Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Bài dự thi tìm hiểu: Lực lượng vũ trang Thanh Hóa 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.95 KB, 23 trang )

BÀI DỰ THI TÌM HIỂU “LỰC LƯỢNG VŨ TRANG THANH HÓA 70
NĂM XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU VÀ TRƯỞNG THÀNH”
Câu hỏi 1: Anh (chị) cho biết quá trình thành lập và hoạt động của tổ
chức tiền thân LLVT Thanh Hoá ngày nay?
Trả lời:
- Ngày 29/7/1930, Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hoá được
thành lập. Trong những năm vận động cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền từ (1939- 1945), Đảng bộ tỉnh Thanh Hố đẩy mạnh việc tổ
chức, xây dựng lực lượng vũ tranh cách mạng, các đội tự vệ phản đế cứu quốc lần
lượt ra đời chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng.
- Ngày 28/01/1941, đồng chí Đặng Châu Tuệ được Tỉnh ủy cử đi dự Hội
nghị liên tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh để tiếp thu Thông báo khẩn cấp của
Ban Thường vụ Trung ương Đảng về hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, nội
dung Nghị quyết VII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và tiếp thu kế hoạch chỉ
đạo phong trào cách mạng của Xứ ủy Trung Kỳ.
- Tháng 2 năm 1941, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị đại biểu các cơ sở Đảng trên
địa bàn toàn tỉnh tại làng Phong Cốc (Xuân Minh, Thọ Xuân). Hội nghị đã chỉ rõ
nhiệm vụ trước mắt: Xúc tiến việc xây dựng phát triển các đội tự vệ và du kích, tiến
tới đấu tranh vũ trang; Lập vành đai căn cứ địa cách mạng từ Tây Bắc xuống Đơng
Nam tỉnh Thanh Hóa; Phát động phong trào quần chúng đấu tranh chống thuế vụ hạ.
- Cuối tháng 7 năm 1941, Ban Lãnh đạo chiến khu Ngọc Trạo được thành
lập, gồm 3 đồng chí Đặng Châu Tuệ, Trần Tiến Quân, Đặng Văn Hỷ; lực lượng ban
đầu gồm 21 chiến sỹ cách mạng được chọn lựa từ nhiều Huyện trong Tỉnh, vượt
vòng vây của mật thám đã về Ngọc Trạo tụ họp. Sau một thời gian bọn mật thám
nghi ngờ, chúng tìm đường để dị xét. Để bảo đảm an toàn cho chiến khu, các chiến
sỹ đã bí mật luồn rừng về Hang Treo.
Tại đây, đêm 19/9/1941, đội du kích Ngọc Trạo dưới sự chỉ huy của đồng chí
Đặng Châu Tuệ chính thức làm lễ thành lập. Đây là một trong những lực lượng vũ
trang tập trung tiền thân của lực lượng vũ tranh Tỉnh Thanh Hoá.
Đội du kích gồm 21 chiến sỹ ưu tú tiền thân của lực lượng vũ trang Thanh
Hoá sau này, mang số thứ tự từ 1 đến 21 do đồng chí Đặng Châu Tuệ trực tiếp làm


chỉ huy trưởng. Dưới lá cờ đỏ sao vàng, tồn đội đã đồng tâm nhất trí hô vang lời
thể sắt son của người chiến sỹ cách mạng, thề nguyện hy sinh phấn đấu đến giọt
máu cuối cùng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sau khi tuyên bố điều lệ, kỷ luật
của đội các chiến sỹ hát vang bài đội ca hùng tráng. Và bài hát đã trở thành bài
"Đội ca": "Đời ta khổ bấy lâu rồi/ Mà sao vẫn cam chịu hồi/ Đời mình tự mình

1


phải cứu/ Chớ trông cậy vào ai/ Công nông binh đoàn kết/ Trên con đường giai
cấp đấu tranh/ Búa liềm kia dắt chúng ta lên đường/ Đại đồng"

Ban Lãnh đạo chiến khu Ngọc Trạo (từ trái qua phải: Đ/c Đặng Châu Tuệ, Đ/c Trần Tiến Quân,
Đ/c Đặng Văn Hỷ) - Ảnh Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa

Việc thành lập đội du kích chiến khu Ngọc Trạo đã gây tiếng vang lớn cho
nhân dân, cổ vũ nhiều thanh niên yêu nước trong tỉnh tình nguyện lên chiến khu
hoạt động.
- Quá trình phát triển về số lượng: Ngày 19-9 ở hang treo gồm 19 người. Đến
ngày 21 tháng 9 thêm 2 người. Đến ngày 22 tháng 9 thêm 3 người, đợt đông nhất
16 người Hà Trung cùng lên một ngày. Đến 19 thág 10 năm 1941 có 80 người.
- Đội du kích Ngọc Trạo gồm 3 tiểu đội. Mỗi tiểu đội gồm 7 đội viên. Ngồi ban
chỉ huy chung đội cịn có cá ban chỉ huy: Quân sự, Hậu cần, bảo vệ và các tổ chiến
đấu. Trang bị của đội viên gồm có: Quần áo nông dân, túi dết, xà cạp xanh, một con
dao nhọn. Cán bộ được phát thêm k hẩu súng kíp Thời gian làm việc của đội là:
Buổi sáng tập quân sự, chiều học chính trị, và buổi tối học tập văn hố, sinh hoạt
văn nghệ.

Di tích Hang Treo – được cơng nhận là Di tích Quốc gia năm 1994


2


- Đầu tháng 10/1941, được bọn cha cố phản động chỉ điểm, thực dân Pháp đưa
quân đánh úp vào Đa Ngọc, nơi đang tập trung hơn 100 tự vệ; tại đây cuộc chiến đấu đã
diễn ra, nhiều đồng chí đã anh dũng chiến đấu và hy sinh, một số đồng chí trốn thốt tìm
đường đến Ngọc Trạo, bọn mật thám bắt đầu lần ra dấu tích. Ngày 19/10/1941, chúng
đã đưa quân đánh phá chiến khu. Các chiến sỹ đã kiên cường chiến đấu, nhưng vì thế
yếu, bị địch bao vây, anh em phải rút lui để bảo toàn lực lượng.
- Ngay sau cách mạng
Tháng Tám năm 1945
thành công, Tỉnh ủy, Ủy
ban cách mạng lâm thời
tỉnh đã tuyển chọn 1.500
chiến sĩ tự vệ trung kiên
trong các đội quân khởi
nghĩa của các huyện để
thành lập Chi đội giải
phóng qn Đinh Cơng
Tráng (24/8/1945), do
đồng chí Hồng Tiến
Trình là Chi đội trưởng.
Ngơi nhà ơng Lê Oanh Kiều (làng Hàm Hạ, Đông Tiến,
nay thuộc
thôn Đại Đồng, thị trấn Rừng Thông, Đông Sơn)
- nơi thành lập chi bộ
Đảng đầu tiên ở Thanh Hóa đã trở thành Di
tích lịch sử quốc gia.

Câu hỏi 2: Anh (chị) cho biết vị trí, ý nghĩa chiến lược của tỉnh Thanh Hóa

trong kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc hiện nay?
Trả lời:
*Vị trí địa lý:
Thanh Hố là một tỉnh lớn của Bắc Trung Bộ có toạ độ địa lý:
– Điểm cực Bắc: 20040’B (tại xã Tam Chung – huyện Quan Hoá)
– Điểm cực Nam: 19018’B (tại xã Hải Thượng – Tĩnh Gia)
– Điểm cực Đông: 106004’Đ (tại xã Nga Điền – Nga Sơn)
– Điểm cực Tây: 104022’Đ (tại chân núi Pu Lang – huyện Quan Hóa)
Thanh Hố có lãnh thổ rộng lớn: 11.129,48 km2, là tỉnh có diện tích lớn thứ 5 trong
cả nước.
Về vị trí địa lý, Thanh Hóa tiếp giáp với các tỉnh và nước bạn như sau:
– Phía Bắc: giáp 3 tỉnh, gồm: Sơn La, Hồ Bình, Ninh Bình với đường ranh
giới dài 175km.
– Phía Nam : giáp Nghệ An với đường ranh giới dài 160 km
3


– Phía Đơng: giáp biển Đơng với chiều dài đường bờ biển 102 km.
– Phía Tây: giáp tỉnh Hủa Phăn của nước CHDCND Lào với đường biên
giới dài 192km.

