Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

TIỂU LUẬN : Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.41 KB, 14 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tư tưởng HCM về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân có giá trị lý
luận và thực tiễn to lớn, và là hạt nhân cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó
chứa đựng những giá trị to lớn về cả phương diện lý luận và thực tiễn đối với
cách mạng Việt Nam; là cẩm nang cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ quốc tế đi tới thành công.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân khơng
những có ý nghĩa lịch sử mà cịn cung cấp cho chúng ta những kinh nghiệm quý
báu để tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
thực sự là công bộc của dân, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đấu tranh loại bỏ
những thói hư, tật xấu trong bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo cho nhà
nước luôn giữ được bản chất cách mạng, từng bước xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Với tầm quan trọng được nêu trên, em xin chọn đề tài số 9: “Phân tích tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân.” Trong quá trình tìm
hiểu, nghiên cứu và thực hiện, bài làm sẽ khơng thể thật sự hồn hảo, em mong
sẽ nhận được những lời nhận xét, đánh giá của các thầy cô trong tổ bộ môn để
bài làm có thể hồn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.

Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước.
 Lịch sử dựng nước của dân tộc là yếu tố đầu tiên hình thành nên tư tưởng
HCM về nhà nc
Trong lịch hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cha ơng ta đã tích lũy
được biết bao kinh nghiệm quý báu về xây dựng nhà nước, được phản ánh trong
các bộ sử lớn của dân tộc như “Đại Việt sử ký tồn thư”, “Lịch triều hiến chương
loạn chí” Kinh nghiệm trị nước cũng ghi lại trong các bộ luật nổi tiếng như: Hình


thư, Quốc triều hình luật, Bộ luật Hồng Đức…Những yếu tố tích cực của nhà
thời kỳ phong kiến hưng thịnh trong lịch sử dân tộc: “nước lấy dân làm gốc”,
tiếp thu nho giáo ... là những hành trang đầu tiên Hồ Chí Minh mang theo trên
1


con đường cứu nước và tìm kiếm một mơ hình nhà nước tiến bộ cho đất nước
sau khi giành độc lập.
 Q trình khảo sát một số mơ hình Nhà nước.
Trên hành trình cứu nước, Hồ Chí Minh đã khảo sát mơ hình Nhà nước tư
sản Mỹ, Pháp. Người phát hiện ra đằng sau những lời hoa mỹ về “quyền bình
đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của tun ngơn độc
lập 1776 đó là sự bất bình đẳng, nghèo đói, nạn phân biệt chủng tộc và biết bao
tản bạo, bất cơng khác. Người coi đó là những cuộc cách mạng khơng đến nơi”
vì ở đó chính quyền vẫn ở trong tay một số ít người.
Sau khi đến Liên Xơ, Người đã tìm thấy mơ hình nhà nước kiểu mới: "...
phát ruộng cho dân cầy, giao công xưởng cho thợ thuyền, ... ra sức tổ chức kinh
tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng” đã gợi ý cho Người về một
kiểu nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai mà Người đã nêu ra
trong Chính cương vẫn tắt của Đảng năm 1930.
 Hình thành trên cơ sở lý luận về Nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin
Tháng 12/1920, trong Đại hội thứ XVIII của Đảng xã hội Pháp họp ở thành
phố Tua, đồng chí Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng
sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu một bước
ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của Người, bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu
nước đến chủ nghĩa cộng sản, là bước ngoặt đứng hẳn về con đường cách mạng
tháng Mười, đứng hẳn về chủ nghĩa Mác- Lênin và đứng hẳn về Quốc tế cộng
sản. Chính thế giới quan và phương pháp luận của Mác- Lênin đã giúp Hồ Chí
Minh tổng kết lý luận và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc.

