Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tìm hiểu về Hy Lạp cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.45 KB, 30 trang )

Hy Lạp cổ đại
Lịch sử Hy Lạp

Hy Lạp cổ đại là thời kì lịch sử Hy Lạp bao trùm tồn bộ khu vực Địa Trung Hải
và biển Đen và kéo dài gần một nghìn năm, đến khi Kitơ giáo xuất hiện. Các nhà
sử học coi nó là nền tảng văn hóa cho văn minh phương Tây. Văn hóa Hy Lạp có
ảnh hưởng rất lớn trong Đế chế La Mã, và ảnh hưởng này cũng được truyền đi
khắp các vùng trong châu Âu.


Văn minh của người Hy Lạp cổ đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến ngơn ngữ, chính trị,
hệ thống giáo dục, triết học, khoa học, nghệ thuật, và kiến trúc của thế giới cận đại,
thúc đẩy phong trào Phục Hưng tại Tây Âu cũng như làm sống lại các phong trào
tân Cổ điển tại châu Âu và châu Mỹ thế kỷ 18 và 19.
"Hy Lạp cổ đại" là thuật ngữ để chỉ khu vực nói tiếng Hy Lạp vào thời cổ đại. Nó
khơng chỉ đơn thuần chỉ bán đảo Hy Lạp ngày nay về mặt địa lý, mà còn chỉ các
khu vực văn hóa Hy Lạp vào thời cổ đại của người Hy Lạp: Kypros và quần đảo
Aigeus, dải bờ biển Aigeus của Anatolia (được biết đến vào thời đó là Ionia),
Sicilia và miền nam Ý (biết đến như Magna Graecia), và một số vùng khác nơi
người Hy Lạp cổ định cư như ven biển Illyria, Thrake, Ai Cập, Cyrenaica, miền
nam xứ Gaule, đông và đông bắc bán đảo Iberia, Iberia, và Taurica.

Mục lục


1 Niên đại



2 Nguồn gốc




3 Sự trỗi dậy của Hy Lạp



4 Xung đột xã hội và chính trị



5 Chiến tranh với Ba Tư



6 Ưu thế của Athena



7 Cuộc chiến với Peloponnesus



8 Sparta và sự trỗi dậy của Thebes




9 Sự trỗi dậy của Macedonia




10 Những cuộc chinh phạt của Alexandros



11 Hy lạp thời Hy lạp hóa



12 Hy Lạp thời La Mã



13 Địa Lý



o

13.1 Các vùng đất

o

13.2 Thuộc địa

14 Chính trị và xã hội
o

14.1 Chính trị


o

14.2 Chính quyền và luật pháp

o

14.3 Xã hội


14.3.1 Cấu trúc xã hội

o

14.4 Lối sống

o

14.5 Giáo dục



15 Xem thêm



16 Chú thích


[ ] Niên đại


Thế giới Hy Lạp cổ vào khoảng năm 550 TCN
Cho đến nay các tư liệu lịch sử vẫn chưa được khám phá hết nên thời kỳ bắt đầu
và kết thúc chưa được xác định rõ ràng và chính xác. Thơng thường thì người ta
coi nó là tồn bộ lịch sử Hy Lạp trước thời Đế chế La Mã. Một số học giả cịn tính
cả các thời kỳ của nền văn minh Mycenae sụp đổ vào khoảng năm 1100 TCN, mặc
dù phần lớn cho rằng Minoa có ảnh hưởng lớn và khác so với văn hóa Hy Lạp và
nên được phân loại riêng biệt.
Theo các sách giáo khoa của Hy Lạp ngày nay, "thời cổ đại" kéo dài khoảng 1.000
năm (từ thảm họa của Mycenae đến tận khi người La Mã) chiếm Hy Lạp) và được
phân ra làm bốn thời kỳ, dựa theo phong cách nghệ thuật, kiến trúc cũng như loại
hình chính trị. Dịng lịch sử của Hy Lạp cổ đại bắt đầu với Thời kỳ Tối tăm của
Hy Lạp (1100–800 TCN). Trong thời kỳ này những nhà tạo hình đã sử dụng phối
hợp giữa các đường hình học như hình vng, hình trịn, đường thẳng để tạo hình
lọ hai quai và các đồ gốm sứ khác. Thời kỳ Cổ xưa (800–500 TCN) là những năm
mà các nghệ sĩ tạo ra các kiểu tượng lớn với dáng khắc khổ, thô cứng và "nụ cười
cổ đại" huyền ảo. Thời kỳ cổ xưa thường được cho là đi đến kết thúc với sự lật đổ
của các bạo chúa cuối cùng của Athen trong năm 510 TCN. Trong Thời kỳ Cổ
điển (500–323 TCN) những nhà tạo hình đã hồn tồn hảo hố những chuẩn mực
"kinh điển", như đền Parthenon. Chính trị, thời kỳ cổ điển đã bị thống trị bởi
Athen và liên minh Delian trong thế kỷ thứ 5, sau đó là người Sparta nắm quyền
bá chủ trong thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên đầu, trước khi chuyển sang tay người


Thebes và liên minh Boeotia và cuối cùng là liên minh Corinth do Macedonia
thống lĩnh. Những năm Hy Lạp hóa sau cuộc chinh phạt của Alexandros Đại Đế
(323–146 TCN), cũng được biết đến như thời Alexandria, nền văn minh Hy Lạp
đã mở rộng đến Ai Cập và Bactria. Kết thúc là cuộc chinh phục Hy Lạp của La Mã.
Thời kì La Mã Hy Lạp, là thời kì từ chiến thắng trước người Corinthia trong trận
Corinth năm 146 TCN và cho tới khi thiết lập Byzantium bởi Constantine trở
thành thủ đô của Đế chế La Mã trong năm 330 SCN. Giai đoạn cuối của thời kì cổ

