Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết với việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 138 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----o0o-----

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LAM

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT VỚI VIỆC PHÁT HUY
SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN
TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----o0o-----

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LAM

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT VỚI VIỆC PHÁT HUY
SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN
TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN ANH QUỐC

TP. HỒ CHÍ MINH – 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Nội
dung luận văn chưa từng được ai cơng bố trong bất kì cơng trình
nghiên cứu nào.

Người cam đoan:

Nguyễn Thị Phương Lam


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG NỘI DUNG
CƠ BẢN TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT CỦA HỒ CHÍ MINH .................10
1.1 NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐỒN KẾT CỦA
HỒ CHÍ MINH .............................................................................................10
1.1.1 Điều kiện lịch sử - xã hội với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đồn kết ..............................................................................................10
1.1.2 Truyền thống đoàn kết, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân
tộc Việt Nam cho sự hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đồn
kết. ................................................................................................................17
1.2 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ

MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT ........................................................................25
1.2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục đích, vai trị của đại đồn kết .........25
1.2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng và phát huy khối đại
đoàn kết toàn dân. .........................................................................................37
Chương 2: Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐỒN KẾT CỦA HỒ CHÍ
MINH VỚI VIỆC PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN
DÂN TỘC TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY.................................................................................................................62
2.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY SỨC
MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. ...62
2.1.1 Tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện
nay ................................................................................................................62


2.1.2 Sự liên minh cơng nhân, nơng dân, trí thức trong sự nghiệp đổi mới
ở Việt Nam hiện nay. ....................................................................................71
2.1.3. Vấn đề dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam hiện nay .................................76
2.2 BÀI HỌC LỊCH SỬ TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI
ĐỒN KẾT VỚI VIỆC PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................87
2.2.1 Những phương hướng cơ bản về xây dựng và phát huy khối đại
đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam .................................................................87
2.2.2 Một số bài học rút ra từ tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh ..........97
cho việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện
nay từ tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh..............................................97
2.2.3. Một số giải pháp xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết ở Việt
Nam hiện nay .............................................................................................. 108
KẾT LUẬN ...................................................................................................121



1

PHẦN MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đưa dân tộc ta giành độc lập dân tộc, tự do cho Tổ quốc và
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Một trong những yếu tố đảm bảo thắng lợi của
cách mạng nước ta là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng theo ngọn
cờ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ kinh nghiệm lịch
sử, từ yêu cầu cấp bách của sự nghiệp đổi mới đất nước, đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
mọi hành động”[20,tr.127].
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điểm khoa học
về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Quan điểm này được Đảng
và dân ta vận dụng vào quá trình đấu tranh, lao động, xây dựng, sáng tạo,
bảo vệ đất nước Việt Nam độc lập, hịa bình, thống nhất, giàu mạnh. Xun
suốt và nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh là tư tưởng đại đồn kết. Đó là quan điểm nhằm tập hợp, phát
huy sức mạnh dân tộc, quốc tế vì mục tiêu độc lập, tự do, chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã khơi dậy và phát huy đến đỉnh cao sức mạnh của cả cộng
đồng xã hội. Tư tưởng đại đoàn kết ấy đã trở thành một bộ phận hữu cơ
trong đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo đã đạt được những thành tựu quan trọng. Với sự nghiệp đổi mới, dân
tộc ta đang đứng trước cơ hội và những nguy cơ thử thách lớn. Vấn đề tập
hợp, đoàn kết, phát huy mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ sự giúp đỡ
quốc tế đang đặt ra cấp bách. Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban
chấp hành Trung ương khóa IX Đảng ta chỉ rõ: “Củng cố và tăng cường



2

khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc, giữ vững độc lập, thống nhất tổ quốc. Thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội”[20,tr.12,13]. Vì vậy, nghiên cứu để làm sáng rõ tư tưởng của Hồ Chí
Minh về đại đồn kết ln là một u cầu lý luận cấp bách nhằm tìm hiểu
những giá trị quý báu trong kho tàng tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần vào
q trình xây dựng, thực hiện đường lối, chính sách về đại đồn kết của
Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới đang có nhiều diễn biến
phức tạp, đặc biệt là vấn đề xung đột dân tộc, sắc tộc. Các thế lực trong và
ngoài nước đang triển khai chiến lược diễn biến hịa bình, lợi dụng vấn đề
dân tộc, tơn giáo nhằm kích động, chia rẽ khối đại đồn kết để chống phá
thể chế chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lúc này hơn bao giờ hết, việc hiểu rõ và kế
thừa, phát triển, vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý
luận, thực tiễn rất thiết thực đối với sự nghiệp đổi mới. Từ nhận thức trên,
tơi chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết với vấn đề phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn
thạc sĩ Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện nay trong nhiều thập kỷ qua đã
được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu với một
số lượng cơng trình lớn. Những cơng trình đã cơng bố có thể khái quát như
sau:



3

Trước hết là các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam được thể hiện qua nghị quyết của Bộ chính trị, các văn kiện
đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Trong các nghị quyết đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng qua các thời kỳ ln coi đại đồn kết là vấn đề chiến
lược, là nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu, là nhân tố có ý nghĩa quyết
định đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc. Tư tưởng chủ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là: Khơi
dậy, phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc, đặt quyền lợi của
dân tộc, lợi ích của con người lên hàng đầu, lấy đó làm cơ sở để xây dựng
các chủ trương, chính sách về kinh tế - xã hội; xuất phát từ lợi ích dân tộc,
mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng để xây dựng và
phát triển đất nước. Tư tưởng đó được thể hiện qua các kỳ đại hội: Đảng
Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Đảng Cộng sản Việt
Nam (1991), Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội; Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội đại
biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Đảng Cộng sản
Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội; Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng
Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong đó phải kể đến Nghị quyết Đại hội
lần thứ VII và nghị quyết các Hội nghị Trung ương 2,3,4,5 (khóa VII) tốt
lên những tư tưởng chủ đạo: Phải khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất
sức mạnh dân tộc; đặt quyền lợi của đất nước, dân tộc và lợi ích của con
người lên hàng đầu, lấy đó làm cơ sở để xây dựng các chủ trương, chính
sách kinh tế - xã hội, làm nền tảng để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc;



4

phải xuất phát từ lợi ích dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
Tranh thủ mọi khả năng có thể, tranh thủ được để xây dựng, phát triển đất
nước; đổi mới tư duy về đại đoàn kết, chúng ta chủ trương đoàn kết mọi
người trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, bao gồm các giai cấp, các
dân tộc, các tôn giáo, người trong nước và người định cư ở nước ngồi, vì
mục tiêu chung giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và tồn
vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nghị quyết
07/NQ/TW, ngày 17.11.1993 của Bộ Chính trị về đại đồn kết tồn dân tộc
và tăng cường mặt trận dân tộc thống nhất còn nhấn mạnh: Chấp nhận
những điểm khác nhau không trái với những lợi ích chung của dân tộc,
cùng nhau xóa bỏ định kiến, mặc cảm, hận thù… Nghị quyết hội nghị TW
7 khóa IX về phát huy sức mạnh đại đồn kết dân tộc chỉ rõ: Cần xóa bỏ
mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, xây
dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Đây thực
sự là một quan điểm rất mới, thành quả của quá trình đổi mới tư duy lý luận
của Đảng ta, thay thuật ngữ “đại đoàn kết toàn dân” bằng thuật ngữ “đại
đoàn kết toàn dân tộc” với nội hàm đầy đủ hơn, toàn diện hơn.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những chủ
đề lớn của đại hội X. Đại hội XI tiếp tục khẳng định bài học về đại đoàn
kết. Ngoài những nội dung về phát huy sức mạnh toàn dân tộc của đại hội
X, trong những năm tới đòi hỏi tiếp tục phát huy sức mạnh của mọi tầng
lớp nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của mọi lĩnh vực hoạt
động trong đất nước ta; giải phóng mọi tiềm năng, phát huy mọi nguồn lực,
mọi thành phần kinh tế; phát huy sức mạnh của truyền thống lịch sử, văn
hóa dân tộc và ý chí kiên cường của người Việt Nam.



5

Thứ hai, đó là các cơng trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
đồn kết được thơng qua cuộc đời và sự nghiệp của Người. Ở những
cơng trình này, các tác giả đã phân tích và làm sáng rõ phẩm chất nhân
cách của Hồ Chí Minh. Cuộc sống đời thường và q trình hoạt động cách
mạng của Hồ Chí Minh đã trở thành những bài học lớn về đoàn kết dân tộc,
giai cấp và quốc tế. Với chủ đề này có các tác phẩm: Hồ Chủ tịch – tinh
hoa của dân tộc lương tâm của thời đại, Phạm Văn Đồng, Nhà xuất bản Sự
thật, Hà Nội, 1975; Chủ tịch Hồ Chí Minh – tiểu sử và sự nghiệp, Ban Tư
tưởng - Văn hóa Trung ương, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1975; Tư
tưởng Hồ Chí Minh q trình hình thành và phát triển, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1993; Sự hình thành về cơ
bản tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo sư Trần Văn Giàu, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1997; Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh do Giáo
sư Đặng Xuân Kỳ chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1997; Thời thanh niên của Bác Hồ, Hồng Hà, Nhà xuất bản Thanh niên,
Tp. Hồ Chí Minh, 1976. Trong đó, đặc biệt phải kể đến cuốn Hồ Chủ tịch –
tinh hoa của dân tộc lương tâm của thời đại, Thủ tướng Phạm Văn Đồng
đã khẳng định: “Hồ Chủ tịch hình ảnh của dân tộc”, “Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tinh hoa và khí phách của dân tộc, lương tâm của thời đại”. Tác
phẩm giúp cho các nhà nghiên cứu, nhà lý luận và các tầng lớp nhân dân
hiểu biết thêm về phong cách sống, làm việc của Hồ Chí Minh trong suốt
sự nghiệp hoạt động cách mạng. Tiếp theo cơng trình nghiên cứu kể trên,
đó là cuốn Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh do Giáo sư Đặng
Xn Kỳ chủ biên. Trong đó, tư tưởng đồn kết của Hồ Chí Minh được
phản ánh khá rõ qua chương 2 của tác phẩm này. Đó là những quan điểm
mà tác giả đã vạch ra như: “tập hợp, huy động lực lượng toàn dân tham gia

