Tải bản đầy đủ (.doc) (187 trang)

Bài soạn Lich su Viet Nam cận đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.08 KB, 187 trang )

Việt Nam sử ca
Nguyễn Sinh TPHCM
VIỆT NAM SỬ CA
(Ngọc Diện Hoa chuyển thể thơ dựa theo
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim)
cảm ơn anh Nguyễn Sinh, TP HCM đã sưu tập và chuyển cho sugia.vn
toàn bộ sử ca này
NƯỚC VIỆT NAM (越南)
I. QUỐC HIỆU
Hồng Bàng lập nước Văn Lang
Âu Lạc, Thục Phán sửa sang bội phần.
Tượng Quận gọi bởi nhà Tần
Hán diệt Triệu, xẻ ba phần nước Nam:
Cửu Chân, Giao Chỉ, Nhật Nam
Giao Chỉ, Đông Hán đổi làm Giao Châu.
Nhà Đường nước chiếm, nhà thâu:
“An Nam đô hộ phủ”, sầu quốc vong!
Nhà Đinh dẹp loạn sứ xong
Đổi Đại Cồ Việt ngoài trong một lòng.
Sang đời nhà Lý Thánh Tông
Xưng danh Đại Việt, tuyên ngôn sử hồng.
Cùng thời, vua Lý Anh Tông
"An Nam quốc" nhận gia phong Tống triều.
Bắc Nam tranh chấp tiêu điều
Gia Long thống nhất, xây triều Việt Nam.
Dân tình khổ cực đã cam
Việt Nam, Minh Mệnh đổi làm Đại Nam.
Bá quyền chưa bỏ ý tham
Phương trời đất Bắc nhúng chàm đảo điên.
Sử vàng dệt một trường thiên
Việt Nam hai chữ gắn liền tự do!


II. VỊ TRÍ, DIỆN TÍCH:
Việt Nam chữ S ốm o
Ở giữa co lại, phình to hai đầu.
Xem qua số sướng, sang giàu
Ai ngờ mấy kỷ vương sầu, xót xa!
Đông - Nam hai hướng đi qua
Ký lô vuông khoảng vào ba trăm ngàn!
Đông Nam rào cản Hải Nam
Miếng mồi tranh chấp mộng tham của Tàu.
Miền Tây giáp giới Ai Lao
Vương triều một cõi ngày nào: Cao Miên.
Trung - Nam - Bắc cả ba miền
Gần Tàu chỉ khiến ưu phiền nước ta!
Chia nhau nước thẳm Hồng Hà
Thái Bình, miền Bắc phù sa đắp bồi.
Trời sinh núi cặp, người đôi
Trung xuôi, Thượng ngược sinh sôi tháng ngày.
Miền Trung cát trắng đong đầy
Trường Sơn một giải trời mây thắm hồng.
Miền trong, ruộng nước khai thông
Đồng Nai cuộn sóng sánh dòng Cửu Long.
Chung tay gắng sức vun trồng
Chen vai cuốc đất, cày đồng, trổ mương.
Giống nòi chung một tình thương.
Thái, Mèo, Chàm, Mán, Mọi, Mường, Khách, Vân...
Người Kinh chiếm bảy, tám phần
Sáu mươi sắc tộc góp phần giữ quê.
Da vàng trọn nghĩa phu thê
Thông minh, trí tuệ, trăm nghề thủ thân.
Chữ "Lễ, Trí, Tín, Nghĩa, Nhân"

Luân thường đạo lý đã phân rõ ràng!
Đàn bà mẫu mực, trung can
"Tiết, Nghĩa, Cần, Kiệm" đảm đang việc nhà.
Đàn ông giữ vững sơn hà
Xông pha sóng gió xứng là... mày râu!
Dầu rằng vóc sắc khác nhau
Cho dù tốt, xấu cũng đâu khác nguồn?
Muôn lòng giữ cội, gìn khuôn
Bắc - Nam kết một chiếc xuồng Việt Nam!
Quyển I
THƯỢNG CỔ THỜI ĐẠI
上古時代
Chương I
1. Họ Hồng Bàng 鴻龐
2. Nước Văn Lang 郎
(2879-258 trước Tây Lịch)
Người xa bến bãi sông Lam
Ta về Đồng Tháp không cam lỗi thề?
"Giấy rách còn giữ lấy lề"
Người Việt đâu cũng nhớ về chốn quê.
Lạc Long Quân lấy Âu Cơ
Mười lăm bộ họp dưới cờ Văn Lang.
Họ Hồng Bàng, giữ giang san
Mười tám đời rạng ngai vàng Hùng Vương!
3. Chuyện cổ tích về đời Hồng Bàng:
Giặc Ân thua bởi nhiễu nhương
Thiên Vương Phù Đổng phi thường lớn mau.
Núi cao theo nước nông, sâu
Năm nào Sơn, Thủy tranh cầu Mỵ nương.
Sử xanh chép lại mà thương:

Chử Đồng Tử khổ mới tường Tiên Dung.
Lòng trời lượng cả bao dung
Tu nhân, tích đức hòa chung tiếng cười.
Chương II
NHÀ THỤC (258-207 trước Tây Lịch)
1. Gốc tích nhà Thục:
Thục Phán lấy đất, chiếm người
Văn Lang, Âu Lạc, đồng thời nhập chung.
Thục - Tàu chẳng thể cùng vùng
Khâm định Việt sử bàn cùng một chương.
2. Nước Âu Lạc:
Phong ba, nắng gió ai lường
Xây trang huyền thoại Mị nương ngậm ngùi.
Hờn vây, oán trả nào nguôi
Duyên tình tráo trở, bùi ngùi thế gian.
3. Nhà Tần đánh Bách Việt:
Ai xui Thục chiếm Văn Lang
Cho chàng Trọng Thủy lừa nàng Mỵ Châu.
Giặc Tần gieo rắc thương đau
Thục Phán - Bách Việt, lấy đầu Đồ Thư.
4. Nhà Thục mất nước:
Loa thành nhà Thục thật, hư:
“Nỏ thần trăm phát”? Gian mưu Triệu Đà:
Se duyên, Thục - Triệu thông gia
Đà mang giảo kế lừa nhà Thục Vương.
Xót nàng duyên gãy mà thương
Tội nàng tình thiệt vạ vương rụng rời.
Triệu Đà được nỏ, nuốt lời
An Dương Vương phải bỏ đời giữa khơi!
Chương III