Bản đồ hành chính tỉnh Thanh Hóa

Thanh hố nằm ở vị trí trung chuyển giữa các tỉnh phía Bắc và các tỉnh phía
Nam nước ta. Trong lịch sử nơi đây từng là căn cứ địa vững chắc chống ngoại xâm,
là kho nhân tài vật lực phục vụ tiền tuyến.
Tỉnh Thanh Hoá nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ. Với 102 km đường bờ biển ở đây có thể phát triển hoạt động du lịch,
khai thác cảng biển; có đường quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh, đường sắt xuyên
Việt và sân bay Thọ Xuân. Thêm vào đó, Thanh Hóa có quy mơ diện tích lớn với

nhiều vùng sinh thái khác nhau.
Đặc điểm về vị trí địa lý trở thành một trong những điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội của tỉnh Thanh Hóa.
* Thanh Hóa ln giữ vai trò là căn cứ chiến đấu, hậu phương chiến lược
của các cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại.
Theo các nhà nghiên cứu, với tầm nhìn bao qt tồn diện và sâu sắc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã xác định vị thế chiến lược quan trọng của Thanh Hóa trên cơ
sở phân tích các yếu tố địa lợi, nhân hịa, truyền thống và hiện tại, tiềm năng và sức
bật vươn tới để đáp ứng những yêu cầu mới của cách mạng. Bởi vậy, dù bận trăm
công, ngàn việc, nhưng Bác Hồ vẫn luôn dành cho Đảng bộ, nhân dân các dân tộc
Thanh Hóa những tình cảm đặc biệt và sự quan tâm sâu sắc, trực tiếp chỉ dẫn nhiều
điều quan trọng. Cùng với những bức thư, điện gửi cho các tập thể, cá nhân có
4


thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, Bác Hồ đã 4 lần về thăm tỉnh ta
(tháng 2/1947, tháng 6/1957, tháng 7/1960, tháng 12/1961).

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với hơn 3 vạn động bào Thanh Hóa ngày 12/12/1961

Đặc biệt, ngay từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến (năm 1946), Hồ
Chí Minh và Trung ương Đảng đã tin tưởng, hy vọng Thanh Hóa trở thành hậu
phương vững mạnh, có thể ngăn chặn được những cuộc tấn cơng lấn chiếm của
thực dân Pháp và cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến để chiến thắng thực
dân Pháp xâm lược. Ý tưởng đó của Người được thể hiện rõ trong chuyến “vào
Thanh kinh lý” tháng 2 năm 1947.
Các tư liệu lịch sử còn lưu giữ cho biết chuyến đi đầu tiên vào Thanh Hóa
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chuẩn bị kỹ lưỡng trước nhiều ngày. Ngày
20/2/1947, khi tới Thanh Hóa, trong thời gian lưu lại rất gấp gáp, buổi sáng Bác đã
nói chuyện với đội ngũ cán bộ tại Rừng Thông (Đông Sơn). Chiều cùng ngày, Bác

gặp gỡ nói chuyện với đại biểu thân sĩ, trí thức, phú hào. Buổi chiều tối, Bác nói
chuyện với cán bộ, nhân dân thị xã Thanh Hóa tại Nhà thơng tin Thanh Hóa. Sau
chuyến đi, Người cịn băn khoăn vì chưa gặp được đại diện của dân tộc ít người nên
ngày 21/2/1947, Người đã viết thư thăm hỏi đồng bào thượng du Thanh Hóa.
Trong các cuộc gặp gỡ với cán bộ, thân sĩ, trí thức, phú hào và nhân dân
Thanh Hóa, Người đã giao cho Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa những nhiệm vụ
quan trọng để xây dựng Thanh Hóa thành tỉnh kiểu mẫu, một mơ hình hậu phương
của cuộc chiến tranh nhân dân. Và cũng ngay sau đó, Người lại viết bài Thanh Hóa
kiểu mẫu nêu rõ mục đích, phương châm, cách làm cụ thể để xây dựng Thanh Hóa
trở thành một tỉnh kiểu mẫu theo chỉ dẫn của Người.
* Trong 2 cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm
lược (1945 - 1975), Thanh Hóa là hậu phương lớn trực tiếp chiến đấu, chi viện
sức người, sức của cho các chiến trường.
5


- Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Thanh Hóa là tỉnh
đất rộng, người đơng, cùng với 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hợp thành hậu phương
Thanh – Nghệ - Tĩnh, trong đó Thanh Hóa là tỉnh địa đầu của miền Trung, là hậu
phương trực tiếp của chiến trường Liên khu III, Bắc Bộ và Tây Bắc.
Mùa hè năm 1953, cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước sang năm thứ 8.
Cục diện chiến trường Việt Nam đã có những biến đổi quan trọng. Tại chiến trường
Bắc Bộ, Tây Bắc, quân và dân ta mở nhiều chiến dịch lớn. Mọi nhu cầu bảo đảm
cho cuộc kháng chiến đòi hỏi rất lớn ở hậu phương.
Những tháng cuối năm 1953, hậu phương Thanh Hóa vừa phải ra sức đẩy
mạnh mọi mặt công tác xây dựng và bảo vệ hậu phương, vừa tích cực động viên
sức người, sức của cho tiền tuyến đánh thắng. Chiến dịch nối tiếp chiến dịch, từ
năm 1951-1953, quân và dân Thanh Hóa liên tiếp bổ sung lực lượng, phục vụ 5
chiến dịch lớn: Trung Du, Quang Trung, Hịa Bình, Tây Bắc và Thượng Lào. Đặc
biệt chiến dịch Thượng Lào tháng 5-1953, Thanh Hóa bảo đảm tới 76% nhu cầu

của cả chiến dịch.
Thực hiện nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953 - 1954, ngày 6-12-1953, Bộ
Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
thị: “Chiến dịch này là chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về
chính trị, khơng những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, tồn Đảng,
tồn quân, toàn dân phải tập trung hoàn thành cho kỳ được” (Chỉ thị của Chủ tịch
Hồ Chí Minh gửi cho đồng chí Võ Nguyên Giáp tháng 12 -1953).
Quyết tâm chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu diệt toàn bộ
quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã trở thành ý chí, hành động cụ thể
của quân và dân ta.
Thực hiện kế hoạch của Bộ Chính trị, các binh đồn chủ lực của ta lần lượt
rời hậu phương Thanh Hóa để dồn sức cho chiến dịch. Các Đại đoàn 304, 320, 316
và một số trung đoàn của bộ đang đứng chân tác chiến bảo vệ Thanh Hóa và vùng
tự do Liên khu III lần lượt hành quân lên Tây Bắc, sang Lào chuẩn bị cho chiến
dịch Điện Biên Phủ. Bảo vệ Thanh Hóa lúc này do lực lượng vũ trang trong tỉnh
đảm nhiệm.
Từ trung tuần năm 1953 đến đầu năm 1954, khi biết quân và dân ta đang
chuẩn bị mở các chiến dịch lớn tại Lai Châu, Tây Bắc, Thượng Lào và đang ráo riết
tập trung cho chiến dịch Điện Biên Phủ, thực dân Pháp vừa tăng cường đối phó với
ta ở chiến trường Tây Bắc, vừa cho máy bay, tàu chiến bắn phá, càn quét dữ dội
vào Thanh Hóa nhằm buộc ta chi phối lực lượng và chia cắt hậu phương Thanh –
Nghệ - Tĩnh với chiến trường chính Tây Bắc và Lào. Ngày 15 và 16-10-1953, Nava mở cuộc hành binh Hải Âu đánh ra Tây Nam Ninh Bình và cuộc hành binh “con
6


bồ nơng” đánh vào vùng biển Thanh Hóa. 6 tháng cuối năm 1953 và những tháng
đầu năm 1954, thực dân Pháp cho quân đổ bộ, càn quét hơn 10 lần vào các huyện
Nga Sơn, Hà Trung, Hoằng Hóa, Quảng Xương và Tĩnh Gia. Trận càn ít nhất là 100
tên, nhiều nhất là hơn 3.000 tên.


