Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Thi tim hieu 750 nam Thien Truong Nam Dinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.44 KB, 28 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>THI TÌM HIỂU LỊCH SỬ “ 750 NĂM THIÊN TRƯỜNG NAM ĐỊNH”</b>



<b>Câu 1: Triều Trần ra đời trong hoàn cảnh lịch sử nào? Thời gian tồn tại của Nhà Trần;</b>
<b>kể tên các đời vua Trần?</b>


1.1. Triều Trần ra đời trong hoàn cảnh nào?


Nhà Lý suy tàn từ thời vua Lý Cao Tơng (1175-1210), tuy rằng đã có những dấu hiệu từ
thời Lý Anh Tông. Đại Việt sử ký tồn thư nhận xét vua Cao Tơng chơi bời vơ độ, chính sự
hình pháp khơng rõ ràng, giặc cướp nổi như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy
suy.


Năm 1179, Cao Tông xuống chiếu cấm không được đem mắm muối và đồ sắt lên bán đổi ở
đầu nguồn, điều này đồng nghĩa với việc bế quan tỏa cảng, làm cho nền kinh tế không phát
triển. Mùa hạ, tháng 4 năm 1181 mất mùa, dân chết đói gần một nửa hay năm 1199 mùa thu,
tháng 7, nước to, lúa mạ ngập hết, đói to, đã thế nhưng nhà Hậu Lý khơng thấy có đưa ra
phương sách nào để cứu giúp dân chúng mà vua còn ngự đi khắp núi sơng, phàm xe vua đến
đâu mà có thần linh đều cho phong hiệu và lập miếu để thờ (năm 1189) hay đến phủ Thanh
Hóa bắt voi, chế nhạc Chiêm Thành để nghe chơi hoặc năm 1203 còn cho xây dựng rất nhiều
cung điện làm hao tốn của cải. Tăng phó Nguyễn Thường nói: "Ta nghe bài tựa Kinh Thi nói
rằng: Âm thanh của nước loạn nghe như ai oán giận hờn. Nay dân loạn nước nguy, chúa
thượng thì rong chơi vơ độ, triều đình rối loạn, lịng dân trái lìa, đó là triệu bại vong".


Điều này đã dẫn đến sự nổi dậy của dân chúng ở nhiều địa phương như tháng 10 năm 1184,
các sách Tư Mông (tỉnh Hịa Bình ngày nay?), tháng 7 năm 1192 người ở giáp Cổ Hoằng
(tỉnh Thanh Hóa ngày nay), tháng 7 năm 1198, người hương Cao Xá (tỉnh Nghệ An ngày
nay), tháng 9 năm 1203, người ở Đại Hoàng giang (tỉnh Ninh Bình ngày nay) hay năm 1207,
người Man ở núi Tản Viên châu Quốc Oai (tỉnh Hà Tây ngày nay) nổi lên cướp bóc, khơng
thể ngăn được.


Tất cả những yếu tố trên đây đã làm cho nhà Hậu Lý suy sụp. Năm 1209, vua Cao Tông nghe


theo lời gian thần Phạm Du giết oan tướng Phạm Bỉnh Di. Bộ tướng của Bỉnh Di là Quách
Bốc đang trấn thủ Hoan châu mang quân ra đánh Thăng Long báo thù cho chủ. Vua Cao
Tông và thái tử Sảm bỏ chạy lạc mỗi người một nơi. Quách Bốc lập con nhỏ của vua là Thậm
lên ngôi.


Thái tử Sảm chạy đến nương nhờ gia tộc họ Trần ở duyên hải, nhờ sức họ Trần mang quân về
đánh dẹp Quách Bốc. Tuy loạn được dẹp nhưng từ đó quyền lực chi phối chính trường của họ
Trần bắt đầu được hình thành, bắt đầu từ Trần Tự Khánh và sau đó là vai trị lớn của Trần
Thủ Độ. Năm 1210, vua Cao Tông chết, thái tử Sảm lên thay, tức là Lý Huệ Tơng. Triều
chính hồn toàn trong tay họ Trần. Kết cục, cuối năm 1225, con gái thượng hồng Huệ Tơng
(bị ép truyền ngơi đầu năm) là Lý Chiêu Hồng đã bị ép nhường ngơi cho chồng là Trần
Cảnh, thượng hồng Lý Huệ Tơng sau đó cịn bị Trần Thủ Độ ép tự tử vào năm 1226. Nhà
Hậu Lý chấm dứt, nhà Trần thay thế từ đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

nước Cao Ly. Sau này, Lý Long Tường trở thành ơng tổ của một dịng họ Lý ngày nay
tại Hàn Quốc .


Nhà Hậu Lý chấm dứt,kéo dài 216 năm với 9 đời vua.


Trần Thủ Độ (1194-1264), là thái sư đầu triều nhà Trần, người có cơng sáng lập và là người
thực tế nắm quyền lãnh đạo đất nước những năm đầu triều Trần, khoảng gần 40 năm, từ 1226
đến 1264. Trần Thủ Độ sinh tại làng Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.


Sau khi Trần Tự Khánh chết (1223), Trần Thủ Độ thực sự là người thay thế nắm quyền trong
triều. Đối với nhà Lý, ông tỏ ra còn cứng rắn hơn Trần Tự Khánh.


Năm 1224, ông được phong làm Điện tiền chỉ huy sứ. Vua Huệ Tông và vợ, tức chị họ ông,
là Trần Thị Dung có 2 con gái, người em tên là Phật Kim, được phong là cơng chúa Chiêu
Thánh. Ơng ép Huệ Tơng bỏ ngơi lên làm thái thượng hồng để nhường ngơi cho Phật Kim,
tức là Lý Chiêu Hồng, khi đó mới lên 7 tuổi.



Sau đó ơng đưa con Trần Thừa là Trần Cảnh (sau này là Trần Thái Tông), mới 8 tuổi, vào
hầu Lý Chiêu Hoàng, rồi dàn xếp để Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng và nhường ngôi để
chuyển ngai vàng sang họ Trần vào cuối năm 1225. Nhà Trần thay nhà Lý bởi tay Trần Thủ
Độ. Thượng hồng Huệ Tơng bị ép đi tu, truất làm sư Huệ Quang.


Nhà Trần thành lập, ông được phong là Thống quốc thái sư, lo toan mọi việc cho triều đình
nhà Trần.


Để củng cố quyền lực nhà Trần, ơng đánh dẹp các sứ quân Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng bên
ngoài, sắp xếp quan lại trong triều. Năm 1232, nhân lúc tông thất nhà Lý về quê ngoại ở làng
Hoa Lâm (nay là xã Mai Lâm, huyện Gia Lâm, Hà Nội) làm lễ cúng tổ tiên, ông đã làm bẫy
sập chôn sống nhiều tơn thất nhà Lý, bắt những người sống sót đổi sang họ Nguyễn và một số
họ khác để trừ tuyệt hậu họa.