đại là thời kỳ của Thiên chúa giáo trong nửa sau thế kỷ 4 đến đầu thế kỷ 6, kết
thúc với việc đóng cửa của Học viện Neoplatonic của Justinian I năm 529 SCN.
Thông thường, nền văn minh cổ Hy Lạp được coi là thời điểm bắt đầu Thế Vận
Hội vào năm 776 TCN, nhưng nhiều nhà sử học cho là vào khoảng 1000 TCN.
Cũng theo tư liệu cổ thì thời kỳ Hy Lạp cổ kết thúc vào thời điểm Alexandros Đại
Đế chết vào năm 323 TCN. Nhưng theo các nghiên cứu khảo cổ thì có cịn tồn tại
mãi đến thời kỳ Đạo Cơ Đốc vào thế kỷ 3.
[ ] Nguồn gốc
Người Hy Lạp được cho là đã di chuyển về phía nam về phía bán đảo Balkan
thành vài đợt vào cuối thiên niên kỷ 3 TCN, lần cuối vào lúc cuộc xâm lăng của
người Dorian. Thời kỳ từ 1600 TCN đến khoảng 1100 TCN được miêu tả trong
Lịch sử của Hy Lạp Mycenae là triều đại của vua Agamemnon và cuộc chiến
thành Troia được kể trong các bản anh hùng ca của Homer. Thời kỳ từ 1100 TCN
đến thế kỷ 8 TCN là một "thời kỳ tối tăm" với không một tư liệu nào được giữ lại,
và rất hiếm bằng chứng khảo cổ còn lại. Các tư liệu cấp hai và ba như Lịch sử của
Herodotus, Mô tả về Hy Lạp của Pausanias, Bibliotheca của Diodorus và
Chronicon của Jerome, miêu tả sơ lược lịch sử và danh sách các vua của thời kỳ
này. Lịch sử của Hy Lạp cổ đại thường được kết thúc với sự chấm dứt của triều
đại Alexandros Đại Đế, người chết năm 323 TCN. Những sự kiến sau đó được
miêu tả trong Hy Lạp thời cổ.


Cần xem xét cẩn thận nguồn tham thảo khi tìm hiểu về lịch sử Hy Lạp cổ đại.
Những sử gia và chính trị gia có tác phẩm tồn tại đến nay như Herodotus,
Thucydides, Xenophon, Demosthenes, Platon và Aristotle, phần nhiều là người
thành Athena hay ủng hộ Athena. Điều đó giải thích vì sao ta biết về lịch sử và
chính trị của Athena nhiều hơn những thành phố khác, và tại sao chúng ta hầu như
không biết mấy về các nơi khác. Hơn nữa những người này hầu như chỉ tập chung
viết về chính trị, quân sự và lịch sử ngoại giao, và bỏ qua kinh tế và xã hội. Do vậy
tất cả lịch sử về Hy Lạp cổ đại cần được nghiên cứu thận trọng với những hạn chế

từ các tư liệu tham khảo này.
[ ] Sự trỗi dậy của Hy Lạp
Tập tin:Ac.par
Đền Parthenon tại Hy Lạp thờ Athena
Vào thế kỷ thứ 8 TCN Hy Lạp cổ đại bắt đầu trỗi dậy từ Thời kỳ Tăm tối sau khi
nền văn minh Mycenae sụp đổ. Nhiều văn bản bị mất và chữ viết Mycenae bị lãng
quên, nhưng người Hy Lạp sau đó đã dùng bảng chữ cái Phoenici và tạo ra bảng
chữ cái Hy Lạp và từ khoảng 800 TCN những ghi chép bắt đầu xuất hiện. Hy Lạp
cổ đại bị phân chia thành nhiều cộng đồng tự quản nhỏ, điều này phản ánh hình
dạng địa lý của Hy Lạp, nơi mà các đảo, thung lũng và đồng bằng bị chia cắt nhau
bởi biển cả hay các dãy núi.
Cùng với sự phục hồi về mặt kinh tế, dân số đã tăng trưởng vượt quá giới hạn
cung cấp của đất trồng trọt. Từ khoảng 750 TCN người Hy Lạp bắt đầu 250 năm
mở rộng, thiết lập thuộc địa về mọi hướng. Về hướng đông, bờ biển Aegea thuộc
Tiểu Á được chiếm làm thuộc địa đầu tiên, tiếp theo là Kypros, những vùng ven
biển của Thrace, vùng biển Marmara và vùng phía nam Biển Đen. Cuối cùng
thuộc địa của Hy Lạp mở tới tận phía đơng bắc vùng Ukraina ngày nay. Về phía
tây, Albania, Sicilia và nam Ý được thiết lập thuộc địa, sau đó là vùng ven biển


phía nam của Pháp, Corsica, và kết thúc ở đơng bắc Tây Ban Nha. Những thuộc
địa của Hy Lạp cũng được lập tại Ai cập và Libya. Syracuse, Napoli, Marseille và
Istanbul ngày nay đã bắt đầu từ những thuộc địa của Hy Lạp là Syracusa, Neapolis,
Massilia và Byzantium.
Vào thế kỷ thứ 6 TCN Hy Lạp đã trở thành một khu vực văn hóa và ngơn ngữ
rộng lớn hơn nhiều so với diện tích địa lý của Hy Lạp hiện nay. Những vùng đất
thuộc địa của Hy Lạp không bị kiểm sốt về mặt chính trị vẫn duy trì những kết
nối tôn giáo và thương mại với những thành phố thiết lập ra chúng.
Người Hy Lạp tổ chức thành những xã hội độc lập cả ở quê nhà và bên ngoài, và
thành phố (polis) trở thành đơn vị chính quyền cơ bản của Hy Lạp.

[ ] Xung đột xã hội và chính trị
Những thành phố Hy Lạp cổ ban đầu theo chế độ quân chủ, mặc dù rất nhiều
thành phố khá nhỏ và danh xưng "vua" (basileus) dành cho người đứng đầu những
thành phố này là quá trang trọng. Hy Lạp cổ đại khơng có nhiều đất canh tác và
quyền lực nằm trong tay thiểu số tầng lớp địa chủ, những người này hình thành
nên một tầng lớp quý tộc chiến binh thường xuyên gây chiến giữa các thành phố
để giành đất và nhanh chóng chấm dứt chế độ quân chủ. Cũng khoảng thời gian
này nổi lên một tầng lớp thương nhân (với sự xuất hiện tiền xu vào khoảng 680
TCN) dẫn đến mâu thuẫn giai cấp tại các thành phố lớn. Từ 650 TCN trở đi, các
tầng lớp quý tộc đánh nhau không phải để bị lật đổ và thay thế bởi những lãnh
chúa thường dân, gọi là tyrranoi (từ này không nên hiểu theo nghĩa ngày nay là
một nhà độc tài hay bạo chúa–tyrant).
Vào thế kỷ thứ 6 TCN có một số thành phố đã nổi lên tại Hy Lạp cổ: Athena,
Sparta, Corinth và Thebes. Mỗi thành phố đó đều kiểm sốt những vùng nơng thơn
phụ cận và những thành thị nhỏ quanh nó, và Athena và Corinth đã trở thành