XÃ HỘI NƯỚC TÀU VỀ ĐỜI
TAM ĐẠI VÀ ĐỜI NHÀ TẤN
Triệu - Thục hỗn chiến máu rơi
Bên Tàu, nhà Hán đánh rơi họ Tần.
1. Phong kiến:
Mỗi người thủ lãnh một phần
Lập thành một nước, cống thần mỗi năm.
Chư hầu có đến tám trăm
Chia công, hầu, bá, tử, nam hưởng cùng.
2. Quan chế:
Tam công, nhà Hạ ra khung:
Đại khanh, Nguyên sĩ với cùng Cửu khanh.
Nhà Ân, hai tướng, năm quan
Sáu quan thái, sáu phủ đàn, sáu công.
Sáu quan, đặt bởi Chu Công
Thiên, Xuân, Địa, Hạ, Thu, Đông, được thành.
Thiên quan, cấp đứng đầu ngành
Tên là Chủng tể, tuần hành ở trong.
Đại tư đồ giữ thương, công
Giáo dục, cảnh sát, hội đồng: Địa quan.
Đại tư mã, đầu Hạ quan
Cầm binh phụng mạng, trị an nước nhà.
Tam công một chức đặt ra
Quan trên chính sự, dưới là lục quan.
Hành chính chẳng được cùng can
Tam cô, Thái, Thiếu phó bàn chiến chinh.
3. Pháp chế:
Đời Thái Tổ có năm hình
Thêm roi da với đày mình: tội lưu.
Nhà Ân, nhà Hạ, nhà Châu

Lăng trì, mổ, muối, chặt đầu, xé thây...
4. Binh chế:
Năm người, nhập ngũ binh ngay
Quân, Sư, Súy, Lữ mỗi tay một phần.
Thiên tử thì có sáu quân
Nước nhỏ được một, chư thần được ba.
Nhà, Tỉnh từ Nước mà ra
Ấp, Khâu, Điện có cổ xa, trăm người.
5. Điền chế:
Mười phần ruộng lấy một mươi
Đi theo Phép cống tùy thời biến thiên.
Ân, Chu dùng phép Tỉnh điền
Công, tư hoa lợi, nộp liền đức vua.
Người nông của chẳng dư thừa
Giàu nghèo cấp bậc thì chưa rõ ràng.
Lý Khôi, Chiến quốc, luật ban:
Toàn dân làm ruộng, chẳng màng phép chi.
"Thiên mạch" được mở tức thì
Hai phép Cống, Tỉnh biệt ly, bất hoàn.
6. Học hiệu:
Vua, quan, nếu có sinh con
Vào trường Đại Học đọc mòn lễ, thư.
Tiểu học dạy cách làm người
Kính, nhường ứng xử, mở lời khéo khôn.
7. Học thuật:
Đời Chu có lắm danh ngôn
Khổng, Lão lễ nghĩa tiếng đồn chẳng ngoa.
Mặc Định kiêm ái, ôn hòa
Hàn Phi, Quỷ Cốc sáng lòa hiếu nhân.
8. Phong tục:

Công, thương, nông, sĩ đã phân
Phu tùy, phụ xướng mười phần lễ nghi.
Tổ tiên thờ phụng kính tri
Đến đời Ngũ bá mất đi tục này.
Văn minh Tần đã đổi thay
Triệu Đà truyền luật mới này mọi nơi.
Chương IV
NHÀ TRIỆU 趙
(207 - 111 trước Tây lịch)
1. Triệu Vũ Vương:
Tránh cho máu chảy đầu rơi
Triệu Vũ Vương mới chịu lời Hán Vương.
Nam Việt một cõi nhún nhường
Vua con yếu nhược, tính phương bán nhà.
2. Vũ Vương thụ phong nhà Hán:
Vũ Vương lập nghiệp bên ta
Bên Tàu, Hán diệt Sở là Lưu Bang.
Cao Tổ thấy Vũ đăng quang
Bèn sai Lục Giả chiêu hàng, tấn vương.
Kiêu căng, Vương mới coi thường
Lục Giả phân giải hư tường, mới thông.
3. Vũ Vương xưng Đế:
Khi Cao Tổ khuất ngôi rồng
Lữ Hậu quay lại tranh dòng, lấn vua.
Cấm quan hệ với bán mua
Vũ Vương bất mãn mới xua lính càn.
Xưng làm Hoàng Đế lại gan
Trường Sa đánh tới mở màn chiến chinh.
Quân Hán chẳng thuộc địa hình
Không quen thủy thổ muôn tình bệnh đau.