Hình ảnh đồn xe đạp thồ tiếp viện chiến dịch Điện Biên Phủ

Để phân tán lực lượng của địch hỗ trợ cho chiến dịch Điện Biên Phủ, thực
hiện chia lửa với chiến trường Bắc Bộ, Tây Bắc, qn, dân Thanh Hóa tổ chức
những trận tập kích vào các đồn bốt ở Chính Đại, Mai An Tiêm, Vân Hải thuộc các
xã phía bắc huyện Nga Sơn để kìm chân địch khơng để chúng ra ứng cứu cho chiến
trường Bắc Bộ và Tây Bắc. Tại các huyện Hà Trung, Quảng Xương, Tĩnh Gia, các
đại đội bộ đội địa phương đã cùng dân quân du kích tổ chức lực lượng chống càn
quét bảo vệ địa phương.
Đầu tháng 12-1953, công cuộc chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ được
tiến hành ráo riết. Lực lượng vũ trang Thanh Hóa một mặt phải tổ chức chiến đấu
bảo vệ địa phương, mặt khác phải tích cực chi viện cho chiến trường thực hiện
khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Công tác tuyển quân
không chỉ một năm 1 đợt, 2 đợt mà có năm lên tới 3, 4 đợt, lúc nào tiền tuyến cần,
lúc đó có hậu phương chi viện. Năm 1953 và 6 tháng đầu năm 1954, Thanh Hóa có
18.890 thanh niên nhập ngũ, bằng quân số nhập ngũ 7 năm về trước (1946-1953).
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng thông qua quyết tâm mở
chiến dịch Điện Biên Phủ và cũng bắt đầu huy động lực lượng dồn sức cho Điện
Biên Phủ. Đáp ứng cho chiến dịch, Thanh Hóa đã nhanh chóng củng cố nâng cao
chất lượng lực lượng vũ trang, nhất là lực lượng bộ đội địa phương để kịp thời chi
viện cho chiến trường Điện Biên Phủ. Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa đã bổ sung
nhiều đơn vị ra chiến trường như Tiểu đoàn 275 bộ đội địa phương tỉnh cho Trung
7


đoàn 53, các Đại đội 150, 160 cho Tiểu đoàn 541 phịng khơng, 2 trung đội trinh sát
cho Đại đồn 304. Ngồi ra Thanh Hóa cịn điều động hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ
của Đại đội 128 bộ đội huyện Bá Thước, 112 bộ đội huyện Tĩnh Gia, các đơn vị của
Hoằng Hóa, Hà Trung, Quảng Xương, Thạch Thành cho các đơn vị tham gia chiến
đấu tại Điện Biên Phủ.

Ngày 13/3/1954, bộ đội ta bắt đầu nổ súng tiêu diệt cứ điểm Him Lam và
Độc Lập, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.
Phối hợp với chiến trường chính Điện Biên Phủ, tại Nga Sơn, quân và dân
Thanh Hóa ra sức đẩy mạnh tiến cơng qn sự để kìm chân địch, tiêu diệt nhiều
sinh lực địch. Mặt khác các tổ dân vận, địch vận vẫn tăng cường tuyên truyền hoạt
động khuyếch trương chiến thắng của ta trên chiến trường Điện Biên, làm lung lay
tinh thần và làm tan rã hàng ngũ địch.
Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, tin chiến thắng nhanh chóng đến với
quân và dân Thanh Hóa, lực lượng vũ trang tỉnh tích cực khuyếch trương chiến
thắng, các tổ dân vận, địch vận đẩy mạnh công tác tuyên truyền đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta nói rõ âm mưu thủ đoạn của địch, kêu
gọi binh lính địch đóng tại các đồn Điền Hộ, Mai An Tiêm hạ vũ khí đầu hàng.
Đồng thời, các đại đội bộ đội địa phương tổ chức các đợt tấn công truy quét, buộc
địch phải đầu hàng.
Thất bại trên chiến trường chính Điện Biên Phủ, buộc địch phải rút khỏi Nga
Sơn, bị tiêu diệt nặng trong các trận càn quét vào bờ biển phía nam Thanh Hóa, âm
mưu phá hậu phương Thanh Hóa bị thất bại hồn tồn. Ngày 7/8/1954, thực dân
Pháp phải rút khỏi đảo Hòn Mê, chấm dứt sự có mặt của quân Pháp ở Thanh Hóa.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu anh dũng, chiến dịch Điện Biên Phủ tồn thắng,
qn và dân ta đã loại khỏi vịng chiến đấu một số lượng lớn sinh lực địch và
phương tiện chiến tranh, giải phóng vùng đất đai có ý nghĩa chiến lược.
Chiến thắng Điện Biên Phủ giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược
của thực dân Pháp, xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho
đấu tranh ngoại giao của ta đi tới kết thúc cuộc kháng chiến thần thánh của nhân
dân ta chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã trở
thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc của nhân
dân thế giới.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là nguồn cổ vũ, động viên quân và dân Thanh
Hóa chiến đấu bảo vệ địa phương, dồn sức chi viện cho chiến trường. Trong chiến
dịch, Thanh Hóa đã thể hiện rõ vai trị hậu phương chiến lược quan trọng của Điện

Biên Phủ. Lực lượng vũ trang Thanh Hóa đã bổ sung 1 tiểu đồn, 2 đại đội, 2 trung
đội và hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu. Tinh thần xả thân
8


chiến đấu ngoan cường của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Thanh Hóa trên mặt
trận là biểu tượng tốt đẹp rực sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Kết thúc cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Thanh Hóa có 5 đồng chí được Đảng
và Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân đó là:
Anh hùng liệt sĩ Trần Đức, xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia; anh hùng liệt sĩ Lê Cơng
Khai, xã Hoằng Phú, huyện Hoằng Hóa; anh hùng liệt sĩ Trương Công Man, xã
Cẩm Phong, huyện Cẩm Thủy; anh hùng Lò Văn Bường, xã Xuân Lẹ, huyện
Thường Xuân; tiêu biểu là anh hùng liệt sĩ Tô Vĩnh Diện, Tiểu đội trưởng Đại đội
827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn pháo cao xạ 367, quê xã Nông Trường, huyện
Nông Cống đã lấy thân mình cứu pháo khơng để rơi xuống vực thẳm. Âm vang
Điện Biên Phủ đã lan tỏa trên các mạch sống của nhân dân Thanh Hóa nói chung
và lực lượng vũ trang Thanh Hóa nói riêng. Chiến thắng Điện Biên Phủ tạo nên
nguồn lực tiếp sức cho lực lượng vũ trang Thanh Hóa cùng quân và dân cả nước
tiếp tục chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược, vững bước đi lên trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Quân và dân Thanh Hóa mãi mãi xứng đáng với lời biểu dương khen ngợi
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi Người về thăm năm 1957: “Bây giờ tiếng Việt Nam
đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào
Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó”.
- Đại thắng mùa Xuân 1975 là những “mốc son bằng vàng” tạc vào lịch sử
dân tộc trong thế kỷ XX. 42 mùa xuân đã đi qua nhưng âm hưởng hào hùng của
một thời đánh Mỹ, thắng Mỹ lật nhào chế độ ngụy quyền Sài Gòn để Nam - Bắc
trọn niềm vui thống nhất vẫn mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam nói chung
và Thanh Hóa nói riêng. Truyền thống đó tiếp tục được khơi dậy trong thời kỳ xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với

chủ nghĩa xã hội (CNXH) mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Thanh Hóa hậu phương lớn của miền Nam ruột thịt
Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hịa bình được lập lại ở miền Bắc.
Nhưng nhân dân miền Nam vẫn phải sống trong ách thống trị bạo tàn của bè lũ Mỹ
ngụy. Thực hiện chủ trương, đường lối của Trung ương Đảng nhân dân cả nước
cùng lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng là xây dựng CNXH ở miền
Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Cùng với nhân dân
miền Bắc, Thanh Hóa nhanh chóng thực hiện công cuộc hàn gắn hậu quả tàn phá
của chiến tranh, khôi phục và phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân. Từ
vũng bùn nô lệ cam chịu cảnh đói nghèo, cùng khổ nay được bước lên địa vị làm
chủ xã hội đại đa số người dân đều phấn khởi, lạc quan trước thành quả mà cách
mạng đem lại.

