Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Phương pháp dạy trẻ trong trường tiểu học của Mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.63 KB, 100 trang )

LỜI CẢM ƠN
Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nông

Khánh Bằng - người thầy đã tận tình hướng dẫn em hồn thành luận văn.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS – TS Phạm Hồng

Quang đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong việc tìm kiếm tài liệu phục vụ cho
việc nghiên cứu đề tài này.
Em xin gửi lời cảm ơn tới Th.S Phạm Văn Thịnh – GVC Khoa
Ngoại ngữ - người đã giúp đỡ em rất nhiều trong việc biên dịch tài liệu để em
có thể hồn thành đề tài này.
Đề tài nghiên cứu trong luận văn của em là một lĩnh vực mới và tại
Việt Nam chưa có hệ thống lý luận cụ thể và thống nhất nên trong q trình
thực hiện em gặp rất nhiều khó khăn. Dù đã cố gắng hoàn thành đề tài song
do năng lực của bản thân còn nhiều hạn chế nên chắc chắn luận văn của em
khơng tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp,
chỉ bảo của Thầy Cơ giáo cùng tồn thể bạn đọc quan tâm để em hoàn thiện
hơn nữa đề tài nghiên cứu trong luận văn của mình.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008
Tác giả đề tài
C.N Nguyễn Thị Ngọc

1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




MỤC LỤC
Mở đầu



Trang

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

4

2. Mục đích nghiên cứu

6

3. Đối tượng nghiên cứu

6

4. Khách thể nghiên cứu

6

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

6

6. Cơ sở phương pháp luận của đề tài

7

7. Phương pháp nghiên cứu

7


8. Phạm vi nghiên cứu

7

9. Cấu trúc của đề tài

7

Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tìm kiếm, phát hiện và dạy
học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ.

8

1. Một số quan niệm về tài năng và trẻ em tài năng.

8

1.1. Khái niệm về tài năng.

8

Năng lực

8

Năng khiếu

9


Giỏi

10

Thiên tài

11

Tài năng

12

1.2 . Khái niệm trẻ tài năng theo quan điểm của các nhà khoa học Mỹ

18

1.3. Bồi dưỡng và đào tạo trẻ tài năng

19

2. Những cơ sở lý thuyết của việc lựa chọn và dạy học trẻ em tài năng
trong nhà trường tiểu học ở Mỹ.21
Những tiền đề lịch sử của phương thức dạy học trẻ em tài năng trong nhà
trường tiểu học ở Mỹ.

21
2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





Dạy học trẻ tài năng với hình thức dạy học phân hóa trong trường tiểu học
ở Mỹ.

26

3. Tìm kiếm, phát hiện và tuyển chọn trẻ tài năng trong hệ thống giáo dục
tiểu học của Mỹ.

38

Chương II: Hình thức tổ chức, nội dung, phương pháp dạy trẻ tài năng
trong trường tiểu học của Mỹ và một số phương hướng vận dụng vào
Việt Nam.

57

1. Hình thức tổ chức dạy học nổi bật trong nhà trường tiểu học ở Mỹ.

58

2. Nội dung dạy học cho trẻ tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ

61

3. Phương pháp dạy học trẻ tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ.

71


4. Một số phương hướng vận dụng trong dạy học trẻ tài năng bậc tiểu học
tại Việt Nam.

82

Quan điểm về đào tạo trẻ tài năng ở Việt Nam

82

Một số phương pháp vận dụng trong công tác nhận dạng, tìm kiếm và phát
hiện tài năng trẻ em ở bậc tiểu học tại Việt Nam.

84

Một số phương hướng vận dụng cơ bản trong việc xây dựng nội dung dạy
học, lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cho trẻ tài năng
trong nhà trường tiểu học.

86

Kết luận.

91

Tài liệu tham khảo

92

3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ của toàn cầu hóa và nền
kinh tế tri thức, trong đó chắc chắn mọi lĩnh vực của đời sống toàn nhân loại,
của mỗi cộng đồng và của từng cá nhân sẽ có những thay đổi vô cùng sâu sắc,
mau lẹ và diễn ra theo phương thức hoàn toàn mới. Trước những cơ hội to lớn
và những thách thức hết sức nghiêm trọng và phức tạp đặt ra trong thiên niên
kỷ mới, nhiều dân tộc, nhiều quốc gia đang ra sức xem xét lại chiến lược phát
triển của mình, dự báo và hoạch định chiến lược ngắn hạn, dài hạn, trong thực
tế nhiều vấn đề đã và đang vượt ra khỏi khuôn khổ của tri thức và lối tư duy
chiến lược truyền thống.
Để hướng tới giải quyết những vấn đề phức tạp đã và sẽ nảy sinh, các
dân tộc đều nỗ lực khai thác tốt nhất các nguồn lực vật chất và tinh thần để
tạo ra xung lực phát triển vượt trội, đột phá trong tương lai. Trong tất cả các
nguồn lực đã từng biết tới thì nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn lực tài
năng đã và đang trở thành nguồn lực quan trọng, quyết định nhất. Kết quả
phân tích chiến lược từ nhiều góc độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau đã
khẳng định chắc chắn rằng cuộc cạnh tranh và hợp tác của nhân loại trong
tương lai sẽ chủ yếu là cuộc cạnh tranh trên lĩnh vực trí tuệ, tinh thần và do đó
nước nào dân tộc nào có chiến lược nhân tài tốt sẽ là những quốc gia, dân tộc
cạnh tranh, hợp tác và phát triển tốt nhất, bền vững nhất.
Giáo dục trẻ tài năng được coi là một chương trình chiến lược để tạo ra
nguồn lực tài năng phục vụ đất nước. Đây là môi trường gieo mầm và phát
triển nhân tài trong mọi lĩnh vực khoa học kỹ thuật, nguồn nhân lực này góp
phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước và giúp cho việc khẳng định vị

thế của một quốc gia trên thế giới.