Quay đầu rút chạy về mau
Thanh thế Vũ Đế ngầu ngầu đỉnh thiên.
4. Vũ Vương thần phục nhà Hán:
Hán Văn Đế gởi thư riêng
Lục Giả nhận biển, trao liền Vũ Vương.
“Trẫm nay mọi việc đã tường
Lấy lại đất nước từ phường Lữ gian.
Quần thần thúc ép đăng quang
Nay thư gởi đến vua bàn chuyện binh.
Vì dân, trẫm mới cầu xin
Trường Sa hỗn loạn, dân tình khổ đau.
Nhà vua hãy rút binh mau
Hai bên chiến loạn thêm sầu thế nhân.
Đôi lời trẫm đã tường phân
Mộ phần đã sửa ở Chân Định rồi.
Hai nơi mấy núi xa xôi
Ganh nhau chẳng khác chi loài tiểu nhân”.
Lời thư tử tế hiền nhân
Tin lời, Vũ Đế xưng thần Hán cao.
Giáp Thìn, Triệu Vũ bãi trào
Trăm hai mốt tuổi đi vào vạn thu.
5. Triệu Văn Vương:
Văn Vương trí nhược, tâm nhu
Lên ngôi, giặc giã biên khu loạn ngầu.
Quân nhà Hán cứu binh nhau
Mân Việt giết chúa nạp đầu mới yên.
Mời chầu, Trang Trợ phụng thiên
Vũ Vương chẳng chịu mới liền gởi con.
Anh Tề Thái tử tâm non
Mười năm lạc nước nên mòn nghĩa quê.

6. Triệu Minh Vương:
Nghe Vũ mất, Anh Tề về
Lập hậu, xưng Đế đâu ngờ kẻ gian.
Tư thông kiếm lợi hai đàng
Cù bà vợ lẽ, ra màn cướp ngôi.
7. Triệu Ai vương:
Minh Vương khi đã mất rồi
Thái tử Hưng được lên ngôi trị vì.
Hán sai Thái Qúi tùy nghi
Cùng bà Thái hậu thị phi mập mờ.
Dụ con dâng nước, bán bờ
Hai bên chỉ đợi đến giờ nạp ra.
May nhờ Tể tướng Lữ Gia
Vạch mưu Cù Thái hậu và Ai Vương.
Người Nam đánh Hán kiên cường
Cho rằng vĩnh cữu, ai tường bại vong!
Quyển II
BẮC THUỘC THỜI ĐẠI
北屬時代
(111 tr. Tây lịch – 931 s. Tây lịch)
Chương I
BẮC THUỘC LẦN THỨ NHẤT
1. Chính trị nhà Tây Hán:
Vũ Đế chiếm Đại Việt xong
Đổi Giao Chỉ bộ mà hòng nuốt tươi.
Thái thú, Thứ sử trêu ngươi
Lạc hầu, Lạc tướng, chia người trực phiên.
Thạch Đái đóng phủ Long Yên
Là quan thứ sử trước tiên quận này.
Vương Mãng cướp Hán vào tay

Tích Quang, Đổ Mục thẳng ngay chẳng về.
Đến khi Quang Vũ yên bề
Quang, Mục, Đặng Nhượng theo lề cống sang.
2. Tích Quang và Nhâm Diên:
Thái thú Giao Chỉ: Tích Quang
Khai hóa, dạy nghĩa cho hàng thứ dân.
Nhâm Diên, Thái thú Cửu Chân
Chăm lo khai khẩn, canh tân ruộng đồng.
Chương II
TRƯNG VƯƠNG 徵王 (40-43)
1. Trưng thị khởi binh:
Thời kỳ Bắc thuộc long đong
Thù chồng, khởi nghĩa, Châu Phong lập thề.
Người Giao Chỉ lại cùng về
Ba năm dựng nước theo cờ Nhị Vương.
Tô Định bạo ngược khôn lường
Giết người Giao Chỉ không tường thị phi.
Bắt Thi Sách đem giết đi
Hai Trưng Trắc, Nhị tức thì khởi binh.
Con dòng Lạc tướng Mê Linh
Đuổi quân Tô Định mà bình đất Nam.
Cửu Chân, Hợp Phố, Nhật Nam
Chẳng bao lâu hạ sáu lăm thành trì.
Xưng vua, lừng lẫy ai bì
Mê Linh đóng phủ, uy nghi một miền.
2. Mã Viện sang đánh Giao Chỉ:
Tân Sửu, Quang Vũ lệnh truyền
Phục Ba Mã Viện, binh liền thẳng dong.
Đoàn Chí cùng với Lưu Long
Phó và thuyền tướng tháp tòng xuất chinh.

Hai bên giáp chiến tử sinh
Hát Môn đẫm máu giấu hình Nữ Vương.
Trung lưu nữ kiệt can trường
Thua cơ Mã Viện, cùng đường nhảy sông.
Sông xanh nước chảy mênh mông
Ghi trang quốc sử muôn dòng tiếc thương.
Hồn thiêng phảng phất trong sương
Hát Giang sông sáng soi gương Hai Bà!
Ba năm một cõi sơn hà
Nghìn năm Bắc thuộc sao mà sánh qua!
Anh thư, lịch sử nước ta
Nữ vương chỉ có Hai Bà, chẳng ai!
Qúy Mão mồng sáu tháng hai
Hương hoa khói tỏa tạc đài ngợi ca!
Chương III


BẮC THUỘC LẦN HAI (43-544)
I. NHÀ ĐÔNG HÁN:
1. Chính trị nhà Đông Hán:
Nhà Đông Hán trị dân ta
Tham tàn, hiếp đáp quả là Khuyển Ưng.
Người Giao Chỉ khổ vô chừng
Tìm vàng dưới biển, lên rừng kiếm châu.
2. Lý Tiến và Lý Cầm:
Nhân tài bị bỏ, còn đâu
Lý Cầm, Lý Tiến cùng nhau khẩn cầu.
Hán Minh Đế ngẫm lời tâu
Thăng quan chức hậu, nễ nhau mấy phần.
Trương Trọng đi sứ cầu thân

Năm phần cứng cỏi, năm phân nhún nhường.
Nhìn người chớ có khinh thường
Nhân tài trí dũng, ai nương tướng ngoài.
3. Sĩ Nhiếp (187- 226):
Người nước Lỗ, đổ mậu tài
Tránh loạn biên tái, nên ngài đến ta.
Đời Hiến Đế, năm thứ ba
Trong Châu giặc giã, xin ra trấn ngoài.