những trung tâm quyền lực về hàng hải và thương mại. Athena và Corinth cũng
ganh đua nhau để chi phối nền chính trị Hy Lạp liên tục nhiều thế hệ.
Tại Sparta, tầng lớp quý tộc sở hữu đất đai nắm quyền lực, và hiến pháp do
Lycurgus (Sparta) đưa ra (vào khoảng 650 TCN) đã củng cố chặt chẽ quyền lực
của tầng lớp này đồng thời đem lại cho Sparta một chế độ quân phiệt dưới một nền
quân chủ lưỡng chế. Sparta chi phối các thành phố khác của bán đảo Peloponnesus,
ngoại trừ Argus và Achaia.
Tại Athena, ngược lại, chế độ quân chủ được bãi bỏ vào năm 683 TCN, và những
cải cách của Solon đã lập nên một hệ thống chính phủ ơn hịa của tầng lớp q tộc.
Tiếp sau đó là chính thể chun chế của Peisistratos với những người con trai của
ông, những người này đã biến Athena thành một trung tâm quyền lực mạnh về
hàng hải và thương mại. Khi gia đình Peisistratos bị lật đổ, Cleisthenes thiết lập
một nền dân chủ đầu tiên trên thế giới (500 TCN), trong đó quyền lực được nắm

bởi hội đồng các công dân nam giới của thành phố. Tuy nhiên cần phải nhớ rằng
chỉ một phần thiểu số những nam giới cư trú được coi là công dân thành phố, tức
là khơng tính đến người nơ lệ, người nơ lệ được giải phóng và những ai khơng
phải cư dân của thành Athena.
[ ] Chiến tranh với Ba Tư
Bài chi tiết: Chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư
Tại vùng Ionia (hiện nay là vùng biển Aegea thuộc Thổ Nhĩ Kỳ), những thành phố
của Hy Lạp cổ, bao gồm những trung tâm lớn như Miletus và Halicarnassus, đã
khơng thể duy trì nền độc lập của họ và bị Đế chế Ba Tư kiểm soát vào giữa thế kỷ
thứ 6 TCN. Năm 499 TCN, người Hy Lạp tại đây đã tiến hành cuộc khởi nghĩa
Ionia, và Athena cùng vài thành phố khác của Hy Lạp cổ đã tiếp viện.


Năm 490 TCN, hoàng đế Darius I đã tàn phá các thành phố ở Ionia và điều một
hạm đội để tiêu diệt người Hy Lạp. Người Ba Tư cập bến ở Attica và đã bị quân
Hy Lạp cổ, dưới sự chỉ huy của tướng thành Athena là Miltiades, đánh bại tại trận
Marathon. Gò đất mai táng người Athena chết trong trận này vẫn có thể thấy được
ở Marathon.
Mười năm sau, người kế tục Darius, hoàng đế Xerxes I đã cử một đội quân lớn
bằng đường bộ tới Hy Lạp. Sau khi bị vua Sparta Leonidas I giữ chân tại trận
Thermopylae, Xerxes đã tiến vào Attica, chiếm và đốt thành Athena. Nhưng người
Athena đã rút khỏi thành phố bằng đường biển, và dưới sự chỉ huy của
Themistocles họ đã đánh bại hạm đội Ba Tư tại trận Salamis. Một năm sau, người
Hy Lạp, dưới sự chỉ huy của tướng thành Sparta là Pausanius, đã đánh thắng quân
Ba Tư tại Plataea.
Hạm đội Athena sau đó quay sang đuổi người Ba Tư ra khỏi biển Aegea, và năm
478 TCN họ đã chiếm được Byzantium. Kết quả là Athena đã thâu tóm tất cả các
chính quyền trên các đảo và vài liên minh trên đất liền vào một khối gọi là Liên
minh Delos (vì của cải của họ được cất giấu trên hòn đảo linh thiêng mang tên
này). Người Sparta, mặc dù cũng tham gia chiến tranh nhưng sau đó lại rút lui, để

cho Athena trở thành mộ trung tâm quyền lực về hàng hải và thương nghiệp không
thể khuất phục.
[ ] Ưu thế của Athena
Chiến tranh Hy Lap-Ba Tư đã tạo ưu thế cho Athena thống trị Hy Lạp cổ trong
suốt một thế kỷ. Athena đã làm chủ hoàn toàn trên biển, và cũng đứng đầu về sức
mạnh thương nghiệp, mặc dù thành Corinth cũng là đối thủ cạnh tranh đáng gờm.
Người lãnh đạo Athena, lúc đó là Pericles, đã dùng những cống nạp của các thành
viên liên minh Delos để xây dựng đền Parthenon, và những cơng trình kiến trúc
lớn của Athena cổ đại. Vào giữa thế kỷ thứ 5 TCN, liên minh này đã trở thành Đế


chế Athena, đánh dấu bởi việc chuyển giao kho báu từ Delos đến Parthenon vào
năm 454 TCN.
Sự giầu có của Athena đã lôi cuốn những người tài từ khắp nơi đổ về Hy Lạp, và
cũng tạo ra một tầng lớp giầu có rỗi rãi, và trở thành những người bảo trợ cho
nghệ thuật. Nhà nước Athena cũng bảo trợ cho việc học hành và nghệ thuật, đặc
biệt cho kiến trúc. Athena trở thành trung tâm của văn học, triết học (xem Triết
học Hy Lạp cổ) và nghệ thuật (xem Rạp hát Hy Lạp cổ). Một số tên tuổi lớn nhất
của lịch sử văn hóa và trí thức phương Tây đã sống ở Athena trong thời kỳ này:
các nhà viết kịch Aeschylus, Aristophanes, Euripides và Sophocles, các nhà triết
học Aristotle, Plato và Socrates, các nhà sử học Herodotus, Thucydides và
Xenophon, nhà thơ Simonides và nhà điêu khắc Pheidias. Theo ngôn từ của
Pericles, thành phố trở thành "trường học của Hy Lạp".
Những vùng khác của Hy Lạp ban đầu chấp nhận sự lãnh đạo của Athena trong
cuộc chiến triền miên chống lại người Ba Tư, nhưng sau khi nhà chính trị bảo thủ
Cimon mất quyền vào năm 461 TCN, Athena trở thành một chính quyền theo
đường lối đế quốc ngày càng mở. Sau khi Hy Lạp giành chiến thắng ở trận
Eurymedon năm 466 TCN, người Ba Tư khơng cịn là mối đe dọa nữa, và vài nơi
như Naxos, đã cố rút khỏi liên minh nhưng vẫn bị quy phục. Những người lãnh
đạo mới của Athena, Pericles và Ephialtes, đã khiến mối quan hệ giữa Athena và