4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




ở những quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật phát triển cao như Mỹ,
quá trình dạy học trẻ tài năng được thiết kế thành một chương trình hồn
chỉnh, thống nhất và mang lại hiệu quả cao. Những thập niên qua với sự phát
triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực đã chứng minh cho sự đúng đắn của các
chính sách phát triển tài năng trẻ của nước Mỹ. Quốc gia này đang sở hữu một
nguồn lực nhân tài vào bậc nhất trên thế giới mà bất cứ quốc gia nào cũng
mong muốn có được.
Kết quả các cơng trình nghiên cứu khoa học cho thấy, để có được đội
ngũ tinh túy này, nước Mỹ đã có những chính sách đầu tư hợp lý để phát triển
giáo dục - đào tạo. Quá trình dạy học trẻ em tài năng được tổ chức một cách
khoa học dựa trên các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ.
Mỗi quốc gia đều tiềm ẩn những tài năng trẻ đầy triển vọng, vấn đề cơ
bản là cần biết phát hiện và kịp thời bồi dưỡng, tạo điều kiện cho những tài
năng này phát triển. Trong rất nhiều những cuộc thi quốc tế về các lĩnh vực
như Ơlimpic Tốn học, hóa học, sinh học, vật lý, những cuộc thi sáng tạo
Rôbôcon… chúng ta luôn giành được những huy chương cao quý. Điều đó
cho thấy Việt nam là một trong những quốc gia có tiềm lực trí tuệ to lớn. Tuy
nhiên chúng ta chưa phát huy được tối đa sức mạnh nguồn lực này để phục
vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến
sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục trẻ em tài năng
nói riêng. Phát hiện, bồi dưỡng nhân tài là một trong các nhiệm vụ trọng tâm

của giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.( Luật giáo dục 2005)
Quá trình dạy học hướng tới việc tìm kiếm và phát hiện tài năng phải bắt
đầu từ khi trẻ còn nhỏ, ở những cấp học đầu tiên. Lứa tuổi tiểu học là thời kỳ
trẻ bộc lộ rõ nhất những tư chất của mình, do đó để tiến hành dạy học có hiệu
quả nhà giáo dục phải đặc biệt chú trọng giai đoạn này.
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy, hiện nay ở nước ta quá trình
dạy học trẻ em tài năng chưa thực sự đạt hiệu quả cao, thực trạng này là do
nhiều nguyên nhân mang lại: Điều kiện cơ sở vật chất, lý luận và phương
pháp dạy học dành cho trẻ em tài năng cịn thiếu, các cơng trình nghiên cứu
khoa học về giáo dục trẻ em tài năng cịn hạn chế…
Khắc phục được những khó khăn trên là một cơng việc khó khăn và phức
tạp địi hỏi phải có sự nghiên cứu và đầu tư thỏa đáng về nhiều mặt. Một
trong những biện pháp tích cực đó là học tập có chọn lọc những kinh nghiệm
dạy học của các quốc gia phát triển trên thế giới đặc biệt là những quốc gia đã
thành công trong lĩnh vực này.
Để góp phần nâng cao hiệu quả của q trình của q trình giáo dục trẻ
tài năng nói chung và bậc tiểu học nói riêng ở nước ta dựa trên cơ sở đã học
tập kinh nghiệm của những quốc gia đã thành công về lĩnh vực này như Mỹ,
chúng tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: “Đặc điểm quá trình dạy học trẻ
em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ và xu hướng vận dụng vào
Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu những đặc điểm cơ bản của
quá trình dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ, trên cơ sở

đó đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học trẻ em tài năng ở
Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm quá trình dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở
Mỹ.
4. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học học sinh trong nhà trường tiểu học ở Mỹ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




- Nghiên cứu khái niệm tài năng.
- Nghiên cứu các phương pháp chuẩn đốn, tìm kiếm và phát hiện trẻ
tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ.
- Tìm hiểu những quan điểm định hướng dạy học trẻ em tài năng trong
nhà trường tiểu học của Mỹ.
- Nghiên cứu đặc điểm, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ.
- Đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học trẻ em tài
năng bậc tiểu học ở Việt Nam.
6. Cơ sở phương pháp luận của đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm hệ thống và quan điểm lịch sử – lôgic.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài có sử dụng các phương pháp:
Phương pháp phân tích.
Phương pháp tổng hợp.
Phương pháp hệ thống hóa.

