Tải bản đầy đủ (.pdf) (211 trang)

Tìm hiểu việc cho, nhận con nuôi tại thành phố hồ chí minh hiện nay (điển cứu một số trung tâm bảo trợ xã hội, cơ sở xã hội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.18 MB, 211 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN CÔNG TÁC XÃ HỘI
--------------------------

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG NĂM 2010

Đề tài:

TÌM HIỂU VIỆC CHO, NHẬN CON NI
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
(Điển cứu: Một số trung tâm bảo trợ xã hội, cơ sở xã hội)

Người thực hiện: TS. Lê Hải Thanh
ThS. Nguyễn Thị Thanh Tùng
ThS. Nguyễn Thụy Diễm Hương

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012


PHẦN CHỈNH SỬA THEO YÊU CẦU CỦA HỘI ĐỒNG NGHIỆM
THU KẾT QUẢ ĐỀ TÀI

Theo kết quả nghiệm thu đề tài “Tìm hiểu việc cho, nhận con ni tại thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay” (điển cứu tại một số trung tâm bảo trợ xã hội, cơ sở
xã hội) vào ngày 19/07/2012, Hội đồng yêu cầu chỉnh sửa một số nội dung sau:
- Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu
- Bỏ lời cam đoan
- Chỉnh sửa câu hỏi nghiên cứu
- Làm rõ khung phân tích
- Thêm các khuyến nghị cụ thể


Nhóm thực hiện đề tài đã tiến hành bổ sung và chỉnh sửa theo yêu cầu của
Hội đồng.

Chủ tịch Hội đồng

Chủ nhiệm đề tài

TS. Đỗ Hạnh Nga

TS. Lê Hải Thanh


Table of Contents
TÓM TẮT TIẾNG VIỆT ...................................................................................... 1
TÓM TẮT TIẾNG ANH ....................................................................................... 4
PHẦN DẪN NHẬP .............................................................................................. 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ HƯỚNG TIẾP CẬN LÝ THUYẾT .......... 14
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 14
1.2. Các tiếp cận và lý thuyết ứng dụng ........................................................... 38
1.3. Các khái niệm có liên quan ....................................................................... 42
1.4. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................... 44
1.5. Khung phân tích ........................................................................................ 45
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ CHO NHẬN CON NUÔI HIỆN NAY
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..................................................................... 46
2.1. Khái qt chung tình hình cho nhận con nuôi hiện nay ............................. 46
2.2. Phác thảo một số đặc điểm của mẫu nghiên cứu ........................................ 66
2.3. Thực trạng cho nhận con nuôi tại các trung tâm bảo trợ xã hội, cơ sở xã hội
ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay .................................................................. 68
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ......................................................... 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 122

PHỤ LỤC ......................................................................................................... 125


1

TĨM TẮT TIẾNG VIỆT

Trẻ em ln là mối quan tâm hàng đầu của xã hội vì “trẻ em là tương lai của
đất nước”. Với ý nghĩa đó, cơng tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em – nhất là
trẻ em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn là việc làm không của riêng ai mà là trách
nhiệm của mọi cá nhân, gia đình, các cấp, các ngành và của toàn xã hội.
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên tham gia phê chuẩn Công
ước về quyền trẻ em năm 1990, từ đó đến nay Việt Nam đã đạt được một số tiến
bộ trong việc thực hiện quyền trẻ em. Song, vì nhiều nguyên nhân khách quan
khác nhau, vẫn còn nhiều trẻ em nghèo, trẻ em phải bỏ nhà đi lang thang kiếm
sống, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS và nhiều trẻ
em có hồn cảnh đặc biệt khác.
Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tính đến cuối năm
2009, Việt Nam số trẻ em có hồn cảnh đặc biệt (10 nhóm đối tượng theo Luật
Bảo vệ, Giáo dục và Chăm sóc trẻ em) là 1.537.179 em, chiếm 6,5% tổng số trẻ
em dưới 16 tuổi. Riêng trẻ em mồ côi (bị bỏ rơi) hoặc không nơi nương tựa là
129.578 trẻ, chiếm 68,46% trong tổng số trẻ có hồn cảnh đặc biệt. Cơng tác bảo
vệ trẻ em chuyển hướng từ tiếp cận dựa trên nhu cầu sang tiếp cận dựa trên quyền
của trẻ em. Tỷ lệ trẻ em có hồn cảnh đặc biệt được chăm sóc trong giai đoạn
2001-2010 tăng lên khoảng 70%. Tính đến cuối năm 2009 đã có 79,49% trẻ em
mồ cơi khơng nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi được chăm sóc dưới nhiều hình thức.
Cả nước hiện có 432 cơ sở bảo trợ xã hội, trong đó có trên 300 cơ sở chăm sóc trẻ
em đặc biệt khó khăn, cơ sở của Nhà nước là 190 (chiếm 60%).
Với mong ước tôn trọng quyền trẻ em, Việt Nam đã ban bố Luật Nuôi con
ni năm 2010 và phê duyệt đề án “Chăm sóc trẻ có hồn cảnh đặc biệt khó khăn

dựa vào cộng đồng đến năm 2020”. Gần đây nhất, ngày 7/12/2010, Việt Nam đã


2

ký kết công ước Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lãnh vực con nuôi
quốc tế và có hiệu lực kể từ ngày 1/2/2012.
Trong những năm qua việc giải quyết cho nhận nuôi con nuôi trong nước và
quốc tế đã thực hiện tương đối tốt, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp
luật. Việc thi hành pháp luật về ni con ni đã góp phần giúp cho nhiều trẻ em
có được mái ấm gia đình thay thế ở trong nước, được chăm sóc, ni dưỡng và
giáo dục tốt. Đồng thời, việc giải quyết nuôi con ni cũng góp phần quan trọng
bảo đảm cho nhiều người, đặc biệt phụ nữ đơn thân hoặc các cặp vợ chồng hiếm
con, được thực hiện quyền làm cha mẹ.
Tuy nhiên, từ thực tiễn thi hành pháp luật về nuôi con ni cịn cho thấy
những tồn tại, bất cập trong lĩnh vực này. Nhiều trường hợp nhận và nuôi dưỡng
trẻ em như con nuôi, nhưng không làm thủ tục đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền
do trình độ am hiểu pháp luật của người dân còn thấp, chưa nhận thức được tầm
quan trọng của việc đăng ký nuôi con nuôi, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp
pháp của trẻ. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong lĩnh vực
này còn yếu, chưa được quan tâm đúng mức nên chưa nâng cao nhận thức và ý
thức chấp hành pháp luật trong nhân dân; cán bộ làm công tác tư pháp - hộ tịch thì
chưa đủ về số lượng, chưa mạnh về chất lượng trong khi đó cơng việc của cán bộ
hộ tịch - tư pháp phải giải quyết thì khá nhiều. Cơng tác giám sát, quản lý con ni
của địa phương vẫn cịn yếu. Nhiều vấn đề này sinh như việc phân biệt đối xử giữa
con nuôi – con ruột; bạo hành thể chất, tinh thần và lạm dụng tình dục con ni;
lợi dụng việc nhận con nuôi để hưởng lợi cũng như buôn bán trẻ sơ sinh trá hình
dưới hình thức cho nhận con ni quốc tế...
Với khảo sát việc cho nhận con nuôi bằng phương pháp nghiên cứu định tính
ở một số trung tâm bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (trung tâm

công lập Nhà nước lẫn các cơ sở thuộc tôn giáo), đề tài đã phần nào khắc họa được
bức tranh toàn cảnh về thực trạng cho nhận con ni trong nước, con ni mang
yếu tố nước ngồi và những vấn đề nảy sinh đi kèm, đưa ra một số khuyến nghị


3

nhằm mong muốn vấn đề sẽ có sự kiểm sốt, quản lý tốt hơn nhằm đem tới lợi ích
cao nhất cho trẻ.