9


Chính quyền cách mạng đẩy mạnh phong trào
diệt giặc đói, giặc dốt ở khắp mọi vùng miền trong
tỉnh và được nhân dân tích cực hưởng ứng, tự giác
thực hiện. Chủ trương cải cách ruộng đất, cải tạo công
thương nghiệp, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp đã đem lại ruộng đất cho dân cày, tư
liệu sản xuất cho thợ thủ công, đem đến diện mạo mới
trong đời sống người dân. Điều đó tạo nên khí thế thi
đua học tập, lao động sản xuất diễn ra sôi nổi ở khắp
mọi lĩnh vực đời sống xã hội từ đồng bằng đến miền
núi, từ nông thôn tới đô thị. Trong gần 10 năm cải tạo
và xây dựng cơ sở vật chất ban đầu cho CNXH, nhờ
sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền, sự nỗ lực phấn đấu của mọi tầng
lớp nhân dân trên địa bàn nên KT-XH phát triển, tiềm lực QP-AN của tỉnh được

tăng cường đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước. Tỉnh đã dồn sức xây
dựng nhiều cơ sở cơng trình thiết yếu phục vụ đời sống, đồng thời chú trọng áp
dụng tiến bộ của công nghiệp vào sản xuất nông nghiệp nên năng suất lao động
được nâng cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Phong trào thi đua xây dựng các
mơ hình, điển hình tiên tiến ở tất cả các ngành, các cấp được đẩy mạnh. Các điển
hình tiên tiến trong nông nghiệp như Đông Phương Hồng, Yên Trường, trong cơng
nghiệp như cơ khí Thành Cơng, trong giáo dục như Hải Nhân... được nhân rộng
trên toàn miền Bắc.
Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất Thanh Hóa đã đạt được một số thành
tựu quan trọng trong phát triển KT-XH với nhiều cơ sở vật chất, cơng trình được
đầu tư xây dựng. Khi thất bại trong áp dụng “chiến tranh đặc biệt” và “cục bộ” ở
miền Nam, giặc Mỹ đã điên cuồng thực hiện chiến tranh phá hoại bằng không quân
và hải quân ra miền Bắc. Với địa thế là cầu nối giữa Bắc Bộ và Trung Bộ, Thanh
Hóa trở thành khu vực “cán xoong”, là huyết mạch giao thông quan trọng của miền
Bắc. Sẵn sàng ứng phó với giặc Mỹ, Thanh Hóa đã nhanh chóng chuyển hướng
hoạt động từ thời bình sang thời chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác: “Mỗi người
làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, hàng chục phong trào thi đua đã được
phát động liên tục ở tất cả các cấp, các ngành. Đó là các phong trào “Thanh niên ba
sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Tiếng hát át tiếng bom”... đã lan tỏa khắp các
vùng miền tạo nên khí thế hừng hực, hào hùng trong xưởng máy, công trường,
đồng ruộng, trường học, trận địa. Mặc cho bom đạn giặc ngày đêm tàn phá, người
dân vẫn chắc tay cày, vững tay súng để tạo nên những cánh đồng “5 tấn thắng Mỹ”.
Các em thơ vẫn đội mũ rơm đến trường để học tập. Các nhà máy, xí nghiệp vẫn duy
trì sản xuất cung cấp những đồ dùng thiết yếu cho sản xuất, sinh hoạt của người
dân. Trong những năm chống Mỹ, cứu nước, tồn tỉnh đã có hàng ngàn các gia đình
cả ba thế hệ ông bà, cha mẹ, con cháu cùng chung một chiến hào diệt giặc, hàng
vạn gia đình có từ 3 đến 5 con cùng tòng quân nhập ngũ. Tồn tỉnh có 250 ngàn
thanh niên ưu tú và hàng vạn cán bộ, Đảng viên, nam nữ tham gia bộ đội và thanh
10



niên xung phong. Tỉnh cũng xây dựng và huấn luyện 78 tiểu đoàn bộ đội bổ sung
cho các chiến trường. Khơng chỉ làm trịn nhiệm vụ là hậu phương lớn của miền
Nam ruột thịt, Thanh Hóa cịn thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế giúp nước bạn Lào và
Campuchia trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, quốc phịng, góp phần củng cố thắt
chặt mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị.
Những thành tích to lớn trong chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ
Khi giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc bằng khơng qn và hải qn thì
Thanh Hóa trở thành địa bàn chiến lược trọng yếu, “chiếc giáp sắt” bảo vệ thủ đô
Hà Nội, kho dự trữ chiến lược, chiếc cầu nối giữa miền Bắc với miền Nam... Các
đầu mối giao thơng thủy, bộ, đường sắt như Đị Lèn, Hàm Rồng, Phà Ghép... nếu
ách tắc sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng sự chi viện cho chiến trường miền Nam và cách
mạng Lào.

Nữ dân quân Thanh Hóa trong kháng chiến chống Mỹ.

Trong cuộc chống chiến tranh phá hoại thì giao thơng vận tải là mặt trận
nóng bỏng và ác liệt nhất. Giặc Mỹ đã chọn hơn 60 mục tiêu đánh phá hịng làm tê
liệt hoạt động giao thơng của ta. Với quyết tâm cao độ đánh địch mà tiến, mở
đường mà đi, địch cứ đánh ta cứ đi, tất cả vì miền Nam ruột thịt chúng ta đã đảm
bảo mạch máu giao thơng ln thơng suốt trong bất kỳ hồn cảnh nào. Tỉnh ta đã
chủ động sáng tạo lập 4 đường ra, 3 đường vào, mở nhiều điểm vượt sông, nhiều
đường tránh rẽ, làm cầu phao luồng, làm cầu phao liên hợp... huy động được sức
mạnh tổng hợp của mọi lực lượng để những đoàn xe, đoàn thuyền nan vẫn nối đi
nhau chở hàng hóa, vũ khí phục vụ chiến trường.
Trong những năm chống chiến tranh phá hoại Đò Lèn, Hàm Rồng, Phà
Ghép... là những “tọa độ lửa”, nơi diễn ra cuộc đọ sức quyết liệt của bộ đội pháo
binh chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ với lũ “quạ trời” Mỹ tối tân hiện
11



đại với những tên gọi “thần sấm”, “con ma”, “pháo đài bay B52”. Chỉ bằng các loại
pháo cao xạ 57, 37, 12,7 ly cùng súng trường, những phương tiện tối tân, hiện đại
của kẻ thù đã gục ngã trước tinh thần, ý chí thép của quân, dân ta. Đặc biệt ngay
trong những trận đầu diễn ra vào ngày 3 và 4 tháng 4/1965 quân dân Thanh Hóa đã
bắn tan xác 47 máy bay Mỹ trên bầu trời Hàm Rồng. Kỳ tích oanh liệt đó đưa Hàm
Rồng trở thành bản hùng ca bất tử, là niềm tự hào của quân dân ta và bạn bè u
chuộng hịa bình, tiến bộ trên tồn thế giới. Đó cũng là nỗi khiếp đảm, ám ảnh của
lũ giặc trời Mỹ mỗi khi xâm phạm vùng trời, vùng đất này.
Trong hai cuộc chiến tranh phá hoại vào Thanh Hóa mang tính chất hủy diệt
của khơng qn, hải quân Mỹ càng làm nung nấu lòng căm thù cao độ của mọi tầng
lớp nhân dân. Người người, nhà nhà, làng xã, huyện và toàn tỉnh đều bước vào
cuộc chiến với ý chí ngoan cường, quyết tâm sắt đá. Những thành tích nổi bật của
các cụ lão quân Hoằng Trường (Hoằng Hóa), nữ dân quân Hoa Lộc (Hậu Lộc) cùng
nhiều lực lượng dân quân, tự vệ ở Hà Trung, Tĩnh Gia... chỉ bằng súng bộ binh
nhưng đã bắn rơi nhiều máy bay Mỹ được Bác Hồ gửi thư khen ngợi, làm nức lòng
quân dân cả nước. Trong cuộc đọ sức quyết liệt gần 8 năm quân dân toàn tỉnh đã
chiến đấu 10.158 trận lớn nhỏ, bắn rơi 376 máy bay Mỹ trong đó có 3 chiếc B52,
bắt sống 36 giặc lái, bắn cháy 56 tàu chiến trong đó có 52 khu trục hạm thuộc hạm
đội 7 của Mỹ. Cũng trong những năm tháng ấy bao lớp thanh niên của tỉnh đã xung
phong lên đường nhập ngũ, hoặc tham gia thanh niên xung phong với ý chí, quyết
tâm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” và hoài bão: “Nhằm thẳng quân thù mà
bắn”, “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”, để cùng quân, dân cả
nước đánh Mỹ, thắng Mỹ, lật nhào chế độ ngụy quyền để non sông liền một dải,
Nam - Bắc vui sum họp một nhà.
Với vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế và nguồn nhân lực dồi dào, Thanh Hóa
ln là địa bàn chiến lược quan trọng về QP- AN của Quân khu 4 cũng như cả
nước.