Để ngăn ngừa sự nhen nhóm nổi lên của các lực lượng chống đối, Trần Thủ Độ đặt ra quy
định khoanh vùng các làng ở nông thôn, tạo ra sự ngăn cách từng làng. Các nhà nghiên cứu
cho rằng đây chính là nguyên nhân khiến nhiều đời sau các làng mạc Việt Nam chỉ phát triển
khép kín trong lũy tre làng, không giao lưu, mở mang được với bên ngoài.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Tuy nhiên, người con của Trần Liễu mà Trần Thủ Độ sắp đặt để làm con Trần Cảnh là Trần
Quốc Khang sinh ra năm 1236 cũng không được làm thái tử dù là con trưởng. Năm 1240,
Thái Tông sinh được Trần Hoảng, lập làm thái tử và sau trở thành vua Trần Thánh Tông.
<b>1.2. Thời gian tồn tại của Nhà Trần</b>


Nhà Trần hoặc Trần triều là triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi
vua Thái Tông lên ngôi năm 1225 sau khi giành được quyền lực từ tay<b> nhà Lý và chấm dứt</b>
khi vua Thiếu Đế, khi đó mới có 5 tuổi bị ép thối vị vào năm 1400 để nhường ngôi cho ông
ngoại là Hồ Quý Ly tức Lê Quý Ly – tổng cộng thời gian tồn tại của Nhà Trần là 175
<b>năm. Đây là triều đại có võ công hiển hách trong lịch sử phong kiến Việt Nam với ba lần</b>


đánh bại các cuộc xâm lược của người Mông Cổ cũng như triều Nguyên do những viên
tướng dày dặn kinh nghiệm chiến trường chỉ huy, cùng với nhiều cuộc chiến tranh chinh phạt
các quốc gia láng giềng như Ai Lao, Chiêm Thành. Dưới triều Trần, lực lượng quân đội được
chú trọng phát triển đủ sức đánh dẹp các cuộc nội loạn và đương đầu với quân đội các nước
lân bang, triều Trần cũng đã sản sinh nhiều nhân vật xuất chúng, đặc biệt là trong lĩnh vực
quân sự.


<b>1.3. Kể tên các đời vua nhà Trần</b>


<b>Miếu hiệu</b> <b>Niên hiệu</b> <b>Tên</b> <b>Sinh-<sub>Mất</sub></b> <b>Trị vì</b> <b>Thụy hiệu</b> <b>Lăng</b>


Thái Tơng


Kiến Trung
(1226-1232)
Thiên Ứng
Chính Bình
(1232-1251)
Ngun Phong
(1251-1258)


Trần Cảnh 1218-<sub>1277</sub> 1226-<sub>1258</sub> Ngun Hiếu <sub>Hồng đế</sub> Chiêu Lăng


Thánh
Tơng


Thiệu Long
(1258-1272)
Bảo Phù
(1273-1278)



Trần Hoảng 1240-<sub>1291</sub> 1258-<sub>1278</sub> Tun Hiếu Hồng <sub>Đế</sub> Dụ Lăng


Nhân
Tơng


Thiệu Bảo
(1278-1285)
Trùng Hưng


Trần Khâm
1258-1308



1278-1293


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

(1285-1293)


Anh Tông Hưng Long Trần <sub>Thuyên</sub> 1276-<sub>1320</sub> 1293-<sub>1314</sub> Nhân Hiếu Hồng <sub>Đế</sub> Thái Lăng


Minh
Tơng


Đại Khánh
(1314-1323)
Khai Thái
(1324-1329)


Trần Mạnh 1300-<sub>1357</sub> 1314-<sub>1329</sub> Văn Triết Hoàng Đế Mục Lăng



Hiến Tông Khai Hựu Trần Vượng1319-<sub>1341</sub> 1329-<sub>1341</sub> ? Xương An <sub>Lăng</sub>


Dụ Tông


Thiệu Phong
(1341-1357)
Đại Trị
(1358-1369)


Trần Hạo 1336-<sub>1369</sub> 1341-<sub>1369</sub> ? Phụ Lăng


Hôn Đức


Công Đại Định


Dương Nhật


Lễ ?-1370




1369-1370 tiếm ngôi bị giết
Nghệ


Tơng Thiệu Khánh Trần Phủ



1321-1394




1370-1372


Anh Triết Hồng
Đế


Ngun
Lăng


Duệ Tơng Long Khánh Trần Kính 1337-<sub>1377</sub> 1373-<sub>1377</sub> ? Hy Lăng


Phế Đế Xương Phù Trần Hiện 1361-<sub>1388</sub> 1377-<sub>1388</sub> phế làm Linh Đức <sub>Vương</sub> An Bài Sơn


Thuận


Tông Quang Thái Trần Ngung



1378-1399



1388-1398


ép nhường ngôi và
ép chết


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

1400


ngôi


phế làm Bảo Ninh


Đại Vương


Câu 2: Sự ra đời của địa danh phủ Thiên Trường? Vai trò, vị thế của “Hành cung Thiên
Trường” trong quốc gia Đại Việt thế kỷ XIII-XIV?


2.1. Sự ra đời của phủ Thiên Trường:


Năm 1262, Trần Thánh Tông đổi hương Tức Mạc (quê gốc của nhà Trần) thành phủ Thiên
Trường, sau đó phủ được nâng thành lộ. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), nhà Lê gọi là thừa
tuyên Thiên Trường. Năm 1469 dưới thời vua Lê Thánh Tơng, lần đầu tiên có bản đồ Đại
<b>Việt, Thiên Trường được đổi làm thừa tuyên Sơn Nam. Năm 1741, Thiên Trường là một</b>
phủ lộ thuộc Sơn Nam Hạ, bao gồm 4 huyện Nam Chân(Nam Trực), Giao Thủy, Mỹ
<b>Lộc, Thượng Nguyên. Năm 1831, là một phủ thuộc tỉnh Nam Định. Ngày nay là các huyện</b>
Giao Thuỷ, Xuân Trường, Nam Trực, Trực Ninh, Mỹ Lộc đều thuộc tỉnh Nam Định.


2.2. Vai trò, vị thế của hành cung Thiên Trường:


<i><b>Đại Việt sử ký tồn thư chép: “Kỷ Hợi, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 8 (1239). Mùa</b></i>
xuân tháng giêng, lại cho Phùng Tá Chu chức Nhập nội Thái phó. Sai về hương Tức Mặc xây
dựng nhà cửa, cung điện”(1).


Cơng trình nhà cửa, cung điện mà Phùng Tá Chu đã dành trọn phần cuối cuộc đời để xây
dựng không chỉ đơn thuần là nơi vua và hoàng tộc nghỉ chân mỗi khi qua lại quê hương mà
lịch sử đã chứng minh nó là căn cứ chiến lược về nhiều mặt, nhất là khi có chiến tranh xảy ra.
Căn cứ đó gồm có hai cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa là nơi ban định triều nghi ở trung
tâm, bao quanh là bốn hành cung Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ. Các cung này đều án
ngữ các con sơng Hồng Giang, Vĩnh Giang, Nhị Hà, Vị Hoàng như một vành đai bảo vệ
phía ngồi cho hai cung điện. Khơng chỉ có vậy, một loạt điền trang thái ấp của thân vương
quý tộc Trần được đóng ở những vị trí xung yếu, sẵn sàng tiếp ứng khu vực hai cung điện khi
cần



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

các vương hầu ở phủ đệ của mình, khi chầu hầu thì đến kinh đơ, xong việc thì lại về phủ đệ.
Như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc Hương, Quốc Chẩn ở Chí Linh đều thế cả… Vả
lại, như năm Đinh Tỵ đời Nguyên Phong (1257), giặc Nguyên sang cướp, các vương hầu
cũng đem gia đồng và hương binh thổ hào làm quân cần vương”(3). Điều dễ dàng nhận thấy
là các thái ấp của các thân vương quý tộc đều được bố trí phía nam Thăng Long, trong đó thái
ấp trên trục đường nước Thăng Long - Thiên Trường là đậm đặc nhất. Điều này thể hiện nhà
Trần rất chú trọng bảo vệ con đường Bắc - Nam nối hai trung tâm chính trị lớn nhất nước bấy
giờ: Thăng Long - Thiên Trường. Ngoài ra, quanh khu vực Thiên Trường, sở hữu hệ thống
điền trang thái ấp đều là những người trong tôn thất mà không có người ngoại tộc như: thái
ấp A Sào, Bảo Lộc thuộc quyền sở hữu của hai cha con Trần Liễu, Trần Hưng Đạo; thái ấp
Lựu Phố, Lộc Quý thuộc quyền của Trần Thủ Độ; thái ấp Cao Đài, Hậu Bồi thuộc Trần
Quang Khải… Điều đó khơng chỉ làm tăng thêm tính cộng đồng trách nhiệm, tạo nên sức
mạnh đồn kết nội tộc mà còn biến Thiên Trường trở thành một lãnh địa tuyệt đối an toàn, tin
cậy mỗi khi nước nhà có biến.