4

TÓM TẮT TIẾNG ANH

As “children are the future of the country”, they are always considered the
first concern of the society. In that sense, protection, care and education of
children - especially children in special difficult circumstances is the duty of all
individuals, families, and sectors in the society.
Vietnam is one of the first countries who signed the Convention on the
Rights of the Child in 1990. Since then Vietnam has achieved some progress in
implementing child rights. However, because of some objective reasons, there are
still many over vulnerable children who are poor or live on the street or infected
with HIV / AIDS.
According to the Ministry of Labour - Invalids and Social Affairs, at the
end of 2009, there were 1,537,179 children with special needs, equal to 6.5% of
children under 16 years old. Particularly, orphans, homeless and abandoned
children comprised of 129,578 or 68.46% of children with special circumstances.
The child protection moved from the need-based approach to right-based one. The
percentage of children with special circumstances who received care in the 20012010 period increased about 70%. By the end of 2009, 79.49% of orphaned,

homeless and abandoned children were provided with care in various forms. As up
now, there are 432 social welfare organizations in which 300 are for children.
Among them, the State-based organizations includes 190 or 60% of all.
In respect children’s rights, Vietnam also declared the Law on Adoption in
2010 and approved the project on “Community-based Care for over vulnerable
children to 2020". Recently, the Hague Convention on Protection of Children and
Co-operation in Respect of Intercountry Adoption entered into force in Vietnam
on February 1, 2012, following Vietnam's ratification on December 7, 2010.


5

In recent years, child adoption has been done relatively well in respect the
process and procedures prescribed by law. This helped many children get their
adoptive families, care, and education. At the same time, child adoption also
contributed to ensure the rights to become parents of many people, especially
single women or couples with no children.
However, in reality, there are still some problems regarding the matter of
adoption. In many cases, due to limited knowledge of law, adoptive parents did
not get official permission from the government. That affects the legal rights of the
children. Information provision of this matter remains inappropriate and uncared;
governmental officers in charge are still inadequate, overworked and do have
limited ability; monitoring and management of local authorities remain weak.
Therefore, there happened some problems such as discrimination against adopted
children; physical violence, mental and sexual abuse of children; international
child trafficking….
By investigating child adoption among some social centers in Ho Chi Minh
city (governmental, private and religious organizations as well), this qualitative
research gives a general picture on the real situation and problems of adoption in
and outside the country. At the same time, some recommendations are provided to

contribute to a better practice and management of child adoption


6


7

PHẦN DẪN NHẬP

1. Lý do chọn đề tài
Nuôi con nuôi là vấn đề nhân đạo sâu sắc, thể hiện tình yêu thương, tinh thần
trách nhiệm cao cả và mối quan hệ tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau giữa con
người với con người, là biện pháp tích cực giúp đỡ trẻ em khơng nơi nương tựa để có
mái ấm gia đình, được chăm sóc và phát triển trong những điều kiện tốt nhất.
Theo Báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội năm 2009, Việt Nam có
1.537.179 trẻ em có hồn cảnh đặc biệt (10 nhóm đối tượng theo Luật Bảo vệ, Giáo
dục và Chăm sóc trẻ em) chiếm 6,5% tổng số trẻ em dưới 16 tuổi. Riêng trẻ em mồ côi
(bị bỏ rơi) hoặc không nơi nương tựa là 129.578 trẻ, chiếm 68,46% trong tổng số trẻ
có hồn cảnh đặc biệt. Cơng tác bảo vệ trẻ em chuyển hướng từ tiếp cận dựa trên nhu
cầu sang tiếp cận dựa trên quyền của trẻ em. Tỷ lệ trẻ em có hồn cảnh đặc biệt được
chăm sóc trong giai đoạn 2001-2010 tăng lên khoảng 70%. Tính đến cuối năm 2009 đã
có 79,49% trẻ em mồ cơi khơng nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi được chăm sóc dưới
nhiều hình thức1, trong đó trẻ em được ni dưỡng tại các trung tâm bảo trợ xã hội,
được nhận làm con ni cũng như được chăm sóc thay thế tại các gia đình cả trong và
ngồi nước.
Việt Nam được xem là quốc gia có số lượng trẻ được cho làm con nuôi tương đối
lớn. Theo báo cáo của 55/64 Sở Tư pháp trên cả nước, tổng số trường hợp nuôi con
nuôi trong nước đã giải quyết trong giai đoạn 2003 - 2008 là 15.083 trẻ em2, số trẻ em
cho làm con ni nước ngồi từ năm 2002 - 2008 là 8.356 trẻ3. Năm 2009 có 1.064

trường hợp và 7 tháng đầu năm 2010 có 674 trường hợp trẻ em được giải quyết làm
con ni người nước ngồi4. Nhìn chung, số trẻ em được cho nhận làm con ni có xu
hướng ngày càng tăng. Theo nhận xét của Tổ chức Dịch vụ Xã hội quốc tế (ISS) thì
“trung bình, mỗi năm Việt Nam có ít nhất 1.000 trường hợp cho con nuôi quốc tế, gần
đây Việt Nam vẫn tiếp tục là nước thu hút nhiều nước khác như Ý và Pháp và là nước
1

Lê Thu Hà, Tình hình trẻ em có hồn cảnh đặc biệt và dự báo đến năm 2020, Tổng cục dân số kế hoạch hóa
gia đình, số 5 (122).
2
Bộ Tư pháp, Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành pháp luật về nuôi con nuôi (2003-2008)
3
Hervé Boécchat, Nigel Cantwel (ISS), Nhận con nuôi từ Việt Nam – những phát hiện và khuyến nghị của nhóm
chuyện gia đánh giá, 2009, trang 13.
4
Cục con nuôi


