, nhưng được viết rất công phu, thường
có kết cấu trên tự dưới minh. Bài tự thường bố cục làm ba phần: phần đầu là một đoạn văn ca ngợi Phật pháp,
tiếp đó là phần kể về thân thế sự nghiệp của người lập chùa, phần cuối tả lại quá trình xây dựng chùa và quy
mô chùa tháp. Chủ yếu viết bằng biền văn, đôi chỗ xen tản văn, văn viết bóng bảy đẹp đẽ, đối ngẫu chỉnh tề,
câu chữ sinh động, lại chủ ý đưa vào rất nhiều điển cố Phật giáo để tăng thêm sự trang trọng cho nội dung viết
về chùa tháp. Ngoài mục đích kể về sự kiện xây dựng hoặc trùng tu chùa tháp ra, những văn bia này khi luận
bàn về Phật pháp đều rất uyên thâm, khi viết về nhân vật đều rất kỹ lưỡng, còn khi miêu tả phong cảnh sơn
thủy, quá trình dựng chùa, quy mô chùa tháp đều vô cùng chi tiết và sinh động, rất giàu hình ảnh. Nhìn chung
toàn văn các văn bia này đều khá dài, linh hoạt chuyển từ đoạn nọ sang đoạn kia, đoạn đầu giống luận thuyết,
đoạn sau như bài ký, đoạn cuối tựa đọc phú, khá lôi cuốn. Xứng đáng là những giai phẩm văn chương.
Đặc biệt đáng chú ý ở thời kỳ này có bài Đại Việt Lý gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi của Nguyễn
Công Bật, có thể nói đây là một văn bia nổi tiếng trong loại văn bia công đức. Văn bia này kể về việc xây dựng
tháp Sùng Thiện Diên Linh để đặt xá lỵ Phật ở núi Đọi huyện Duy Tiên Hà Nam của vua Lý Nhân Tông. Bài
tự có kết cấu theo ba phần như đã nói ở trên. Đoạn đầu tuyên dương Phật pháp, lời lẽ sâu xa, đoạn sau ca ngợi
tài đức và kể về công nghiệp của đức vua, phần cuối kể lại quá trình xây dựng tháp và miêu tả toàn bộ tháp sau
khi hoàn thành. Đây là một văn bia công đức hoành tráng nhất từng được thấy. Đọc văn bia này như được đọc
một bài đại phú bởi quy mô và cách dùng từ đặt câu khoa trương diễm lệ cùng một lối văn biền ngẫu vô cùng
điêu luyện chuẩn mực. Văn bia thường coi trọng sự điển nhã cô đọng, nhưng ở bài này văn viết bay bổng, rất
giàu khí thế, thuyết lý sâu xa, ca tụng hết lời, miêu tả vô cùng chi tiết tỷ mỷ, có thể nói trong lịch sử văn bia
chưa có ai vượt qua được.
Đầu thời Trần các văn bia công đức vẫn theo phong cách văn bia thời Lý, trên tự dưới minh, bài tự vẫn phần
đầu ca ngợi phật pháp, phần sau ca ngợi sự nghiệp và công đức của người đứng ra xây dựng chùa, cuối cùng
nói về quá trình trùng tu tân tạo, như các bài Thiệu Long tự bi, Hưng Phúc tự bi, Sùng Khánh tự bi minh tính
tự… Về sau tuy vẫn trên tự dưới minh nhưng bài tự đơn giản dần không còn được viết công phu như trước,
chủ yếu ghi công đức, như các bia Sùng Thiên tự bi, ghi việc quan Binh bộ Lang trung Giang Văn hầu góp tiền
của xây dựng chùa, ghi rõ số ruộng đất cúng vào chùa, Đại Bi Diên Minh tự bi, ghi việc trùng tu chùa và công
đức của những người đóng góp, Cổ tích thần từ bi của Trương Hán Siêu ghi vắn tắt việc trùng tu miếu thành
hoàng. Rồi dần dần xuất hiện văn bia không có minh như văn bia Khai Nghiêm tự bi ký của Trương Hán Siêu,

bài văn này chỉ ghi lại lý do soạn văn bia, có nội dung như một bài luận thuyết phê phán đạo Phật.