12



Câu hỏi 3: Anh (chị) nêu những chiến công tiêu biểu và đóng góp to lớn của
quân và dân tỉnh Thanh Hóa trong 2 cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp
và Đế quốc Mỹ?
Trả lời
1. Kháng chiến chống thực dân Pháp
1.1. Những chiến cơng tiêu biểu
- Trận tập kích đồn Poọng Nưa của Tiểu đoàn bộ binh 337 (Hồi Xuân) Thanh
Hóa, đêm ngày 08 tháng 06 năm 1948.
- Trận tập kích đồn Cổ Lũng (Bá Thước) của Tiểu đồn bộ binh 355, Trung
đoàn 77 vào đêm 24, rạng sáng ngày 25 tháng 07 năm 1949.
- Trận đánh biệt kích của dân qn du kích xã Hồng Yến và Đại đội 135 bộ
đội địa phương huyện Hoằng Hóa, ngày 07/0/1952.
- Trận chống càn Lương Trung xã Quảng Tiến của Đại đội 98 bộ đội địa
phương huyện Quảng Xương, ngày 23/02/1953.
- Trận chống càn Liên Sơn của Đại đội 10 bộ đội địa phương huyện Nga
Sơn, ngày 11/3/1953.
- Trận chống càn của quân và dân huyện Nga Sơn, từ ngày 26 đến ngày
28/3/1953.
- Trận chống càn khu vực Bỉm Sơn (Hà Trung) của Đại đội 57 bộ đội địa
phương tỉnh Thanh Hóa, từ ngày 25 đến ngày 27/10/1953.
1.2 Những đóng góp to lớn
a) Những thành tích trong xây dựng và bảo vệ địa phương.
* Xây dựng lực lượng vũ trang.
- Xây dựng lực lượng dân quân với quân số 227.248 người, Du kích 32.126
người, trong đó (Lão dân qn: 15.000 cụ, Nữ dân quân: 14.227 chị,Thiếu niên
quân 9.788 em).
- Xây dựng bộ đội địa phương: 3 Tiểu đoàn, 40 Đại đội, 6 Trung đội.
- Tổ chức và duy trì 1 xưởng (Phạm Huy Thuần) sản xuất súng kíp; 01 xưởng

(Thọ Long) sản xuất dao, kiếm, lừu đạn; (2 xưởng) đúc vỏ moóc- chi-ê, mìn, lựu
đan.
* Tăng gia, sản xuất của LLVT.
+ Dân quân.
- Cày cấy: 12.795 mẫu, thu hoạch 3.783 tạ và 15.675 đồng.
- Chăn nuôi: 3.142 con gà, lợn, nuôi 60 ao cá.
- Tự sắm vũ khí: 3.097.953 đồng.
+ Bộ đội địa phương.
- Cấy lúa: 312 mẫu.
13


- Lao động giúp dân sản xuất: 242.636 công.
* Chiến đấu bảo vệ địa phương.
- Đánh 1456 trận lớn, nhỏ, tiêu diệt và sát thương 3.391 tên, bắt sống và gọi
hàng 2.326 tên.
- Thu 1416 khẩu súng các loại và hàng chục tấn quân trang, quân dụng khác.
b) Phục vụ tiền tuyến.
- Tuyển mộ, bổ sung xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương: Thanh niên
tòng quân 56.792 người; Thanh niên xung phong: 6.321 người; Bộ đội địa phương
bổ sung chủ lực: 2 tiểu đoàn, 34 đại đội, 6 trung đội; Du kích bổ sung chủ lực: 500
người. Riêng năm 1953 và 6 tháng đầu năm 1954 đã bổ sung 18890 người, bằng
quân số 7 năm (từ 1946 – 1952).
- Dân công tiếp vận, dân công cầu đường, phương tiện huy động phục vụ các
chiến dịch thời kỳ cuối của cuộc kháng chiến với tổng số ngày công phục vụ
34.177.233 ngày; Riêng dân công làm cầu đường: 11.000.000 ngày công. Chiến
dịch Thượng Lào huy động cao nhất so với kháng chiến 300.000 người, bằng 27%
số cử tri. Chiến dịch Điện Biên Phủ huy động nhiều phương tiện nhất (Xe đạp thồ
11.000 chiếc, thuyền các loại: 1.300 chiếc, ngựa thồ: 42 con, Ơ tơ: 31 xe).
- Cung cấp lương thực, thực phẩm và tiền của phục vụ kháng chiến: Gạo đồng

tâm (năm 1946, 1947) bằng 1076 tấn; lúa hóa giá (1948) bằng 4061 tấn; ủng hộ dân
quân sắm vũ khí 3.960.000 tấn; lúa khao quân (năm 1949) bằng 7936 tấn; cấp
dưỡng bộ đội địa phương (năm 1949) là 400 mẫu ruộng, 1096 tấn thóc và
1.000.000 đồng. Cơng phiếu kháng chiến 1950 là 42.662.120 đồng; Công trái Quốc
gia 1951 là1.334.914.200 đồng.
2. Chống Mỹ cứu nước :
2.1. Những chiến công tiêu biểu
- Trận đánh máy bay Mỹ phá hoại của quân và dân Lạch Trường ngày
05/8/1964.
- Trận đánh máy bay Mỹ phá hoại của quân và dân khu vực Hàm Rồng, ngày
03/4/1965.
- Trận phối hợp đánh máy bay Mỹ phá hoại của tàu hải quân và dân quân tự vệ
Nam Ngạn, Thị xã Thanh Hóa ngày 26/5/1965.
- Trận đánh máy bay Mỹ ban đêm của bộ đội Đảo Mê ngày 16/10/1965.
- Trận đánh máy bay Mỹ phá hoại của dân quân xã Phú Lệ huyện Quan Hóa,
ngày 14/5/1967.
- Trận đánh máy bay Mỹ phá hoại của Trung đội dân quân gái Hoa Lộc huyện
Hậu Lộc, ngày 16/6/1967.

14


- Trận đánh máy bay Mỹ phá hoại của Trung đội Lão dân quân xã Hoằng
Trường, huyện Hoằng Hóa ngày 14/10/1967.
2.2. Những đóng góp to lớn
a) Đóng góp trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu:
* Trong chiến đấu:
- Trên không: đánh 9.983 trận, tiêu thụ 988.970 viên đạn các loại, bắn rơi 376
máy bay (có 3 chiếc B52), trong đó dân quân tự vệ bắn rơi 40 chiếc, bộ đội địa
phương bắn rơi 41 chiếc. Bắt sống 36 giặc lái.

- Trên biển: đánh 175 trận, tiêu thụ 8.897 viên đạn. Bắn chìm, bắn cháy 57 tầu
biệt kích và khu trục hạm (5 tầu biệt kích Ngụy, 52 tầu khu trục hạm). Lực lượng
vũ trang bắn chìm, bắn cháy 12 chiếc. Bắt sống 3 biệt kích người nhái tại khu vực
Nghi Sơn và Hà Nẫm (Hải Thượng, Tĩnh Gia).
* Phục vụ chiến đấu:
- Tồn tỉnh lúc cao nhất (1967) có 1.544 tổ báo động phịng khơng nhân dân.
Thấp nhất (1968) có 112 tổ báo động phịng khơng nhân dân.
- Hầm cá nhân lúc cao nhất (1967) có 1.309.845 cái, lúc thấp nhất (1968) có
155.887 cái. Đào gần 5.000 km đường giao thơng hào. Có 3.500 đội cấp cứu, trên 2
vạn túi thuốc.
* Đặc biệt là trong chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ :
Quân và dân Thanh Hóa chiến đấu bảo vệ địa phương, dồn sức chi viện cho
chiến trường. Trong chiến dịch, Thanh Hóa đã thể hiện rõ vai trò hậu phương chiến
lược quan trọng của Điện Biên Phủ. Lực lượng vũ trang Thanh Hóa đã bổ sung 1
tiểu đoàn, 2 đại đội, 2 trung đội và hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ trực tiếp tham gia
chiến đấu. Tinh thần xả thân chiến đấu ngoan cường của cán bộ, chiến sĩ lực lượng
vũ trang Thanh Hóa trên mặt trận là biểu tượng tốt đẹp rực sáng chủ nghĩa anh
hùng cách mạng. Kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Thanh
Hóa có 5 đồng chí được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân đó là: Anh hùng liệt sĩ Trần Đức, xã Hải Yến, huyện Tĩnh
Gia; anh hùng liệt sĩ Lê Cơng Khai, xã Hoằng Phú, huyện Hoằng Hóa; anh hùng
liệt sĩ Trương Công Man, xã Cẩm Phong, huyện Cẩm Thủy; anh hùng Lò Văn
Bường, xã Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân; tiêu biểu là anh hùng liệt sĩ Tô Vĩnh
Diện, Tiểu đội trưởng Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đồn pháo cao xạ 367,
q xã Nơng Trường, huyện Nơng Cống đã lấy thân mình cứu pháo khơng để rơi
xuống vực thẳm. Âm vang Điện Biên Phủ đã lan tỏa trên các mạch sống của nhân
dân Thanh Hóa nói chung và lực lượng vũ trang Thanh Hóa nói riêng. Chiến thắng
Điện Biên Phủ tạo nên nguồn lực tiếp sức cho lực lượng vũ trang Thanh Hóa cùng