Phương pháp so sánh.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm…
8. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm quá trình dạy học trẻ em tài năng trong nhà
trường tiểu học ở Mỹ.
9. Cấu trúc của đề tài
Bao gồm:
Phần mở đầu.
Phần nội dung: Chương I + Chương II
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM KIẾM, PHÁT
HIỆN VÀ DẠY HỌC TRẺ EM TÀI NĂNG TRONG NHÀ TRƯỜNG
TIỂU HỌC Ở MỸ
1. Một số quan niệm về tài năng và trẻ em tài năng
1.1. Khái niệm về tài năng
Lịch sử phát triển nhân loại cho thấy, thời nào cũng có người tài và
người tài thời nào cũng có vai trị to lớn trong những bước phát triển nhất
định của xã hội mà họ sống. Vì thế từ thời cổ xưa, xã hội đã có những cách
thức nhận dạng và đào tạo tài năng để phục vụ cho lợi ích và sự phát triển của
xã hội đó. Ngày nay các quốc gia, các dân tộc đang bước vào thế kỷ XXI với
sự phát triển nhanh chóng tất cả các mặt khoa hoc - kỹ thuật và kinh tế - xã
hội. Thế giới đang trong tình hình mà cơ chế thị trường đang trở nên phổ biến.

Năng suất, chất lượng của lao động con người đang trở thành sức mạnh quan
trọng của con người trong xã hội. Việc tìm kiếm tích cực những thanh thiếu
niên có năng khiếu cao và đào tạo họ trở thành tài năng phục vụ cho sự phát
triển của quốc gia hiện đang là quốc sách của các nước phát triển cũng như
các nước đang phát triển trên toàn cầu.
1.1.1. Năng lực
*Năng lực: Mọi trẻ sơ sinh bình thường đã có tư chất khác nhau, đó là
tất cả những tiềm năng phát triển bẩm sinh được di truyền từ cha mẹ, trong
đó, trước hết là những đặc tính cá thể về sinh lý giải phẫu của hệ thần
kinh,của não bộ. Chính các tư chất bẩm sinh di truyền này là cơ sở của những
năng lực ban đầu của con người gọi là năng lực tự nhiên. Năng lực tự nhiên là
loại năng lực được nảy sinh trên cơ sở những tư chất bẩm sinh di truyền,
không cần đến các tác động giáo dục đào tạo. Nó cho phép con người giải
quyết được những yêu cầu tối thiểu, quen thuộc đặt ra cho mình trong cuộc
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




sống. Do sự khác biệt về tư chất nên các em khác nhau về năng lực tự nhiên.
Nhưng sự khác nhau đó khơng lớn đến mức quyết định hồn tồn sự khác
nhau về năng lực của con người trong suốt cuộc đời.
Sự đáp ứng yêu cầu của các năng lực tự nhiên là rất hạn hẹp, trong khi cuộc
sống phát triển không ngừng luôn đặt ra những yêu cầu mới cần giải quyết.
Chính u cầu đó trong cuộc sống đã dẫn đến sự hình thành những năng lực
loại mới ở con người bằng con đường giáo dục đào tạo. Những năng lực được
đào tạo này là loại năng lực được hình thành trên nền tảng của năng lực tự
nhiên nhưng là một bậc phát triển cao hơn so với năng lực tự nhiên. Các tài
liệu khoa học hiện nay khẳng định rằng, năng lực được đào tạo (hay năng lực

tự tạo) là những phẩm chất của quá trình hoạt động tâm lý tương đối ổn định và
khái quát của con người, nhờ nó chúng ta giải quyết được (ở mức độ này hay
mức độ khác) một hoặc một vài yêu cầu mới nào đó trong cuộc sống. (T1).
Năng lực tự tạo chỉ nảy sinh và quan sát được trong hoạt động giải
quyết những yêu cầu mới mẻ và do đó nó gắn liền với tính sáng tạo. Khi đã
được hình thành ổn định, các năng lực tự tạo thường đi vào hệ thống các năng
lực tự nhiên. Còn các năng lực tự nhiên lại báo trước trong chừng mực nào đó về
năng lực tự tạo của con người khi họ giải quyết những yêu cầu thuộc loại mới.
Năng lực con người ( tự nhiên và tự tạo) là hệ thống tiền đề bên
trong và bên ngồi của thành tích hoạt động giải quyết những yêu cầu mới
mẻ và xác định của con người. Năng lực của con người thường được phân
ra thành các năng lực chung và năng lực chuyên biệt.(T1)
Năng lực (tự nhiên và tự tạo) biểu lộ ở tính nhanh, tính dễ dàng, chất
lượng tiếp nhận và thực hiện hoạt động, ở bề rộng của sự di chuyển, tính mới
mẻ, tính độc đáo của hoạt động giải quyết những yêu cầu mới.

9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




1.1.2. Năng khiếu
*Năng khiếu: Chúng ta đã đề cập đến các thuật ngữ Tư chất, Năng lực,
trong ngôn ngữ thường nhật hay trong các tài liệu khoa học cũng như trong
hoạt động giáo dục đào tạo chúng ta thường gặp thuật ngữ “năng khiếu”.
Nhiều tài liệu khoa học cho thấy: tuy giữa chúng còn nhiều điểm khác biệt,
các nhà tài năng học đều có quan niệm chung rằng:
Năng khiếu đó là hệ thống tiền đề bên trong dựa trên những tư chất
bẩm sinh di truyền cho phép con người giải quyết được một hay vài yêu cầu