Nhìn chung văn bia công đức thời Trần tuy vẫn phong phú về nội dung, cũng có nhiều bài viết hay, song
không còn mang tầm vóc về quy mô cũng như nghệ thuật của các văn bia thời Lý.
Từ khi nhà Lê nắm quyền trở về sau, Nho giáo dần chiếm vị trí độc tôn, khác với thời Lý - Trần, ở thời kỳ này,
song song với chùa chiền, đình miếu văn chỉ được xây dựng khắp nơi, do vậy văn bia công đức ở thời kỳ này
không chỉ ca ngợi Phật pháp mà bắt đầu phổ biến tán dương Nho đạo, triết luận về lý khí, về thiên nhân cảm
ứng, về tính mệnh, nhiều bài lại như một thiên luận thuyết về sự linh ứng của các vị thần, văn chương khúc
triết, triết lý sâu xa. Chẳng hạn ở bài Phật Tích sơn Hiển Thụy am bi, khi viết về sự kiện Thái úy Trinh Quốc
công, thân phụ của Trường Lạc Hoàng hậu đến am Từ Đạo Hạnh ở núi Phật Tích cầu tự cho con gái, khi bắt
đầu làm lễ, có một phiến đá bay lên rồi rơi xuống trước mặt như một điềm báo, Nguyễn Bảo đã vận dụng triết
luận về lý khí, về thuyết thiên nhân cảm ứng, để bàn luận:
“Sự cảm ứng giữa người và trời tinh vi lắm vậy thay! Bởi lẽ, chí đạt đến cực chí thì khí cũng đạt đến cực khí.
Khí đạt đến cực khí thì lý cũng đạt đến cực lý, đó chính là lý vậy! Bao trùm trời đất, thấu suốt cổ kim, không
bởi bày ra mới rực rỡ, không do che lấp mà tối tăm, nó tồn tại trong con người là ở sự cảm ứng trong tâm vậy.
Huống hồ, Thánh thiên tử có đức sáng từ nguồn xa, có may mắn từ tông tổ, các bậc đế vương ngày xưa chưa
từng có vậy. Nhớ lại trước kia, khoảng niên hiệu Thiệu Bình triều ta, Quang Thục Hoàng thái hậu mộng thấy
Ngọc đế trao cho một đứa trẻ, quả nhiên sinh ra Thánh Tông Thuần hoàng đế. Đến sau Trường Lạc Hoàng thái
hậu có điềm rồng vàng chui vào sườn bên tả mà sinh ra Thánh thượng hoàng đế. Điềm triệu chẳng phải ngẫu
nhiên mà xuất hiện, thiên mệnh vốn có gốc sâu nguồn xa! Trinh Quốc công hiểu biết tinh thông, thành tâm rất
mực, sự cảm ứng của đá thần há phải ngẫu nhiên sao! Vả lại u minh vô nhị lý, vật loại vốn nhất nguyên. Biểu
hiện ra trên trời là sao, chất ngưng trong đất là đá, nương theo con người mà vận hành là thần, giáng điềm lành
ở đức là người. Sự cảm ứng ở am Từ công là đá chăng? Là sao chăng? Là thần chăng? Là trời chăng? Là điềm
lành chăng? Là đức chăng? Điều này kẻ trí thức nông cạn há có thể hiểu được!”
Không chỉ vậy, văn bia công đức thời kỳ này do ảnh hưởng của thể ký, nhiều bài kể về quá trình suy tàn rồi
phục dựng của các đền chùa tuy không quy mô cầu kỳ như ở thời Lý - Trần, nhưng bù lại là lối viết gọn ghẽ
súc tích, miêu tả phong cảnh chùa miếu rành rành như vẽ, khắc họa được chân dung một số nhân vật lịch sử,
hoặc các vị thần khá ấn tượng, rất giàu cảm xúc. Tuy nhiên, từ sau khi nhà Lê Trung hưng cho đến hết thời
Nguyễn, số lượng văn bia công đức ngày càng nhiều nhưng tính nghệ thuật giảm dần, tính ứng dụng ngày càng
đậm nét, chủ yếu chú trọng ghi công đức. Thông thường bài ký thời kỳ này là một bài tản văn ngắn gọn, phần
ghi công đức kéo dài với tên họ của rất nhiều người cùng số tiền của đóng góp khá chi tiết. Bài ký thường có

kết cấu mở đầu bằng “Cái văn” (Hoặc “Cung văn”/kính nghe, “Thường vị”/thường nói) và kết thúc bằng
“Vĩnh truyền bất hủ”. Tuy vậy cũng có những văn bia do các Tiến sĩ, quan lại, Nho sinh, các nhà sư và những
trí thức có uy tín ở địa phương viết nên có nhiều bài ngoài giá trị sử liệu ra, cũng có những giá trị nhất định về
văn học.