Đầu năm 1258, đại qn Mơng Cổ vượt qua biên giới, tấn công vào nước ta. Trong cuộc
kháng chiến lần thứ nhất này, hành cung Tức Mặc trở thành một hậu cứ lợi hại của quân đội
nhà Trần. Để giúp cho quan quân triều đình yên tâm đánh giặc, Linh Từ quốc mẫu Trần Thị
Dung là phu nhân Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ đã đưa thái tử cùng vợ con của quan
tướng, hồng thân quốc thích về lánh nạn ở Tức Mặc. Không chỉ chăm lo việc chăm sóc
hồng tộc, Linh Từ quốc mẫu cịn đi thu thập tất cả những vũ khí cịn cất giấu trong các
thuyền lánh nạn để gửi ra cho quân đội nhà Trần trực tiếp chiến đấu.


Sau khi chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ nhất, nhà Trần lại càng chú ý đến việc
xây dựng nơi đây trở thành một quân doanh để phịng bị. Qn doanh đó đóng dọc theo các
con sông nhỏ nối ra sông Hồng. Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285), quân triều đình
quyết định rút lui từ Thăng Long về vùng Thiên Trường, Trường Yên. Từ Thăng Long, Thoát
Hoan huy động đại quân đánh xuống Thiên Trường. Qn Toa Đơ ở Thanh Hóa cũng được
lệnh tiến công ra Trường Yên. Quân thù tập trung binh lực, tạo thành hai gọng kìm hịng tiêu


diệt qn ta. Nhưng Trần Quốc Tuấn đã có cuộc hành quân đầy mưu trí để đánh lạc hướng kẻ
thù, thốt khỏi thế bao vây. Từ Thiên Trường, một bộ phận quân ta rút về các lộ Đơng - Bắc
(Hải Phịng - Quảng Ninh) để dụ quân địch đuổi theo rồi chờ khi đạo qn Toa Đơ vượt ra
Thanh Hóa tiến vào Trường n thì quay vào chiếm Thanh Hóa làm hậu cứ. Toa Đô vừa vất
vả tiến ra Trường Yên lại được lệnh đánh vào Thanh Hóa. Đến đây, âm mưu của địch bao
vây tiêu diệt quân chủ lực và bộ máy đầu não kháng chiến của ta bị thất bại hoàn toàn. Rõ
ràng bộ máy đầu não kháng chiến của quân Trần đóng tại Thiên Trường, quân đội chủ lực
cũng đóng tại đây. Chỉ tiếc rằng đến nay vị trí cụ thể của quân doanh đó vẫn chưa thể xác
định.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

biển Giao Hải. Vùng A Sào ở vào vị trí xung yếu như vậy nên được nhà Trần hết sức quan
tâm. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3 (1288), kho lương A Sào
đã đóng một vai trị quan trọng đối với chiến trường phía bắc như Lạng Giang, Chương
Dương, Tây Kết, Bạch Đằng. Ngoài ra kho lương thứ hai là Trần Thương (Hà Nam) nằm bên
sơng Hồng cũng đóng một vai trị quan trọng đối với con đường Thăng Long - Thiên Trường.
Trong hai cuộc kháng chiến lần thứ nhất (1258), lần thứ 2 (1285), hồng thân, tơn thất nhà
Trần đều đã từng rút lui từ Thăng Long theo đường sông Hồng vào sông Đại Hoàng rồi về
căn cứ địa Thiên Trường. Trong những lần rút lui, tiến công này hàng loạt trận đánh trên sông
Thiên Mạc (Lý Nhân, Hà Nam) cùng các trận khác như trận đánh đồn A Lỗ, trận Đại Mang…
đều có sự phục vụ, cung cấp lương thực kịp thời của kho lương Trần Thương. Mặc dù sử sách
không đề cập tới sự đóng góp của kho lương này, nhưng tên gọi Trần Thương nghĩa là kho
lương nhà Trần cùng dấu ấn vật chất xung quanh khu vực ngôi đền Trần Thương hiện nay đã
làm sáng tỏ truyền thuyết dân gian là đúng, khẳng định vai trò của một kho lương chiến lược.
Ở đây trong quá trình canh tác, xây dựng, nhân dân đã bắt gặp nhiều nồi đồng, mảnh gốm sứ
của bát đĩa với màu men, phong cách trang trí của nghệ thuật gốm sứ Trần. Điều đặc biệt hơn
nữa, trong q trình tơn tạo, đào móng ngơi đền Trần Thương, người ta đã tìm thấy nhiều vỏ
thóc xen lẫn các bát đĩa, lại càng khẳng định dấu ấn của một kho lương (4).


Đối với lực lượng bảo vệ hành cung Thiên Trường, ngồi binh lính trong các điền trang
thái ấp bao quanh thì những binh sĩ quê ở phủ Thiên Trường là lực lượng chính bảo vệ hành


cung cùng các phủ đệ của vương hầu quý tộc đóng trên địa bàn. Cũng chính vì vậy mà những
người dân ở vùng quê hương nhà Trần không được đi thi văn vì sợ khí lực kém đi. Năm
1281, nhà Trần lập nhà học ở phủ Thiên Trường nhưng lại cấm người hương Thiên Thuộc
không được vào học. Quy định này đã được duy trì khá nghiêm ngặt. Năm Quý Hợi (1323)
vua Trần Minh Tơng ngự đến nhà Thái học, có người tên là Mặc trong quân Thiên Thuộc ở
Hoàng Giang đã dự thi và trúng khoa thi Thái học sinh, vua xuống chiếu bắt trở lại quân ngũ,
làm quân tại quân Thiên Đinh. Người này sau thi đánh gậy lại đỗ bậc cao (5).


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

thành Thăng Long đã tạo thành thế chân vạc, ỷ dốc, góp phần làm nên những chiến thắng
oanh liệt Tây Kết, Chương Dương, Hàm Tử…


Năm Giáp Thân (1344), triều Trần có sự thay đổi một số chức quan trong triều thì đồng
thời cũng đặt ra chức Thái phủ và Thiếu phủ ở Thiên Trường. Như vậy, về mặt tổ chức hành
chính, nhà Trần đã đặt Thiên Trường là một phủ rất trọng yếu. Điều khác với triều Lý là nhà
Trần không chỉ coi Thiên Trường là q hương, là nơi có miếu mạo dịng họ nhà vua mà còn
là nơi làm việc và nghỉ ngơi của Thái thượng hồng nhà Trần, duy trì nhất qn sự bàn giao
thế hệ cầm quyền bằng chế độ Thái thượng hồng. Nhà sử học Ngơ Sĩ Liên nhận xét: “Gia
pháp nhà Trần, con đã lớn thì cho nối ngơi chính, cha lui ở cung Thánh từ, xưng là Thượng
hồng cùng trơng coi chính sự. Thực ra chỉ truyền ngơi để n việc sau, phịng khi mất mà
thơi, chứ mọi việc đều do Thượng hoàng quyết định cả. Vua nối ngơi khơng khác gì Hồng
thái tử”(8).


Ở Thăng Long thì Thượng hồng ở cung Thánh từ, nếu về Thiên Trường thì Thượng
hoàng ngự ở cung Trùng Quang. Phan Huy Chú viết: “Các vua Trần sau khi nhường ngôi cho
con đều về ở Thiên Trường”(9). Mặc dù đã lui về Thiên Trường nhưng Thượng hồng vẫn
quan tâm đến chính sự và vẫn có quyền hành, kể cả quyền phế truất vua nọ, lập vua kia.
Thượng hoàng ở Thiên Trường, vua và các quan phải đến chầu theo định kỳ. Cũng có khi
Thượng hồng đột xuất lên kinh đơ để kiểm tra cơng việc chính sự của vua.