Sau khi cách mạng Tháng Mười thành công, nhà nước Xơ Viết ra đời, đối
chiếu, so sánh với chính quyền và nhà nước thực dân, phong kiến, Hồ Chí Minh
càng nhận rõ bản chất giả tạo, độc tài, chuyên chế, áp bức, bóc lột nhân dân của
chúng. Từ đó, Người càng mong muốn thiết lập ở Việt Nam một mơ hình nhà
nước Xơ Viết như Lênin đã tổng kết. Chính phủ cơng- nơng- binh mà Người đặt
vấn để phải xây dựng ở Việt Nam trong Chính cương vắn tắt là biểu hiện của mơ
hình nhà nước Xơ Viết. Chủ nghĩa Mác- Lênin là nguồn gốc lý luận, cơ sở chủ
yếu nhất của sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
 Là kết quả từ Trí tuệ và phẩm chất chính trị của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là hiện thân của trí tuệ , phẩm chất đạo đức và truyền thống văn
hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam . Hồ Chí Minh là người lịch thiệp , có lối sống
2


và phong cách giản dị , giàu lòng nhân ái , lại rất thông minh , sắc sảo , nhạy bén
về chính trị , rất ham học hỏi , có tư duy độc lập , sáng tạo , có trí tuệ uyên bác ,
kiến thức sâu rộng , tiếp xúc với nhiều nền văn hóa của các dân tộc trên thế giới .
Đối với Người , sự nghiệp cách mạng là của nhân dân , do nhân dân và vì nhân
dân . Sự ấm no , hạnh phúc của nhân dân là mục đích duy nhất trong mọi suy
nghĩ cũng như hành động của Người . Từ những suy nghĩ đó mà trong mọi hành
động cũng như việc làm , Người luôn luôn đặt địa vị và quyền lợi của nhân dân
lên trên hết , trước hết . Người rất gương mẫu và cũng luôn căn dặn , giáo dục
cán bộ , đảng viên phải kính dân , trọng dân , yêu dân , gần dân , học dân , tin
tưởng vào trí tuệ và lực lượng của dân . Nét đặc biệt trong phong cách chính trị
Hồ Chí Minh là luôn gần gũi với nhân dân , lắng nghe ý kiến của quần chúng ,
quan tâm đến mọi tầng lớp nhân dân .
2. Sự lựa chọn mơ hình Nhà nước phù hợp
Hồ Chí Minh đã thấy rõ bộ mặt phản nhân tính của nhà nước thực dân ngay
trên quê hương mình. Đó là hình thức nhà nước tồi tệ nhất mà nhân loại từng biết
đến, nhưng lại là một sản phẩm tất yếu của hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới.

Toàn bộ bản chất thật sự của nhà nước đó được Hồ Chí Minh bóc trần, lên án gay
gắt trong nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết. Trong đó tiêu biểu là tác phẩm “Bản
án chế độ thực dân Pháp”. Từ đó, Hồ Chí Minh đặt vấn đề về sự cần thiết phải
lật đổ nhà nước thối nát đó. Nhưng bằng cách nào ? bằng con đường nào ? lấy gì
để thay thế nó thì Người chưa có sẵn một câu trả lời.
Qua quá trình khảo cứu, Hồ Chí Minh chú ý tìm hiểu hai loại hình nhà nước
hiện thời: Nhà nước dân chủ tư sản mà những đại diện tiêu biểu là Mỹ, Pháp và
nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời từ Cách mạng Tháng Mười 1917.
Trong nhận thức của Hồ Chí Minh, nhà nước tư sản dù ở Mỹ hay ở Pháp,
mặc dù đã xác lập được một hệ thống giá trị theo các chuẩn mực dân chủ và
nhân đạo, nhưng về thực chất vẫn là cơng cụ thống trị của một số người. Tính
chất phiến diện nửa vời, không triệt để của nhà nước dân chủ tư sản, ngay trong
bản chất của nó đã bộc lộ những đối kháng khơng thể điều hịa và chắc chắn sẽ là
nguyên nhân làm bùng nổ các cuộc cách mạng xã hội trong tương lai. Cái gọi là
“thiên đường của dân chủ, tự do”, lý tưởng bình đẳng, bác ái chỉ cịn là những
ngơn từ sáo rỗng, khơng có nội dung xã hội xác thực. Vì vậy, mục đích giải
phóng và phát triển của xã hội Việt Nam khơng thể lựa chọn và đi theo kiểu nhà
nước đó.
3