nhất định nào đó trong cuộc sống mặc dù chưa được đào tạo.( T1)
Như vậy năng khiếu là một dạng năng lực tự nhiên của con người. Mọi
người bình thường đều có năng khiếu nhất định. Năng khiếu có cơ sở là các tư
chất, nhưng tư chất là cái có tính đa dạng, đa hướng và tồn tại ở con người
ngay khi lọt lòng mẹ, còn năng khiếu chỉ bộc lộ sau này trong những hoạt
động giải quyết những yêu cầu nhất định. Năng khiếu không đa dạng, đa
hướng như tư chất mà thường là năng khiếu trong một lĩnh vực hoạt động cụ
thể nào đó như năng khiếu tổ chức quản lý, năng khiếu kinh doanh...đây thuộc
loại năng khiếu chung và các năng khiếu chuyên biệt như năng khiếu âm
nhạc, năng khiếu hội hoạ...
Sự khác biệt trong năng khiếu cá nhân phụ thuộc vào các thuộc tính thần
kinh cao cấp như cường độ, tính linh hoạt, độ nhạy cảm của qúa trình thần kinh
và do đó nó phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của các quá trình tâm lý.
1.1.3. Giỏi
*Giỏi: Thuật ngữ này thường xuyên trong cuộc sống chúng ta bắt gặp.
"Giỏi" là thuật ngữ dùng để chỉ mức độ cao của năng lực, chỉ sự lành nghề, sự
thành thạo một hoạt động với những kỹ xảo tinh tế hoàn hảo hay sự uyên
thâm kinh nghiệm đến mức điêu luyện trong hoạt động đó. "Giỏi" là cái do
con người tạo ra cho mình chứ khơng phải do trời phú. Trong kỹ thuật, nghệ
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




thuật, nghề thủ cơng...thì khái niệm "giỏi" được hiểu như khái niệm "tài
năng". Theo các nhà khoa học chuyên nghiên cứu về tài năng thì để đào tạo
một chuyên gia (người giỏi trong một lĩnh vực) ở bất cứ lĩnh vực nào, nghề
nào cũng cần đến một khoảng thời gian tối thiểu là khoảng trên dưới 10 năm.
Những học sinh có năng khiếu cao về một lĩnh vực nào đó thì dễ dàng

thành giỏi trong lĩnh vực ấy hơn. Tuy nhiên có thể khơng có năng khiếu cao
đặc biệt nhưng nếu luyện tập chăm chỉ với lòng say mê cao độ và trong những
điều kiện thuận lợi vẫn có thể trở nên giỏi ở một lĩnh vực, ví dụ như giỏi
ngoại ngữ, giỏi lịch sử, giỏi ngoại giao...
Thời gian khoảng 10 năm cũng là thời gian đủ để đào tạo một chun
gia trong khoa học cơng nghệ. ở Cộng hồ liên bang Đức nhà nước đặt ra học
vị Juniorprofessor để phong cho những nhà khoa học giỏi trẻ tuổi. Họ là
những cử nhân khoa học loại ưu, được làm thẳng tiến sỹ, đã bảo vệ luận án
chuyên ngành loại xuất sắc. Các Juniorprofesser được giao đứng đầu một
nhóm các nhà khoa học chuyên ngành mới hiện đại. Như vậy họ không chỉ
được phong chức danh khoa học mà quan trọng hơn là các nhà khoa học trẻ
giỏi ở nước Đức trong thực tế đã được công nhận là chuyên gia, là người giỏi
một chuyên ngành hay một tài năng khoa học công nghệ. Tuổi đời của họ
thường khoảng trên dưới 30. Cũng vào độ tuổi này ở nước ta hiện nay đã một
số người có bằng tiến sỹ chuyên ngành được đào tạo trong nước. Bao nhiêu
phần trăm số tiến sỹ trẻ này thực sự là chuyên gia trong một ngành khoa học
công nghệ?( T1+T2)
1.1.4. Thiên tài
*Thiên tài: Thuật ngữ thiên tài chỉ mức độ cực cao của năng lực, cho
phép con người đạt được những thành tựu vô song trong lịch sử. Khác với
tài năng, thiên tài dẫn đến những giá trị mới hồn tồn trên bình diện tồn
nhân loại, mở ra thời kỳ mới, một bậc mới của sự phát triển trong một hoặc
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




nhiều lĩnh vực nào đó của lồi người, tựa như một mốc son đánh dấu một
bậc phát triển mới cao hơn của xã hội con người.( T1)