Sparta trở lên xấu hơn, và năm 458 TCN chiến tranh đã nổ ra. Sau vài năm khơng
kết quả, 30 năm hịa bình đã được ký kết giữa Liên minh Delos và Liên minh
Peloponnesus (bao gồm Sparta và liên minh của họ). Thời gian này trùng với trận
đánh cuối giữa Hy Lạp cổ và Ba Tư, một trận đánh ngồi biển Salamis tại Kypros,
sau đó là Hiệp ước Hịa bình Callias (450 TCN) giữa Hy Lạp cổ và Ba Tư.
[ ] Cuộc chiến với Peloponnesus
Bài chi tiết: Cuộc chiến Peloponnesus


Alcibiades
Năm 431 TCN chiến tranh nổ ra giữa Athena và Sparta cùng những đồng minh.
Nguyên nhân trực tiếp đến từ tranh chấp giữa Corinth và một trong những thuộc
địa của nó, Corcyra (ngày nay là Corfu), mà Athena đã can thiệp vào. Nguyên
nhân sâu xa là sự bực bội của Sparta và những đồng minh của nó trước việc
Athena ngày càng có ảnh hưởng lớn trong Hy Lạp cổ. Cuộc chiến kéo dài 27 năm,
một phần bởi Athena (sức mạnh hải quân) và Sparta (sức mạnh lục quân) khó phối
hợp được với nhau.
Chiến lược ban đầu của Sparta là xâm lấn Attica, nhưng dân thành Athena đã kịp
lùi về trong thành của của họ. Sự bùng phát của dịch bệnh trong thành phố đã gây
ra những tổn thất nặng nề, trong đó có cả Pericles. Cùng thời gian này hải quân
Athena đã tấn công Peloponnesus, chiến thắng trong các trận đánh tại Naupactus
(429 TCN) và Pylos (425 TCN). Tuy nhiên cả hai bên đều không giành được một
chiến thắng quyết định. Sau vài năm chiến tranh không đem lại kết quả, người
lãnh đạo ơn hịa của Athena là Nicias đã ký kết Hòa ước Nicias (421 TCN).


Tuy nhiên, sự đối đầu giữa Sparta và một liên minh của Athena là Argos vào năm
418 TCN lại làm bùng lên cuộc chiến. Tại Mantinea, Sparta đã đánh bại hợp quân
Athena và liên minh của họ. Chiến tranh lại tiếp tục, và Alcibiades đã lên nắm
quyền lực tại Athena. Năm 415 TCN Alcibiades đã thuyết phục Quốc hội Athena

mở rộng cuộc viễn chinh chống Syracuse, một liên minh của Peloponnesus ở
Sicilia. Mặc dù Nicias là người hoài nghi về cuộc viễn chinh Sicilia, ông ta cũng
được chỉ định theo Alcibiades để chỉ huy cuộc viễn chinh. Do bị buộc tội,
Alcibiades đã trốn đến Sparta và thuyết phục Sparta gửi cứu viện đến Syracuse.
Kết quả là cuộc viễn chinh hoàn toàn thất bại và toàn bộ đội quân viễn chinh bị
giết. Nicias đã bị hành quyết bởi những người bắt sống ông ta.
Sparta giờ đây đã dựng xong một đội quân (với sự trợ giúp của quân Ba Tư) và
thách thức thủy quân Athena, và cũng tìm được người lãnh đạo tài giỏi là
Lysander, người đã có một bước đi chiến lược ban đầu là chiếm Hellespont, kho
lương của Athena. Bị đe dọa vì nạn đói, Athena đã gửi một đội quân cuối cùng
còn lại đến đối đầu Lysander, và bị đánh bại tại Aegospotami (405 TCN). Việc
mất nốt đội quân này đã khiến Athena sụp đổ hoàn toàn. Năm 404 TCN Athena đã
cầu hòa, nhưng Sparta đã cương quyết chiếm đóng Athena và chiếm lấy lực lượng
và của cải còn lại của Athena ở hải ngoại. Đảng phái chống dân chủ đã lên nắm
quyền lực tại Athena với sự ủng hộ của Sparta.
[ ] Sparta và sự trỗi dậy của Thebes
Cuộc chiến Peloponnesus kết thúc đã khiến cho nước Sparta vươn lên làm Bá chủ
trong thế giới Hy Lạp cổ đại, nhưng cái nhìn hẹp hịi của những chiến binh xuất
sắc Sparta lại khơng thích hợp với cái ngơi vị đàn anh đó. Chỉ trong vài năm, phe
cánh dân chủ được hồi phục tại Athena và những thành phố khác. Năm 395 TCN,
Triều đình Sparta đã cách chức Lysander và Sparta đã mất ưu thế về thủy quân.
Athena và Argos, cùng với hai đồng minh của Sparta trước đây là Thebes và
Corinth, đã tuyên chiến với Sparta trong cuộc Chiến tranh Corinth, và cuộc chiến


này đã kết thúc bất phân thắng bại năm 387 TCN. Cùng năm người Sparta đã
khiến toàn dân Hy Lạp sốc khi kí kết Hiệp ước Antalcidas với Ba Tư, đồng nghĩa
với việc dâng hai thành phố của Hy Lạp là Ionia và Cyprus; như vậy đã đảo ngược
một trăm năm lịch sử chiến thắng của quân dân Hy Lạp trước người Ba Tư. Người
Sparta sau đó cịn nỗ lực đánh sụp nước Thebes, do đó người Thebes đâm ra lo sợ