8

lớn thứ 5 hay thứ 6 về “nguồn” con nuôi”5.
Trong những năm qua, việc giải quyết cho nhận nuôi con nuôi trong nước và
con nuôi quốc tế đã thực hiện tương đối tốt, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của
pháp luật. Vấn đề nuôi con nuôi ở Việt Nam được quy định rải rác trong nhiều văn bản
pháp luật, từ đạo luật cơ bản có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp năm 1992, đến
Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000, các văn bản dưới
luật như Nghị định và Thông tư, và cao nhất là Luật Nuôi con nuôi được ban hành
ngày 17/6/2010 và có hiệu lực thực thi từ ngày 1/1/2011. Ngoài ra, trên phương diện
quốc tế, Việt Nam đã ký kết các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi song phương với
một số nước/vùng lãnh thổ như Pháp, Italia, Đan Mạch, Ailen (hết hiệu lực từ

01/5/2009), Thuỵ Điển (hết hiệu lực từ 01/5/2009), Thuỵ Sĩ, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
(hết hiệu lực từ 01/9/2008), Canada và một số tỉnh của Canada,... Bên cạnh đó, vào
ngày 7/12/2010, Việt Nam đã ký kết Công ước Lahaye năm 1993 về bảo vệ trẻ em và
hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế.
Việc ban bố các Luật cơ bản, tham gia Công ước quốc tế về con nuôi đã hỗ trợ
cho việc thi hành pháp luật về nuôi con ni, góp phần giúp cho nhiều trẻ em có được
mái ấm gia đình thay thế ở trong nước, được chăm sóc, ni dưỡng và giáo dục tốt.
Đồng thời, thơng qua việc giải quyết ni con ni, cũng góp phần quan trọng bảo
đảm cho nhiều người, đặc biệt phụ nữ đơn thân hoặc các cặp vợ chồng hiếm con, được
thực hiện quyền làm cha mẹ. Tuy nhiên, từ thực tiễn vẫn còn cho thấy những tồn tại,
bất cập trong lĩnh vực này. Nhiều trường hợp nhận và nuôi dưỡng trẻ em như con nuôi,
nhưng không làm thủ tục đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền do trình độ am hiểu pháp
luật của người dân còn thấp, chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc đăng ký
nuôi con nuôi, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các trẻ; công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong lĩnh vực này còn yếu, chưa được quan tâm
đúng mức nên chưa nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân;
cán bộ làm công tác tư pháp - hộ tịch thì chưa đủ về số lượng, chưa mạnh về chất
lượng; những vấn đề nảy sinh trên thực tế về con nuôi như lợi dụng hình thức cho
nhận con ni để bn bán trẻ sơ sinh, bạo hành thể xác, tinh thần và lạm dụng tình
dục đối với trẻ là con ni, nhận con ni với các mục đích trục lợi, hiện tượng đẻ

5

Hervé Boécchat, Nigel Cantwel (ISS) (2009), Sđd, trang 13.


9

th, bán con,... gióng lên hồi chng báo động về vấn đề đạo đức cũng như đảm bảo
các quyền lợi cơ bản cho trẻ.

Nhận thấy đây là một vấn đề khá bức xúc, liên quan trực tiếp tới quyền của trẻ
em – một trong những đối tượng nghiên cứu và hỗ trợ chính của ngành cơng tác xã
hội, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Tìm hiểu việc cho, nhận con ni tại thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay (điển cứu: một số trung tâm bảo trợ xã hội, cơ sở xã hội)”
với mục đích cố gắng đưa ra một bức tranh khái quát về thực trạng cho nhận con nuôi
hiện nay cũng như những hệ lụy, phát sinh trong q trình này, từ đó sẽ đề xuất một số
kiến nghị nhằm hỗ trợ tốt hơn cho công tác quản lý, giám sát của các cơ quan, ban
ngành có liên quan nhằm bảo vệ lợi ích cao nhất của trẻ em.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Tìm hiểu việc cho, nhận con ni tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu khái qt tình hình cho và nhận con ni hiện nay ở Việt Nam nói
chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Trong đó, bao gồm cả con ni trong
nước và con ni có yếu tố nước ngồi.
- Dựa trên cơ sở này, đề tài sẽ khảo sát thực trạng cho và nhận con nuôi tại một
số cơ sở xã hội thành phố Hồ Chí Minh (các trung tâm bảo trợ xã hội thuộc Nhà nước,
trung tâm nuôi dạy trẻ thuộc tổ chức tơn giáo): mục đích, nhu cầu, điều kiện cho và
nhận con nuôi, đối tượng cha mẹ và trẻ, cách thức giám sát và quản lý của cơ quan cho
con ni và chính quyền (tư pháp).
+ Các quy trình, thủ tục đối với cha mẹ ni là người Việt Nam
+ Các quy trình, thủ tục đối với cha mẹ ni có quốc tịch nước ngồi.
- So sánh q trình cho nhận con ni giữa các trung tâm bảo trợ xã hội thuộc
Nhà nước và các trung tâm nuôi dạy trẻ thuộc tổ chức tôn giáo (chùa, nhà thờ).
- Tìm hiểu những vấn đề nảy sinh của việc cho và nhận con ni cũng như cái
nhìn của cộng đồng về vấn đề này.


10


- Dựa trên các kết quả khảo sát, đề tài sẽ đề xuất một số kiến nghị và giải pháp
với các cơ quan quản lý, trung tâm bảo trợ, cơ sở xã hội nhằm có hình thức quản lý,
giám sát việc cho và nhận con nuôi một cách hiệu quả nhất, đảm bảo quyền lợi cho
những trẻ em, với mong muốn các em có một mơi trường gia đình nhằm phát triển bền
vững cả về thể chất lẫn tâm lý.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc cho, nhận con nuôi tại các trung tâm bảo trợ xã hội, cơ sở xã hội ở thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Giám đốc, cán bộ quản lý tại một số trung tâm bảo trợ xã hội thuộc quản lý của
Nhà nước
Giám đốc, người quản lý tại một số cơ sở xã hội thuộc tôn giáo
Nhân viên làm việc tại tổ chức cho con nuôi quốc tế
Cha mẹ cho con nuôi
Cha mẹ nhận con nuôi
Trẻ được cho làm con nuôi
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Các trung tâm bảo trợ xã hội, cơ sở xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh: thuộc
quản lý của Nhà nước và của tôn giáo.
4. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
4.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu đề tài “Tìm hiểu việc cho, nhận con ni tại thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay” có một ý nghĩa khoa học rất lớn.
Trước tiên, đề tài nghiên cứu chỉ ra việc vận dụng những kiến thức chuyên ngành
Xã hội học: Xã hội học gia đình, Giới và phát triển, Dư luận xã hội. Các kiến thức về
chức năng của gia đình, vai trị của gia đình trong xã hội hiện đại; sự phân biệt giới
tính trong chọn con cũng như tác động của quan niệm truyền thống; ảnh hưởng của dư