Đối lập với nhà nước tư sản là nhà nước Xơ viết cịn non trẻ, nhưng đã bộc lộ
sức sống và những ưu thế nổi trội của mình, hướng vào phục vụ quần chúng
cơng- nơng- binh, thật sự vì lợi ích của họ. Đây chính là loại hình nhà nước của
chế độ xã hội mới mà cách mạng Việt Nam phải đi theo. Để lựa chọn kiểu nhà
nước theo xu thế vận động của lịch sử, Hồ Chí Minh dựa trên hai cơ sở chính.
Đó là tính chất nhân dân và khả năng của nhà nước trong việc bảo đảm cuộc
sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thoả mãn các “nhu cầu trần thế” của nhân dân và
con người. Việc lựa chọn kiểu nhà nước gắn bó chặt chẽ với mục tiêu giải phóng
con người và phát triển xã hội.

Sau này, từ mơ hình nhà nước cơng - nơng - binh chuyển sang mơ hình nhà
nước đại biểu cho khối đại đoàn kết của toàn thể quốc dân là một bước chuyển
sáng suốt của Hồ Chí Minh, phản ánh được nét đặc thù của thực tiễn dân tộc, phù
hợp với sự chuyển hướng chiến lược và sách lược của Cách mạng Việt Nam.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân
1. Bản chất giai cấp của nhà nước
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam mới – Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà là một Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân.
Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta được thể hiện trên các phương diện
sau :
* Thứ nhất, Đảng Cộng Sản Việt Nam giữ vị trí và vai trị cầm quyền :
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh cơng-nơngtrí do giai cấp cơng nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng Sản Việt Nam
lãnh đạo. Đảng cầm quyền bằng phương thức thích hợp sau đây:
(1) Bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành
pháp luật, chính sách, kế hoạch;
(2) Bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ
máy, cơ quan nhà nước;
(3) Bằng cơng tác kiểm
* Thứ hai, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định
hước Xã hội Chủ nghĩa trong sự phát triển của đất nước :
Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu cách
mạng nhất quán của Hồ Chí Minh. Việc giành lấy chính quyền, lập nên Nhà
nước Việt Nam mới, chính là để giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động có
được một tổ chức mạnh mẽ nhằm thực hiện mục tiêu nói trên.
4


*Thứ ba, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chů :
Hồ Chí Minh rất chú ý đến cả hai mặt dân chủ và tập trung trong tổ chức và

hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan nhà nước. Người nhấn mạnh đến sự cần
thiết phải phát huy cao độ dân chủ, đồng thời cũng nhấn mạnh phải phát huy cao
độ tập trung, Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền
lực thuộc về nhân dân.
*Thứ tư, dân chủ cũng cần phải có chun chính, chế độ nào cũng có
chun chính :
Chun chính dân chủ nhân dân đó là sự thống trị về chính trị của nhân dân,
bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và các cá nhân thân sĩ,
lấy cơng nhân, nơng dân và trí thức u nước làm nền tảng do Đảng Cộng sản,
đại diện tiên phong của giai cấp cơng nhân lãnh đạo. Chun chính dân chủ nhân
dân là thành quả thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Chức năng,
nhiệm vụ lịch sử của Chuyên chính dân chủ nhân dân là "phát huy tự do dân chủ,
tổ chức nhân dân hoàn thành các nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ chống
lại các thế lực phản động, xây dựng và bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, tạo tiền
đề tiến lên chủ nghĩa xã hội".
2.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân chủ” là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về
vai trò của nhân dân trong lịch sử: “Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết, là tối
thượng”, “Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng
có gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân” 1. Người đã huy động sức
mạnh của tồn dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, góp phần to lớn đưa
dân tộc Việt Nam tới độc lập, tự do, đưa nhân dân ta từ kiếp nô lệ lên địa vị làm
chủ đất nước, làm chủ xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò của
một nhà nước dân chủ, và Người đã coi dân chủ là nhân tố động lực của sự phát
triển; thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó
khăn. Người khẳng định bản chất của dân chủ tức là dân là chủ và dân làm chủ.
Người chỉ rõ, địa vị của nhân dân là người chủ đối với xã hội, đất nước và nhân
dân là chủ thể của quyền lực. Đây là nội dung cốt lõi trong tư tưởng dân chủ Hồ
Chí Minh, phản ánh giá trị cao nhất, chung nhất của dân chủ là quyền lực thuộc

về nhân dân.
1 Hồ Chí Minh: Tồn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.276