bèn quay sang liên minh với kẻ thù cũ của họ là Athena.
Tại Thebes khi đó, Epaminondas - người có tài triết học nhưng chưa có cơng danh
gì trong đời - thống lĩnh ba quân.[1] Những điềm xấu khiến một số cận thần Sparta
phản chiến, nhưng vua Agesilaus II quá ngoan cố nên ông ta quyết tâm phải trừng
trị người Thebes. Vua Sparta là Cleombrotus I thân hành khởi binh. Hai đoàn quân
xáp chiến ác liệt tại Leuctra (371 TCN); cuối cùng, Epaminondas đại thắng và tiêu
diệt được biết bao nhiêu binh lính Sparta, trong số đó có cả Cleombrotus I.[2] Kết
quả của chiến thắng vang dội tại Leuctra là sự kết liễu ách bá quyền của Sparta và
sự trỗi dậy của Thebes, tuy vậy đó Athena cũng đã khơi phục được sức mạnh
trước đây của mình vì ưu thế của Thebes chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Lúc tin
đại bại báo về, người dân Sparta đang làm lễ linh đình và họ liền phải dẹp bỏ hội
hè.[2] Pelopidas - vị danh tướng Thebes đã góp phần mang lại thắng lợi này - được
cử làm Tổng trấn vùng Boetia.[3] Quân Thebes thừa thắng liền đánh phá vùng
Laconia, làm Agesilaus II phải đau khổ vì đất nước của ơng đã mất đi những năm
tháng huy hồng xưa. Sau đó, người Arcadia lại lâm chiến với Sparta. Quân Sparta
do Hoàng tử Archidamus chỉ huy khơng chết một ai, cịn qn Arcadia thảm bại.
Trong khi đó, có cuộc chiến giữa người Thebes và tên bạo chúa khét tiếng
Alexandros xứ Thessaly, quân Thebes do danh tướng Pelopidas chỉ huy đánh tan
nát quân đội của Alexandros. Tuy Pelopidas hy sinh nhưng viện binh Thebes đến
diệt sạch quân của Alexandros. [4]
Và rồi, một lần nữa chiến tranh Thebes - Sparta lại bùng nổ, quân đội tinh nhuệ
của vua Agesilaus II đánh tan nát quân Thebes trong một trận đánh khốc liệt. Một


trận đánh lớn khác diễn ra tại Mantinea (362 TCN), Epaminondas bị một cung thủ
Sparta hạ sát. Sau đó, các thành bang Hy Lạp ký kết Hoà ước dù rằng vua
Agesilaus II chẳng hề muốn.[5] Thebes đã mất người lãnh đạo vĩ đại, và những
người kế vị ông đã sai lầm khi lao vào cuộc chiến mười năm với Phocis. Năm 346
TCN người Thebes thỉnh cầu vua xứ Macedonia là Philippos II giúp họ đánh quân
Phocis, như vậy đã lần đầu tiên đưa Vương quốc Macedonia can thiệp vào Hy Lạp

cổ.
[ ] Sự trỗi dậy của Macedonia
Vương quốc Macedonia (ngày nay là Macedonia) được thành lập vào thế kỷ thứ 7
TCN từ các bộ lạc ở phía bắc của Hy Lạp cổ. Trước đầu thế kỷ thứ 4, họ chỉ đóng
một vai trị khơng đáng kể vào chính trị Hy Lạp cổ nhưng Philip, một người có
nhiều tham vọng và đã được đào tạo ở Thebes, muốn có một vai trị lớn hơn. Đặc
biệt, ơng ta muốn được chấp nhận như một lãnh đạo mới của Hy Lạp để lấy lại
những thành phố Hy Lạp tại châu Á từ người Ba Tư. Bằng việc chiếm lấy những
thành phố Hy Lạp như Amphipolis, Methone và Potidaea, ơng ta đã kiếm sốt các
mỏ vàng và bạc ở Macedonia. Điều này giúp ông có được những nguồn lực để
thực hiện tham vọng của mình.
Philip đã đặt sự thống trị của Macedonia lên các thành Thessaly (352 TCN) và
Thrace, và vào năm 348 TCN ơng ta kiểm sốt tồn bộ phần phía bắc của
Thermopylae. Ông đã sử dụng sự giầu có để mua chuộc những chính trị gia Hy
Lạp và lập ra "Đảng Macedonia" ở khắp các thành phố Hy Lạp. Sự can thiệp của
ông vào cuộc chiến giữa Thebes và Phocis, đã đem lại cho ông ta sự thừa nhận là
người lãnh đạo Hy Lạp, và cho ông ta cơ hội để trở thành nhân vật có ảnh hưởng
trong chính trường Hy Lạp. Nhưng bất chấp sự ngưỡng mộ thực sự của ông ta
dành cho Athena, người lãnh đạo Athena Demosthenes, trong một loại những bài
diễn thuyết nổi tiếng (philippic) đã khích động các thành bang Hy Lạp ngăn cản sự
thăng tiến của ông.


Philip II, vua của thành Macedonia. Hiện vật Cabinet des médailles, Thư viện
quốc gia Pháp
Năm 339 TCN Thebes, Athens, Sparta và những bang Hy Lạp khác đã liên minh
chống lại Philip và trục xuất ông ta khỏi những thành phố Hy Lạp mà ông chiếm ở
miền bắc. Tuy nhiên Philip tấn công trước, tiến sâu vào Hy Lạp và đánh bật liên
minh này tại Chaeronea năm 338 TCN. Sự kiện này thường được coi là chấm dứt
thời kì thành-bang Hy Lạp cổ như những đơn vị chính trị độc lập, mặc dù trên

thực tế Athena và những thành phố khác vẫn tồn tại như những bang độc lập tận
đến thời La Mã.
Philip đã cố chinh phục Athena bằng việc xu nịnh và quà cáp, nhưng cách này
không thật sự thành cơng. Ơng ta tổ chức những thành phố thành Liên minh
Corinth và loan báo sẽ tiến hành một cuộc xâm lược Ba Tư để giải phóng những
thành phố Hy Lạp và trả thù các cuộc xâm lấn của Ba Tư vào đầu thế kỷ trước.
Tuy nhiên ông đã bị ám sát (336 TCN) trước khi thực hiện ý đồ này.
[ ] Những cuộc chinh phạt của Alexandros
Bài chi tiết: Những cuộc chinh phạt của Alexandros đại đế
Người con trai 20 tuổi Alexandros của Philip kế thừa ông ta, và ngay tức khắc
thực thi những kế hoạch của cha mình. Khi nhận thấy Athena suy sụp, Alexandros


mong mỏi khôi phục lại truyền thống của Athena bằng cách tiêu diệt vua Ba Tư.
Ông đi đến Corinth để được liên minh các thành phố Hy Lạp công nhận ông là
lãnh tụ của người Hy Lạp, sau đó đi về phía bắc để thu thập lực lượng. Đội qn
ơng đưa đi đánh Đế chế Ba Tư về cơ bản là người Macedonia, nhưng nhiều người
cùng lý tưởng ở các thành phố khác của Hy Lạp cũng đầu quân. Nhưng trong khi
Alexandros tiến hành chiến dịch ở Thrace, ông nghe nói những thành phố của Hy
Lạp có nổi loạn. Ơng lập tức trở lại phía nam, chiếm Thebes và phá trụi thành phố
này như một lời cảnh báo đến những thành phố Hy Lạp khác rằng sức mạnh của
ông ta sẽ không thể kháng cự được.
Năm 334 TCN Alexandros tiến ngang qua châu Á và đánh bại quân Ba Tư tại
sơng Granicus. Chiến thắng này cho phép ơng kiểm sốt vùng biển Ionia, và ông
đã mở một cuộc diễu hành chiến thắng qua những thành phố Hy Lạp được giải
phóng. Sau khi sắp xếp xong mọi việc tại Anatolia, ông tiến về phía nam đến Syria
qua Cilicia, nơi ơng đã đánh bại Darius III của Ba Tư tại Issus (333 TCN). Sau đó
ơng lại tiến vào Ai Cập qua Phoenicia, nơi ông chỉ gặp một sự kháng cự nhỏ, và
người Ai Cập đã chào đón ơng như một người giải phóng họ khỏi ách thống trị của
người Ba Tư.