11

luận xã hội với các vấn đề nảy sinh của việc cho nhận con nuôi như buôn bán trẻ sơ
sinh. Bên cạnh, đề tài còn vận dụng kiến thức chuyên ngành Công tác xã hội: Công tác
xã hội với cá nhân (công tác với cha mẹ cho trẻ, cha mẹ nhận trẻ, trẻ được cho nhận
làm con nuôi), công tác xã hội trong lĩnh vực gia đình và trẻ em.
Thứ hai, những kết quả thu được trên cơ sở nghiên cứu thực nghiệm sẽ góp phần
làm phong phú thêm nguồn dữ liệu tham khảo, bổ sung hệ thống kiến thức chuyên
ngành xã hội học và công tác xã hội trong lĩnh vực cho và nhận con nuôi – một vấn đề
được xem là khá nhạy cảm với quan điểm của nhiều người.
Thứ ba, đối với xã hội học và công tác xã hội, vấn đề cho nhận con nuôi vẫn là
một lĩnh vực khá mới mẻ và chưa nhận được sự chú ý, quan tâm nhiều (trừ một số
nghiên cứu về luật của các nhà luật học với nội dung có liên quan). Vì vậy, thơng qua
những kết quả nghiên cứu bước đầu sẽ gợi mở những hướng nghiên cứu mới cũng như
các đề tài có liên quan tiếp theo.
Cuối cùng, đề tài cũng là một mảng tư liệu tham khảo cho những ai quan tâm và
muốn nghiên cứu trên những lĩnh vực tương tự hoặc liên quan.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trẻ em là một trong những nhóm đối tượng đã, đang và sẽ nhận được sự quan
tâm của toàn xã hội – đặc biệt đối với trẻ có hồn cảnh đặc biệt. Đối tượng nghiên cứu
của đề tài là “việc cho, nhận con ni” và khách thể chính là người quản lý các trung
tâm bảo trợ xã hội, cơ sở xã hội; những trẻ em và bố mẹ có liên quan. Với đa số trẻ
được cho làm con có hồn cảnh có vấn đề (bố mẹ ruột), vì vậy, với kết quả nghiên
cứu, đề tài mong muốn cung cấp cho các cơ quan (Cục con nuôi, Sở tư pháp, Phòng tư
pháp tại các địa phương, các cơ sở xã hội) những luận chứng thực tế để có thể phát
triển và hồn thiện Luật ni con ni cũng như có cơ chế giám sát, quản lý chặt chẽ
quy trình cho nhận và cuộc sống của trẻ sau này. Kết quả nghiên cứu cũng có thể làm
tư liệu ví dụ thực tiễn cho một số môn học trong chuyên ngành xã hội học như xã hội
học gia đình, giới và phát triển; công tác xã hội như công tác xã hội cá nhân, cơng tác
xã hội với gia đình và trẻ em, cơng tác xã hội với các nhóm dễ bị tổn thương.



12

5. Phương pháp
5.1. Phương pháp thu thập
- Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp
Các dữ liệu thứ cấp được đề tài thu thập từ những sách, báo, luận văn, bài viết
đăng trên tạp chí, các phương tiện truyền thơng… với những nội dung liên quan tới đối
tượng cho nhận con nuôi, các vấn đề xoay quanh việc cho nhận con nuôi, cũng như
những bất cập nảy sinh: sự lợi dụng cho nhận con nuôi để buôn bán trẻ sơ sinh, những
vấn đề gia đình có liên quan (bắt buộc phải có con trai để nối dõi, vấn đề vơ sinh do
yếu tố tự nhiên và xã hội).
- Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp
Để làm sáng tỏ các mục tiêu được nêu ra, đề tài tiến hành sử dụng phương pháp
phân tích định tính với cơng cụ phỏng vấn sâu. Đề tài sử dụng cách chọn mẫu chỉ tiêu
và mẫu thuận tiện.
Tiến hành phỏng vấn sâu 15 mẫu dựa trên các khách thể khác nhau có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu.
6 mẫu hiện đang là quản lý các cơ sở xã hội có cho nhận con ni, trong đó bao
gồm trung tâm bảo trợ xã hội thuộc Nhà nước và các cơ sở xã hội thuộc tôn giáo.
2 mẫu đã và đang làm việc trong các tổ chức cho nhận con ni có yếu tố nước
ngồi, tư vấn tại các bệnh viện.
3 mẫu là bố mẹ có nhận nuôi dưỡng con nuôi.
1 mẫu là bố mẹ cho con.
3 mẫu là trẻ đã, đang được nhận làm con ni có yếu tố nước ngồi và trong
nước.
5.2. Phương pháp xử lý dữ liệu
- Với những dữ liệu thứ cấp: tác giả tiến hành tóm tắt, sắp xếp các tư liệu thành
các nhóm ý phục vụ cho đề tài.



13

- Với dữ liệu sơ cấp (những cuộc phỏng vấn sâu): tác giả tiến hành gỡ băng, kết
hợp với những thông tin định lượng thu được làm rõ những vấn đề cần nghiên cứu và
được trình bày trong phần kết quả.
6. Kết cấu bài nghiên cứu
Đề tài gồm 3 phần chính: mở đầu, nội dung và kết luận
Phần mở đầu bao gồm: lý do chọn đề tài, mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu; đối
tượng – khách thể và phạm vi nghiên cứu; phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu; ý
nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
Phần nội dung chính gồm 3 chương, có kết cấu như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và hướng tiếp cận lý thuyết của đề tài
Chương 2: Thực trạng vấn đề cho, nhận con ni tại thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay
Phần kết luận bao gồm những nhận định dựa trên những thông tin thu được,
đồng thời đưa ra một vài khuyến nghị đối với các tổ chức, cơ quan chính quyền để có
những biện pháp nhằm quản lý việc cho nhận con nuôi chặt chẽ, cũng như hạn chế các
vấn đề tiêu cực nảy sinh.


14

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ HƯỚNG TIẾP CẬN LÝ THUYẾT

1.1. T ng quan tình hình nghiên c u
Nghiên cứu về gia đình và trẻ em là mối quan tâm lớn của các nhà khoa học

thuộc các lĩnh vực khác nhau như tâm lý học, xã hội học,… trong đó có cơng tác xã
hội. Vùng chủ đề này khá phong phú và đa dạng với các nội dung và hướng tiếp cận
khác nhau. Đặc biệt, cùng với sự phát triển của xã hội, kéo theo những biến đổi trong
đời sống gia đình, lĩnh vực này ngày càng thu hút sự quan tâm cũng như là vùng đất
mới cho các nhà nghiên cứu khai thác. Tuy nhiên, vấn đề cho nhận con ni và những
hệ lụy của nó như tình trạng lợi dụng việc cho con ni để buôn bán trẻ sơ sinh; trẻ
được nhận làm con bị bạo hành cả thể xác lẫn tinh thần, thậm chí cịn bị lạm dụng tình
dục; sự thiếu quan tâm cũng như trách nhiệm của cha mẹ nuôi đối với trẻ,… vẫn chưa
được các nhà nghiên cứu cũng như các nhà làm công tác thực tiễn quan tâm nhiều.
Tuy nhiên, với những bài báo, các phóng sự điều tra gần đây về vấn đề này, chứng tỏ
việc cho nhận con nuôi đang dành được sự quan tâm của xã hội.
1.1.1. Nghiên cứu ngoài nước
“Nurturing Attachment supporting children who are fostered or adopted”
(2008) của Kim S. Golding là một tác phẩm có sự kết hợp hài hòa giữa lý luận và thực
nghiệm. Cuốn sách với 239 trang, chia làm 3 phần, cung cấp nền tảng lý thuyết đi đôi
với phương cách thực hiện vai trị làm cha mẹ của những người có con nuôi.
Trong phần 1 của tác phẩm, tác giả giới thiệu tổng quan lý thuyết tương tác. Học
thuyết này cho thấy những ảnh hưởng của những tương quan đầu đời trên đời sống của
trẻ thơ ra sao. Những kinh nghiệm mất mát, biệt ly, đau buồn có những tác động rất
lớn đến quá trình phát triển tâm sinh lý của trẻ và tạo ra những kiểu tương tác lệch lạc,
tiêu cực nơi trẻ là con nuôi. Trẻ được nhận nuôi sẽ đem những mảng tối này vào và tạo
ra những thách thức cho gia đình nhận ni mình.