Từ những tư liệu trích dẫn, có thể khẳng định thời Trần, vùng đất Tức Mặc đóng một vai


trị quan trọng. Vùng đất này khơng chỉ là đất phát tích, quê hương và đất thang mộc nhà
Trần, là nơi các Thái thượng hoàng nghỉ ngơi mà còn là được các vua Trần xây dựng thành
một căn cứ địa quan trọng, vững chắc, an toàn cho hoàng tộc. Qua đó có thể thấy nhà Trần đã
tạo lập được mối liên hệ phù hợp, mang tính chiến lược giữa hai vùng đất Thăng Long
-Thiên Trường, trong đó Thăng Long là kinh đô của đất nước nhưng -Thiên Trường mới là đầu
não chính trị của Đại Việt bấy giờ.


<b> Câu 3: Những hiểu biết của bạn về ba lần quân dân Đại Việt chống quân xâm lược Nguyên –</b>
Mông thời Trần? Nguyên nhân thắng lợi và bài học lịch sử?


<i> 3.1. Những hiểu biết về ba lần kháng chiến chống quân Nguyên - Mông của quân dân</i>
<b>Đại Việt:</b>


*Lần thứ nhất:


Mông Cổ tấn công Đại Việt vào tháng 1 năm 1258. Từ Đại Lý (nay làVân Nam, Trung
Quốc). Uriyangqadai dẫn quân Mông Cổ và Đại Lý dọc theo sông Hồng vào Đại Việt. Đích
thân Trần Thái Tơng và Trần Thánh Tơng dẫn quân lên nghênh địch tại Bình Lệ Nguyên (nay
là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). Quân Mông Cổ dễ dàng đánh tan quân Đại Việt, nhưng đã không
thành công trong việc bắt các vua Trần. Trận tiếp theo diễn ra tại Phù Lỗ (bên sông Cà Lồ).
Quân Đại Việt lại bị đánh bại. Triều đình nhà Trần phải sơ tán khỏi kinh đơ. Qn Ngun dù
chiếm đượcThăng Long, nhưng gặp phải khó khăn về lương thực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

tức bỏ thành Thăng Long rút lui về nước, cũng bằng con đường dọc theo sông Hồng. Trên
đường rút lui, quân Mông Cổ đã bị lực lượng các dân tộc thiểu số miền núi Tây Bắc do Hà
Bổng chỉ huy tập kích.


Tồn bộ cuộc chiến lần thứ nhất chỉ diễn ra trong vòng khoảng nửa tháng, với chỉ khoảng 3-4
trận đánh lớn. Sau thất bại tại Đại Việt, qn Mơng Cổ phải tìm đường khác để tấn cơng
Tống từ phía Nam.



<b>* Lần thứ 2:</b>


27 năm sau, Hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt ra lệnh chinh phạt Đại Việt. Cuộc chiến
lần này kéo dài khoảng 4 tháng từ cuối tháng Chạp năm Giáp Thân đến cuối tháng Tư năm Ất
Dậu (cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm 1285 dương lịch). Lần này, quân Nguyên chuẩn bị
chiến tranh tốt hơn, huy động lực lượng lớn hơn. Ngồi lục qn từ phía Bắc tiến xuống, cịn
có thủy qn từ mặt trận Chiêm Thành ở phía Nam chuyển sang.


Cũng tương tự như lần thứ nhất, quân Nguyên mau chóng giành thắng lợi. Quân Đại Việt liên
tục bị đánh bại ở các mặt trận Lạng Sơn, Sơn Động, Vạn Kiếp, Thu Vật (n Bình), sơng
Đuống. Từ phía Bắc, chỉ khoảng 20 ngày sau khi vượt qua biên giới, quân Nguyên đã chiếm
được thành Thăng Long. Triều đình nhà Trần rút lui theo sơng Hồng về Thiên Trường (Nam
Định) và Trường Yên (Ninh Bình), chịu sự truy kích ráo riết của quân Nguyên. Mọi nỗ lực
phản kích của các vua Trần dọc theo sông Hồng đều bị quân Nguyên đánh bại. Từ phía
Nam, Sogetu dẫn quân từ Chiêm Thành lên dễ dàng đánh tan quân Đại Việt tại vùng Nghệ
An-Thanh Hóa. Bị ép cả trước lẫn sau, các vua Trần phải rút ra biển lên vùng Quảng Ninh,
đợi đến khi cánh quân Nguyên phía Nam đi qua Thanh Hóa mới lui về Thanh Hóa.


Cũng giống như lần trước, quân Nguyên lại gặp khó khăn về lương thực. Trong khi đó, quân
Đại Việt đã nhanh chóng chấn chỉnh đội ngũ. Khoảng gần 2 tháng sau khi rút về Thanh Hóa,
Đại Việt phản cơng. Dọc theo sơng Hồng, qn Đại Việt lần lượt giành thắng lợi tại cửa Hàm
Tử (nay ở Khoái Châu, Hưng Yên), bến Chương Dương (nay ở Thượng Phúc, thuộc Thường
Tín, Hà Nội), giải phóng Thăng Long.


Cánh quân phía Bắc của quân Nguyên trên đường rút chạy đã bị tập kích tại sơng Cầu, tại
Vạn Kiếp, Vĩnh Bình. Cánh quân rút về Vân Nam bị tập kích tại Phù Ninh. Cánh quân phía
Nam bị tiêu diệt hồn tồn tại Tây Kết (Khối Châu).


<b>* Lần thứ 3:</b>



Ngay sau khi bại trận về nước năm 1285, quân Nguyên chỉnh đốn quân ngũ, bổ sung lực
lượng, đóng tàu chiến, huy động lương thực để trở lại đánh Đại Việt lần thứ ba. Cuộc chiến
lần này kéo dài khoảng gần 4 tháng, từ cuối tháng 12 năm 1287 đến cuối tháng 4 năm 1288.
Quân Nguyên chia làm 3 cánh vào Đại Việt từ Vân Nam, từ Quảng Tây và từ Quảng Đông
(theo đường biển) vào Đại Việt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Khác với 2 lần trước, lần nay quân Đại Việt không huy động lực lượng lớn chặn đánh quân
Nguyên từ đầu, mà chỉ đánh có tính kìm chân. Bộ chỉ huy và phần lớn lực lượng Đại Việt rút
về vùng Đồ Sơn, Hải Phịng, từ đó tổ chức các cuộc tấn cơng vào căn cứ Vạn Kiếp và đánh
thủy qn Ngun.


Vì đói và có nguy cơ bị đối phương chia cắt, quân Nguyên bỏ Thăng Long rút về Vạn Kiếp,
rồi chủ động rút lui dù quân Đại Việt chưa phản công lớn. Cánh thủy quân của Nguyên đã bị
tiêu diệt hoàn tồn tại sơng Bạch Đằng khi định rút ra biển. Các cánh lục quân Nguyên khi đi
qua Bắc Giang và Lạng Sơn đã bị quân Đại Việt tấn công dữ dội.


<b>Chấm dứt chiến tranh</b>


Sau thất bại lần thứ ba năm 1288 ở Đại Việt, Nguyên Thế Tổ - Hốt Tất Liệt vẫn chưa muốn
đình chiến. Sang các năm sau, vua Nguyên tiếp tục muốn điều binh sang nhưng chưa gặp thời
cơ thuận tiện. Có năm sắp tiến qn thì chánh tướng chết nên hỗn binh, năm sau định đánh
thì phó tướng lại chết nên lại đình chỉ việc tiến quân. Tới năm 1294 lại định điều binh lần nữa
thì chính Hốt Tất Liệt băng hà. Cháu nội là Nguyên Thành Tông lên ngôi không muốn gây
chiến với Đại Việt nữa. Việc chiến tranh với nhà Nguyên từ đó mới chấm dứt.