vào sự nghiệp cách mạng là phương pháp cách mạng chung đã được vận


6

dụng trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ cách mạng; nhưng phải căn cứ vào
tình hình cụ thể ở từng giai đoạn, để xác định những hình thức, biện pháp
thích hợp”[40, tr.79].
Thứ ba, đó là các cơng trình nghiên cứu sự vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong chiến lược và sách lược của
cách mạng Việt Nam. Với nội dung của chủ đề này có những tác phẩm: Lê
Khả Phiêu (2000) Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường Đảng ta và
nhân dân ta tiến vào thế kỉ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Viện Dân
tộc học (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Vấn đề dân tộc, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội; Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí
Minh và các lãnh tụ Đảng (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đồn kết
với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ mới, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội; Song Thành (2000) Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi
mãi soi sáng con đường chúng ta đi, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Huỳnh Đảm (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt
Nam do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1997; Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Giáo sư, Tiến sĩ Lê
Hữu Nghĩa (chủ biên), Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 2000; Tư tưởng Hồ
Chí Minh – soi sáng con đường đưa đất nước đến phồn vinh; Tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, Tiến sĩ Bùi Đình Phong,
Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 2001; Tư tưởng Hồ Chí Minh – di sản văn
hóa dân tộc, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 2002… Trong những tác
phẩm trên, trước hết phải kể đến cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh và con
đường cách mạng Việt Nam do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên. Cuốn
sách được kết cấu làm mười chương, trong chương V, tác giả đã chỉ ra nội

dung quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng Đảng, Mặt trận và
nhà nước. Trong đó, cuốn sách đã khẳng định đại đoàn kết là một trong


7

những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; một chiến
lược cách mạng - chiến lược hành động, tập hợp lực lượng có thể tập hợp
được, hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong đấu tranh với kẻ
thù dân tộc, giai cấp. Không những thế, tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh
cịn trở thành đạo lý sống và lối ứng xử Việt Nam. Qua những cơng trình
nghiên cứu này, các tác giả đã luận chứng về việc vận dụng nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết vào những vấn đề có tính thời sự hiện nay.
Đó là những quan điểm về sự cần thiết phải chỉnh đốn và đổi mới, xây
dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Đồng thời các tác giả đã chỉ ra tư tưởng
nhân văn, đạo đức, văn hóa của Hồ Chí Minh mà mục đích là xây dựng một
xã hội tốt đẹp khơng cịn áp bức, bóc lột, bất công; một xã hội giàu mạnh,
công bằng, dân chủ và văn minh với những con người có phẩm chất cao
đẹp, có điều kiện phát triển tồn diện. Tiếp theo cơng trình trên phải kể đến
cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đại đoàn kết với vấn đề phát huy
sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ đổi mới do Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh – Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ Đảng biên soạn
năm 2004. Đây là cuốn sách tập hợp 29 bài viết của nhiều nhà khoa học với
nội dung: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết – những vấn đề chung; vấn
đề đoàn kết các dân tộc thiểu số trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam;
vấn đề đồn kết các tơn giáo.
Ngồi các cơng trình trên, tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết cịn
được nhiều tác giả nghiên cứu, viết thành những bài báo khá cơ đọng, sâu
sắc đăng trên các tạp chí chun ngành. Các bài báo của một số tác giả
được công bố trên tạp chí Triết học, tạp chí Khoa học Xã hội, tạp chí Cộng

sản,… Tư tưởng của Hồ Chí Minh cịn được đăng tải qua thơng tin đại
chúng như Báo Nhân dân, Sài Gịn Giải phóng, Tuổi trẻ,… Trên cơ sở kế
thừa kết quả các cơng trình được cơng bố liên quan trực tiếp đến đề tài


8

khoa học của mình, tác giả làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng
đại đoàn kết của Hồ Chí Minh với việc phát huy sức mạnh đại đồn kết ở
nước ta hiện nay. Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh là một di sản
tinh thần hết sức quý báu và còn là “một khoa học mở” đã, đang và sẽ thu
hút nhiều nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu sâu trên các bình diện khác
nhau.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ hệ thống tư tưởng đại đoàn kết Hồ
Chí Minh với việc phát huy sức mạnh đại đồn kết toàn dân tộc trong thời
kỳ đổi mới ở Việt Nam. Để làm rõ mục đích của luận văn, nội dung của
luận văn có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày những cơ sở, quá trình hình thành và nội dung cơ
bản của tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh.
Thứ hai, phân tích và rút ra bài học trong tư tưởng đại đồn kết Hồ
Chí Minh với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong
thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài, tác giả
luận văn dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời luận văn còn sử
dụng tổng hợp các phương pháp: logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp,
quy nạp và diễn dịch, so sánh và đối chiếu… để nghiên cứu và trình bày
luận văn.