15

Phần 2, tác giả đưa ra một mơ hình kiểu mẫu huấn luyện cách thức làm cha mẹ
cho những người nhận con ni. Mơ hình này bảo đảm tạo ra một mơi trường sống an
tồn, thấu cảm, nâng đỡ trẻ. Chính trong mơi trường này, những đứa con ni mất
qn bình về mặt tâm sinh lý sẽ có thể bộc lộ cảm xúc vui buồn, giận dữ… thật của

mình để rồi được chữa lành, cảm thấy được yêu, được thuộc về gia đình.
Trên cơ sở những phân tích này, trong phần 3, tác giả đúc kết và chỉ ra những
phương cách giúp cha mẹ nuôi xây dựng cách thức tương quan tích cực đối với con
ni và làm thế nào để giúp trẻ quản lý được các hành vi lệch lạc của mình. Tác giả
khẳng định rằng chỉ có thể có được mối quan hệ tốt với trẻ khi cha mẹ giúp trẻ cảm
thấy mình là một phần của gia đình, một thành viên bình đẳng trong nhà. Cũng dựa
trên sự cảm nhận này, cha mẹ mới có thể dạy cho trẻ điều chỉnh, thay đổi những hành
vi lệch lạc hay tiêu cực như nói dối, ăn cắp, tự hủy hoặc mình, tự tử…..
Với những kết luận được đúc kết từ nghiên cứu thực tiễn, cộng với việc áp dụng
lý thuyết để phân tích và giải thích các hành vi nới trẻ được nhận làm con nuôi, cuốn
sách là tư liệu quý để người làm đề tài có thể vận dụng phân tích một số những biểu
hiện lệch lạc ở trẻ cũng như sự phát triển về tâm lý, nhân cách của trẻ khi trưởng
thành. Điều này cũng được áp dụng để giải thích một số trường hợp trong mẫu phỏng
vấn khi trẻ tỏ ra có thái độ gây hấn, bỏ nhà ra đi khi phát hiện mình là con nuôi cũng
như so sánh cách dạy dỗ, quan tâm, đối xử của một số cha mẹ đối với con nuôi và con
ruột.
Andrew Adesman trong “Parenting your adopted child – a posictive approach
to building a strong family” (2004) đã cung cấp những kiến thức nuôi dạy con nuôi cơ
bản và phổ biến, trình bày cách thức ni dạy trẻ là con nuôi ở các lứa tuổi khác nhau:
từ sơ sinh đến tuổi bắt đầu cấp sách đến trường, tuổi vị thành niên và những định kiến
thường có về chuyện con ni và cha mẹ ni. Bên cạnh đó, tác giả cũng cảnh báo
một số kiểu tư vấn sai lầm cho cha mẹ nuôi cũng như những sai phạm các bậc cha mẹ
thường mắc phải khi nuôi dạy con nuôi và cách thức để tránh những sai lầm này.
Tác phẩm cũng để cập tới những mối liên kết, gắn bó, và tương quan trong gia
đình có con ni. Riêng chương 10 tập trung những nghiên cứu mới nhất cho thấy các
vấn đề thường gặp trong tương quan giữa con cái với nhau trong gia đình có con ni.


16


Không chỉ bàn về mặt lý luận cũng như phân tích kết quả thực nghiệm, trong tác
phẩm này, tác giả cịn đưa ra những ví dụ cụ thể với một vài mẫu đối thoại điển hình
giữa cha mẹ ni và con nuôi; giữa cha mẹ nuôi với người khác nhằm giải thích rõ hơn
cách thức lý giải chuyện con ni cho trẻ và cho người khác.
Trên cơ sở những bàn luận ở trên, phần cuối cùng tác giả đưa ra những vấn đề
đặc biệt như y tế, bệnh tật, tình trạng khuyết tật của trẻ cũng như các vấn đề liên quan
đến nhận con ni nước ngồi, hay khác chủng tộc. Và chỉ ra các cách thức để đối phó
những vấn đề cảm xúc của trẻ.
Rõ ràng với nghiên cứu mang tính chất thực nghiệm có sự ứng dụng vào thực
tiễn, tác phẩm là cuốn sách hay cho đề tài khi áp dụng vào các trường hợp cụ thể và
đưa ra những nhận xét, lý giải dưới góc độ tâm lý, hành vi phù hợp cho một số vấn đề
xảy ra giữa cha mẹ và con nuôi trong thực tiễn (bao gồm cả con nuôi người Việt Nam
và con nuôi có yếu tố nước ngồi).
“Ni con ni quốc tế tại Pháp” của bộ phận con nuôi quốc tế Pháp (người
dịch Đỗ Hữu Lộc, phiên dịch đại sứ quán Pháp tại Hà Nội) là tổng hợp tất cả các thông
tin liên quan đến vấn đề con nuôi quốc tế tại Pháp, bao gồm: cơ cấu, nhiệm vụ của bộ
phận nuôi con nuôi quốc tế (SAI) một cách cụ thể, rõ ràng; các văn bản pháp luật hiện
hành công khai (cả quốc tế lẫn trong nước) như công ước quốc tế về quyền trẻ em
ngày 10/11/1989, công ước Lahaye ngày 29/5/1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong
lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế; các bộ luật dân sự và bộ luật về hoạt động xã hội và
gia đình: luật số 2005-744 về cải cách lĩnh vực con nuôi, nghị định số 2006-981 về
việc chấp thuận cho nhận trẻ được nhà nước giám hộ hay trẻ em nước ngoài làm con
nuôi, các điều từ R225-12 đến R225-46 của bộ luật hoạt động xã hội và gia đình về
các tổ chức được nhận nuôi con nuôi quốc tế,.... Bên cạnh, tài liệu còn giới thiệu các tổ
chức hiện nay ở Pháp được phép nhận con nuôi quốc tế (OAA) bên tổ chức chính là cơ
quan ni con ni Pháp (AFA) với các yêu cầu về thủ tục hành chính đăng ký và 6
nhiệm vụ cơ bản của mình: chuẩn bị hồ sơ và tư vấn lập hồ sơ, thông tin về các khía
cạnh kỹ thuật và pháp lý của q trình nuôi con nuôi, cùng với các cơ quan nước gốc
xác định phương thức lựa chọn gia đình cho trẻ nhận làm con nuôi, chuyển hồ sơ
người xin nhận con nuôi tới cá nhân hay cơ quan có thẩm quyền quyết định về ni

con ni, theo dõi bảo đảm quy trình theo đúng luật pháp hiện hành, hỗ trợ gia đình