15



quân và dân cả nước tiếp tục chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược, vững bước đi lên
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
b) Đóng góp trong tuyển quân chi viện chiến trường.
* Tuyển quân: Từ năm 1955 – 1975 tuyển được 227.082 thanh niên nhập ngũ
vào qn đơi.
* Chi viện chiến trường: Trung đồn 14 huấn luyện quân tăng cường (từ
tháng 4/1970 – 1975), đã huấn luyện và giao cho các chiến trường 78 tiểu đồn, (có
4 tiểu đồn nữ). Năm 1972 là năm giao cao nhất bằng 17 tiểu đồn.
c) Đóng góp trong xây dựng lực lượng vũ trang địa phương.
* Xây dựng bộ đội địa phương:
- Năm thấp nhất (1964) có 2 đại đội bộ binh và 2 đại đội cao xã hỗn hợp 37 ly
và 14,5 ly.
- Năm cao nhất (1972) có 4 tiểu đồn cao xạ, 2 tiểu đồn bộ binh, 1tiểu đồn
cơng binh dự nhiệm, 1 cụm (tương đương trung đồn), 2 tiểu đồn hỗn hợp phịng
thủ khu vực và hải đảo (chủ yếu là pháo binh) tương đương 12 đại đội pháo binh.
Một trung đoàn huấn luyện quân tăng cường (qn số thời kỳ ít có 3 tiểu đồn, cao
nhất có 11 tiểu đồn).
* Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ:
- Năm cao nhất (1967) có 220.848 dân quân tự vệ (nữ có 64.400 chị, chiếm
11,3%).
- Năm thấp nhất (1974) có 166.744 dân quân tự vệ (nữ 67.415 chị).
- Có 3.064 dân quân tự vệ tham gia chiến đấu sử dụng súng cao xạ 12,7 ly và
14,5 ly (nữ 588 chị, lão quân 39 cụ).
- Tay cày tay súng, có 3.355 người biết sử dụng súng trường, trung liên đến
pháo cao xạ 37, 57 và 100ly để chiến đấu với máy bay Mỹ.
- Có 4 đại đội súng 12,7 ly chi viện cho chiến trường Trị Thiên.
- Có 647 tổ (2.345 người) làm nhiệm vụ cơng binh giao thơng và khắc phục
bom đạn địch.

- Có 1.311 tổ (3.806 người) quân báo nhân dân.
- Có 1.410 tổ (3601 người) thơng tin liên lạc.
- Có 3.129 dân qn tự vệ được huấn luyện bổ sung pháo cao xạ.
- Có 543 dân quân tự vệ được huấn luyền bổ sung pháo mặt đất.
d) Những thành tích khen thưởng:
Lực lượng vũ trang Thanh Hóa và 156 tập thể, 79 cá nhân đã vinh dự được
Đảng và Nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân.

16


Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, ngày 7/1/2013, lực lượng vũ trang Thanh Hóa đã được Đảng và Nhà nước
phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng vũ trang nhân dân trong thời kỳ đổi mới.
Câu hỏi 4: Anh (chị) cho biết những đóng góp nổi bật của Bộ CHQS tỉnh
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc từ năm 1976 đến nay?
Trả lời:
*Giai đoạn từ năm 1976- 1990:
Luôn tham mưu kịp thời cho Đảng bộ và nhân dân, chính quyền địa phương
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân phát triển đạt chất lượng ngày càng cao,
tham mưu xây dựng nền quốc phòng, xây dựng khu vực phịng thủ ngày càng vững
chắc, hồn thành xuất sắc mọi nhệm vụ được giao, đi đầu phong trào chống bão lụt,
cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai.
Năm 1979, cán bộ chiến sĩ cơng đồn 14, Trung đoàn 74, cùng hành ngàn
con em của quê hương Thanh Hóa lại tiếp tục hành qn lên biên giưới phía Bắc
tham gia chiến đấu, góp phần bảo vệ vững chắc từng tấc đất biên cương tổ quốc.
Từ năm 1981-1990 Bộ CHQS đã tham mưu tổ chức 2 lần diễn tập cấp tỉnh
về : xây dựng pháo đài quân sự cấp huyện (1981), diễn tập vận hàng cơ chế 02(TH89). Ngoài nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, từ năm 1976-1990, LLVT
Thanh Hóa tham gia xây dựng hồn thành nhiều cơng trình có giá trị kinh tế và đạt

chuẩn chất lượng cao như : cống tiêu thủy Quảng Châu(Quảng Xương), cầu Xn
Phương( Tĩnh Gia), sơng Hồng, sơng Thống Nhất, làm hơn 40 km đường miền núi
từ Hồi Xuân (Quan Hóa) đến Pù Nhi Huyện (Mường Lát) được tỉnh, Quân khu, bộ
quốc phịng tặng thưởng cờ thi đua vì có thành tích trong khơi phục, xây dựng phát
triển kinh tế của tỉnh.
Trong phong trào uống nước nhớ nguồn, lực lượng vũ trang đã try tập được
500 mộ liệt sĩ về nghĩa trang liệt sĩ của tỉnh. Hàng năm xây dựng quỹ đền ơn đáp
nghĩa, phụng dưỡng mẹ Việt Nam anh hùng, làm nhà tình nghĩa và thăm hỏi các gia
đình chính sách.
*Giai đoạn 1990 - 2011
Luôn là tỉnh dẫn đầu trong cơng tác tun truyền giáo dục quốc phịng - an
ninh tồn dân và bồi dưỡng kiến thức quốc phịng - an ninh cho các đối tượng cán
bộ trong tỉnh, được Bộ quốc phịng chọn báo cáo điển hình tại các Hội nghị toàn
quốc sơ kết bồi dưỡng kiến thức QP- AN cho các chức sắc, chức viện cho các tôn
giáo. Đến nay các công tác giáo giục bồi dưỡng kiến thức QP-AN trong tỉnh đã đi
vào nề nếp, việc bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho các chức sắc, chức viện trong
tỉnh ngày càng có những kết quả tốt. Cơng tác giáo dục quốc phòng cho các học
sinh, sinh viên của tỉnh đạt kết quả tương đối toàn diện trên tất cả các mặt. Đối với
khối công nhân, nông dân đồn thể việc bồi dưỡng về an ninh quốc phịng cũng có
nhiều chuyển biến và có nhiều hình thức giáo dục phổ biến tới người dân.
17