5


“Dân chủ” chính là khát vọng sâu xa cũng là thành tựu của cuộc đấu tranh
lâu dài của các dân tộc và loài người . Đất nước chúng ta cũng đã trải qua một
q trình vơ cùng khó khăn và trường kỳ mới đạt được điều đó. Hồ Chí Minh đã
đem đến ánh sáng tự do, dân chủ cho dân tộc Việt Nam đồng thời Người cũng để
lại một di sản tư tưởng quí báu về xây dựng nền dân chủ
2.1. Nhà nước của dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, bản chất của dân chủ tức là: dân là chủ và
dân làm chủ. Người chỉ rõ địa vị của nhân dân là người chủ đối với xã hội, đất
nước và nhân dân là chủ thể của quyền lực. Đây là nội dung cốt lõi trong tư
tưởng dân chủ Hồ Chí Minh. Người đặc biệt nhấn mạnh- sự cần thiết phải xây
dựng chế độ dân chủ, thể chế chính trị và thể chế nhà nước dân chủ:
- Xác lập quyền sở hữu Nhà nước thuộc về nhân dân
Là người làm chủ Nhà nước, nhân dân có quyền, thơng qua cơ chế dân chủ
thực thi quyền lực, nhưng đồng thời nhân dân phải có nghĩa vụ xây dựng và bảo
vệ Nhà nước, làm cho Nhà nước ngày càng hoàn thiện, trong sạch, vững mạnh.
Hồ Chí Minh ln địi hỏi với tư cách là chủ nhân của một nước độc lập, tự do,
quyền và nghĩa vụ cơng dân gắn bó chặt chẽ với nhau. Theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nhà nước của dân là Nhà nước dân chủ, thể hiện quyền lực của giai cấp
công nhân, đồng thời cũng là bảo đảm thực thi quyền lực của nhân dân lao động.
Quan điểm này của Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tất cả các quá trình xây
dựng Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.
Người luôn xác định, dân chủ là động lực của tiến bộ xã hội, của phát triển. Nền
dân chủ mà chúng ta đang ra sức xây dựng là nền dân chủ của tuyệt đại đa số
nhân dân, gắn với công bằng và tiến bộ xã hội trong từng bước phát triển và từng

chính sách phát triển. Bác Hồ đã từng nói: lãnh đạo một nước mà để cho dân
mình lạc hậu, bị thiệt thịi trong hưởng hạnh phúc con người cũng là mất dân
chủ. Làm chủ là quyền thiêng liêng của nhân dân khơng ai có thể xâm phạm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc
phát huy quyền làm chủ của nhân dân là làm sao cho họ có năng lực làm chủ,
biết hưởng, dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm. Phát huy dân chủ là phát
huy tài dân, muốn vậy, thì phải “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có
trách nhiệm với dân”. Theo Bác: “Khơng học hỏi dân thì khơng lãnh đạo được
dân. Có biết làm học trò dân, mới biết làm thầy học dân”.
- Quyền làm chủ của nhân dân được quy định trong Hiến Pháp
6


Nhà nước của dân thì mọi người dân là chủ “Tất cả quyền binh trong nước là
của toàn thể nhân dân Việt Nam…”2, người dân có quyền làm bất cứ việc gì mà
pháp luật khơng cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải
bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của
người dân. Những vị đại diện cho dân cử ra chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là
công bộc của dân. Các bản Hiến Pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và gần đây nhất là
Hiến pháp 2013 đều thể hiện điều đó. Trong cơng cuộc đổi mới, xây dựng Nhà
nước do nhân dân lao động làm chủ là một nội dung trọng yếu của việc kiện
toàn, đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước ta.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” 3. Người đã nhiều lần
khẳng định: “Nước lấy dân làm gốc, Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi
trên nền nhân dân”4
2.2. Nhà nước do dân
Được hiểu là nhà nước đó do nhân dân lựa chọn bầu ra những đại biểu của
mình, do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để chi tiêu, hoạt động; do dân phê bình
xây dựng. Chính vì lẽ đó Bác u cầu tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào
dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm sốt của