17

sau khi trẻ được nhận làm con ni. Ngồi các cơ quan đã kể ở trên, trong cơ cấu của
còn có các hiệp hội cha mẹ ni và con ni – mặc dù khơng có giấy phép hoạt động –
nhưng với kinh nghiệm thực tiễn của mình tham gia đóng góp vào chiến lược ni con
ni quốc tế, hỗ trợ bộ phận ni con ni quốc tế.
Về mặt kinh phí, cơ quan nuôi con nuôi quốc tế nhận được những khoản trợ cấp
nhằm bảo đảm hoạt động của mình với các dự án hợp tác thể chế. Bên cạnh đó, cơ
quan này cịn có một hệ thống mạng lưới các tình nguyện viên với nhiệm vụ bảo vệ trẻ
em và trẻ em được nhận làm con ni quốc tế.
Có thể thấy rằng, so với một số nước, Pháp có một hệ thống luật pháp và quy
định rõ ràng và chặt chẽ về vấn đề con ni, trong đó con ni quốc tế rất được chú
trọng. Việc theo dõi, hỗ trợ trẻ và các gia đình nhận ni tn theo một quy chế nhất
định dưới sự hỗ trợ của các tổ chức xã hội. Rõ ràng khi đối chiếu với quá trình cho
nhận con ni ở Việt Nam sẽ thấy những điều cần học hỏi và chỉnh sửa cho phù hợp
với điều kiện kinh tế - văn hóa – xã hội của nước ta. Tài liệu sẽ giúp tác giả trong quá
trình tìm hiểu quy trình thủ tục, pháp lý cho nhận con ni tại Việt Nam và có sự lý
giải cho những vấn đề còn tồn tại.
Với 5 nhận xét được rút ra từ một cuộc khảo sát, đánh giá của Tổ chức Dịch vụ
xã hội quốc tế (ISS) tiến hành năm 2009, “Nhận con nuôi từ Việt Nam – những phát
hiện và khuyến nghị của nhóm chuyên gia đánh giá” là một ấn phẩm rất bổ ích cho
bất cứ ai khi muốn tìm hiểu về vấn đề cho nhận con nuôi quốc tế tại Việt Nam. Với 7
nội dung chính, bao gồm: bối cảnh ni con ni tại Việt Nam, những lĩnh vực chính
liên quan đến các hình thức chăm sóc thay thế, những vấn đề chính liên quan đến nuôi
con nuôi, đặc điểm của con nuôi Việt Nam được người nước ngồi nhận ni, ảnh
hưởng của nhân tố nước ngồi trong việc nhận con ni, vấn đề pháp lý và những
nhận xét chính cung cấp cho người đọc những điểm chính trong vấn đề ni con ni

quốc tế tại Việt Nam. Đây là một khảo sát, đánh giá độc lập được thực hiện dưới sự
chấp thuận của Cục con nuôi thuộc Bộ Tư pháp và tổ chức UNICEF với mục đích
những kết quả này sẽ hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong q trình chuẩn bị tham gia
Cơng ước Lahaye 1993 về nuôi con nuôi quốc tế, xem xét dự thảo Luật Nuôi con nuôi
mới và đưa ra đề xuất thay đổi cần thiết để thực hiện tốt và phù hợp với chuẩn mực
quốc tế. Các thông tin cơ bản được đúc kết và rút ra với 5 nội dung chính: 1. Mức độ


18

và tính chất của ni con ni quốc tế ở Việt Nam chủ yếu bị ảnh hưởng bởi nhu cầu
từ nước ngồi. Do vậy, số lượng trẻ em có thể cho làm “con nuôi” tương ứng với số
lượng cha mẹ ni tiềm năng ở nước ngồi lớn hơn nhu cầu thực tế của những đứa trẻ
bị “bỏ rơi” và trẻ mồ cơi. Vì vậy, hầu hết số trẻ được nhận làm con nuôi là dưới 1 tuổi,
độ tuổi mà phần lớn cha mẹ ni mong muốn. Do chỉ có rất ít và ngày càng ít các
“nước cho con nuôi” đang cho phép trẻ em ở độ tuổi này “được nhận ni” ở nước
ngồi, các tổ chức ni con ni quốc tế sẵn sàng chấp nhận các điều kiện do Chính
phủ Việt Nam quy định để xin con ni. Cũng có rất nhiều áp lực từ nước ngoài đối
với Việt Nam để Việt Nam tiếp tục là “nguồn cung cấp” con ni là trẻ rất nhỏ tuổi; 2.
Hồn cảnh trẻ nhỏ được “cho làm con nuôi” không rõ ràng và thiếu chính xác. Những
cơng bố về sự việc “trẻ bị bỏ rơi”, vốn đã được biết đến là khó điều tra, diễn ra thường
xuyên một cách đáng ngạc nhiên, và không giải thích về “cao điểm khi có nhiều trẻ bị
bỏ rơi” và “trầm xuống khi có ít trẻ bị bỏ rơi”. Thủ tục xác minh thực trạng đứa trẻ, và
những vấn đề khác để đảm bảo có sự tự do và sự đồng ý trước khi làm con nuôi là
không phù hợp và thiếu nhất quán. Việc ra quyết định về đứa trẻ có đủ điều kiện để
làm con ni quốc tế khi khơng cịn giải pháp nào trong nước (kể cả quay trở về với
gia đình của trẻ) dường như khơng xem xét đến tính chất phụ trợ của con ni quốc tế,
với rất ít hoặc hầu như khơng có sự cố gắng để xác định nhu cầu thực sự của đứa trẻ
hoặc để tìm ra cơ hội chăm sóc ở trong nước; 3. Quy trình ni con ni quốc tế bị
ảnh hưởng bởi mối quan hệ không lành mạnh có thể tồn tại giữa các tổ chức con nuôi

và các cơ sở nuôi dưỡng tập trung. Vấn đề này liên quan đến các khoản đóng góp bắt
buộc và tương đối lớn từ các tổ chức dưới hình thức “viện trợ nhân đạo” cho các cơ sở
nuôi dưỡng mà bản thân họ thấy là “đối tác” tiềm năng cho nuôi con nuôi quốc tế
(ICA). Vấn đề “viện trợ nhân đạo” dường như quan trọng hơn nhiều so với việc đảm
bảo rằng chỉ coi nuôi con nuôi quốc tế như một biện pháp ngoại lệ cho từng trường
hợp cụ thể. Các tổ chức cạnh tranh nhau để đón được trẻ và thường kỳ vọng rằng trẻ sẽ
được “giới thiệu” cho họ để làm con nuôi quốc tế theo giá trị viện trợ nhân đạo mà họ
cung cấp. Hầu như không có hoặc có rất ít việc giám sát hoạt động của các tổ chức
này, và bản thân tổ chức của họ hoặc cơ sở nuôi dưỡng mà họ cùng làm việc khơng có
động cơ gì để giải quyết hoặc thơng báo các vấn đề bởi vì phương thức hoạt động của
hệ thống hiện thời đều có lợi cho cả hai bên; 3. Chính phủ và Cơ quan trung ương của
“nước nhận ni” nói chung và trong một số trường hợp nói riêng – khơng hồn tồn