Có nhiều đổi mới, sáng tạo trong cơng tác xây dựng lực lượng DQTV đặc
biệt là lực lượng dân quân biển, đào tạo chỉ huy trưởng xã, phường, thị trấn.
Tích cực trong cơng tác phịng cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai:
chủ động đấu mối, hiệp đồng với sở giao thông vận tải và các đơn vị chủ lực của
bộ, Quân khu đóng trên địa bàn về lực lượng, phương tiện vận chuyển, đường cơ
động, vị trí tập kết…Xây dựng kế hoạch đảm bảo lực lượng, phương tiện vận
chuyển kịp thời khi có tình huống bão lũ xẩy ra. Thường xuyên tham gia phòng,

chống và ứng cứu có hiệu quả với các tình huống có thể xảy ra.
Công tác tuyển chọn gọi công dân nhập ngũ và tuyển sinh quân sự có nhiều
sáng tạo và đổi mới góp phần tích cực nâng cao chất lượng cho qn đội.Những
cơng dân nhập ngũ được huấn luyện trong vịng gần hai năm, được hưởng các chế
độ của quân đội. Việc thi vào quân đội cũng có nhiều ngành phong phú hơn.
Từ năm 1991 đến 2011 tồn tỉnh Thanh Hóa đã tuyển chọn và gọi hơn
100.000 thanh niên nhập ngũ, tuyển chọn hàng năm đều đạt chỉ tiêu thậm chí vượt
chỉ tiêu, khơng có trường hợp nào chống lệnh.
Trong cơng tác tuyển sinh quân sự, Thanh Hóa là tỉnh dẫn đầu Quân khu 4 về
tỷ lệ thí sinh đậu vào các trường chuyên nghiệp của Quân đội.
Tham mưu có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội gắn với củng cố
và tăng cường QP- AN.
Thành lập 02 trạm y tế quân dân y kết hợp trị tại Tam Thanh (Quan Sơn), Bát
Mọt (Thường Xuân). Trong giúp dân phòng, chống khắc phục hậu quả thiên tai
dịch bệnh, bằng khả năng quân y và y tế địa phương và sự chi viện của cục Quân y
đã tham mưu triển khai thực hiện tốt công tác cấp cứu, điều trị, khắc phục hậu quả
sau bão lụt và dịch tai xanh ở lợn và dịch cúm gia cầm, tiêu chảy cấp ở người được
Quân khu và tỉnh đánh giá cao.
Chăm lo thực hiện cơng tác chính sách: Cơng tác giải quyết chế độ, chính
sách đối với người có cơng, chính sách hậu phương quân đội được quan tâm và đạt
hiệu quả cao.
Trong đó việc giả quyết chế độ thương binh cho quân nhân, CNVQP đã phục
viên xuất ngũ về địa phương là 10.000 đối tượng, xây nhà tình nghĩa: 94 nhà; nhà
đồng đội:39 nhà; trị giá mỗi nhà từ 40 - 60 triệu đồng. Bình qn mỗi năm Bộ
CHQS tỉnh qun góp ủng hộ người nghèo, nạn nhân chất độc màu da cam, ủng hộ
đồng bào bị bão lụt…650.000.000. Hàng năm Bộ CHQS tỉnh thăm hỏi tặng q
các đối tượng gia đình chính sách 550- 650 triệu đồng và tham mưu cho các cấp ủy
quyền đại phương thăm hỏi tặng quà các đối tượng gia đình chính sách, gia đình
chiến sĩ, các cán bộ đang công tác ở biên giới hải đảo mỗi năm hơn một tỷ đồng.
Ngày 6/11/1978 LLVT Thanh Hóa được Đảng và nhà nước tặng danh hiệu

anh hùng LLVT nhân dân.
Ngày 10/12/1984 Hội đồng nhà nước CHXHCN Việt nam tặng huân chương
Hồ Chí Minh cho LLVT nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều cơng lao thành tích
trong sự nghiệp cách mạng, chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày 22/7/1997 Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam thưởng Huân chương
lao động hạng ba cho cán bộ, chiến sĩ Bộ CHQS Thanh Hóa đã có thành tích xuất
18


sắc trong công tác thương binh liệt sĩ, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, góp phần
vào sự nghiệp xây dựng CHXH và bảo vệ tổ quốc.
Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam thưởng Huân chương Quân công hạng ba
cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thanh Hoá thuộc Quân khu 4 đã có nhiều thành tích
xuất sắc trong cơng tác từ 1992- 1996 góp phần xây dựng quân đội, củng cố quốc
phòng và bảo vệ tổ quốc.
Ngày 03/04/2000 chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam thưởng huân chương
chiến công Hạng ba cho nhân dân và LLVT tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều thành tích
xuất sắc thực hiện Nghị định 19/CP của Chính phủ về cơng tác quốc phịng từ 1995
- 1999 góp phần vào sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc.
Ngày 07/06/2005 chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam tặng Huân chương bảo
vệ tổ quốc hạng ba cho LLVT Thanh Hóa thuộc Qn khu 4, Bộ quốc phịng đã có
thành tích xuất sắc thực hiện Chỉ thị 56/CT của thủ tướng Chính phủ về xây dựng
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc từ
1989 - 2004, góp phần vào xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng và bảo vệ tổ
quốc.
Ngày 05/07/2007 Bộ CHQS Thanh Hóa được nhà nước tặng thưởng Huân
chương Quân cơng Hạng nhì vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong công tác
xây dựng quân đội nhân dân, củng cố quốc phịng, góp phần vào sự nghiệp xây
dựng CHXH và bảo vệ tổ quốc.
Bộ CHQS Thanh Hóa trong nhiều năm liền được Chính phủ, Bộ quốc phịng,

Tư lệnh quân khu 4 tặng cờ thi đua là đơn vị có nhiều thành tích suất sắc trong thực
hiện nhiệm vụ Qn sự Quốc phịng hàng năm. Ngồi ra cịn có nhiều tập thể, cá
nhân thuộc LLVT tỉnh được Đảng và Nhà nước, Quân đọi tặng thưởng nhiều danh
hiệu cao quya khác.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích suất sắc đạt được đó cịn có những bất cập
trong cơng tác đền ơn đáp nghĩa người có cơng với cách mạng. thủ tục cịn nhiều
rắc rối phức tạp. Trong cơng tác dân quân tự vệ tuy được sự giúp đỡ rất nhiều từ
nhân dân, nhưng cịn có ít những bộ phận chưa thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Trong công tác khắc phục hậu quả do bão lụt thiên tai, một số thành phần những
cán bộ, chức sắc chưa thực sự hòa mình cùng nhân dân khắc phục những hậu quả
để lại.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc những năm qua, lực lượng vũ
trang Thanh Hóa tiếp tục hồn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, lập nhiều chiến công
mới. Đảng ủy và Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh đã làm tốt công tác tham mưu cho Tỉnh
ủy, HĐND, UBND tỉnh xây dựng quốc phịng tồn dân; gắn quốc phịng với xây
dựng kinh tế, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc trên địa bàn.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, ngày 7/1/2013, lực lượng vũ trang Thanh Hóa đã được Đảng và Nhà nước
phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng vũ trang nhân dân trong thời kỳ đổi mới.

19


Câu hỏi 5: Anh (chị) hãy giới thiệu về 01 tập thể hoặc cá nhân tiêu biểu
trong xây dựng, gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống của LLVT tỉnh
(có thể đã được ghi nhận hoặc phát hiện mới)?
Trả lời :
Nữ anh hùng và cây cầu huyền thoại

Cô gái dân qn Ngơ Thị Tuyển


Tình u thương nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc đã nhân lên sức
mạnh sức mạnh nội sinh trong bà. Những hòm đạn nặng hơn hai lần trọng lượng cơ
thể có thấm tháp gì so với nặng tình yêu Tổ quốc...
Trở về với cuộc sống đời thường, “người con gái thép” xứ Thanh ngày nào
vác 98kg đạn pháo băng băng dưới làn đạn địch đã gần tuổi “xưa nay hiếm”.
Những lúc trái gió trở trời vết thương hành hạ thân thể, nhưng những ký ức chiến
tranh luôn đau đáu trong tim và tươi rói như mới hơm qua, đó là những tháng ngày
đẹp đẽ nhất. Cuộc đời của bà gắn liền với dòng sơng Mã và cây cầu Hàm Rồng
huyền thoại. Đó là bà Ngô Thị Tuyển, nữ anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Ký ức chiến tranh không thể nào quên
Ai về Thanh Hố q ta
Cầu Hàm Rồng huyền thoại có bà họ Ngơ
Năm xưa vác đạn diệt thù
Trên dịng sơng Mã chiến công lẫy lừng
Anh hùng Ngô Thị Tuyển sinh năm 1946 tại làng Nam Ngạn (nay là
phường Nam Ngạn), thành phố Thanh Hóa, trong một gia đình nghèo có 6 anh chị
em. Lúc bé, hàng ngày bà theo cha mẹ đi làm đồng, lớn lên lại theo các anh chị đi
bốc vác thuê. Đầu năm 1965, đế quốc Mỹ ném bom ồ ạt xuống miền Bắc, đặc biệt
là những tỉnh miền Trung. Chúng xác định: Từ Hà Nội vào đường mịn Hồ Chí
20