Đình hầu thọ sắc phong rồi
Tướng quân An Viễn đến hồi trị gia.
Lấy điều phép tắc xây nhà
Nhân dân trọng đức tôn là Sĩ Vương.
II. ĐỜI TAM QUỐC (220-265)
1. Nhà Đông Ngô (222-280):
Đông Ngô thế mạnh hùng cường
Nhà Đông Hán đã vào đường thế cô.
Nước Tàu xé lẻ địa đồ
Giao Châu lệ thuộc Đông Ngô Tôn Quyền.
Bính Ngọ, Sĩ Nhiếp quy tiên
Sĩ Huy xưng Thái thú liền thế cha.
Quảng Châu: Hợp Phố trở ra
Giao Châu: Hợp Phố ngược mà trở đi.
Đái Lương cùng bọn Trần Thì
Đem quân đến bắt Sĩ Huy phải hàng.
Anh em năm kẻ liên can
Bị giết bởi tội chịu hàng họ Tôn.
Bấy giờ, Ngô chủ tính khôn
Hai châu Giao, Quảng phải dồn một Châu.

Lữ Đại - Thứ sử đứng đầu
Đem quân lấn chiếm chư hầu Cửu Chân.
2. Triệu Ẩu:
Giao Châu, Giao Chỉ tương phân
Thứ sử Lục Dận muôn phần ác tinh.
Mậu Thìn, Quốc Đạt khởi binh
Quân tôn nữ Triệu Thị Trinh đứng đầu.
Anh em bảo bọc cho nhau
Ai ngờ gặp phải chị dâu chẳng hiền.
Thị Trinh lập tức giết liền
Lên rừng mộ lính, múa quyền, cỡi voi.
Non nhà lửa bỏng, dầu sôi
Anh em Triệu Ẩu song đôi chém Kình.
Anh hùng, nữ tướng kiên trinh
Lục Dận lạc phách, hồn kinh lắm điều.
Theo mây về cõi tiêu diêu
Non sông tạc tiếng: "Nhụy Kiều tướng quân"!
“Tài trinh đệ nhất phu nhân
Bậc chính anh liệt nữ thần” tỉnh Thanh.
3. Nhà Ngô chia đất Giao Châu:
Nhà Ngô chặt cội, đẵng cành
Đem đất Nam Việt chia thành hai Châu.
Quảng Châu cùng với Giao Châu
Quan Tàu Thái thú thay nhau bạo tàn.
Dân gian loạn lạc, mới bàn
Giết quan Thái thú mà hàng Ngụy quân.
Giao Châu mục, có Đào Hoàng
Đầu Ngô, hàng Tấn để còn Giao Châu.
III. NHÀ TẤN (265-420)
1. Chính trị nhà Tấn:

Thiên hạ, nhà Tấn đã thâu
Thương nhà Ngụy mới phong hầu cháu con.
Các thân vương vì sống còn
Thi nhau thủ đoạn chẳng tròn đệ huynh.
Thiên tai tại thượng vô tình
Xưng vương, xưng đế một mình, một sân.
Hơn mười sáu nước tranh phân
Ngũ Hồ loạn lạc muôn dân cực hình.
2. Nước Lâm Ấp quấy nhiễu Giao Châu:
Bên trong chính sự bất bình
Bên ngoài giặc phá, dân tình oán than.
Giặc Lâm Ấp muốn thi gan
Phạm Hùng cướp cạn, quân càn Nhật Nam.
Canh Thân, Tuệ Độ đã làm
Giao Châu Thứ sử diệt Chàm trị yên.
Phạm Hồ Đạt được mấy niên
Bị Chư Nông phản cướp quyền, hỏng xôi!
Khi Phạm Dương Mại chiếm ngôi
Nam Bắc triều đã phân đôi nước Tàu.
Đông Tấn và Tống đánh nhau
Vua Lâm Ấp mới gây sầu Giao Châu.
IV. NAM BẮC TRIỀU (420-588)
1. Tình thế nước Tàu:
Canh Thân, Lưu Dụ mưu sâu
Cướp ngôi Đông Tấn chia nhau Bắc triều.
Giao Châu phụ thuộc Nam triều
Ngụy, Tề, Chu đế gây điều ngoại xâm.
2. Việc đánh Lâm Ấp:
Nói về họ Phạm ngấm ngầm
Ngôi người khác lại rộ rầm cướp đi.

Thấy Tàu nội loạn ra chi
Sai cống nhà Tống muốn vì Giao Châu.
Tống triều nào há chịu đâu
Họ Phạm kia mới hái dâu nhử tằm.
Hòa Chi, Tông Xác đã căm
Mang binh sang đánh, Phạm ngầm chạy mau.
Đàn Hòa Chi vội tóm thâu
Người vàng một tượng, báu châu chật nhà.
Gian tham chẳng đổi thật thà
Vàng kia cái lộng cũng là con dao.
Hòa Chi rớt chức, mất bào
Giao Châu Thứ sử lộn nhào, hỡi ôi!
3. Sự biến loạn ở đất Giao Châu:
Kỷ Mùi, nhà Tống mất ngôi
Nhà Tề kế nghiệp không thôi cướp giành.
Nhà Lương khởi sự máu tanh
Tiêu Tư tàn bạo lòng đành dửng dưng.

Chương IV
NHÀ TIỀN LÝ 前李 (544-602)
1. Lý Nam Đế (544-548):
Giao Châu thóc chín lưng chừng
Thân trâu, kiếp ngựa vang lừng trống khua.