Văn bia ghi việc
Văn bia ghi việc (ký sự) là loại văn bia được viết ra để ghi nhớ một sự kiện nào đó. Đây là loại hình văn bia rất
phổ biến, bao gồm văn bia Hậu thần, Hậu phật, Hậu hiền… lâu nay vẫn được gọi chung là văn bia Hậu, ngoài
ra còn có văn bia gửi giỗ, văn bia giao ước… Nhìn chung loại văn bia này mạnh về giá trị sử liệu, tính văn học
yếu. Tuy nhiên cũng không ít bài được viết rất hay bởi những bậc danh bút. (Do khuôn khổ tạp chí không cho
phép, chúng tôi xin bỏ qua phần này. Bạn đọc nếu quan tâm xin đọc bài Bia Hậu ở Việt Nam của tác giả in trên
Tạp chí Hán Nôm, số 3/2004).
Văn bia lăng mộ
Trong kho tàng văn bia nước ta, văn bia lăng mộ chỉ chiếm một số lượng khiêm tốn trong toàn bộ số lượng văn
bia hiện còn, song có nhiều giá trị về nghiên cứu lịch sử văn hóa.
Bia mộ thời cổ chia thành 2 loại là loại chôn dưới đất và loại dựng trên mặt đất. Loại chôn dưới đất gọi là Mộ
chí, loại dựng trên mặt đất gọi là Mộ bi, Lăng bi hay Thần đạo bi.
Mộ chí là một loại văn bia mộ có từ rất sớm, người ta khắc đá rồi chôn theo mộ để đánh dấu, đề phòng sự thay
đổi địa hình. Ở nước ta loại bia gọi là mộ chí không nhất thiết đều chôn theo mộ, tuy nhiên cũng đã phát hiện
một số mộ chí chôn theo mộ dưới hình thức bia hộp(4). Bài văn bia mộ của quan Thái phó Lưu Khánh Đàm
nhà Lý mang tên Hoàng Việt Thái phó Lưu quân mộ chí (niên đại 1161) cho đến nay vẫn được xem là bài văn
mộ chí có niên đại sớm nhất ở nước ta. Nhìn chung bia mộ chí ở nước ta không nhiều, hầu hết đều là của các
nhân vật có quan tước hoặc gia đình vọng tộc, như Bảo chưởng Thái bà mộ chí, Đại Việt Thái bảo Bình Lạc
hầu mộ chí, Tây Việt Quốc Thái phu nhân Nguyễn thị mộ chí, Phan Khê hầu mộ chí, Quận thượng chúa Lê thị
mộ chí, Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chí, Đại Việt Huy Từ Trang Huệ Kiến hoàng Thái hậu mộ chí, Gia
Thục công chúa chi mộ chí, Bàn Khê hầu mộ chí, Tiên khảo Thái bảo Giáp phủ quân mộ chí, Từ mẫn Nguyễn
công kỵ thất Hoàng thị chi mộ chí, Đại Nam Quảng Ninh công mộ chí minh…
Mộ chí thường không quá lớn, vì vậy một bài văn mộ chí thường không quá dài, thường thì đều phải có “chí”,
có “minh”, chí dùng tản văn, minh dùng văn vần. Thông thường bài chí (hoặc tự) ở trên kể về cuộc đời người
chết, bao gồm tóm tắt về thế hệ, tên họ, tước vị, hành trị, tuổi thọ, ngày mất và nơi chôn cất, bài minh ở dưới
có nội dung ca tụng tán dương người chết.