Về số quân Nguyên


Sử sách Việt Nam và Trung Quốc nêu số quân Nguyên không thống nhất. Lần đầu, Nguyên
sử chỉ nêu vài ngàn quân; sau này các nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng số quân Nguyên


năm 1257 khoảng 3 vạn. Nhà sử học Ba Tư là Said ud Zin cho biết qn Mơng đến Vân Nam
có 3 vạn nhưng trước khi đến Ngạc châu gặp<b> Hốt Tất Liệt thì số qn chỉ cịn lại 5000</b>
người.


Lần thứ hai, Đại Việt Sử ký Tồn thư chép qn Ngun có 50 vạn và khi rút về chỉ còn 5
vạn. Nguyên Sử chép rằng chỉ có 30 vạn nếu tính ln cả dân phu là những người không
tham gia chiến đấu. Con số 30 vạn được các nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng phù hợp. Tuy
nhiên, về số trở về nước, chắc chắn nhiều hơn 5 vạn, vì từ tháng 6 âm lịch năm 1285, Thoát
Hoan rút chạy về, tới tháng 8 đã được lệnh chuẩn bị sang lần nữa. Như vậy số quân còn lại
cũng tương đối nhiều, gần với số cần thiết mang đi viễn chinh lần nữa<b>[4]</b><sub>. Theo 1 số tác giả thì</sub>


quân Đại Việt lần này có 30 vạn người.


Lần thứ 3, Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi số quân là 50 vạn, trong khi Khâm định Việt sử
<b>Thông giám Cương mục lại cho rằng như vậy quá nhiều, chỉ có khoảng hơn 9 vạn là số</b>
quân bổ sung. Các nhà nghiên cứu cũng của Việt Nam xác định rằng quân Nguyên lần này
cũng có khoảng 30 vạn như lần thứ hai, còn quân Trần có tổng số khoảng 20 vạn.


<b>Nguyên nhân thắng lợi</b>


Nguyên nhân cơ bản nhất cho những thành công của nhà Trần là chính sách đồn kết nội bộ
của những người lãnh đạo. Dù trong hồng tộc nhà Trần có những người phản bội theo nhà
Nguyên nhưng nước Đại Việt không bị mất, nhờ sự ủng hộ của đông đảo dân chúng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

-số lớn là những người có thực tài cả văn lẫn võ. Thật hiếm dòng họ cai trị nào có nhiều nhân
tài nổi bật và nhiều chiến công như nhà Trần, đặc biệt là thế hệ thứ hai:<b> Trần Quốc</b>
<b>Tuấn, Trần Thánh Tông, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều là những tên tuổi lớn</b>
trong lịch sử Việt Nam. Đó là chưa kể tới Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư, Trần Quốc
<b>Toản....</b>



Theo các nhà nghiên cứu, chiến thắng của nhà Trần có được nhờ vào sự sáng suốt của các
tướng lĩnh trong chiến thuật, đứng đầu là Trần Hưng Đạo. Trong khi tác chiến, các tướng lĩnh
nhà Trần chủ động tránh lực lượng hùng hậu người Mông mà đánh vào các đạo quân người
Hán bị cưỡng bức theo quân Mông sang Đại Việt. Tâm lý của những người mất nước và phải
chịu sự quản thúc của người Mông khiến các đạo quân này nhanh chóng tan rã, sức kháng cự
thấp. Một cánh quân tan rã có tác động tâm lý lớn tới các đạo qn cịn lại trên tồn mặt trận.
Mơng-Ngun đương thời là đế quốc lớn nhất thế giới. Những nơi người Mơng bại trận lúc
đó như Ai Cập q xa xơi, Nhật Bản và Nam Dương đều có biển cả ngăn cách và qn
Mơng cũng khơng có sở trường đánh thủy quân, lại gặp bão to (Thần phong) nên mới bị thua
trận. Thế nhưng nước Đại Việt lúc đó nằm liền kề trên đại lục Đông Á, chung đường biên
giới cả ngàn dặm với người Mông mà người Mông vẫn không đánh chiếm được. Một đế quốc
đã nằm trùm cả đại lục Á - Âu mà không lấy nổi một dải đất bé nhỏ ở phía nam. Tổng cộng 3
đợt xuất quân, Mông-Nguyên huy động hơn 60 vạn lượt quân, trong khi dân số Đại Việt khi
ấy chưa đầy 4 triệu. Có so sánh tương quan lực lượng với kẻ địch và vị trí địa lý với những
quốc gia làm được điều tương tự mới thấy được sự vĩ đại của chiến công 3 lần đánh đuổi
Mông-Nguyên của nhà Trần.


Theo giáo sư Đào Duy Anh thì có 3 nhược điểm khiến quân Mông Nguyên thất bại ở Đại
Việt:


1. Người Mông Cổ đi đánh xa, chỉ mong cướp bóc ni qn, nếu khơng được thì dễ bị
khốn vì thiếu lương.


2. Qn Mơng Nguyên là người phương bắc, không hợp thuỷ thổ.


3. Đại đa số quân lính là người Trung Hoa bị chinh phục, tinh thần chiến đấu khơng có,
gặp khó khăn là chán nản.


Chiến cơng của nhà Trần nhìn chung được nhiều thế hệ nhân dân ca ngợi qua các thần tích,
vè và những lời truyền tụng trong dân gian. Sang thế kỷ 20, Trần Trọng Kim và Phan Kế


Bính cũng ca tụng nhiều về chiến thắng đó.


Sách Việt sử tiêu án của Ngơ Thì Sĩ ca ngợi chiến cơng đánh qn Nguyên, nhưng chê trách
việc dâng công chúa An Tư cho Thoát Hoan là hạ sách.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Trần Xuân Sinh trong Thuyết Trần phản bác quan điểm này và cho rằng những lời bình luận
đó là "ngớ ngẩn".


<b>Câu 4: Những đóng góp nổi bật của quân, dân Nam Định trong kháng chiến chống</b>
<b>Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ; thành tựu trong đổi mới và hội nhập của Đảng bộ,</b>
<b>quân, dân Nam Định?</b>


<b>4.1. KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-4954)</b>


<b>Đấu tranh giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng cách mạng</b>
<b>(9-1945 đến 12-1946).</b>


Với cuộc Cách mạng Tháng Tám, chính quyền mới đã được thiết lập, nhân dân ta đã được
giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến. Nhưng nằm trong tình hình
chung của cả nước, sau khi chính quyền cách mạng được thành lập, Đảng bộ và nhân dân
Nam Định cũng phải đối phó với nhiều khó khăn phức tạp. Thù trong giặc ngồi đe dọa, tình
hình đất nước ở vào thế ngàn cân treo sợi tóc.


Về kinh tế, mọi ngành sản xuất đều sút kém, đình đốn. Sản xuất nơng nghiệp suy giảm, ruộng
đất hoang hóa nhiều. Hàng hóa khan hiếm, nạn đầu cơ tích trữ phát triển. Về tài chính, ngân
quỹ, kho bạc nói chung khơng cịn gì. Giữa lúc đó, các thế lực đế quốc núp dưới danh nghĩa
quân Đồng minh để tước vũ khí quân đội Nhật cũng tràn vào từ hai đầu đất nước. Thực chất
là chúng muốn lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ.