Darius lúc đó sẵn sàng đàm phán hồ bình và Alexandros có thể trở về quê hương
ăn mừng chiến thắng, nhưng ông ta vẫn quyết tâm xâm chiếm Ba Tư để trở thành
bá chủ thế giới. Ơng tiến về đơng bắc ngang qua Syria và Lưỡng Hà, tiếp tục đánh
bại Darius tại Gaugamela (331 TCN). Darius chạy trốn và đã bị chính những
người theo ông ta giết chết, lúc này Alexandros trở thành hoàng đế của Đế chế Ba
Tư, chiếm Susa và Persepolis mà không gặp phải sự kháng cự nào.
Trong lúc đó, những thành phố của Hy Lạp tiếp tục cố gắng thoát khỏi sự kiểm
soát của Macedonia. Tại Megalopolis năm 331 TCN, nhiếp chính của Alexandros
là Antipater đánh bại người Sparta, những người này đã từ chối gia nhập liên minh
Corinth hay công nhận quyền lực của Macedonia. Alexandros tiếp tục chinh chiến,


đánh tan tác người Scythia tại sông Jaxartes (329 TCN),[6] kéo quân ngang qua
những nơi mà bây giờ là Afghanistan và Pakistan đến lưu vực sông Ấn Độ, và vào
năm 326 TCN ơng đã tới Punjab. Ơng đã có thể tiến xuống sông Hằng để vào
Bengal nhưng Quân đội của ông cho rằng họ đang ở nơi tận cùng của thế giới, nên
đã không tiến thêm nữa. Alexandros miễn cưỡng quay trở về, và chết vì một cơn
sốt tại Babylon năm 323 TCN, khi đó ơng mới 33 tuổi.
Đế chế Alexandros sớm tan vỡ sau khi ông chết, nhưng những cuộc viễn chinh của
ông đã làm thay đổi thế giới Hy Lạp một cách lâu dài. Hàng ngàn người đi cùng
hay sau ông đã đến định cư ở những thành phố mới của Hy Lạp mà ông đã lập ra
khi chinh chiến, trong đó có thành phố mang tên ơng là Alexandria ở Ai Cập. Các
vương quốc nói tiếng Hy Lạp cũng được thiết lập ở Ai Cập, Syria, Iran và Bhalika.
Thời kỳ Hy Lạp hoá đã bắt đầu.
[ ] Hy lạp thời Hy lạp hóa

The major Hellenistic realms included the Diadochi kingdoms:
Vuơng quốc của Ptolemy I Soter
Vuơng quốc của Cassander
Vuơng quốc Lysimachus



Vuơng quốc Seleucus I Nicator
Epirus
Also shown on the map:
Thuộc địa Hy Lạp
Carthage (non-Greek)
Rome (non-Greek)
The orange areas were often in dispute after 281 BC. Vuơng quốc Pergamon
occupied some of this area. Not shown: Vương quốc Ấn-Hy Lạp.
Bài chi tiết: Thời kỳ Hy Lạp hóa và Văn minh Hy Lạp hóa
Thời kỳ Hy Lạp hóa kéo dài từ năm 323 TCN, đánh dấu sự kết thúc của các cuộc
chiến tranh của Alexandros Đại đế, tới khi sát nhập Hy Lạp bởi Cộng hòa La Mã
vào năm 146 TCN. Mặc dù sự thiết lập của luật lệ La Mã đã không phá vỡ sự liên
tục của xã hội Hy Lạp hóa và văn hóa, mà về cơ bản vẫn khơng thay đổi cho đến
khi sự ra đời của Kitơ giáo, nó đã đánh dấu sự kết thúc của nền độc lập chính trị
Hy Lạp.
Trong thời kỳ Hy Lạp hóa, tầm quan trọng của " Hy Lạp chính quốc" (nghĩa là
lãnh thổ của Hy Lạp hiện đại) trong thế giới nói tiếng Hy Lạp suy giảm mạnh. Các
trung tâm lớn của văn hóa Hy Lạp là Alexandria và Antioch, thủ đô của triều đại
Ptolemaios Ai Cập và Seleukos Syria tương ứng.
Những cuộc chinh phạt của Alexandros đã có một số hậu quả cho các thành bang
Hy Lạp. Nó mở ra chân trời rộng mở cho người Hy Lạp, làm cho các cuộc xung
đột giữa các thành phố trở nên bất tận và một làn sóng di cư ổn định, đặc biệt là


giới trẻ và đầy tham vọng, tới những đế quốc Hy Lạp mới ở phía đơng. Nhiều
người Hy Lạp di cư đến Alexandria, Antioch và nhiều thành phố Hy Lạp khác mới
được thành lập theo sự đánh dấu của Alexandros, ca tới tận những gì được bây giờ
là Afghanistan và Pakistan, nơi các vương quốc Hy Lạp-Bactria và Vương quốc

Ấn-Hy Lạp tồn tại cho đến cuối thế kỷ 1 TCN.
Sau cái chết của Alexandros và sau các cuộc xung đột khá lâu, đế chế của ông đã
bị phân chia giữa các tướng của mình, kết quả là hình thành Vương quốc
Ptolemaios (ở Ai Cập), vương quốc Seleukos (nằm ở Cận đông, Lưỡng Hà và Ba
Tư) và triều đại Antigonos tại Macedonia . Trong giai đoạn này, các thành bang
(poleis) của Hy Lạp đã có thể dành lại một số quyền tự do của họ, mặc dù vẫn còn
trên danh nghĩa chịu sự cai trị của Vương quốc Macedonia.
Các thành bang tự thành lập hai liên minh, Liên minh Achaea (bao gồm cả Thebes,
Corinth và Argos) và Liên minh Aetolia (bao gồm Sparta và Athen). Trong phần
lớn thời gian cho đến khi La Mã chinh phục, các liên minh của họ thường là có
chiến tranh với nhau, hoặc liên minh với các bên khác nhau trong các cuộc xung
đột giữa các Diadochi (các quốc gia kế tục đế chế của Alexandros).