Minh có 60 điểm tắc, trong đó, Hàm Rồng được xem là một trong những “điểm tắc
lý tưởng” nhất. Do vậy, chúng điên cuồng đánh phá, nhằm cắt đứt huyết mạch giao
thông quan trọng, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho chiến
trường miền Nam. Lúc bấy giờ, cũng giống như bao bạn bè cùng trang lứa, bà náo
nức tham gia vào đội dân quân. Bà tâm sự: “Tuổi thanh niên khi đó vơ lo vơ nghĩ,
nhưng cứ được nghe đến 2 chữ “đánh giặc”, là ai cũng háo hức”.
Ngày 3-4-1965, từng tốp máy bay phản lực Mỹ dồn dập lao vào đánh phá

Hàm Rồng. Trong bom đạn mịt mù khói lửa, bà đã cùng với đồng đội truy lùng bắt
giặc lái nhảy dù. Vừa xong nhiệm vụ, bà lại phát hiện ra tàu chiến Hải quân mang
số hiệu T-120 đang tiến đến, bắc loa yêu cầu nhân dân giúp đỡ chuyển vỏ đạn, đưa
thương binh, liệt sĩ lên bờ và tiếp thêm đạn chuẩn bị cho trận chiến đấu mới. Mặc
cho máy bay Mỹ quần đảo trên đầu, bà nhanh chóng bơi ra tàu. Bà làm nhiệm vụ
tiếp đạn cho các vị trí pháo, băng bó người bị thương. Ngớt đợt chiến đấu, bà theo
thuyền vào bờ, rồi xung phong chở đạn và cơm ra tàu… Cho đến gần tối, bà mới
rời tàu để lên bờ, cùng các đồng đội thức trắng đêm để giải quyết hậu quả bom Mỹ
để lại.
Sáng 4-4-1965, Mỹ huy động hàng trăm chiếc máy bay, điên cuồng trút bom
đạn xuống Hàm Rồng lần nữa. Không ngại nguy hiểm, bà tiếp tục cùng đồng đội
gánh cơm cho bộ đội trên tàu và những trận địa trên bờ gần đó. Cả đêm mùng 3
thức trắng khiến bà thấm mệt, mặc dù được khu đội cho nghỉ nhưng vừa lúc đó, lại
có xe ơ tô tiếp đạn tới, bà cùng mọi người hối hả vác đạn. Bất ngờ gặp hai hịm đạn
dính vào nhau, mọi người dùng thuổng bật ra nhưng chưa được. Khi đó, đạn pháo
37 li trên tàu gần cạn kiệt, chỉ cần ta ngừng bắn trả một phút là cầu Hàm Rồng có
thể bị phá huỷ. Tình thế thật cấp bách, cô gái trẻ Ngô Thị Tuyển quả quyết, nhờ
đồng đội nâng hai hịm đạn lên vai, rồi vác ln chúng chạy băng qua hào sâu, dưới
mưa bom để tiếp đạn. Hồi ấy, bà mới 19 tuổi, cân nặng chỉ có 42 kg. Chính bà cũng
khơng ngờ lúc đó lại vác được hai hòm đạn nặng 98kg, mãi sau này được các anh
bộ đội nói lại, bà mới rõ.
Hình ảnh người con gái 19 tuổi, vượt qua mưa bom bão đạn, để mang trên
mình hịm đạn nặng hơn gấp đơi trọng lượng cơ thể mình, đã đi vào lịng hàng triệu
triệu trái tim người dân Việt Nam. Bà đã trở thành biểu tượng cho ý chí chiến đấu
quật cường của quân và dân Hàm Rồng. Bà nhớ lại, sau đó có đồn nhà báo Liên
Xơ đề nghị bà “diễn” lại cảnh này. Khi được tận mắt chứng kiến hình ảnh diệu kỳ
đó, họ đã thốt lên: “Giờ thì chúng tơi và cả thế giới đã tin. Thật tuyệt vời! Nhân dân
Việt Nam thật tuyệt vời!”. Cũng cần nói thêm một chút, là sau lần “diễn” đó, do
phải mang trên mình đến 105 kg, nên cột sống của bà đã bị ảnh hưởng.
Với những thành tích xuất sắc trong chiến đấu, bà vinh dự được tặng thưởng

2 Huân chương Chiến công hạng ba, được gặp Bác Hồ 3 lần và được chính Bác
tặng huy hiệu của Người, 6 lần được tặng bằng khen, giấy khen. Ngày 1-1-1967,
Ngô Thị Tuyển được Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân.

21


Câu hỏi 6: Trên cương vị công tác và vị trí xã hội của mình, Anh (chị) sẽ
làm gì để góp phần gìn giữ, phát huy những giá trị truyền thống của LLVT tỉnh
Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay? (nội dung không quá 1.500 từ).
Trả lời:
Em chỉ là một cơng dân nhỏ tuổi, nói đúng hơn em chỉ là một học sinh lớp 8
của trường THCS Đông Ninh, Đông Sơn mà thơi. Có lẽ em chưa thể xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc được. Em cũng chưa biết nhiều về LLVT Tỉnh Thanh Hóa nên em
chỉ nghĩ ngày nay, nhân dân ta đang sống trong tự do, độc lập và thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đó cũng chính là sự tiếp nối truyền thống dựng nước và giữ nước của dân
tộc, của cha ơng ta trong thời kì dựng nước và giữ nước. Nên ta hãy chủ động, sẵn
sàng đối phó có hiệu quả với mọi toan tính hịng làm suy yếu, thậm chí gây chiến,
xâm lược đất nước ta của các thế lực thù địch.
Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội đã rất chú trọng xây dựng ý
thức bảo vệ Tổ quốc cho mọi người dân. Các nghị quyết của Đảng đều nhấn mạnh
sự kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Công tác giáo dục trong
nhà trường được đẩy mạnh, chú trọng bồi dưỡng truyền thống yêu nước, tinh thần
đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc cho thế hệ trẻ.
Công tác giáo dục quốc phòng- an ninh cho các đối tượng được các cấp, các
ngành lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và đạt hiệu quả khá tích cực. Báo chí, phát thanh,
truyền hình, văn hóa, văn nghệ,... đã góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền,
giáo dục, định hướng nhận thức cho các tầng lớp nhân dân... Những việc làm đó đã

góp phần nâng cao cảnh giác cách mạng, ý thức làm chủ, thái độ tự giác của mọi
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
thù địch.
Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế đến năm
2020, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc đang đứng trước những cơ hội nhưng cũng đan xen khơng ít
những khó khăn, thách thức. Với trách nhiệm là học sinh đang ngồi trên ghế nhà
trường. Bản thân em ln gìn giữ, phát huy những giá trị truyền thống của LLVT
tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay bằng những việc làm cụ thể sau:
+Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của học sinh về nhiệm vụ bảo vệ an ninh
trong thời kỳ mới.

22


+Nhận thức được tính chất, nhiệm vụ, nội dung bảo vệ an ninh địa phương là
thường xuyên, phức tạp, quyết liệt và lâu dài. Từ đó xác định trách nhiệm là một
lực lượng tuyên truyền tích cực cho nhiệm vụ này.
+Tích cực học tập nâng cao kiến thức về hiến pháp và pháp luật. Hiểu được
những nội dung cơ bản về bảo vệ an ninh ở địa phương.
+Luôn nâng cao cảnh giác, chủ động phịng ngừa, tích cực tham gia phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.
+Thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân trong bảo vệ an ninh của tổ
quốc.
+Tích cực hưởng ứng, thực hiện tốt các cuộc vận động do các cấp phát động
như phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “ Uống nước nhớ
nguồn”, phong trào “ Đền ơn đáp nghĩa”, quyên góp ủng hộ các quỹ từ thiện, đạt
kết quả tốt.


Nên em cũng cảm thấy được trách nhiệm phải học tâp thật tốt, đóng góp
những gì mình có thể cho Tổ quốc yêu đấu. Em nghĩ đến đây là kết thúc bài làm
của em. Xin cảm ơn các thầy cô đã đọc.

Đông Ninh, ngày 20 tháng 8 năm 2017

23



×