Nguồn gốc của thiên tài là một bí ẩn lớn đối với khoa học. Trong quan
niệm dân gian và trong tài năng học thế kỷ XX vừa qua, thiên tài luôn được
gắn liền với những điều bí ẩn, bất thường, khó làm sáng tỏ.
Do tính chất bí ẩn của thiên tài nên các nhà tài năng học ở các nước ít
đề cập đến thuật ngữ thiên tài. Chẳng hạn nhà tài năng học hàng đầu của Mỹ
Terman đã dùng thuật ngữ trí tuệ cao thay cho thuật ngữ thiên tài.Theo các
nhà tài năng học, xã hội không thể chủ động nhận dạng trước về thiên tài và
cũng không thể chủ động đào tạo ra các thiên tài. Do vậy tài năng học hiện đại
không đề cập đến việc đào tạo thiên tài.
Như vậy rõ ràng là các thuật ngữ tài năng học như: học sinh tài năng,
sinh viên tài năng, học sinh giỏi, sinh viên giỏi là thích hợp nhất trong cơng
tác nhận dạng, tuyển chọn, đào tạo tài năng ở các trường phổ thơng và đại
học, bởi vì tài năng ở học sinh chính là tài năng học tập và học sinh giỏi được
gọi là học sinh tài năng. Mặc dù vậy, hiện nay hầu hết các trường đào tạo tài
năng ở bậc phổ thông nước ta vẫn gọi học sinh của họ là " học sinh năng
khiếu” và đặt tên trường của họ là “Trung học phổ thông năng khiếu hoặc
trung học phổ thơng chun".
1.1.5. Tài năng
Chúng ta đều biết có nhiều hiện tượng trong khoa học nhân văn được
định nghĩa ít nhiều khác nhau. "Tài năng" cũng là một hiện tượng như vậy.
Thật ra việc thoả thuận giữa các nhà nghiên cứu về khái niệm tài năng về cơ
bản luôn bị quy định bởi nền văn hoá, bởi các giá trị và thái độ xã hội cũng
như cơ cấu xã hội hoá. Tuy nhiên lịch sử phát triển khoa học cho thấy, có
những hiện tượng chưa có định nghĩa một cách khái quát, chính xác và chưa
được mọi người thừa nhận vẫn được các nhà khoa học nghiên cứu và ứng
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





dụng. Vậy tài năng được hiểu ra sao? Đây còn là một câu hỏi mà sau hàng
trăm năm nghiên cứu, tâm lý học vẫn chưa đưa ra được câu trả lời khái quát
và thống nhất chung một cách tuyệt đối.
1.1.5.1. Những định nghĩa tài năng phiến diện (T1)
Thực chất của việc định nghĩa tài năng cũng chính là việc cắt nghĩa về
bản chất và nguồn gốc của tài năng. Điều này đồng thời cũng là cơ sở để nhận
dạng và đào tạo tài năng. Từ việc nghiên cứu, phân tích trên 130 định nghĩa
khác nhau về tài năng được đưa ra trong vòng 100 năm qua, các nhà khoa học
đã phân định những định nghĩa ấy thành các loại điển hình sau:
- Định nghĩa dựa vào các yếu tố đã bộc lộ: Đây là định nghĩa dựa vào
các yếu tố đã bộc lộ ra bên ngoài. Theo cách định nghĩa này, một người nào
đó được coi là tài năng khi anh ta đã hoàn thành vượt trội một hoạt động
nhất định. Định nghĩa về người có tài năng kiểu này được vận dụng để lựa
chọn người có tài năng dựa theo những kết quả đã thể hiện ra trong hoạt động
của họ. Cách định nghĩa này không phục vụ cho công tác đào tạo tài năng, mà
phục vụ cho việc xác định và đánh giá tài năng để làm cơ sở cho việc khen
tặng và tôn vinh tài năng.
- Định nghĩa dựa vào chỉ số IQ: Kiểu định nghĩa này được nhà tâm lý
học Mỹ Terman sử dụng với giá trị IQ >= 140 theo Test Standford - Binet,
theo đó "một người được gọi là tài năng khi người đó có hệ số trí tuệ bằng
hay lớn hơn 140 theo test Standford - Binet". Tuy nhiên khi áp dụng định
nghĩa loại này, nhiều nhà tâm lý lại dùng các trắc nghiệm trí tuệ khác và ấn
định giá trị chuẩn khác với Terman, thường là thấp hơn 140 như ở Terman. Ví
dụ, năm 1965, Gowan dùng giá trị chuẩn hạn định là 129 trở lên theo test
Standford - Binet. Webb (1985) lấy giá trị hạn định là 130... Điển hình trong
việc áp dụng kiểu định nghĩa IQ trong định nghĩa tài năng thể hiện rõ nhất ở
định nghĩa tài năng của Bộ giáo dục Anh quốc như sau: " Trẻ em và thanh
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





niên có năng khiếu cao ở lứa tuổi 8-18 là những em khẳng định được về năng
lực trí tụê chung vượt trội ở trường học, đã chứng tỏ điều đó qua một test trí
tuệ (test thơng minh) đã thực hiện tự lập đáng tin cậy với kết quả Iq từ 130 trở
lên, hoặc trong hoạt động giải quyết công việc của mình đã chứng tỏ một trình
độ phát triển vượt trội rõ ràng và giữ vững như vậy trong nhiều năm, hoặc đưa
ra được một tiên lượng tương đối đáng tin cậy về sự vượt trội trong học tập
các môn học hàn lâm hay trong âm nhạc, trong thể thao, trong múa hát, hay
trong lĩnh vực nghệ thuật, đồng thời tài năng của chúng không phải chỉ quy
trước hết vào sự phát triển thể chất" (Vụ Giáo dục và khoa học - 1997).( T1)
- Định nghĩa xã hội: Định nghĩa này dựa trên sự mở rộng quan điểm lý
thuyết về tài năng trong mối liên quan với nhiều lĩnh vực. Quan niệm này nảy
sinh trên cơ sở yêu cầu của xã hội về những thành tích vượt trội. Loại định
nghĩa như vậy được gọi là định nghĩa xã hội.( T1)
Theo cách định nghĩa này, người ta cho rằng "một học sinh, sinh viên có
thành tích cao vượt trội trong một lĩnh vực nào đó mà mọi người có thể nhận ra
được một cách tổng quát thì được gọi là người có tài năng" (Witty - 1965).
- Định nghĩa bách phân: Kiểu định nghĩa này xuất phát từ quan niệm
cho rằng có một số phần trăm nào đó của dân số được coi là có tài năng. Khái
niệm tài năng ở đây gắn liền với những trẻ em có tiềm năng trí tuệ vượt trội
cũng như có năng lực giải quyết nhiệm vụ cao ở trường học, về mặt thành tích
học tập chúng thuộc số 15- 20 % xếp thứ hạng từ trên xuống dưới. Tuy nhiên,
có bao nhiêu phần trăm quần thể được coi là có tài năng thì khơng có sự thống
nhất giữa các nhà khoa học.(T1)
- Định nghĩa dựa vào tính sáng tạo: định nghĩa này được hình thành
dựa trên cơ sở phê phán, bác bỏ kiểu định nghĩa thuần tuý chỉ dựa vào chỉ số
thông minh IQ và chủ trương đặt tính sáng tạo làm cơ sở tiên quyết cho việc