Văn bia mộ ra đời do yêu cầu của chế độ tang lễ thời cổ, do đó nội dung thường khô khan khuôn sáo. Tuy
nhiên trong trường hợp bài văn được một nhân vật danh bút viết thì tính văn học thường rất đậm đà. Các mộ
chí như Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chí do Quốc sử quán triều Lý soạn, Từ mẫn Nguyễn công kỵ thất
Hoàng thị chi mộ chí do Lương Thế Vinh viết, Quận Thượng chúa Lê thị mộ chí do Nguyễn Trực viết, đều là
những mộ chí viết hay, khắc họa được hình ảnh nhân vật.
Mộ bi, lăng bi hay thần đạo bi thường dùng để gọi loại bia đặt trước mộ. Loại bia này chắc chắn không hiếm
có ở thời Lý - Trần, song có lẽ đã bị tiêu hủy dưới thời thuộc Minh nên đến nay chỉ còn thấy có bia Cự Việt
quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tính tự là bia mộ của Thái úy Đỗ Anh Vũ nhà Lý (niên đại phỏng đoán là
1159) và bia Phụng Dương công chúa thần đạo bi (niên đại 1293) là bia thần đạo của Phụng Dương công chúa
- vợ Thái sư Trần Quang Khải nhà Trần. Từ thời Lê sơ trở về sau, bia lăng mộ, thần đạo khá phát triển. Bia
lăng lúc đầu chỉ thấy dùng cho các bậc đế vương hậu phi, về sau còn dùng cho cả các quan lớn đại thần, chẳng
hạn Nguyễn tướng công lăng bi ký (niên đại Chính Hòa 1699) là bia mộ của một viên Thái giám tước hầu. Bia
Thần đạo thì thời Lê sơ theo quy chế nhà Minh, quan tước từ tam phẩm trở lên mới được dùng, về sau hàng
thấp hơn cũng đều dùng được. Sở dĩ gọi là bia thần đạo là vì các nhà phong thủy thời cổ cho rằng, hướng đông
nam của phần mộ là “Thần đạo”, dựng bia ở trên thần đạo cho nên gọi là “thần đạo bi”. Về quy cách viết thì
không có gì khác nhau, nhìn chung các văn bia mộ này đều có kết cấu trên tự (hoặc ký) dưới minh. Bài tự chủ
yếu viết theo thể biền ngẫu, ghi lại cuộc đời người đã khuất và bày tỏ tình cảm nhớ tiếc hoặc ca ngợi người đó.
Bài minh gần như tóm tắt lại bài tự dưới hình thức tụng tán bằng vận văn tứ tự.
Có thể thấy văn bia mộ cổ bảo tồn được rất nhiều sử liệu quý giá về các danh nhân, vì vậy chúng có giá trị lịch
sử rất lớn. Song từ góc độ văn học mà xem xét, chúng cũng rất giàu tính văn học, nhiều bài viết khá hay, đặc
biệt quý ở chỗ khi viết tiểu sử người chết, người viết thường qua những chi tiết cụ thể để khắc họa nhân vật,
làm nổi bật lên tính cách của họ, sinh động như thật, đó thực sự là những thiên truyện ký nhân vật rất hấp dẫn.
Trên thực tế, phần lớn các văn bia mộ hiện còn đều là viết cho bia mộ của danh nhân và do những cây bút nổi
tiếng soạn, như Lam Sơn Vĩnh lăng bi - văn bia về Lê Lợi do Nguyễn Trãi viết; Khôn Nguyên Chí Đức chi
lăng - văn bia lăng Quang Thục Hoàng thái hậu do Nguyễn Bảo viết, Lam Sơn Dụ lăng bi - văn bia về vua Lê
Hiến Tông do các viên Đông các Học sĩ Nguyễn Nhân Thiếp, Phạm Thịnh, Trình Chí Sâm viết; Đại Việt Thụy
Hoa công chúa thần đạo bi - văn bia về công chúa Thụy Hoa con gái vua Lê Thánh Tông do Nguyễn Xung
Xác soạn; Tô Quận công thần đạo bi minh - tiểu sử Lê Quang Bí do Đỗ Uông viết; Dã Hiên tiên sinh mộ biểu -

×