Về phía chủ quan, Đảng bộ Nam Định cịn thiếu kinh nghiệm trong cơng tác lãnh đạo chính


quyền. Các tổ chức quần chúng, lực lượng vũ trang địa phương, tổ chức đảng ở cơ sở nhất là
ở xã cịn ít, trang bị nghèo nàn chưa đáp ứng được yêu cầu cấp bách của phong trào cách
mạng trong giai đoạn mới.


Thuận lợi cơ bản nhất đối với chính quyền cách mạng non trẻ là được sự ủng hộ mạnh mẽ của
quần chúng. Trong mọi hoàn cảnh, các tầng lớp nhân dân Nam Định nói riêng và cả nước nói
chung ln vững tin vào Chủ tịch Hồ Chí Minh và Việt Minh, sẵn sàng đem tính mạng và của
cải để bảo vệ độc lập dân tộc và bảo vệ chế độ mới.


Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu
tập phiên họp đầu tiên của Hội đồng chính phủ, đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần phải làm
ngay. Ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, khẳng định
“Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách
mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hồn thành, vì nước chưa được hồn toàn độc lập”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Nhờ sự ủng hộ, đồng tình của nhân dân, cuộc bầu cử Quốc hội khóa I và Hội đồng nhân dân
các cấp diễn ra một cách tốt đẹp. Ngày 6-1-1946, gần 100% số cử tri đã đi bỏ phiếu bầu cử
Quốc hội, trong số 36 vạn cử tri có tới 33 vạn cử tri bỏ phiếu tín nhiệm cho những người Mặt
trận Việt Minh giới thiệu. Ngày 20-1-1946, cử tri Nam Định nô nức đi bầu cử Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh và tiến hành bầu cử hội đồng nhân dân cấp xã vào ngày 18-3-1946.


Ngày 10-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nam Định, Chiều ngày 10-1-1946, Chủ tịch
đã nói chuyện với thân mật với đại biểu các tâng lớp nhân dân, đại biểu các tôn giáo và cán
bộ các ngành, các giới trong tỉnh. Bảy giờ sáng ngày 11-1-1946, trước hơn một vạn cán bộ,
bộ đội và nhân dân Bác ân cần nhắc nhở mọi người phải đoàn kết, thương yêu nhau, chăm lo,
mọi mặt cơng tác, ủng hộ Chính phủ. Đây là lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nam
Định. Những lời chỉ bảo ân cần của Người đã để lại ấn tượng sâu sắc và cổ vũ Đảng bộ, nhân
dân Nam Định đoàn kết, phấn đấu, khắc phục những khó khăn trở ngại, tiếp tục đi lên trong
giai đoạn mới của cách mạng.



Với sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và quân dân trong tỉnh, những khó khăn bước đầu đã
dần được khắc phục, đời sống nhân dân ổn định, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở được củng cố,
giữ vững; quân và dân Nam Định có điều kiện bước vào cuộc kháng chiến lâu dài, chống
thực dân Pháp xâm lược.


<b>Chiến đấu giam chân địch trong thành phố, chuẩn bị kháng chiến lâu dài.</b>


Trước dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra <i>Lời</i>
<i>kêu gọi tồn quốc kháng chiến. Cũng trong tháng 12-1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị toàn</i>
<i>dân kháng chiến, vạch ra những nét lớn về đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài</i>
và tự lực cánh sinh.


24h ngày 19-12-1946, cả thành phố Nam Định rền vang tiếng súng mở đầu cuộc kháng chiến
chống xâm lược. Cuộc chiến đấu của ta nhằm kiềm chế, tiêu hao sinh lực địch trong thành
phố diễn ra dài ngày và mỗi lúc một ác liệt hơn. Ta và địch đánh lấn, giành nhau từng căn
nhà, góc phố từng nhà máy, xí nghiệp. Trong cuộc chiến đấu khơng cân sức ấy đã xuất hiện
nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm, không sợ hy sinh, quyết tâm giết giặc lập công. Điển
hình là Đồn Bạch Hạc - Chính trị viên trung đội (thuộc Tiểu đồn 69), Triệu Hàn - Chính trị
viên trung đội (thuộc Tiểu đồn 69), Phạm Sơn - cơng nhân vận chuyển, tự vệ Nhà máy sợi
mới tình nguyện vào bộ đội thuộc Tiểu đoàn 75, nữ chiến sĩ cứu thương Nguyễn Thị Ca ...
Trong trận cuối cùng địch đánh giải vây thành phố (10-3-1947) có bốn anh em ruột cùng
chiến hào đã anh dũng hi sinh khi chiến đấu đến viên đạn cuối cùng là Tạ Quang Khải, Tạ
Hồng Quang, Tạ Quang Thuấn, Tạ Quang Đức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Sau 86 ngày đêm liên tục chiến đấu, quân dân Nam Định đã kìm chế, giam chân một lực
lượng lớn quân viễn chinh Pháp, giết và làm bị thương 400 tên, trong đó có nhiều sĩ quan và
lính Âu - Phi, bắt sống sáu tên, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Cùng với Hà Nội, và
một số thành phố, thị xã khác ở Bắc Bộ, cuộc chiến đấu của quân dân Nam Định đã làm thất
bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp, góp phần cùng cả nước có thêm
thời gian củng cố và xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Qua chiến


đấu ác liệt, lực lượng kháng chiến tại Nam Định vẫn được bảo toàn và ngày càng trưởng
thành.


<b>Xây dựng làng chiến đấu, củng cố hậu phương, chống địch lấn chiếm (1947 tới 10-1949)</b>
Sau khi chiếm được mấy thành phố trống rỗng, thực dân Pháp tiếp tục xua quân sang Đông
Dương. Mục tiêu của chúng trong thời gian này là chiếm lấy những đường giao thơng chính,
lập vành đai bảo vệ thành phố, thị xã, trên cơ sở đó đánh nống ra tiêu diệt lực lượng kháng
chiến và nhanh chóng kết thúc chiến tranh.


Ở Nam Định, thực hiện âm mưu mở rộng chiếm đóng theo chiến thuật vết dầu loang, địch đã
mở nhiều cuộc càn quét xung quanh thành phố để khủng bố nhân dân, phá cơ sở, gây tâm lý
cầu an; dụ dỗ, thúc ép dân hồi cư và đẩy lực lượng ta ra ngoài. Từ tháng 4 đến tháng 6-1947,
chúng đã đóng thêm một số vị trí ngồi thành phố như Đị Quan, Vạn Diệp (Nam Phong,
Nam Trực), Đệ Nhất (Mỹ Trung), Bảo Long (Mỹ Hà), Lê Xá (Mỹ Thịnh) thuộc huyện Mỹ
Lộc và Xuân Mai (Bình Lục, Hà Nam). Cũng trong thời gian này, địch còn tổ chức một số
trận đánh ra vùng tự do để khủng bố tinh thần nhân dân, cướp bóc lương thực, thực phẩm và
để vây quét lực lượng của ta, nhưng đều bị đánh trả đích đáng như các trận chợ Dần (Vụ Bản)
ngày 31-3-1947, trận Lê Xá (Mỹ Thịnh, Mỹ Lộc), Núi Ngăm (huyện Vụ Bản) ngày 2-5-1947,
trận Đại Đê (Vụ Bản) ngày 1-6-1947, trận Quang Sán (Mỹ Lộc) tháng 7-1947…


Vừa cơ động chiến đấu, các đơn vị bộ đội vừa đưa một bộ phận lực lượng về các địa phương
hỗ trợ, phát triển chiến tranh du kích. Năm 1947, bộ đội chủ lực đánh 75 trận, bộ đội địa
phương đánh 24 trận, dân quân, du kích đánh 40 trận.Tiêu biểu cho thành tích chiến đấu là
đội du kích Mai Mỹ (Thành Mỹ) đã được Đại hội Đảng bộ tỉnh biểu dương.