19

cam kết áp dụng những nguyên tắc cơ bản của Công ước Lahaye ngày 29/5/1993 về
Bảo vệ Trẻ em và Hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế (THC-93), họăc những đề
xuất của Ủy ban đặc biệt về việc áp dụng các điều ước khi giải quyết vấn đề con ni
Việt Nam. Vì vậy họ đã gửi những thơng điệp đan xen và khơng giúp ích gì cho việc
chấp nhận hệ thống hiện thời. Những thông điệp này dường như làm giải tỏa bớt
những áp lực trong nội bộ nước họ thay vì xử lý những vấn đề nảy sinh. Trong hầu hết
các trường hợp, các Đại sứ quán hầu như không nắm được hoạt động của các tổ chức
con ni của nước họ, ngồi việc xác nhận sự tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về con
nuôi đối với nước họ; 4. Việc Việt Nam mong muốn sớm tham gia Cơng ước Lahaye
1993 là dấu hiệu tích cực. Việc này địi hỏi khơng chỉ có sự thay đổi về hệ thống pháp
lý mà Việt Nam đã biết trước, mà cịn thay đổi cơ bản về cách nhìn, đặc biệt là sự xố
bỏ hồn tồn “viện trợ nhân đạo” hoặc những đóng góp khác về tài chính và ni con
nuôi quốc tế chỉ là biện pháp cho những đứa trẻ thực sự có nhu cầu. Sự thành cơng của
những cố gắng này khơng chỉ phụ thuộc vào chính Việt Nam mà còn phụ thuộc vào sự

sẵn sàng và khả năng của các tổ chức nước ngoài, các tổ chức cung cấp viện trợ tích
cực, trong đó có cả việc phát triển các biện pháp bảo vệ phúc lợi trẻ em, các hệ thống
bảo vệ trẻ em có hiệu quả dựa trên chiến lược phi tập trung hóa và mở rộng các hình
thức chăm sóc thay thế cho những trẻ có nguy cơ. Trong q trình tìm hiểu việc cho
nhận con nuôi tại các cơ sở xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh – nhất là mảng con ni
có yếu tố nước ngoài – ấn phẩm sẽ giúp tác giả rất nhiều trong đánh giá, nhìn nhận vấn
đề.
“Choosing Vietnam addoption” của Jackie Harrah trên tạp chí Addoption Today
(04-05/2007) chia sẻ về những nguyên nhân mà một cặp vợ chồng quyết định nhận
con nuôi. Mong muốn xây dựng một gia đình với những đứa trẻ khơng thể thực hiện
được do bị vơ sinh, sự mệt mỏi vì phải điều trị lâu dài cùng với chi phí tài chính tốn
kém,… là ngun nhân chính. Những bậc cha mẹ này có thể nhận con nuôi trong nước
hoặc con nuôi quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay, số người nhận con nuôi quốc tế có xu
hướng tăng và nhu cầu ngày càng nhiều, xuất phát từ nhiều lý do, trong đó có sự
nghiêm khắc, quy định chặt chẽ cũng như thủ tục rắc rối khi nhận con trong nước.
Trong những năm trước đây, Việt Nam trở thành sự lựa chọn phổ biến cho những
tổ chức nhận con nuôi ở Mỹ, nhất là sau khi có hiệp định ký kết giữa hai chính phủ về
vấn đề con nuôi. Những công dân Mỹ cũng mong muốn tìm cho mình một đứa con


20

phù hợp để xây dựng tổ ấm. Thông thường họ thực hiện ý định này qua các tổ chức
con nuôi được cấp phép hoạt động. Giải thích vì sao lại chọn con nuôi là người Việt
Nam, tác giả cho rằng hầu hết trẻ ở đây đều khỏe mạnh về sức khỏe và rất xinh đẹp;
bên cạnh đó là sự tạo điều kiện về thủ tục của Chính phủ trong nước.
Jackie Harrah mơ tả khá kỹ về hồn cảnh cũng như xuất thân của những trẻ em
Việt Nam được cho làm con nuôi. Đa số các em được sinh ra trong gia đình nghèo
hoặc khơng có điều kiện và ở các vùng nghèo nàn, lạc hậu. Các em được cha mẹ gửi
vào các trung tâm, cơ sở xã hội. Bên cạnh, tác giả cũng đưa ra sự so sánh giữa Việt

Nam và Trung Quốc về mảng con ni quốc tế. Ngồi ra, bà cũng tóm tắt một số
những thơng tin cơ bản về yêu cầu thủ tục pháp lý, đối tượng trẻ được cho và đối
tượng cha mẹ được phép nhận con. Có thể nói, đây là một bài viết khá hay, cung cấp
một bức tranh toàn cảnh về trẻ được cho làm con ni Việt Nam, qua đó làm nổi bật lý
do tại sao nhiều cặp vợ chồng tại Mỹ muốn nhận con nuôi tại quốc gia này? Bài viết sẽ
hỗ trợ cho đề tài trong quá trình tiếp cận thực tế tìm hiểu các quy trình cũng như yêu
cầu về trẻ và cha mẹ khi được cấp phép làm con nuôi và cha mẹ nuôi, cũng như các
vấn đề nảy sinh nếu có.
“Addoption in Vietnam – then and now” (tạp chí Addoption Today tháng 0405/2007) được viết bởi Heidi Gonzalez – một người làm việc trong chương trình hợp
tác với tổ chức con nuôi của Mỹ “addoption from the heart” hoạt động tại Việt Nam.
Bài viết là sự đúc kết và phân tích, nhìn nhận trên kinh nghiệm thực tế trong q trình
cơng tác của tác giả.
Kể từ khi Việt Nam mở cửa lại chương trình hợp tác cho nhận con nuôi với Mỹ
vào năm 2006, đã tạo cơ hội cho nhiều gia đình người Mỹ qua thăm, tìm hiểu và nộp
hồ sơ xin nhận con nuôi. Mặc dù trước đó (thời điểm 2003-2006), chương trình con
ni chưa được mở giữa hai quốc gia thì vẫn có rất nhiều cặp cha mẹ đăng ký nộp hồ
sơ và chờ đợi. Sự mở cửa, hợp tác trở lại trong chương trình con ni cùng với sự
hồn thiện trong quản lý thủ tục hành chính, giám sát của chính phủ Việt Nam chứng
tỏ sự phát triển cũng như nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của vấn đề.
Có rất nhiều tổ chức nhận con nuôi tại Mỹ tiến hành đặt trụ sở tại Việt Nam và
hoạt động. Đa số nguồn con nuôi là ở các trung tâm, cơ sở bảo trợ xã hội. Để có được
sự hỗ trợ cũng như tạo điều kiện về nguồn trẻ, cũng như bảo đảm sự hợp tác, các tổ