Về tài liệu, tác giả lấy Hồ Chí Minh tồn tập, gồm 12 tập, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000 làm tư liệu gốc thực hiện nghiên cứu
đề tài khoa học. Bên cạnh đó, tác giả lấy Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Văn kiện


9

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng làm tài liệu chuẩn định hướng
cho việc nghiên cứu đề tài.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Về ý nghĩa khoa học, đề tài góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết. Từ đó khơng chỉ giúp người đọc có sự
nhận thức đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết mà nó cịn góp phần
làm rõ thêm cơ sở lý luận của việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về ý nghĩa thực tiễn, thơng qua việc nghiên cứu tư tưởng đại đồn
kết Hồ Chí Minh với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
trong thời kỳ đổi mới, luận văn góp phần tìm hiểu những giá trị quý báu
trong kho tàng tư tưởng của Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu của luận văn
có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơng trình nghiên cứu và
giảng dạy mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh.
6. Kết cấu cơ bản của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn kết cấu gồm 2 chương 4 tiết.


10


Chương 1
NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH VÀ
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG
ĐẠI ĐỒN KẾT CỦA HỒ CHÍ MINH
1.1 NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐỒN KẾT
CỦA HỒ CHÍ MINH
1.1.1 Điều kiện lịch sử - xã hội với sự hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đồn kết
Hồ Chí Minh là “vị anh hùng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất” được
nhân dân Việt Nam và thế giới kính yêu, suy tôn và ca ngợi. Cuộc đời, sự
nghiệp và tư tưởng của Người gắn liền với hoàn cảnh và tiến trình lịch sử
cách mạng Việt Nam, đó là thời kỳ có những bước chuyển sâu sắc trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn
kết khơng thể khơng nghiên cứu tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội trong và
ngồi nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Vào giữa thế kỷ XIX, một số nước tư bản ở Âu – Mỹ đã trở thành
cường quốc công nghiệp hùng mạnh. Nhưng trong quá trình nắm quyền
thống trị và quản lý xã hội thì giai cấp tư sản dần từ bỏ vai trị là giai cấp
cách mạng của nó. Giai cấp vơ sản xuất hiện trở thành lực lượng tiên phong
trong cuộc đấu tranh vì cơng bằng, dân chủ và tiến bộ xã hội. Phong trào
công nhân ở các nước đế quốc, đặc biệt là ở Anh, Pháp và Đức đang sôi
động trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Với khẩu hiệu: “Vơ sản
tất cả các nước đồn kết lại”[44,tr.586], giai cấp công nhân ngày càng phát
triển về số lượng và chất lượng. Con đường đấu tranh của giai cấp công
nhân đi từ tự phát đến tự giác, lần đầu tiên được tổ chức và đứng lên vũ đài
lịch sử với tư cách là một lực lượng độc lập về chính trị.


11


Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Các nước
đế quốc trên thế giới đã áp đặt sự thống trị trên khắp các châu lục như: Á,
Phi, Mỹ - La tinh. Trong bối cảnh đó thì hầu hết các nước ở phương Đơng
chưa thốt ra khỏi chế độ phong kiến. Châu Phi và châu Mỹ – La tinh đa số
còn lạc hậu và bị chiếm làm thuộc địa. Phần đông các dân tộc còn lạc hậu
bị một số nước tư bản như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, Pháp
và Mỹ thống trị. Thời đại đó đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa
giai cấp vô sản và tư sản ở chính quốc, mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp
bức, bóc lột với bọn thực dân đế quốc, mâu thuẫn giữa nông dân với địa
chủ phong kiến, đặc biệt là ở phương Đông, mâu thuẫn giữa giai cấp công
nhân ở thuộc địa với tư bản ở chính quốc và tư sản bản xứ, mâu thuẫn giữa
các nước đế quốc lớn với nhau. Những mâu thuẫn đó ngày một phát triển,
tích tụ tạo tiền đề cho cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, cách mạng do
giai cấp cơng nhân thực hiện và cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc
địa. Thời đại đặt ra nhiệm vụ cơ bản, tất yếu là giải phóng con người mà cụ
thể là giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp trong tiến trình phát triển
của lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia. Tính tất yếu đó dẫn đến Cách mạng
Tân Hợi (1911), chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) và cách
mạng Tháng Mười Nga (1917).
Cách mạng Tân Hợi do Tôn Văn lãnh đạo là cuộc cách mạng ít nhiều
mang tính tiến bộ, do giai cấp tư sản Trung Quốc lãnh đạo và lúc đầu được
đông đảo quần chúng tham gia. Cương lĩnh, đường lối, sách lược đấu tranh
của cách mạng Tân Hợi nhằm tiến tới xây dựng một nước Trung Quốc dân
chủ và phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Nhưng cuộc cách mạng
này chưa giải quyết một cách triệt để vấn đề giai cấp, chưa bảo vệ được lợi
ích đơng đảo quần chúng nơng dân tham gia cách mạng. Do đó, chế độ xã