đánh giá tài năng con người.Theo quan niệm này, nhà nghiên cứu Gowan cho
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




rằng :"Học sinh, sinh viên tài năng là người có tính sáng tạo cao". Theo nhà
nghiên cứu Mỹ - Terman thường trong 100 người có trí thơng minh cao thì có
43 người có trí sáng tạo cao. Do vậy chỉ có 43% số này vừa thơng minh vừa
sáng tạo.
- Định nghĩa "Thông minh - Sáng tạo": Nhà tâm lý học Lucitô đề xuất
định nghĩa về tài năng dựa vào mô hình trí tuệ, trong đó có định nghĩa về tính
sáng tạo. Theo kiểu định nghĩa này "Học sinh tài năng là người có năng lực trí
tuệ tiềm năng cao biểu hiện trong năng lực sáng tạo, trong tư duy đánh giá có
phê phán ở mức độ cao, hứa hẹn là họ sẽ giải quyết chính những vấn đề của
tương lai, thực hiện những đổi mới và đánh giá có phê phán nền văn hoá hiện
tại nếu như họ nhận được những điều kiện giáo dục xứng đáng".( T1)
Có thể nhận thấy ngay rằng những định nghĩa trên đây mới chỉ đề cập đến
một mặt của khái niệm tài năng. Để đưa ra được khái niệm đúng và đầy đủ
cần xem xét chúng trong chỉnh thể thống nhất của nó.
1.1.5.2. Những định nghĩa tài năng liên kết phức tạp
- Định nghĩa tài năng của Renzulli(1978):
Lần đầu tiên vào năm 1978, R.S . Renzulli và cộng sự đã đề xuất mơ
hình về tài năng. Ơng gắn mơ hình này với u cầu thực tế của cơng tác nhận
dạng tài năng trong đó có sử dụng các test cá nhân, test nhóm và các thông tin
khác từ cha mẹ, bạn bè và giáo viên. Sau đó Renzulli đã nhiều lần diễn tả bổ
xung và chun biệt hố mơ hình này vào các năm 1980,1984,1986,1988.
Ông định nghĩa về tài năng như sau: "Tài năng được tạo bởi sự tương tác của
3 tổ hợp cơ bản các thuộc tính nhân cách: năng lực nhận thức học tập, động

cơ hứng thú và tính sáng tạo. Trẻ em tài năng là những em có tổ hợp các
thuộc tính trên dẫn tới sự hồn thành hoạt động với chất lượng cao".
Định nghĩa về tài năng của Renzulli đã từng được hội thảo về tài năng
toán và khoa học công nghệ vùng châu á- TBD tổ chức tại Tôkyô - Nhật Bản
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




năm 1993 khuyên dùng đối với giáo dục các nước trong vùng. Định nghĩa này
cũng được nhiều nhà nghiên cứu ở các nước khác trên thế giới đặc biệt quan
tâm như Mỹ, Anh, Đức, Nhật Bản. Tuy nhiên định nghĩa này của ơng đã
khơng tính đến yếu tố sinh lý thần kinh của tài năng.
- Định nghĩa tài năng của 2 nhà tâm lý học Đức Wiezerkowski và
Wagner (1985): Từ việc phê phán định nghĩa tài năng của Renzulli, 2 nhà tâm
lý học này đã đưa ra một mơ hình mới bao gồm các yếu tố: các năng khiếu,
động cơ mơi trường, tính sáng tạo. Trong mỗi yếu tố các ông đã cụ thể hoá
thành các thành tố. Các năng khiếu bao gồm :
Năng khiếu trí tuệ
Năng khiếu nghệ thuật
Năng khiếu tâm vận
Năng khiếu xã hội.
Với sự phân tích cấu trúc nội dung của yếu tố động cơ môi trường
thành các thuộc tính như :
Chăm chỉ kiên trì
Quyết tâm đạt đến thắng lợi
Bền vững về xúc cảm
Với việc thừa nhận môi trường xung quanh cùng với sự hỗ trợ tối ưu từ
bên ngoài, 2 nhà tâm lý học này đã đi xa hơn Renzulli trong việc xác định rõ

hơn, chi tiết hơn về nội dung và vai trò của động cơ môi trường đối với tài
năng con người. Theo phân tích của 2 tác giả này thì yếu tố xúc cảm, ý chí,
thái độ đối với mơi trường bên ngồi cũng như thái độ hay sự thừa nhận, hỗ
trợ khuyến khích của mơi trường bên ngồi có tác động quan trọng đến sự
phát triển của tài năng. Cách quan niệm của 2 nhà tâm lý học này đã giúp cho
chúng ta có được cái nhìn cụ thể hơn về cấu trúc, nội dung của tài năng để