21

chức – theo yêu cầu của chính phủ - phải cung cấp, sửa chữa lại hệ thống cơ sở vật
chất tại các trung tâm như xây dựng nhà tắm, nhà vệ sinh, nhà bếp,… nhằm phục vụ,
đảm bảo cho cho sinh hoạt của trẻ em ở đây.
Bên cạnh đó, để có thể nhận được con thì các cặp vợ chồng cũng như các tổ chức

con nuôi phải đảm bảo yêu cầu về thủ tục pháp lý của cả hai chính phủ. Sự giám sát
sau khi nhận con (6 tháng gửi báo cáo cho Cục con nuôi) hoặc sàng lọc trước khi nhận
con cũng được quy định rõ ràng.
Mặc dù bài viết được hồn thành trước khi có Luật Ni con nuôi của Việt Nam
ban hành, nhưng rõ ràng với những thông tin cơ bản, sẽ cung cấp cho đề tài cái nhìn
thực tiễn về vấn đề cho con ni trên bình diện quốc tế tại các cơ sở bảo trợ xã hội,
cũng như những vướng mắc, tồn tại về thủ tục pháp lý, cơ chế quản lý, giám sát gia
đình sau khi nhận trẻ.
“Adopting in China: a practical guide/ an emotional journey” (1999) của
Kathleen Wheeler và Dough Wener với 141 trang, chia làm 7 chương hướng dẫn
những cha mẹ muốn nhận con nuôi những sự chuẩn bị cũng như các thủ tục khi tiến
hành nhận con nuôi tại Trung Quốc – một quốc gia có số lượng trẻ cho làm con ni
quốc tế khá lớn trên thế giới. Mục đích của các tác giả là mong muốn mang đến những
miêu tả ngắn gọn, khái quát về vấn đề nhận con ni tại Trung Quốc, đất nước mà nơi
chính họ đã nhận ni đứa con gái của mình.
Bằng những trải nghiệm thực tế, Kathleen và Dough đã đưa ra các thông tin thực
sự bổ ích như trước khi nhận con ni, các bậc cha mẹ phải xét đến 4 yếu tố trước khi
quyết định có nên nhận hay khơng (cha mẹ có thật sự mong muốn có một đứa trẻ hay
khơng?, những lý do tốt để nhận nuôi một đứa trẻ và những lý do không tốt, những vấn
đề khi nhận con ni trên bình diện quốc tế, những vấn đề khi nhận con ni ở Trung
Quốc); chi phí mà cha mẹ phải chi trả cho các tổ chức trung gian, Chính phủ khi nhận
một đứa trẻ; các thủ tục hành chính khi tiến hành nhận con; sự chuẩn bị cho một cuộc
sống mới khi gia đình có thêm thành viên là một đứa trẻ; những trải nghiệm của bậc
cha mẹ khi tới Trung Quốc và lần đầu thấy trẻ. Và cuối cùng là những trải nghiệm,
những suy nghĩ của cha mẹ sau 1 năm khi nhận trẻ về gia đình. Mặc dù đây chỉ là một
cuốn sách tương tự như hồi ký, ghi chép lại những gì đã trải qua, khơng mang tính lý
luận cũng như phân tích dưới góc độ tâm lý về mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con


22


nhưng đã mang tới cho người đọc những hướng dẫn cần thiết và các thông tin cơ bản
cho bất kỳ cha mẹ nào muốn nhận nuôi con, sự chuẩn bị về tinh thần, về tâm lý, tiền
bạc và sức khỏe trước khi quyết định nhận con. Tài liệu sẽ giúp cho đề tài trong quá
trình tìm hiểu những mặt được cũng như những khó khăn mà cha mẹ ni sẽ gặp trong
quá trình tác giả tìm hiểu mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con cũng như các vấn đề
nảy sinh trong cuộc sống của trẻ sau khi được nhận. Tài liệu cũng hỗ trợ cho đề tài
trong việc xem xét cơ chế giám sát, quản lý việc cho nhận con ni mang tính chất
quốc tế.
Cơng nhận rằng để phát triển hài hoà và toàn diện nhân cách của mình, trẻ em
cần phải được lớn lên trong mơi trường gia đình, trong bầu khơng khí hạnh phúc, u
thương và cảm thông; Nhắc lại rằng mỗi quốc gia cần phải ưu tiên tiến hành các biện
pháp thích hợp để trẻ em có thể được chăm sóc trong gia đình gốc của mình; Cơng
nhận rằng vấn đề con ni quốc tế có thể có lợi thế là đem lại một gia đình lâu dài cho
những trẻ em khơng tìm được một gia đình thích hợp tại nước gốc của mình; Tin tưởng
vào sự cần thiết phải áp dụng những biện pháp nhằm bảo đảm để thực hiện việc nuôi
con nuôi quốc tế vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, tơn trọng các quyền cơ bản của trẻ em
và để ngăn chặn việc bắt cóc, bán hoặc bn bán trẻ em; Mong muốn thiết lập các quy
định chung vì mục đích đó, có tính đến các ngun tắc được cơng nhận trong các văn
kiện pháp lý quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em ngày
20-11-1989 và Tuyên bố của Liên hợp quốc về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên
quan đến việc bảo vệ và phúc lợi trẻ em, Chỉ dẫn đặc biệt về việc bảo trợ, nuôi con
nuôi trong nước và nước ngoài là các điều mà tất cả các nước khi tham gia vào đều
đồng ý ký kết trong nội dung “Công ước Lahaye số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác
trong lĩnh vực con nuôi quốc tế”.
Với 13 trang, 7 chương và 48 điều, công ước Lahaye trình bày rõ ràng, cụ thể
từng vấn đề có liên quan trong bảo vệ trẻ em cho nhận làm con nuôi, đảm bảo các
quyền lợi đầy đủ, tạo điều kiện cho trẻ có một cuộc sống đầy đủ, lành mạnh về vật chất
và nhân cách. Tài liệu sẽ hỗ trợ cho đề tài trong quá trình khảo sát trên thực tế, phân
tích trong bài viết, đối chiếu với luật con ni Việt Nam, cũng như tìm hiểu những ký

kết trong việc cho nhận con nuôi giữa các quốc gia (hiện đang thực hiện và cả những
quốc gia đang gián đoạn, chờ đợi ký kết lại chương trình này).


×