12

hội phong kiến mặc dù được xóa bỏ hồn tồn nhưng chưa thúc đẩy cách
mạng tiến lên, chưa đánh lùi được các thế lực phản động.
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất là cuộc chiến giữa các nước đế quốc
để giành giật nhau thị trường, thuộc địa và phân chia lại thế giới. Cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở châu Âu những cuộc chiến tranh cục bộ, tiềm ẩn
hình thành hai tập đồn gây chiến trên thế giới. Một bên là Đức, Áo, Thổ
Nhĩ Kì và một bên là Anh, Pháp, Nga. Đây là cuộc chiến mang tính chất
phi nghĩa, phản động. Cuộc chiến đó là sự kế tục chính sách cướp bóc, nơ
dịch bằng thủ đoạn bạo lực đối với nhân dân các nước khác. Chiến tranh
thế giới lần thứ nhất kết thúc thì dù thắng lợi thuộc về phe nào đi nữa thì
bản chất của chủ nghĩa đế quốc không thay đổi. Mâu thuẫn giữa các nước
đế quốc với nhau vẫn âm ỉ và chúng luôn ngấm ngầm đợi thời cơ; mâu
thuẫn giữa đế quốc với các dân tộc thuộc địa càng gay gắt hơn.
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công do đảng tiên phong của giai
cấp vô sản lãnh đạo đã minh chứng một thời đại mới xuất hiện – thời đại ưu
thế thuộc về giai cấp công nhân. “cách mạng Tháng Mười đã dùng bạo lực
cách mạng đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến địa chủ, lập nên
chính quyền của những người lao động, xây dựng một xã hội hoàn tồn
mới, một xã hội khơng có người bóc lột người”[56, tr.300,301]. “Chủ nghĩa
Xã hội, chủ nghĩa Cộng sản từ chỗ chỉ là một ước mơ cao đẹp của loài
người, sau cách mạng Tháng Mười vĩ đại đã trở thành một hiện thực trong
xã hội, có sức sống vơ cùng to lớn lơi cuốn hàng nghìn triệu người vào
hành động cách mạng, vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội”[56, tr.303]. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã phá vỡ một
khâu quan trọng của hệ thống tư bản chủ nghĩa, thành lập nhà nước đầu
tiên thật sự thuộc về nhân dân lao động. Cột mốc vĩ đại đó có vai trị hết
sức to lớn là vạch ra con đường đúng đắn cho các phong trào cách mạng



13

giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp trên thế giới. Cách mạng Tháng
Mười Nga đã đánh thức và cổ vũ những người bị áp bức bóc lột trên thế
giới, khơi dậy tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người
khỏi sự áp bức, bóc lột, bất cơng. Cách mạng Tháng Mười giống như mặt
trời chói lọi chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp
bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử nhân loại chưa từng có cuộc cách
mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế.
Trước cách mạng Tháng Mười Nga, phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa diễn ra quyết liệt nhưng đều thất bại. Cách mạng Tân
Hợi đã để lại dấu ấn trong lịch sử nhưng chưa thực sự có sự chuyển biến
phù hợp với xu hướng chung của thời đại. Chủ nghĩa đế quốc vẫn luôn tiến
hành áp đặt sự thống trị lên các dân tộc thuộc địa, mâu thuẫn giai cấp trong
các nước tư bản ngày càng gay gắt. Cách mạng Tháng Mười Nga thành
công đã làm rõ khuynh hướng và ưu thế của thời đại là quyền và lợi ích
thuộc về nhân dân lao động.
Vào thời điểm cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi thì các nước
thuộc địa ở phương Đơng, đặc biệt phong trào giải phóng của dân tộc Việt
Nam vẫn bị bế tắc về đường lối. Hồ Chí Minh cho rằng: “cách mạng Tháng
Mười ảnh hưởng tới Việt Nam tương đối chậm. Sở dĩ như vậy là vì bọn
thực dân Pháp đã kìm giữ, nói đúng ra là hồn tồn cơ lập đất nước này,
chúng tìm mọi cách để cố gắng ngăn cản không cho những sự thật về Liên
Xô lọt vào nước chúng tôi và đồng thời chúng lại tung ra những tin tức dối
trá về Liên Xô. Mặc dù vậy, những người cách mạng Việt Nam đã kiên trì
đi tìm và đã tìm thấy sự thật. Dần dần, họ đã biết rõ toàn bộ ý nghĩa vĩ đại
của cách mạng Tháng Mười. Đối với nhân dân và đặc biệt là đối với những
người cách mạng, cách mạng Tháng Mười vĩ đại là ngọn đèn pha soi sáng
cuộc đấu tranh cho tự do và hạnh phúc. Cách mạng Tháng Mười đã đem lại