Ngoài biên, giặc Tống hơn thua
Bên trong, Lâm Ấp vào mùa phá ranh.
Bên Tàu, lưỡng thổ phân tranh
Tề vừa phế Tống, Lương thanh toán Tề.
Tham tàn thái thú, người ghê

Hùng tâm, Lý Bí giương cờ diệt gian.
Vạn Xuân thoát cảnh lầm than
"Thái bình thiên đức", xua tan bóng tà.
Bình minh chiếu sáng sơn hà
Thanh bình tự chủ như là đến phiên!
Nghe qua, Lương Đế đảo điên
Xua quân lấn chiếm, Bá Tiên phụng quyền.
Thua đi, thắng lại truân chuyên
Lý Bôn quyết định trao quyền Triệu Vương.
2. Triệu Việt Vương (549-571):
Triệu Việt Vương - Dạ Trạch Vương
Trung kiên dạ tướng, cung thương quật cường.
Thông gia Phật Tử, lầm đường
Nhằm tin rễ phản, nào lường vạ, may!
3. Hậu Lý Nam Đế (571-602):


Tranh ngôi, Phật Tử ra tay
Hậu Lý Nam Đế thua ngay nước Tùy.
Giao Châu hết thịnh thì suy
Ba trăm năm lẻ chịu quỳ Bắc phương!
Chương V
BẮC THUỘC LẦN THỨ BA
(603 - 939)
I. NHÀ TUỲ (589-617)
Việc đánh Lâm Ấp:
Nhà Tùy sai tướng Lưu Phương
Sang đánh Lâm Ấp xem dường ý gian.
Vì đồn Lâm Ấp lắm vàng
Phạm Chí chạy, Phương giữa đàng bệnh... thăng!

Giết người, cướp của nên chăng
Mạng đi thay của họa rằng đã vương.
II. NHÀ ĐƯỜNG (618-907)
1. Chính trị nhà Đường:
Mậu Dần, Tùy mất bởi Đường
Tân Tỵ, Cao Tổ phô trương thế ngoài.
Cắt Đại tổng quản trông coi
Cùng việc cai trị coi mòi ở lâu.
Khâu Hòa quản đất Giao Châu
Ngang tàn, bạo ngược như nhau, một phường!
2. An Nam đô hộ phủ:
Nhà Tùy tiếp đến nhà Đường
Đời nào cũng vẫn coi thường Giao Châu.
Dân ta lệ thuộc vào Tàu
Mười hai mảnh đất chư hầu ngó nhau!
3. MAI HẮC ĐẾ (722)
Nhằm trừ giặc cướp nương dâu
Họ Mai một cõi Hoan Châu đứng đầu.
Nhỏ người, sức khỏe tựa trâu
Thúc Loan mặt mũi, mày râu đen sì!
Xưng vua Hắc Đế gây uy
Đánh nhau nổi tiếng gan lỳ tướng quân!
Anh hùng, thất thế sa chân
Họ Mai kia chốn phong trần, lánh xa.
4. Giặc bể:
Tân Tỵ có quân Đồ Bà
Ngoài bể vào phá với là Côn Lôn.
Ra vào cướp giật cô thôn
Quan Kinh lược đánh, hoảng hồn chạy nhanh.
Trương Bá Nghi xây La thành

Phòng ngừa cướp đánh và canh cướp ngầm.
5. Bố Cái Đại Vương (791):
Họ Quang kia thật là thâm
Làm quan bảo hộ chuyên nhằm vét vơ!
Nhân dân ta, lúc bấy giờ
Sưu cao, nặng thuế hai bờ chẳng cam.
Phùng Hưng vốn ở làng Cam
Vùng lên giết chết quan tham Chính Bình.
“Đại Vương Bố Cái" thâm tình
Thương thay yểu mạng, vô hình thở than.
6. Việc đánh nước Hoàn Lương
Phùng An nhút nhát cầu an
Cha giành độc lập, con hàng giặc Xương!
Nhà Đường đánh nước Hoàn Lương
Giết người Mường, Mán, ăn lường thảm thương!
7. Nam Chiếu cướp phá Giao Châu:
Tư thù, Mán tộc và Mường
Xui người Nam chiếu cướp đường Giao Châu.
Tranh nhau đến loạn xà ngầu
Mười năm đổ máu đi chầu Diêm Vương!
8. 9. Cao Biền bình giặc Nam Chiếu.
Công việc của Cao Biền:
Cao Biền tướng giỏi nhà Đường
Tinh thông sách học, làu thường tướng môn.
Trừ căn, tính quẻ Càn Khôn...
Bình quân Nam Chiếu, huyệt môn yểm trừ.
10. Sự trị loạn của nước Tàu:
Vua mà chính trực công tư
Nhân gian chẳng được khúc từ “Sâm thương”!
Hưng, suy nghĩ cũng là thường

Ta - Tàu nội loạn, sa trường tử thương.
III. ĐỜI NGŨ QÚY (907-959)
1. Tình thế nước Tàu:
Bên Tàu, Ngũ Quý phân vương:
Hậu Đường, Hán, Tấn, hậu Lương, ngũ vùng.
Hậu Chu: năm nước xưng hùng
Để Khúc Thừa Dụ được cùng tấn quan.
2. Họ Khúc dấy nghiệp:
Khúc Thừa Dụ (906-907)
Giao Châu, họ Khúc xây làng
Người giàu tốt bụng, không màng dã tâm.
3. Khúc Hạo (907-917):
Làm quan chỉ độ tròn năm
Trao quyền Khúc Hạo lo chăm nước nhà.
4. Khúc Thừa Mỹ (917-923):
Khúc Thừa Mỹ, nối nghiệp cha
Mất lòng phải vạ, họa nhà: Tù binh!
Khúc cha đại nghĩa thâm tình
Khúc con chính nghĩa thường tình bỏ đi!
5. Dương Diên Nghệ và Kiều Công Tiễn
(931-938)
Lý Khắc Chính ác ai bì
Nên Dương Diên Nghệ mới vì Khúc gia.
Đánh cho Lý Tiến chạy xa
Dạy cho Khắc Chính biết ta, biết mình!
Ai ngờ nội phản, tham sinh
Kiều Công Tiễn lại vong tình, giết đi!
Gian thần, lịch sử còn ghi:
Trong lo thí chúa, ngoài thì loạn tâm.
Ngô Quyền khởi nghiệp Đường Lâm