Nhân dân các vùng bị địch uy hiếp tổ chức triệt phá cầu, đường, đắp ụ ngăn cơ giới của địch
thực hiện khẩu hiệu vườn không, nhà trống khi địch tới. Việc rào làng kháng chiến chống
địch càn quét cũng được tiến hành ở nhiều địa phương. Đến tháng 10-1949, toàn tỉnh đã xây
dựng được 90 làng chiến đấu. Đến tháng 9-1949, du kích tồn tỉnh có hơn 45.000 người; cuối
năm 1949, đã có 20 trung đội du kích. Phong trào tịng qn giết giặc cứu nước sơi nổi khắp


các địa phương. Năm 1949, có gần 9.000 người ghi tên tòng quân, bộ đội địa phương đến
tháng 3-1948 từ một Đại đội Đề Thám đã xây dựng thêm tiểu đoàn Duyên Hải.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

sợi, dệt vải, dệt lụa ở Vụ Bản, Hải Hậu, Nghĩa Hưng, nghề làm giấy, thuỷ tinh, thuộc da, đúc
gang, đồng, làm ngòi bút ở Ý Yên, Hải Hậu, Trực Ninh… Trong khói lửa chiến tranh, phong
trào bình dân học vụ tiếp tục phát triển mạnh. Đến tháng 10-1949, tồn tỉnh đã có 250.908
người thốt nạn mù chữ. Tồn tỉnh có 341 trường tiểu học với 16.789 học sinh. Ngoài trường
trung học Nguyễn Khuyến đã có thêm sáu trường tư thục. Năm 1948, tỉnh đã thành lập các
ban y tế xã, tám trạm cứu thương, 30 nhà hộ sinh, duy trì tốt hoạt động khám chữa bệnh cho
nhân dân và bộ đội, năm 1948 đã chữa cho 1.740 người bệnh.


Những kết quả trên đã làm cho đời sống kinh tế văn hoá, xã hội của nhân dân trong tỉnh được
cải thiện từng bước trong quá trình kháng chiến kiến quốc, động viên mọi người hăng hái sản
xuất và phục vụ chiến đấu.


<b>Từng bước phát triển lực lượng, chống địch mở rộng chiếm đóng, giải phóng quê hương</b>
<b>(10-1949 – 7-1954).</b>


Thắng lợi của cách mạng Việt Nam cùng với những thắng lợi của quân, dân Lào,
Camphuchia trên chiến trường Đông Dương năm 1949 đã đẩy quân Pháp vào thế sa lầy, đế
quốc Mỹ lợi dụng can thiệp sâu vào chiến tranh Đông Dương.


Ngày 18-10-1949, quân Pháp cho 6 tàu chiến, 2 canơ chở hai tiểu đồn theo sông Hồng đổ
quân lên Hạc Châu, Liêu Đông (Xuân Trường) đánh chiếm Hành Thiện, Bùi Chu (nơi có tồ
giám mục). Chúng cấu kết với bọn cầm đầu phản động đội lốt đạo Thiên Chúa để bọn này
tiếp tay đắc lực cho chúng. Từ tháng 10-1949 đến đầu năm 1952, nhân dân sáu huyện phía
nam Nam Định bước vào thời kỳ “Hai năm, bốn tháng” đầy đau thương và uất hận.


Trước tình hình đó, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Liên khu 3, Tỉnh uỷ Nam
Định đã chỉ đạo các địa phương nghiêm túc rút kinh nghiệm, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm,


đề ra các phương án củng cố, xây dựng lực lượng và tác chiến phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ
mới.Các Đảng bộ kịp thời uốn nắn nhgững nhận thức không đúng đắn, cử cán bộ trở về cơ sở
bán đất, xây dựng lại phong trào, từng bước vạch rõ âm mưu lợi dụng tôn giáo, chia rẽ
lương-giáo của kẻ thù; củng cố, phát triển lực lượng vũ trang địa phương, dân quân, du kích, làm
nịng cốt cho phong trào tồn dân đánh giặc.


Cuối tháng 4-1951, theo chủ trương của Đảng, Bộ Tổng tư lệnh mở Hội nghị tổng kết chiến
dịch Hoàng Hoa Thám và quyết định mở chiến dịch Quang Trung (tức chiến dịch Hà – Nam
– Ninh) nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, phá một mảng nguỵ quân nguỵ
quyền, tạo điều kiện cho việc phục hồi cơ sở, phát triển chiến tranh du kích và bảo vệ tài sản,
tính mạng, mùa màng của nhân dân. Đêm 28 rạng 29-5-1951, Đại đoàn 308 cùng bộ đội địa
phương, dân quân, du kích nổ súng tiến cơng cứ điểm Đại Phong và Non Nước (Thị xã Ninh
Bình) mở màn chiến dịch.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

từng bước chiến đấu giành giật với địch từng vùng đất, làm thất bại âm mưu chia rẽ lương
-giáo của kẻ thù, giành lại thế chủ động.


Ngày 23-2-1952, địch bỏ Hồ Bình rút chạy. Cùng với thất bại ở Hồ Bình, việc bình định
của địch trong năm 1951 bị phá vỡ. Từ giữa năm 1952, ngoài việc thường xuyên tổ chức càn
quét cỡ đại đội, tiểu đoàn, địch cịn tổ chức nhiều cuộc hành qn quy mơ lớn, dài ngày với
cường độ vô cùng ác liệt trên địa bàn Nam Định.


Mặc dù lực lượng không cân sức, quân và dân trong tỉnh vẫn kiên cường chiến đấu để bảo vệ
khu du kích làm cho địch tổn thất nặng nề về sinh lực và phương tiện chiến tranh, như trận
tập kích Trại huấn luyện Vạn Bảo ở thành phố Nam Định ngày 28-4-1953, diệt gọn một tiểu
đoàn, bắt 500 tên địch. Trận tập kích địch ở Đỗ Xá (Nam Trực) tháng 7-1953 tiêu diệt 160
tên trong đó có tên thiếu tướng Ginlơ chỉ huy cuộc càn.


Như vậy trước cuộc chiến đông - xuân 1953 - 1954, quân dân Nam Định đã tạo được thế và
lực mới cho cuộc kháng chiến đang bước vào giai đoạn quyết liệt nhất. Theo thống kê chưa


đầy đủ, thời gian này quân dân Nam Định đã đánh địch gần 1.600 trận, tiêu diệt 9.000 tên
địch, phá huỷ 76 xe cơ giới, bắn cháy 2 máy bay, 8 tàu chiến, thu gần 1.000 súng và nhiều
quân trang, quân dụng khác.


Sau thắng lợi Điện Biên Phủ, đêm ngày 25-5-1954, tại Nam Định, bộ đội chủ lực đã phối hợp
với bộ đội địa phương tiêu diệt hồn tồn vị trí Thức Khố (Giao Thuỷ) bắt 650 tên, thu tồn
bộ vũ khí, qn trang, qn dụng. Ngày 4-6-1954, qn ta tiếp tục tiến cơng vị trí Đơng Biên
(Hải Hậu). Sau 12 giờ chiến đấu, ta đã giành thắng lợi, tiêu diệt một số tên, bắt sống 500 tên.
Trong vòng nửa đầu năm 1954, bộ đội địa phương và dân quân, du kích Nam Định đã đánh
trên 1.600 trận (du kích đánh 800 trận), diệt và làm bị thương trên 3.000 tên, thu hàng trăm
súng các loại, phá huỷ gần 100 xe cơ giới.