14

cho chúng tôi chủ nghĩa Mác - Lênin. Học thuyết bất hủ đó đã vạch ra con
đường mà chúng tơi phải đi theo”[52, tr.442].
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đồn kết khơng chỉ chịu sự tác
động bởi tình hình thế giới lúc bấy giờ mà cịn chịu sự ảnh hưởng bởi điều
kiện kinh tế - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam, triều đình nhà Nguyễn nói riêng cũng
như của chế độ phong kiến nói chung đã ở vào buổi xế chiều của nó. Sự cố
chấp, vị kỷ, ươn hèn của vua quan thời Tự Đức là nguyên nhân trực tiếp
làm cho đất nước rơi vào tay thực dân Pháp. Tổ quốc mất quyền độc lập,
nhân dân phải chịu kiếp lầm than.
Một trong những chính sách cơ bản, xuyên suốt của thực dân Pháp
chính là chia để trị. Nước Việt Nam thống nhất bị chia ra làm ba xứ với
những chế độ cai trị khác nhau: Nam kỳ là đất thuộc địa, Bắc kỳ là xứ bảo
hộ, Trung kỳ là xứ lưỡng trị. Khơng dừng ở đó, thực dân Pháp còn áp dụng
nguyên tắc chia để trị cả trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trải qua
hai chương trình khai thác thuộc địa do thực dân Pháp tiến hành ở Đông
Dương trước và sau chiến tranh thế giới thứ nhất, xã hội Việt Nam đã chịu
tác động mạnh mẽ và bị biến dạng sâu sắc. Từ một nước phong kiến trở
thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Lúc này, tất cả mọi người Việt Nam yêu nước không phân biệt giai
cấp, tôn giáo, dân tộc… đã đồng tâm hợp lực, đoàn kết cùng nhau đứng lên
đánh đuổi bọn xâm lược. Phong trào cứu nước không chỉ có những người
cần lao bị áp bức, bóc lột mà cịn có cả những vị khoa bảng nổi tiếng như:
Phạm Văn Nghi, Phan Đình Phùng, Tống Duy Tân, Ngơ Đức Kế, Huỳnh
Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Lương Văn Can, Nguyễn
Quyền… Trong đội ngũ xả thân cho độc lập dân tộc có mặt cả những ơng

vua u nước như: Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân; có cả những địa chủ


15

lớn: Trần Thánh Chiếu; các tín đồ Thiên chúa giáo: Nguyễn Trường Tộ,
Mai Lão Bạng; các thổ ty vùng dân tộc ít người: Đèo Cát Hãn…
Từ phong trào Cần Vương thuộc hệ tư tưởng phong kiến cuối thế kỷ
XIX, qua phong trào Đông Du, Duy Tân theo xu hướng tư sản đầu thế kỷ
XX, đến cuộc khởi nghĩa Yên Bái, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ…
Tất cả những cuộc đấu tranh này đã chứng minh rằng, tinh thần yêu nước,
chống ngoại xâm của nhân dân ta đời nào cũng có và sức mạnh đồn kết
đánh giặc ln tiềm ẩn trong mỗi người Việt Nam. Tuy nhiên, để có thể
đánh bại các thế lực đế quốc xâm lược không chỉ dựa vào sức mạnh đồn
kết tự phát mà phải có một sức mạnh đồn kết tự giác, có tổ chức của cả
dân tộc. Hồ Chí Minh ở thời điểm đầu thế kỷ XX chưa có đủ khả năng để
lý giải nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước chống Pháp,
song bằng sự mẫn cảm chính trị đặc biệt, Người đã cảm nhận được những
hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng, tìm chọn đồng minh của các
nhà yêu nước tiền bối, những nhu cầu khách quan mới của lịch sử dân tộc.
Đây chính là điểm xuất phát để người: “muốn đi ra ngoài xem nước Pháp
và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng
bào chúng ta”[78, tr.13].
Như vậy, thực tiễn đất nước trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX chính là cơ sở quan trọng cho sự hình thành tư tưởng đại đồn
kết của Hồ Chí Minh.
Trong q trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiến hành
khảo sát tỉ mỉ, tồn diện tình hình các nước Tư bản chủ nghĩa và các nước
thuộc địa ở hầu khắp các châu lục. Từ vốn hiểu biết hết sức phong phú về
đời sống chính trị - xã hội quốc tế, Hồ Chí Minh đã rút ra những nhận thức

quan trọng, đó là:


16

- Thế giới dù hết sức đa dạng, nhân loại dù vơ cùng đơng đảo, song
suy cho cùng, chỉ có hai loại người: bóc lột và bị bóc lột. Những người bị
bóc lột dù màu da khác nhau, ở những quốc gia khác nhau, đều có chung
cảnh ngộ đói khổ, lầm than và do vậy, họ có nhu cầu, nguyện vọng chung đó là cơ sở để liên hiệp lại;
- Cũng như giai cấp công nhân các nước tư bản chủ nghĩa, nơng dân
bị áp bức, bóc lột ở các nước thuộc địa tiềm ẩn một năng lực cách mạng vĩ
đại và nung nấu lòng căm thù sâu sắc đối với chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa
thực dân. Trên thực tế, ở nhiều nơi, các dân tộc bị áp bức, bóc lột, đã tiến
hành dưới nhiều hình thức đấu tranh chống đế quốc, chống thực dân. Song
những cuộc đấu tranh anh dũng đó đều khơng đi đến thắng lợi;
- Ngun nhân thất bại của phong trào cách mạng thuộc địa, suy cho
cùng, theo nhận thức của Hồ Chí Minh là do các dân tộc bị áp bức, bóc lột
ở các nước thuộc địa chưa có lý luận tiên tiến soi đường, chưa có chính
đảng của giai cấp vơ sản đứng ra tập hợp, tổ chức;
- Các dân tộc bị áp bức, bóc lột ở các nước thuộc địa chưa có sự liên
kết với nhau trên phạm vi quốc tế để tiến hành cuộc đấu tranh chung chống
chủ nghĩa Thực dân;
- Giữa phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa với
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa còn thiếu sự phối hợp,
gắn kết, hỗ trợ lẫn nhau, làm hạn chế sức mạnh của trận tuyến đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc;
Những nhận thức quan trọng đúc kết từ thực tiễn phong trào cách
mạng thế giới chính là cơ sở vững chắc để Hồ Chí Minh hình thành tư
tưởng đồn kết quốc tế - một bộ phận hữu cơ trong tư tưởng đại đồn kết
của Hồ Chí Minh.