Căm phường phản chúa, kiên tâm báo thù.
Kiều Công tiếng xấu thiên thu
Tìm đàng cứu viện quân thù: Hán Vương.
Hoằng Tháo: Thái tử Bắc phương
Xâm lăng chẳng thấy con đường hiểm sâu.
Ngô Quyền sai vót nhọn đầu
Đằng Giang đóng cọc chìm sâu xuống dòng.
Gian thần phải tội bên trong
Bạch Đằng Giang sóng đầy chông giết thù.
Ngô Quyền đức trí cương - nhu
Quăng đi cái ách nghìn thu thuộc Tàu.
Danh thơm, tiếng mãi về sau
Non sông gấm vóc nhắc nhau bảo toàn.
Chương VI
KẾT QỦA THỜI BẮC THUỘC
1. Người nước Nam nhiễm văn minh của Tàu:
Theo dòng lịch sử tính toan
Ngàn năm Bắc thuộc gì còn nước ta!
Hay, dở từ ấy mà ra
Luân lý, phong tục ruột rà với nhau.
2. Nho Giáo:
Theo gương "trung hiếu" làm đầu
"Để" "Thử" là gốc, làm câu sửa mình.
Nho gia, lý tưởng anh minh
Luân thường đạo lý thâm tình sử xanh.
Làm người trọng nghĩa, khinh danh
Ai ai cũng thể cây xanh, hiệp hòa.
Tăng, Sâm, Khổng Tử đề ra
Đi qua Khổng Cấp, Mạnh Nha, đạo thành.
Nho gia vất vả trường sanh

Thủy Hoàng đốt sách, máu tanh học trò!
Đời Cao Tổ, đạo thịnh to
Nhà Hán bớt khó nên cho mở trường.
Đạo nào mà có chủ trương:
Lập trường "Nhân-Nghĩa": Đạo đường Việt Nam.
3. Đạo Giáo:
''Vô tri, điềm tỉnh'', trừ tham
Không dùng "trí lực" mà cam khổ mình.
Đạo giáo triết học cao minh.
Tu tâm, trị nước mô hình "trường sinh".
Lý Đan nước Sở phát sinh
Làm dây Tầm gởi qua mình nhà Chu.
Quên chuyện tình, lo ''chuyên tu''
Cho mình "bất tử" mà đu với đời.
Trương Đạo Lăng, quả gặp thời
Tần, Đường, Hán mới tin lời viễn vong.
Đồng hành tiên thuật, hạnh thông
Hoàng Cân Trương Giác, Cát Hồng nối nhau.
Tử - Sinh vốn đã từ lâu
''Trường sinh" ai đã được đâu, phép màu?
4. Phật Giáo:
Đời người đầy ải khổ đau
"Sinh, lão, bệnh, tử'', nỗi sầu biến thiên.
Luân hồi kiếp bởi nhân duyên
Làm sao thoát được ưu phiền thế gian?
Đức Thích Ca đã không màng
Quên thân Thái tử, tìm đàng Phật ngay.
"Niết bàn" khi đã rũ tay
Bất sinh, bất diệt thành thầy Phật gia.
Bà-La-Môn, gốc Thích Ca

Từ Ấn Độ đã đi qua nước Tàu.
Rồi vì "Tông Chỉ" khác nhau.
Nên Phật tích đổi ra màu Phật kinh.
Nhà Đông Hán có Huệ Sinh
Thái Am với Tống Vân tinh Phật đàn.
Vua Đường hạ chiếu Huyền Trang
Đi sang Thiên Trúc, Kinh mang để truyền.
"Tây Du Ký", động địa thiên
Ngô Thừa Ân truyện giải phiền chúng sinh.
Biết bao nhiêu nghĩa với tình
Biết bao câu chữ ẩn hình tử sinh.
Tiền Lê, nhà Lý, nhà Đinh
Thịnh hành đạo Phật; Nho vinh Lý - Trần.
Quốc đạo thống nhất bất phân
Đạo nào cũng đã góp phần đấu tranh!
5. Sự tiến hóa của người nước Nam:
Nho, Phật, Lão phát triển nhanh
Dân ta tín ngưỡng theo thành thói quen.
Cần dùng, cách chống ươn hèn
Tranh đua chẳng phải bon chen cạn cùng.
Ta – Tàu tục lệ như chung
Văn minh nước Việt không sùng bái Tây.
Gì của Tàu, cũng cho hay
Tiến hóa chẳng mấy, loay hoay kém người.
Quyển III
TỰ CHỦ THỜI ĐẠI
(Thời kỳ thống nhất)
自主時代
Chương I
NHÀ NGÔ 吳(939-965)