nhân dân. "Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ" 5 nghĩa
là khi cơ quan nhà nước không đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì
nhân dân có quyền bãi miễn nó.
Nhà nước có trách nhiệm và chịu trách nhiệm trước nhân dân, công dân phải làm
tròn nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì
phải có nghĩa vụ làm trịn bổn phận cơng dân, giữ đúng đạo đức cơng dân ”6.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm pháp lý của Đảng, Nhà nước và
cán bộ đảng viên phải làm tốt chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Bác đã
nhắc nhở: Nhà nước phải có chính sách phát triển kinh tế - xã hội thiết thực, đáp
ứng lợi ích của quần chúng nhân dân. Đối với dân, Chính phủ phải thi hành một
nền chính trị liêm khiết như cải thiện đời sống của nhân dân, cứu tế thất nghiệp,
sửa đổi chế độ xã hội, phát triển kinh tế, văn hoá...
2 Điều 1 Hiến pháp 1946

3 Hồ Chí Minh: Tồn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.293
4 Hồ Chí Minh: Tồn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 409-410
5 Hồ Chí Minh: Tồn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.75
6 Hồ Chí Minh: Tồn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 409-410

7


Nhà nước dân chủ nhân dân do nhân dân trực tiếp tổ chức, xây dựng thông
qua tổng tuyển cử phổ thơng đầu phiếu. Hồ Chí Minh nhận thức tổng tuyển cử là
một quyền chính trị mà nhân dân giành được qua đấu tranh cách mạng, là hình
thức dân chủ, thể hiện năng lực thực hành dân chủ của nhân dân. “Tổng tuyển cử
là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để
gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người
muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là cơng dân thì đều có quyền
đi bầu cử... Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra

Chính phủ. Chính phủ đó thật là chính phủ của tồn dân” 7. Thơng qua việc bầu
Quốc hội, nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng hình thức dân chủ trực
tiếp và đại diện. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của nhân dân
không chỉ thể hiện ở việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, mà cịn ở
quyền bãi miễn, kiểm sốt, giám sát hoạt động của các đại biểu. Với vai trò làm
chủ nhà nước, thực hiện sự ủy quyền của nhân dân, các đại biểu được bầu ra phải
có trách nhiệm gần gũi, sâu sát để hiểu dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân với
tinh thần trách nhiệm bàn và giải quyết những vấn đề thiết thực cho quốc kế dân
sinh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do nhân dân làm chủ còn
bao hàm một nội dung quan trọng khác đó là nhân dân có quyền kiểm sốt Nhà
nước. Hồ Chí Minh viết: “Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, chỉ có một
mục đích là phụng sự cho lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào
giúp đỡ, đơn đốc, kiểm sốt và phê bình để làm trịn nhiệm vụ của mình là người
đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân”.8
2.3. Nhà nước vì dân
Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân,
khơng có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Mọi đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và mọi quyết sách
trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phải xuất phát từ tâm tư,
nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người dân. Trong nhà nước đó, cán bộ từ
chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân. “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết
sức làm, Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”9. Người nhấn mạnh :
7 Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994, tập 4, tr.153.
8 Hồ Chí Minh: Tồn tập , Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7, 361-362.
9 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t4, tr. 56
8


“NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Cơng việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là cơng việc của dân.”10
Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân
dân với cán bộ nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân ủy
quyền.“Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính
phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và
Chính phủ có lỗi”11. Là người phục vụ, nhưng cán bộ nhà nước đồng thời là
người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân. “Nếu khơng có nhân dân thì chính phủ
khơng đủ lực lượng. Nếu khơng có chính phủ thì nhân dân khơng ai dẫn đường”
12
.
Cán bộ là đầy tớ của nhân dân, Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn cán bộ
phải quan tâm đến những kiến nghị, đề đạt của nhân dân: “Phải chú ý giải quyết
hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lịng, những vấn đề quan hệ tới đời sống
của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải
chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân.
Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của dân phải được ta đặc biệt chú ý”13; là phải trung thành, tận tụy, cần kiệm
liêm chính… là người lãnh đạo thi phải có trí tuệ hơn người, sáng suốt, nhìn xa
trông rộng, gần gũi với dân, trọng dụng hiền tài... Cán bộ phải vừa có đức vừa có
tài.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước vì dân, tất cả vì hạnh phúc của nhân
dân là tư tưởng nhất quán trong suốt cuộc đời của Người. Cả cuộc đời Người là
một tấm gương trong sáng thể hiện sinh động tư tưởng, đạo đức của một con
người suốt đời vì dân, vì nước. Khi đảm nhận chức vụ Chủ tịch nước, Hồ Chủ
10 Hồ Chí Minh: Tồn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.698
11 Hồ Chí Minh: Tồn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, t.9, tr.518


12 Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4 tr. 56
13 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.51-52.
9


Tịch đã trả lời các nhà báo “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý
chút nào. Bây giờ phải gánh vác chức chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tơi phải
gắng làm, cũng như một người lính vâng lệnh quốc dân ra trước mặt trận”14.
III. Thực tiễn một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân,
do dân, vì dân đã được vận dụng xây dựng Nhà nước Việt Nam hiện
nay.
1. Xác lập quyền sở hữu nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân chính là
chủ thể quyền lực nhà nước.
Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đều xuất
phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân
tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu
của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của
nhân dân”.15
Điều 2 của Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nước
Cộng hịa XHCN Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nơng dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”16
Nhân dân thực hiện quyền dân chủ đại diện bằng cách trao một phần quyền
lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và cho cơ quan tư pháp,

đồng thời giữ lại một phần quyền lực của mình để thực hiện hình thức dân chủ
trực tiếp. Theo Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, nhân dân chỉ trao cho Quốc
hội ba nhóm quyền hạn và nhiệm vụ: quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập
pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về giám sát tối cao; quyền hạn và nhiệm vụ về
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Kế thừa tư tưởng đó, Hiến pháp
2013 tiếp tục khẳng định rõ nguyên tắc phân công phối hợp giữa các cơ quan
14 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t1, tr.381
15 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2016, tr. 169
16 Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp 2013

10


trong bộ máy nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp khi
quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; Quốc hội thực hiện
quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”17; “Chính phủ là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện
quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”18; “Tòa án nhân dân là
cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”19.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân còn thể hiện trong Khoản 2 Điều 8
Hiến pháp 2013: “các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn
trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng
nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền” và “sau khi
được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án,
Toà án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và
Hiến pháp”20 (khoản 7 Điều 70).

Hiến pháp cũng quy định rõ và đầy đủ hơn các hình thức nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình thơng qua quyền chính trị cơ bản của công dân như :
Quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND
khi họ khơng cịn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân, quyền tham gia
quản lí nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà
nước về các vấn đề cơ sở, địa phương và cả nước, quyền biểu quyết khi Nhà
nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp (Điều
29, Điều 129); Quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 30).
Đại hội Đảng lần thứ XIII cũng khẳng định định hướng về đại đoàn kết toàn
dân tộc: Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm
chủ và vai trò tự quản của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp
tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội.
2. Phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
17 Khoản 1, 2 Điều 69 Hiến pháp 2013.
18 Khoản 1, Điều 94 Hiến pháp 2013.
19 Khoản 1, Điều 102 Hiến pháp 2013.
20 khoản 7 Điều 70 Hiến pháp 2013