16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




làm cơ sở cho việc thiết kế soạn thảo những công cụ đo đạc, nhận dạng tài
năng của con người kể cả tài năng trí tuệ và tài năng chuyên biệt.(T1+ T4)
- Định nghĩa tài năng nhiều yếu tố của Moenk (1985): Moenk là nhà
tâm lý học giáo dục của Đức, Ơng đã tiếp thu có phê phán các mơ hình năng
khiếu cao của các tác giả và cho rằng những cơ sở di truyền của nhận thức và
những thuộc tính nhân cách của con người là khác nhau. Trong cuộc sống và
hoạt động con người bị hạn chế, ức chế hoặc được hỗ trợ khuyến khích từ bên
ngồi. Họ có thể bị cơ lập hoặc được hồ nhập trong xã hội, với gia đình, bạn
bè, họ có thể bị nhận định nhầm lẫn là khơng có năng lực do cách nhận dạng
của xã hội, do nhà trường chưa tốt hoặc có thể bị nhận định là thiếu ý chí
trong trường học... Vì vậy, tài năng khơng chỉ được xét dưới 3 góc độ hay 3
thành tố được đặt chơng chênh trừu tượng ngoài xã hội như quan niệm của
Renzulli, mà tài năng phải được coi là một cơ cấu mở trong đó bao gồm cả
các yếu tố của mơi trường xã hội. Moenk đã đưa ra mơ hình tích hợp về tài
năng có tên là "mơ hình 3 yếu tố phụ thuộc nhau của tài năng" hay "mơ hình
các yếu tố của tài năng".
Ba yếu tố đó bao gồm: động cơ, các năng lực vượt trội, tính sáng tạo,

theo Moenk thì đây chính là 3 yếu tố trụ cột tạo nên tài năng. Mơ hình tài
năng này có ưu điểm là đã coi "tài năng" như một hiện tượng có cấu trúc mở
ra mơi trường xã hội (tức là có nguồn gốc xã hội) chứ khơng cịn đóng kín
trong cấu trúc sinh học và cấu trúc trí tuệ hàn lâm. Tuy nhiên mơ hình này
cũng chưa làm nổi bật được vai trị của trí thơng minh trong hệ thống các
năng lực vượt trội nên việc đo đạc, đánh giá về trí thơng minh bằng test trí tuệ
truyền thống khơng thể hiện rõ trong quy trình nhận dạng tài năng. Trong
thực tiễn, muốn nhận dạng người có tài năng bao giờ cũng cần phải tiến hành
đánh giá về trí thơng minh hàn lâm của họ bằng các test IQ truyền thống như
một khâu độc lập với việc đánh giá về các năng lực chun biệt khác thơng
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




qua trắc nghiệm trường học hoặc qua hoạt động giải quyết những nhiệm vụ
chun biệt cụ thể nào đó. Mơ hình tài năng của Moenk cũng chưa nhìn nhận
đúng mức về vai trị của xã hội, tức là khơng đề cao những vai trị của các
chương trình, dự án phát triển tài năng của nhà nước, của toàn xã hội. Và
cũng như các định nghĩa tài năng khác nhau dựa trên quan niệm của Renzulli,
định nghĩa này cũng bỏ qua yếu tố sinh lý.(T1)
- Định nghĩa về tài năng hiện nay được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam là
của tác giả PGS-TS Nguyễn Huy Tú. Dựa trên cơ sở nghiên cứu các định
nghĩa khác nhau về tài năng của các nhà nghiên cứu trên thế giới và thực tế
ứng dụng mơ hình cấu trúc tài năng trong những năm vừa qua ở các nhà
trường Việt Nam. Tài năng phải được coi là một cơ cấu mở bao gồm không
chỉ trí thơng minh cao, tính sáng tạo cao, động cơ mạnh mẽ và các năng lực
chuyên biệt vượt trội mà còn phải bao gồm các hiệu ứng tâm lý - nhân cách xã hội của các quan hệ gia đình, nhà trường, bạn bè và xã hội. Tài năng được
quan niệm như vậy sẽ là một cấu trúc mở bao gồm nhiều yếu tố từ cấp độ sinh

học đến cấp độ xã hội. Tuy tài năng có cơ sở sinh lý thần kinh được di truyền
song nó phát hiện được là nhờ hoạt động của cá nhân trong những điều kiện
xã hội cụ thể nhất định. Tài năng tự nhiên chỉ phát triển thành tài năng thực
thụ khi được xã hội hỗ trợ, thừa nhận và người tài được xã hội tin dùng, nuôi
dưỡng và đãi ngộ thoả đáng kịp thời.
Như vậy, "Tài năng là một tổ hợp thuộc tính được cấu tạo nên do sự
tương tác của các tổ hợp cơ bản những thuộc tính của nhân cách là trí
thơng minh cao, động cơ mạnh và năng lực chun biệt vượt trội với hiệu
quả tác động của các yếu tố mơi trường là xã hội, gia đình, trường học và
bạn bè. Người tài năng là người có được những tổ hợp thuộc tính trên đây
làm tiền đề cho sự hồn thành có chất lượng cao những hoạt động của
mình trong xã hội và vì xã hội".( T1)
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