I.
1. Tiền Ngô Vương (939-944)
Ngô Quyền nối tiếp ngôi trời
Xưng Vương, Kỷ Hợi, sáng ngời Cổ Loa.
Sáu năm chỉnh đốn gần xa
Giáp Thìn, chèo chống sơn hà, hết duyên.
2. Dương Tam Kha: (945-950)
Tam Kha em vợ cướp quyền
Xưng Bình Vương phản, đời nguyền rủa không?
Non nhà ngập cảnh bão giông
Xương Ngập trốn ở Lịnh Công đợi thời.
3. Hậu Ngô Vương (950-965):
Xương Văn, em ruột thay lời
Giam cha nuôi - cậu, vạ trời tạm qua.
Người nhà, chẳng giết, nên tha
Truyền cho giáng chức còn là lệnh Công.
Cùng anh, trị quốc song song.
Hai Vua một nước theo dòng Hậu Ngô.
Anh em dựng lại cơ đồ
Như tình Trắc - Nhị cùng khô máu đào.
Hiềm rằng đại loạn gươm đao
Công Ngô Quyền đã rơi vào đáy sông!
II. THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967)
Thổ hào Trần Lãm, Kiều Công
Thái Bình, Cảnh Thạc với dòng Nguyễn Khoan.
Lý Khuê, Nguyễn Siêu sống còn
Lữ Đường, Khánh, Thuận thủ đòn Tá Công.
Đằng Châu, Bạch Hổ, Phạm Phòng
Tranh ngôi, trở mặt, sanh lòng đánh nhau.
Chương II

NHÀ ĐINH 丁(960-980)
1. Đinh Tiên Hoàng (968-979):
Họ Đinh - thứ sử Giao Châu
Con là Bộ Lĩnh chăn trâu khác thường.
Thông minh, khí chất quân vương
Cờ lau tập trận, người thường nễ danh.
Thương người trí dũng, hùng anh
Trần Minh Công mới phong thành tướng quân.
Hoa Lư tiếng đã vang lừng
Đem quân bắt giết thanh trừng loạn quan.
Bộ Lĩnh khí chất cao sang
Sứ quân thập nhị quy hàng bốn phương.
Vinh tôn đức "Vạn Thắng Vương"
Lên ngôi hoàng đế hùng cường nước Nam.
Bên Tàu, họ Triệu tham lam
Hậu Chu - Khuông Dận gian phàm giống nhau.
Mở đường ''Nam tiến'' trước sau
Tiên Hoàng tính kế: Hòa nhau Tống Triều.
Ngoài yên, triều cống kẻ kiêu
Bên trong lập tức ra điều dạy quan.
Dầu sôi giữa điện phòng gian
Nuôi đàn hổ dữ ngăn can phản thần.
Quân binh ngũ hạng mà phân:
"Đạo, Quân, Lữ, Tốt, Ngũ" quân vạn hàng.
Chừng như ổn thỏa giang san
Phế trưởng, lập út, Tiên Hoàng chết oan!
Sử rằng: Đổ Thích tính toan...
Giết Tiên Hoàng cướp ngai vàng hưởng hơi.
Đêm nằm mộng thấy sao rơi
Cho mình số Đế khơi khơi, mới lầm.

Đời người dễ được trăm năm
Làm con giòi chết, tiếng tăm để đời!
Nam Việt Vương - Liễn, một thời
Lẫy lừng trận mạc, ngôi rơi mới cuồng.
Giết em cũng giống một tuồng
Bị người giết lại rặc khuôn sử Tàu.
Tội đồ Đỗ Thích trước sau
Đình thần bắt được chặt đầu, bệu thây.
Cùng ngày, Đinh Tuệ lên ngay
Nhiếp chính: Thái hậu cùng thầy họ Lê.
2. Phế Đế (979-980):
Nước nguy, vua bé, mập mờ
Lê Hoàn, Thái hậu đến giờ tự thông.
Vua - chồng chết cũng coi không
Xem ra chẳng phải là dòng chính chuyên!
Ai người dựng tích mà truyền
Khen Dương Thái hậu người hiền, thiện chân?!
Đinh Điền, Nguyễn Bặc trung thần
Can ngăn đổi chúa, vào phần thảm thê!
Vừa phiên Tống đế thừa cơ
Vua còn nhỏ dại, giương cờ xâm lăng.
Tướng quân họ Phạm bàn rằng:
- Ai luận thưởng, phạt? Chi bằng phế vua?
Dù trong, quả thật hơn, thua
Nhưng ngoài đánh giặc cần vua có tài.
Thái hậu có một không hai
Lột áo con mặc, chuyển ngai họ Hoàn!
Đinh Triều thế phổ cung son
Hai vua, mười bốn năm tròn phải cam!
Chương III

NHÀ TIỀN LÊ 前蔾 (980-1009)
1. Lê Đại Hành (980-1009)
Lê Hoàn ở tỉnh Hà Nam
Xưng Hoàng đế bởi không cam rợ người.
Hay rằng Tống chúa mười mươi
Manh tâm lấn chiếm, ăn tươi nước mình.
Vẽ vời binh vực nhà Đinh
- “Ba đời truyền tập", bất bình xuất chinh.
2. Phá quân nhà Tống:
Lưu Trừng thống lĩnh thuỷ binh
Toàn Hưng, Nhân Bảo: Lục binh đánh tràn.
Đại Hành giữ Bạch Đằng Giang
Trá hàng giết chết Hầu gian, địch tàn.
Non nhà thắng lợi vinh quang
Cho rằng chẳng thể sánh ngang Tống trào.
Thôi thì... để Tống trên cao
Người Nam chịu cống miễn sao được lành.
3. Đánh Chiêm Thành:
Đại Hành đối Tống đã thành
Đánh Chiêm vì lỗi giam đành sứ ta.
Bắt người, lấy của chẳng qua
Chỉ là bắt chước người ta đấy mà!
4. Việc đánh dẹp và sửa sang trong nước:
Sửa sang trong nước, triều ca
Tử An cùng với quan nha họ Từ.
Phạm, Ngô sách lược, binh thư
Đại Hành rảnh rỗi dẹp trừ Mường qua.