Territories and expansion of the Indo-Greeks.[7]
Vương quốc Antigonos đã tham gia vào một cuộc chiến tranh với Cộng hòa La
Mã vào cuối thế kỷ thứ 3. Mặc dù cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ nhất đã bất
phân thắng bại, người La Mã, đã tiếp tục tiến hành cuộc chiến với Macedonia cho
đến khi nó đã hồn tồn bị xáp nhập vào Cộng hịa La Mã (năm 149 trước Cơng
ngun). Trong khi ở phía đơng đế chế Seleukos cồng kềnh dần dần tan rã, mặc dù
một phần còn tồn tại cho đến năm 64 trước Công nguyên, trong khi Vương quốc
Ptolemaios ở Ai Cập tiếp tục tồn tại cho đến năm 30 trước Cơng ngun, khi nó
cũng bị chinh phục bởi những người La Mã. Liên minh Aetolia đã tăng cường
cảnh giác với sự hiện diện của La Mã ở Hy Lạp, và đứng về phía vương quốc
Seleukos trong chiến tranh La Mã-Syria, khi người La Mã đã chiến thắng, liên
minh đã bị xáp nhập vào nước Cộng hoà. Mặc dù liên minh Achaea tồn tại lâu hơn
cả liên minh Aetolia và Macedonia, nó cũng nhanh chóng bị đánh bại và bị xáp
nhập bởi những người La Mã vào năm 146 TCN, mang đến dấu chấm hết cho sự
độc lập của tất cả các thành bang Hy Lạp.
[ ] Hy Lạp thời La Mã

Bài chi tiết: Hy Lạp thời La Mã
Bán đảo Hy Lạp đã nằm dưới sự cai trị của La Mã trong năm 146 TCN,
Macedonia trở thành một tỉnh của La Mã, trong khi phía Nam Hy Lạp nằm dưới
sự giám sát của thái thú của Macedonia. Tuy nhiên, một số thành bang Hy Lạp đã
cố gắng để duy trì nền độc lập một phần và tránh thuế. Những hòn đảo ở Aegea đã
được thêm vào vùng lãnh thổ này trong năm 133 TCN. Athens, và các thành phố
Hy Lạp khác nổi dậy trong năm 88 TCN, và bán đảo bị đè bẹp bởi tướng La Mã
Sulla. Các cuộc nội chiến La Mã tàn phá vùng đất này hơn nữa, cho đến khi
Augustus tổ chức bán đảo thành tỉnh Achaea trong năm 27 trước Công nguyên.
[ ] Địa Lý


[ ] Các vùng đất
Bài chi tiết: Các vùng đất của Hy Lạp cổ đại

Map showing the major regions of mainland ancient Greece, and adjacent
"barbarian" lands.
Các lãnh đất của Hy Lạp có nhiều đồi núi, và kết quả là, Hy Lạp cổ đại bao gồm
nhiều khu vực nhỏ hơn đều có ngơn ngữ riêng của mình, đặc thù văn hóa và bản
sắc. Khu vực và xung đột khu vực đã được một đặc trưng nổi bật của Hy Lạp cổ
đại. Các thành phố có xu hướng được đặt tại thung lũng giữa núi, hoặc ở đồng
bằng ven biển, và thống trị một khu vực nhất định xung quanh.
Ở phía nam nằm trên bán đảo Peloponnese, tự nó bao gồm các vùng Laconia
(đơng nam), Messenia (tây nam), Elis (phía tây), Achaia (phía Bắc), Korinthia
(đơng bắc), Argolis (phía đơng), và Arcadia (trung tâm). Những tên này tồn tại cho


đến ngày nay là quận của Hy Lạp hiện đại, mặc dù có ranh giới hơi khác nhau.
Vùng đất chính của Hy Lạp ở phía bắc, ngày nay gọi là Trung Hy Lạp, bao gồm
Aetolia và Acarnania ở phía tây, Locris, Doris, và Phocis ở trung tâm, trong khi ở

phía đơng là Boeotia, Attica, và Megaris. Thessaly nằm phía đơng bắc, trong khi
Epirus nằm về phía tây bắc. Epirus kéo dài từ Vịnh Ambracia ở phía Nam đến
vùng núi và sơng Ceraunian Aoos ở phía bắc, và bao gồm Chaonia (phía Bắc),
Molossia (trung tâm), và Thesprotia (phía nam). Ở góc phía đơng bắc là
Macedonia, [8] ban đầu bao gồm hạ Macedonia và khu vực của nó, chẳng hạn như
Elimeia, Pieria, và Orestis. Khoảng thời gian của Alexandros I của Macedonia, các
vị vua triều đại Argead của Macedonia bắt đầu mở rộng tới Thượng Macedonia,
vùng đất nơi sinh sống của bộ lạc Macedonia độc lập như Lyncestae và Elmiotae,
về phía Tây, vượt sông Axius, là Eordaia, Bottiaea, Mygdonia, và Almopia, nơi
các bộ tộc Thracian định cư [9]
[ ] Thuộc địa
Bài chi tiết: Thuộc địa Hy Lạp và Magna Graecia

Greek cities & colonies c. 550 BC.


Trong thời kì cổ xưa, dân số Hy Lạp đã tăng vượt quá khả năng canh tác của đất
vốn bị giới hạn (theo một ước tính, dân số của Hy Lạp cổ đại tăng thêm hơn mười
lần trong khoảng thời gian từ 800 TCN đến 400 TCN, tăng từ dân số là 800.000
đến một số lượng dân số ước tính tổng số 10-13000000). [10]
Từ khoảng năm 750 TCN người Hy Lạp bắt đầu 250 năm mở rộng, xây dựng các
thuộc địa theo tất cả các hướng. Về phía đơng, bờ biển Aegea của Tiểu Á được
chiếm làm thuộc địa đầu tiên, tiếp theo là Cyprus và các bờ biển của Thrace, vùng
biển Marmara và bờ biển phía nam Biển Đen.
Cuối cùng thuộc địa của Hy Lạp đã đạt đến tận phía đơng bắc là Ukraine và Nga
ngày nay (Taganrog). Về phía tây bờ biển Illyria, Sicily và miền Nam Italia đã có
người định cư, tiếp theo là miền Nam nước Pháp, Corsica, và thậm chí cả phía
đơng bắc Tây Ban Nha. Thuộc địa của Hy Lạp cũng đã được thành lập tại Ai Cập
và Libya.
Syracuse, Napoli, Marseille và Istanbul ngày nay đã có sự khởi đầu là thuộc địa