17

1.1.2 Truyền thống đoàn kết, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng
của dân tộc Việt Nam cho sự hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về
đại đồn kết.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là sự cuộc đấu
tranh không mệt mỏi chống hạn hán, bão lụt, chống chiến tranh xâm lược
của ngoại bang. Từ trong cuộc tranh đấu trường kỳ đó đã sớm định hình ý
thức cộng đồng, ý thức tập thể, và cao hơn là ý thức dân tộc. Ý thức ấy
ngấm vào máu thịt của con người Việt Nam và được trao truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, để tạo thành truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa trên
nền tảng chủ nghĩa yêu nước.
Yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, với các thế hệ người Việt Nam đã
trở thành tình cảm tự nhiên:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”;
Đã trở thành một triết lý nhân sinh:
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”;
Những giá trị nhân bản sâu sắc và q giá đó khơng chỉ được phản
ánh trong kho tàng văn học dân gian, mà còn được Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,
Nguyễn Trãi, Quang Trung… đúc kết, nâng lên thành kinh nghiệm, thành
phép trị nước và đánh giặc: “khoan thư sức dân làm kế gốc sâu rễ bền”,
“Trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”, “Tướng sĩ một lòng phụ tử”…
Nghệ Tĩnh - quê hương Hồ Chí Minh là một miền điển hình cho
truyền thống u nước, đồn kết, nhân nghĩa của dân tộc. Sinh ra và lớn lên
trong một gia đình nhà nho nghèo, u nước, lại sớm có điều kiện quan tiếp
xúc các nhà yêu nước và đồng bào địa phương, Hồ Chí Minh đã tiếp thu

được những giá trị nhân bản của truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân


18

nghĩa Việt Nam. Người đã khái quát: “Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất
cả lũ bán nước và cướp nước”[50, tr.171]. Truyền thống, đạo lý đó là cơ sở
đầu tiên hết sức quan trọng để Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển, xây dựng
tư tưởng đại đoàn kết.
Trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và các thế lực
phong kiến phản động, tay sai, một số nhà yêu nước tiền bối đã đề xuất tư
tưởng cứu nước, tiêu biểu nhất là cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh.
Đối với Hồ Chí Minh, hai cụ Phan là những bậc tiền bối, đáng kính và
những tư tưởng cứu nước, đặc biệt là tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc,
lực lượng quốc tế của hai cụ đã có ảnh hưởng đáng kể đến q trình đi tìm
đường cứu nước và xây dựng đường lối cứu nước của Người.
Đóng góp tích cực của hai cụ Phan là ở chỗ, sau thất bại của phong
trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX, phong trào yêu nước, chống Pháp của
nhân dân ta đứng trước khủng hoảng, bế tắc lớn, trong dân chúng xuất hiện
khuynh hướng dao động, bi quan…, hai cụ đã đánh lên hồi chuông cảnh
tỉnh đồng bào, kêu gọi mọi người tập hợp lại, tiến vào cuộc tranh đấu mới
với những phương thức mới. Tư tưởng yêu nước của hai cụ Phan đều lấy
chủ nghĩa yêu nước làm nền tảng, đồng thời lại có những sắc thái khác
nhau, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, đem đến cho phong trào yêu nước chống
Pháp đầu thế kỷ XX của nhân dân ta những màu sắc mới. Về phương diện
tuyên truyền, kêu gọi, tập hợp lực lượng yêu nước chống Pháp, cụ Phan
Bội Châu là nhà ái quốc có những đóng góp nổi trội. Trong q trình vận
động cách mạng, cụ Phan đã viết nhiều trước tác: Việt Nam vong quốc sử,

Hải ngoại huyết thư, Tân Việt Nam, Sùng bái giai nhân, Việt Nam quốc sử
khảo, … cổ súy cho sự đồng tâm hợp lực, kêu gọi dân ta đoàn kết, đứng lên