11


Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa do
nhân dân lao động làm chủ thì mới có điều kiện đảm bảo quyền làm chủ thực sự
của nhân dân. Muốn phát huy quyền làm chủ của nhân dân cần phải:
Thứ nhất, xây dựng và đảm bảo một cơ chế làm chủ, nghĩa là tạo ra các điều
kiện cần thiết để nhân dân là lực lượng chủ yếu vận hành mọi hoạt động trong xã
hội. Điều đó địi hỏi phải xây dựng một Hiến pháp thích hợp với sự phát triển

của chế độ dân chủ, phải có pháp luật thật sự dân chủ, phải có bộ máy chính
quyền tinh gọn, nhạy bén với những con người có trình độ, có phẩm chất đạo
đức tốt. Như vậy, cốt lõi của cơ chế làm chủ là hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo
ra hành lang pháp lý cho việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ hai, nhân dân lao động phải là những người làm chủ xã hội. Cần tuyên
truyền, giáo dục để nâng cao trình độ và ý thức làm chủ của nhân dân. Mỗi người
dân Việt Nam cần thấm nhuần lời dạy của Bác: “Mọi người Việt Nam phải biết
quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để tham gia vào
công việc xây dựng nước nhà”.
3. Xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh phục vụ nhân dân
Trong điều kiện hiện nay, trước xu thế hội nhập và tồn cầu hóa, chúng ta phải
phát huy cao độ nội lực của dân tộc. Trong đó, cần phát huy đầy đủ quyền dân
chủ của nhân dân trong mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã
hội.
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, gắn việc xây
dựng, chỉnh đốn Đảng với cải cách bộ máy hành chính. Vai trị lãnh đạo của
Đảng là nhân tố quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước tiếp tục thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, ổn định xã hội, đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí. Cải cách bộ máy hành chính phải đi liền với cuộc vận động xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới Đảng, Đảng có trong sạch, vững mạnh thì mới
lãnh đạo được Nhà nước thực hiện nhiệm vụ.
Thứ hai, Cải cách nền hành chính quốc gia, xây dựng một nền hành chính
dân chủ, trong sạch , vững mạnh , từng bước hiện đại hóa Để có một nền hành
chính năng động , sáng tạo , tinh gọn , trách nhiệm , phục vụ tốt các nhu cầu của
người dân và xã hội , đáp ứng những đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thì chúng ta cần :
- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, sắp xếp , thu gọn các
đầu mối của Chính phủ . Đổi mới hoạt động của Chính phủ theo hướng Chính
12



phủ tập trung vào xây dựng các chính sách, các thể chế , hoạch định chiến lược
phát triển kinh tế- xã hội , chỉ đạo và điều hành phối hợp các ngành , các cấp
thực thi chính sách , pháp luật .
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, đẩy mạnh phân
cơng , phân cấp , nâng cao tính chủ động , sáng tạo , chịu trách nhiệm trước pháp
luật của chính quyền địa phương đối với mọi hoạt động xã hội tại địa phương .
Tăng cường chế độ kiểm tra , giám sát , đánh giá các hoạt động của Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân . Tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân , tăng cường
vai trò của Hội đồng nhân dân ở địa phương .
- Trong nền hành chính , có đội ngũ cán bộ , cơng chức đơng đảo và đồ sộ
nhất , do đó , yếu tố con người là khâu then chốt . Cần xây dựng quy chế hoạt
động công vụ , nâng cao đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ , công chức .
Thực hiện thường xuyên công tác đào tạo , bồi dưỡng nâng cao trình độ và kỹ
năng thực hành chuyên môn của đội ngũ cán bộ . Xây dựng đội ngũ cán bộ có
thói quen tuân thủ pháp luật , cơng tâm , có tinh thần trách nhiệm đối với nhân
dân .
KẾT LUẬN
Chăm lo đời sống Nhân dân là nhiệm vụ chính trị trung tâm, là thước đo
và tiêu chí đánh giá sự hoàn thành trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với
Nhân dân. Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 50 năm qua, Đảng và
Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách chăm lo đời sống Nhân dân, từ
đó tạo dựng được niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, chính quyền, đóng góp
sức người, sức của cho cơng cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ độc
lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia - xứng đáng với lời căn dặn và mong
muốn cuối cùng của Người trong Di chúc: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn
đấu, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Xuyên suốt qúa
trình ấy “thang thuốc” khơng kém phần quan trọng có thể làm cho Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng mạnh mẽ trong
điều kiện hội nhập quốc tế chính là, các cấp, các ngành, các tổ chức chính quyền,
đồn thể và tồn dân cần phải coi việc “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trở thành nhu cầu tự thân, việc làm thường
xuyên hằng ngày.
13


14



×