của Hy Lạp như Syracusae (Συρακούσαι), Neapolis (Νεάπολις), Massalia
(Μασσαλία) và Byzantion (Βυζάντιον). Các thuộc địa đã đóng một vai trị quan
trọng trong sự truyền bá ảnh hưởng của Hy Lạp khắp châu Âu, và cũng hỗ trợ
trong việc thành lập mạng lưới kinh doanh khoảng cách dài giữa các thành phố Hy
Lạp, quốc gia, thúc đẩy nền kinh tế của Hy Lạp cổ đại.
[ ] Chính trị và xã hội
[ ] Chính trị
Hy Lạp cổ đại bao gồm nhiều hơn hoặc ít hơn hàng trăm thành bang độc lập
(polei). Đây là một tình huống khơng giống như hầu hết các xã hội đương thời
khác, mà hoặc một bộ tộc, hay một vương quốc cai trị một vùng lãnh thổ tương
đối lớn. Chắc chắn vị trí địa lý của Hy Lạp-chia cắt và phân chia bởi những ngọn


đồi, núi và con sơng- góp phần vào tính rời rạc của Hy Lạp cổ đại. Một mặt, người
Hy Lạp cổ đại đã khơng có nghi ngờ rằng họ là "một dân tộc, họ có cùng tơn giáo,
văn hóa cơ bản giống nhau, và cùng một ngôn ngữ. Hơn nữa, người Hy Lạp đã rất
ý thức về nguồn gốc bộ lạc của họ, Herodotus đã có thể để phân loại rộng rãi các
thành bang theo bộ lạc. Tuy nhiên, mặc dù những mối quan hệ cao hơn này tồn tại,
chúng dường như hiếm khi có một vai trị quan trọng trong chính trị Hy Lạp. Sự
độc lập của những poleis được bảo vệ rất mãnh liệt, thống nhất đất nước là một cái
gì đó hiếm khi có trong dự tính của người Hy Lạp cổ đại. Ngay cả khi, trong cuộc
xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của người Ba Tư, một nhóm các thành bang đã tự
mình liên minh để bảo vệ Hy Lạp, phần lớn các polei vẫn trung lập, và sau khi
đánh bại Ba Tư, các đồng minh nhanh chóng quay ra tranh giành. [11]
Như vậy, đặc thù chính của hệ thống chính trị Hy Lạp cổ đại; trước hết, là tính
chất rời rạc của nó, và thứ hai là sự tập trung đặc biệt vào các trung tâm thành thị
trong số các quốc gia nhỏ bé khác. Các đặc thù của hệ thống Hy Lạp tiếp tục
chứng minh bằng các thuộc địa mà họ thiết lập trên khắp vùng biển Địa Trung Hải,
mặc dù chúng có thể coi như một Polis Hy Lạp nhất định như thành bang 'mẹ' của
chúng(và vẫn có cảm tình với nó), chúng đã là một thành bang hoàn toàn độc lập.

Chắc chắn những Poleis nhỏ hơn có thể bị thống trị bởi các nước láng giềng lớn
hơn, nhưng cuộc chinh phục hoặc sự cai trị trực tiếp của một thành bang khác xuất
hiện khá hiếm. Thay vào đó, một hóm poleis lập thành một liên minh. Sau đó
trong thời kỳ cổ điển, các liên minh sẽ trở nên ít hơn và lớn hơn, được thống trị
bởi một thành phố (đặc biệt là Athen, Sparta và Thebes), và thường các poleis sẽ
bị ép buộc phải tham gia do bị đe dọa chiến tranh (hoặc như là một phần của một
hiệp ước hòa bình). Ngay cả sau khi Philippos II của Macedonia 'chinh phục' phần
trung tâm của Hy Lạp cổ đại, ông đã không cố gắng để xáp nhập vùng lãnh thổ ấy,
hoặc thống nhất thành một tỉnh mới, nhưng chỉ đơn giản là bắt buộc các poleis
tham gia Liên minh Corinth của riêng mình.


[ ] Chính quyền và luật pháp
Ban đầu nhiều thành bang Hy Lạp dường như đã là các vương quốc nhỏ, thường
có một quan chức thành phố thực hiện một số chức năng, nghi lễ của vua
(basileos), ví dụ như basileos Archon tại Athens [21] Tuy nhiên, vào thời kỳ cổ
xưa và những sự hiểu biết lịch sử đầu tiên, hầu hết đã chuyển thành chế độ một
nhóm quý tộc đầu sỏ. Vẫn chưa rõ chính xác làm thế nào sự thay đổi này xảy ra.
[ ] Xã hội
Những nét đặc trưng của xã hội Hy Lạp cổ đại là sự chia phân chia giữa người tự
do và nô lệ, vai trò khác nhau giữa nam giới và nữ giới, sự ít phân biệt địa vị xã
hơi dựa trên gốc gác ra đời, và sự quan trọng của tôn giáo. Lối sống của người
Athena là phổ biến trong thế giới Hy Lạp so với chế độ đặc biệt của Sparta.
[ ] Cấu trúc xã hội
Chỉ có những người tự do mới có quyền làm cư dân thành phố và được bảo vệ đầy
đủ bởi luật pháp trong một thành-bang. Trong hầu hết các thành bang, không
giống như La Mã, sự nổi trội trong xã hội không cho phép những quyền lợi đặc
biệt. Chẳng hạn, sinh ra trong một gia đình nào đó khơng có nghĩa là có những đặc
quyền. Vài gia đình kiểm sốt chức năng tơn giáo cộng đồng, nhưng nói chung
điều này khơng có nghĩa là có quyền lực nào đó trong chính quyền. Tại Athena,

dân chúng được chia thành bốn tầng lớp dựa theo sự giầu có. Người ta có thể thay
đổi tầng lớp của mình nếu có nhiều tiền hơn. Tại Sparta, tất cả các nam cơng dân
của thành phố đều được xác định là "bình đẳng" nếu họ kết thúc việc học hành của
họ. Tuy vậy, các vua người Sparta lãnh đạo tôn giáo và quân đội của thành bang
thường đến từ hai gia đình khác nhau.
Nơ lệ khơng có quyền lực và địa vị. Họ có quyền có gia đình và tài sản riêng, tuy
nhiên khơng có quyền chính trị. Năm 600 TCN chế độ chiếm hữu nô lệ đã trải


×