19

cứu nước. Theo cụ Phan Bội Châu, tất cả dân Việt đều là “cháu con một
họ”, “chú bác anh em”, đều có tài sản chung là giang sơn gấm vóc của ơng
cha để lại, cho nên phải có trách nhiệm “chung nhau một lòng’ mà giữ lấy.
Di sản tư tưởng của Cụ về hợp quần chúng, về đoàn kết bao hàm hai
phương diện: liên kết quốc tế và đoàn kết dân tộc.
Về phương diện liên kết quốc tế, Phan Bội Châu đã đi tìm một đối
tượng liên kết mới - đó là nước Nhật. Sau Minh Trị duy tân, đặc biệt sau
chiến thắng nước Nga sa hoàng 1904 - 1905, Nhật nổi lên như một cường
quốc ở châu Á, được tôn vinh là “anh cả da vàng”, đưa lại niềm hi vọng
cho các nước trong khu vực. Phan Bội Châu nhìn thấy ở Nhật Bản một chỗ
dựa cho cơng cuộc cứu nước ở Việt Nam. Bởi theo Cụ, Nhật Bản đáp ứng
được những tiêu chí cần thiết cho sự liên kết, đó là “đồng châu, đồng
chủng, đồng văn”. Đến năm 1908, sau khi Nhật - Pháp cấu kêt trục xuất Cụ
và học sinh Việt Nam đang học tại Nhật, Cụ mới vỡ lẽ ra rằng: đồng châu,
đồng chủng, đồng văn không bằng đồng bệnh. Cụ đã đến với Tôn Trung
Sơn và chính phủ cách mạng Quảng Châu, đặt tin tưởng ở một nước có
những người cùng cảnh ngộ, có cùng mục tiêu chiến đấu. Có thể nói, đây là
bước tiến đáng kể trong tư tưởng liên kết quốc tế của của cụ Phan Bội
Châu. Những quan điểm của Phan Bội Châu về: đồng châu, đồng chủng,
đồng văn không bằng đồng bệnh được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển:
muốn giải phóng dân tộc mình cần thiết phải đồn kết với các dân tộc khác
cùng chung cảnh ngộ. Vì vậy, từ rất sớm người đã kêu gọi: “Vì nền hịa
bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng
tộc cần đồn kết lại và chống bọn áp bức”[45, tr. 452].

Trên phương diện đoàn kết dân tộc, cụ Phan Bội Châu là một trong
số ít người Việt Nam sớm có ý tưởng mới mẻ, đặt nhiệm vụ cứu nước
thành “trách nhiệm của quốc dân”, “trách nhiệm của hàng triệu người” và,


20

cứu nước “không phải là một tay, một chân mà làm nên, mà phải do tâm
huyết của hàng vạn người anh hùng vô danh”. Năm 1905, trong Việt Nam
vong quốc sử, Phan Bội Châu chia người trong nước ra làm năm bậc, tất cả
đều chung một cha, một mẹ, một bầu trời, một mặt đất, tất cả đều là đồng
bào và có nghĩa vụ làm cho đất nước nhà hồi sinh. Năm 1906, trong Hải
ngoại huyết thư, Cụ tiến thêm một bước khi nói tới “mười hạng người đồng
tâm”, bao gồm: các nhà hào phú, các quan lại tại chức, các con nhà quyền
quý, giáo đồ Thiên chúa giáo, lính tập, hội đảng, thông ngôn, ký lục, bồi
bếp, giới phụ nữ, con em các gia đình bị giặc tàn sát, những người đi du
học. Điểm mới mẻ trong tư tưởng đồn kết của Cụ khơng chỉ là nêu lên sự
đồng tâm của mười hạng người nói trên mà cịn ở chỗ, lần đầu tiên, Cụ
nhấn mạnh và hơ hào đồn kết giáo lương, đồn kết các tín đồ tơn giáo trên
lập trường cứu nước, trên nguyên tắc tự do tín ngưỡng, lần đầu tiên Cụ nói
tới vai trị của phụ nữ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đến năm 1908,
trong Việt Nam quốc sử khảo, cụ Phan tiến thêm một bước nữa khi đặt vấn
đề đoàn kết các dân tộc thiểu số vào một cuộc đấu tranh chung. Cụ còn là
người sớm đưa ra những ý tưởng về tổ chức các chính đảng yêu nước của
nhân dân - mà khi đó Cụ gọi là “hội”: Duy Tân hội, Quang Phục hội… Đây
là những quan điểm, chất liệu sống động được Hồ Chí Minh tiếp thu, kế
thừa và phát triển quan điểm về tập hợp lực lượng sau này.
Do những hạn chế của cá nhân và lịch sử, tư tưởng đồn kết của cụ
Phan Bội Châu khơng tránh khỏi những thiếu sót. Nói về lực lượng yêu
nước của dân chúng, Cụ chưa thấy được vai trị, vị trí của hai lực lượng

đông đảo và quan trọng nhất là nông dân và công nhân; khi đề cập đến các
hội, Cụ chưa nêu ra được một lý luận khoa học dẫn đường, chưa có đường
lối tổ chức hội một cách hệ thống, hồn chỉnh… Mặc dù cịn nhiều hạn chế,
song tư tưởng xuất phát từ lòng yêu nước nhiệt thành của cụ Phan đã thức


×