Năm Ất Tỵ, vua băng hà

Hăm bốn năm Đế, thọ là sáu lăm.
Công lao xóa trắng lỗi lầm
Người dân Nam Việt rầm rầm ngợi ca.
Thanh danh lừng lẫy gần xa
Buồn thay! Cốt nhục toàn là bạo quân.
Anh lo đấm đá tưng bừng
Giành ngôi thể chẳng chưa từng đệ huynh!
5. Lê Trung Tông (1005):
Đăng cơ, thái tử vạ rình
Ba ngày tại vị, đầu mình... rớt êm!
Long Đĩnh ngày ác, dâm đêm
Giết em Long Việt, đã thèm thú riêng!
6. Lê Long Đỉnh (1005-1009):
Lê Ngọa Triều quả vua... điên
Ác bằng Kiệt, Trụ lại ghiền máu tanh.
Hành người khác, tính trời sanh
Tẩm rơm đốt sống đã thành trò chơi.
Đẵng cây, người té khơi khơi.
Đầu sư: Róc mía, vẽ vời xảy tay!
Giữa triều trò nhái, vua bày
Đem người bỏ sọt, ban ngày thả sông!
Vua nòi "khát máu, tanh dòng"
Ăn chơi trụy lạc, không lòng nghĩa nhân.
"Ngọa Triều" cho đáng tấm thân
Ngàn năm bia miệng hại dân, để lời.
Tiền Lê truyền dẫn ba đời
Hăm chín năm Đế, hết thời, công… toi!
Chương IV
NHÀ LÝ 李 (1010-1225)
I. LÝ THÁI TỔ (1010-1028)

Niên hiệu: Thuận Thiên 順天
1. Thái tổ khởi nghiệp:
Công Uẩn được chọn lên ngôi
Họ Lý khởi nghiệp quê ngoài Bắc Ninh.
Tương truyền chỉ có mẹ sinh
Nhân khi mộng thấy ''thất trinh'' với Thần.
Khánh Văn nuôi dưỡng, đỡ đần
Vừa ba tuổi đã quen dần kệ kinh.
Chìu theo thế thái nhân tình
Dời đô ý sẵn cho mình phát quang.
2. Dời đô về Thăng Long thành:
Thái Tổ mộng thấy điềm sang:
Rồng vàng uốn khúc bay ngang chánh thành.
Đại La đổi Thăng Long thành
Con Rồng cháu Thánh, xứng danh Lạc Hồng.
3. Lấy kinh Tam Tạng:
Đời Lý, đạo Phật đã thông
Đạo Thanh, Phạm Hạc bỏ công tới Tàu.
Mang kinh Tam Tạm truyền nhau
Chùa chiền, chuông đúc có hầu mọi phương.
4. Việc chính trị:
Nhận phong Giao Chỉ Quận Vương
Chiêm Thành, Chân Lạp cũng đương thái bình.
Các hoàng tử giỏi cầm binh
Công chúa thu thuế quân bình mỗi năm.
Công Uẩn thọ đến năm lăm
Mười chín năm Đế, thâm trầm thiện lương.
II. LÝ THÁI TÔNG (1028-1054)
Niên hiệu: Thiên Thành 天成
1. Lê Phụng Hiểu định loạn:



Hoàng triều phải cảnh tai ương
Hoàng tử thì lại như phường bọ sâu.
Giữa triều, lấy nghĩa can nhau
Không nghe, Phụng Hiểu chém đầu Võ Vương!
Đông Chinh, Dực Thánh cùng đường
Hai vương rớt lại coi dường chịu thua.
Thương tình cốt nhục, nhà vua:
''Chức cũ không được hơn thua, hãy dùng''.
2. Sự đánh dẹp:
Nhà vua trước dẹp giặc Nùng
Sau bình Chiêm cũng là cùng giúp dân.
Thái Tông vốn thật từ nhân
Thứ tha Nùng Trí, nới chân kẻ thù.
Thương dân, tiếng để thiên thu
Người nào có tội được bù chuộc thân.
3. Giặc Nùng:
Trí Cao chẳng chịu yên phần
Xưng là Hoàng Đế mở dần Đại Nam.
Tám Châu chiếm lấy vì tham
Địch Thanh phá trận, Trí cam mất đầu.
4. Đánh Chiêm Thành:
Chiêm Thành quấy nhiễu từ lâu
Thái Tông ngự giá tiến sâu Phật thành.
Tướng Chiêm phản chúa đoạn đành
Chém đầu Sạ Đẩu để thành quốc vong.
Thái Tông trông thấy động lòng
Lệnh truyền các tướng chớ hòng giết dân.
Bắt vương phi với cung nhân

Ê Mị giữ tiết gieo thân giữa dòng.
5. Việc chính trị:
Chăm lo muôn việc ngoài trong
Hoàng nam, cấm bán làm dòng bộc nô.
Đường quan lộ mở ra vô
Thêu thùa, cung nữ, gia nô có phần.
Hăm bảy năm đã trị dân
Vua hiền, con thảo mẫn cần chí tôn.
III. LÝ THÁNH TÔNG (1054-1072)
Niên hiệu: Long Thụy Thái Bình
龍瑞太平
1. Việc chính trị:
Thái Tông tiên đế di ngôn
Cho con thái tử Nhật Tông kế vì.
Thánh Tông lấy hiệu hợp thì
Đổi nước Đại Việt, trị vì sắc son.
2. Lất đất Chiêm Thành:
Gương hiền hiếu độ làm con
Còn thêm trí dũng song toàn phá Chiêm.
Ba Châu, mới được thâu thêm
Chế Cũ sợ chết mà đem biếu ngài.
Hậu tiền, tả hữu phân hai
Điều binh khiển tượng, đem tài giữ ngai.
Chu Công một bức tượng đài
Thờ Khổng Tử với bảy hai loại người.
Ngài qua cái tuổi năm mươi
Ngai vàng đã ngự đúng mười bảy năm.
IV. LÝ NHÂN TÔNG (1072-1127)
Niên hiệu: Thái Ninh 太寧
1. 2. Ỷ Lan Thái Phi. Lý Đạo Thành:

×