1.2. Khái niệm trẻ tài năng theo quan điểm của các nhà khoa học Mỹ
Nước Mỹ mãi đến thế kỷ 19 mới chú ý đến vấn đề giáo dục học sinh
tài năng cho đến năm 1920 đã có tới 2/3 các thành phố lớn của Hoa Kỳ đã
thực hiện chương trình giáo dục học sinh giỏi, học sinh tài năng. Trong suốt
thế kỷ 20 giáo dục học sinh giỏi học sinh tài năng đã trở thành một vấn đề của
nước Mỹ. Hàng loạt các tổ chức và các trung tâm nghiên cứu bồi dưỡng học
sinh giỏi, học sinh tài năng ra đời: Mensa (1946) The American Association
for the Gifted (1947); The National Association for the Gifted (1953) ... Năm
2002 có 38 bang của Hoa Kỳ có đạo luật về giáo dục học sinh giỏi, học sinh
tài năng trong đó có 28 bang có thể đáp ứng đầy đủ cho việc giáo dục học
sinh giỏi, học sinh tài năng.
Khái niệm học sinh tài năng ở Mỹ được định nghĩa theo nhiều

cách khác nhau:
Luật bang Georgia định nghĩa như sau: Học sinh tài năng là học sinh
chứng minh được trí tuệ ở trình độ cao hoặc có khả năng sáng tạo, thể hiện
một động cơ học tập mãnh liệt hoặc đạt xuất sắc trong lĩnh vực lý thuyết khoa
học. Đó là người cần một sự giáo dục đặc biệt và sự phục vụ đặc biệt để đạt
được trình độ tương ứng với năng lực của người đó.(T3)
Theo Clak 2002 ở Mỹ người ta định nghĩa học sinh tài năng đó là
những học sinh trẻ tuổi có dấu hiệu về khả năng hồn thành xuất sắc cơng
việc trong các lĩnh vực như trí tuệ, sự sáng tạo, nghệ thuật, khả năng lãnh đạo
hoặc trong lĩnh vực lý thuyết khoa học. Những người này địi hỏi sự phục vụ
và các hoạt động khơng theo trường lớp thông thường nhằm phát triển hết
năng lực của họ.(T3)
1.3. Bồi dưỡng và đào tạo trẻ tài năng
Tài năng con người có thể bồi dưỡng, đào tạo được hay khơng, đó là
một câu hỏi được đặt ra từ khá lâu và được tranh luận tiếp tục trong suốt hàng
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




thế kỷ qua. Sự trả lời câu hỏi trên phản ánh quan điểm của các học giả trong
lĩnh vực này. Trong khoa học có nhiều quan điểm khác nhau về sự phát triển
của tài năng:
Thuyết phát triển nội sinh, thuyết phát triển ngoại sinh, thuyết hội tụ,
thuyết Mác-xít. Thuyết Mác-xít đã chỉ ra rằng con người không phải là khách
thể thụ động của những yếu tố phát triển của nó và nhân cách cũng như mọi
thuộc tính cấu tạo nên nó khơng phải là kết quả cơ học của di truyền bẩm
sinh, của môi trường hay của sự phát triển chung của cả 2 yếu tố đó. Theo
thuyết này, con người tự tạo ra nhân cách của mình và chủ yếu là bằng hoạt

động tương tác tích cực với các điều kiện sống bên ngồi của mơi trường tự
nhiên và xã hội xung quanh họ. Nhưng các điều kiện này không tác động trực
tiếp mà tác động gián tiếp thông qua hoạt động của cá nhân làm hình thành
nên nhân cách và từng thuộc tính của nhân cách đó.
Điều kiện môi trường, trước hết là môi trường giáo dục (theo cả nghĩa
rộng và nghĩa hẹp) có vai trị thực sự tích cực và sáng tạo trong sự phát triển
của nhân cách. Nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục (theo nghĩa hẹp) là tổ chức
mọi điều kiện phát triển (nhà trường và phi nhà trường) sao cho trẻ em có thể
tiếp thu và thực hiện các hoạt động giải quyết những yêu cầu thực tiễn muôn
màu, muôn vẻ được đặt ra để hình thành nhân cách nói chung (cũng như từng
thuộc tính của nó nói riêng) cho phù hợp với mục đích giáo dục do xã hội đề ra.
Như vậy, từ những trình bày trên đây, có thể nói rằng : là một thuộc
tính của nhân cách, tài năng mang đặc tính của nhân cách và có thể giáo dục
đào tạo được. Các nhà giáo dục ở Liên bang Nga những năm cuối thập kỷ 80
của thế kỷ trước đã quan tâm rất nhiều đến vấn đề này. Họ cho rằng trong
nhân dân có rất nhiều tài năng, và tài năng khơng phải tự nhiên có được mà
chính là do con người tạo ra. Sở dĩ xã hội thiếu tài năng là vì nhà trường và xã

20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





×