Trong khi Hội nghị Giơnevơ chưa kết thúc, thì trung tuần tháng 6-1954 địch đã rục rịch rút
khỏi Nam Định. Và đến 9 giờ ngày 1-7-1954, thực dân Pháp đã rút toàn bộ các vị trí cịn lại ở
Ngơ Đồng, Hành Thiện, Bùi Chu, Lạc Quần, Cổ Lễ và cuối cùng là thành phố Nam Định.
Cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cịn non trẻ và kháng chiến trường kỳ chống thực dân
Pháp xâm lược của dân tộc nói chung và nhân dân Nam Định nói riêng đã giành thắng lợi vẻ
vang. Với nhũng thành công đã đạt được, những kinh nghiệm và cả thử thách tôi luyện trong
chiến tranh cách mạng, Đảng bộ và quân, dân Nam Định càng thêm vững tin cùng cả nước
bước vào một thời kỳ mới của lịch sử dân tộc.


<b>4.2. Cuộc đấu tranh chống địch cưỡng ép di cư, hoàn thành cải cách ruộng đất và phục</b>
<b>hồi kinh tế (1954-1957)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

1-7-1954, địa bàn Nam Định hoàn toàn sạch bóng quân thù. Chiến tranh kết thúc, nhưng để lại
cho nhân dân Nam Định những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, văn hố - xã hội.


Để ổn định giá cả, phục vụ đời sống nhân dân, chính quyền cách mạng ở Nam Định đã thực
hiện các biện pháp kinh tế tích cực như bãi bỏ các loại thuế, đảm phụ quốc phòng, an ninh…
Tại thành phố Nam Định, ngày 3-7-1954, Uỷ ban quân quản được thành lập, đã cơng bố 8


chính sách và 10 điều kỷ luật đối với vùng mới giải phóng. Nhờ tinh thần chủ động, tích cực
của các cấp, các ngành và tinh thần hăng hái của cán bộ, nhân dân trong tỉnh, khơng khí lao
động sản xuất ở các địa phương được đẩy mạnh, đời sống của nhân dân từ thành thị đến nông
thôn sớm được ổn định.


Nhờ những biện pháp kiên quyết, kịp thời, cuộc đấu tranh chống dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào di
cư vào Nam đã đạt được kết quả khá tốt: các trại tập trung di cư lập ra trái phép đã bị giải tán.
Từ tháng 8-1954 đến tháng 5-1955, ta đã tuyên truyền, vận động hàng trăm gia đình và hơn
3.000 người tự nguyện rút đơn, trả giấy thông hành, yên tâm ở lại quê hương.


Song song với việc tiếp quản vùng mới giải phóng, chống địch cưỡng ép đồng bào di cư,
Đảng bộ Nam Định đã lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ lớn là cải cách
ruộng đất và phục hồi phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội.


Tuy nhiên, trong cải cách ruộng đất đã phạm một số sai lầm nghiêm trọng. Khi phát hiện sai
lầm, Đảng đã kịp thời có chính sách sửa sai, nhưng cũng phải tới tháng10 -1957, nhiệm vụ
sửa chữa mới cơ bản hoàn thành. Đây là một kinh nghiệm xương máu đối với Đảng bộ và
nhân dân Nam Định.


<b>Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và công nghiệp tư bản tư</b>
<b>doanh (1958-1960)</b>


Ngày 13-8-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh về dự hội nghị sản xuất nông nghiệp của tỉnh được
tổ chức tại xã Yên Tiến huyện Ý Yên, là nơi thí điểm đầu tiên xây dựng hợp tác xã nơng
nghiệp ở Nam Định. Người chỉ thị cho cán bộ và nhân dân địa phương phải quyết tâm thực
hiện vụ mùa thắng lợi, tránh chủ quan, tích cực chăm bón, phịng trừ sâu bệnh cho lúa.


Ngày 15-9-1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại về kiểm tra tình hình chống hạn ở Nam Định.
Người căn dặn cán bộ, nhân dân trong tỉnh phải quyết tâm chống hạn. Mọi người phải đoàn
kết, giúp đỡ nhau chiến thắng thiên tai, đẩy mạnh sản xuất, ngày càng làm ra nhiều của cải,


vật chất, đem lại hạnh phúc cho mọi nhà, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Đối với công nghiệp và thủ công nghiệp, sau ba năm khôi phục kinh tế (1955-1957), công
nghiệp quốc doanh mới được phục hồi và phát triển. Từ cuối năm 1958, Nam Định triển khai
cuộc vận động cải tiến quản lý xí nghiệp. Trong quá trình này, phong trào thi đua hồn thành
vượt mức kế hoạch nhà nước được liên tục phát động. Đặc biệt, năm 1960, phong trào phát
triển mạnh, liên tục và mang tính tập thể đậm nét, quan tâm tới vấn đề cải tiến kỹ thuật, áp
dụng thao tác tiên tiến vào sản xuất. Nổi bật nhất là Nhà máy Dệt Nam Định, trong ba năm
(1958 - 1960), công nhân đã phát huy được 485 sáng kiến, góp phần quan trọng làm cho giá
trị sản lượng của nhà máy bình quân hàng năm tăng 23%. Nhiều đơn vị và cá nhân đạt danh
hiệu tiên tiến, chiến sĩ thi đua. Bốn công nhân được tuyên dương là Anh hùng lao động.


Đến cuối năm 1960, Nam Định hoàn thành kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát
triển kinh tế, văn hoá - xã hội. Thắng lợi đó đã đem lại những chuyển biến to lớn trong đời
sống kinh tế, chính trị của nhân dân trong tỉnh.


<b>Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ</b>
<b>nghĩa xã hội ở địa phương (1961-1965)</b>


Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), miền Bắc bước vào thực hiện kế hoạch 5
năm lần thứ nhất. Từ ngày 15 đến 21-5-1963, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ V được
tiến hành, ngày 21-5-1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm, chỉ đạo đại hội và Người đã đến
thăm Nhà máy Liên hợp dệt Nam Định, thăm bệnh viện tỉnh, gặp gỡ, nói chuyện với hơn năm
vạn nhân dân, cán bộ dự mít tinh chào mừng thành công của Đại hội.


Cơ sở vật chất - kỹ thuật trong nông nghiệp được quan tâm đầu tư xây dựng. Năng suất lúa từ
3,5 tấn/ha (năm 1960) tăng lên 3,9 tấn/ha năm 1965. Số hợp tác xã đạt 5 tấn/ha ngày càng
nhiều.


Sản xuất công nghiệp phát triển với giá trị tổng sản lượng hàng năm tăng 6%, những lĩnh vực


được chú trọng phát triển trong thời kỳ này là điện lực, vật liệu xây dựng, chế biến nông sản,
dược liệu và đặc biệt là ngành cơ khí…


Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đang thực hiện có kết quả thì bị gián đoạn bởi cuộc chiến tranh
phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Tuy chỉ thực hiện được 4 năm, nhưng với những thành
tựu đạt được, Nam Định bước đầu đã khắc phục được tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, cải thiện
một bước đời sống của nhân dân, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc.


<b>Góp phần đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đẩy mạnh sản xuất,</b>
<b>chi viện cho tiền tuyến lớn (1965-1975).</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Thực hiện Quyết định số 103-QĐ/TVQH của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 21-4-1965 và
Nghị quyết số 111-NQ/TW về việc hợp nhất hai tỉnh Nam Định và Hà Nam; ngày 4-6-1965,
Ban chấp hành Đảng bộ hai tỉnh họp liên tịch. Hội nghị xác định nhiệm vụ cấp bách của toàn
Đảng bộ lúc này là đoàn kết toàn quân, toàn dân Nam Hà thực hiện thắng lợi nghị quyết của
Trung ương Đảng trong thời kỳ mới.


Quân dân Nam Hà phối hợp với trung đoàn 250 pháo cao xạ, đã chiến đấu dũng cảm để bảo
vệ người, tài sản, huyết mạch giao thông chi viện cho tiền tuyến đồng thời duy trì, giữ vững
sản xuất, giữ gìn an ninh, trật tự, bắn rơi 42 máy bay Mỹ. Đơn vị tự vệ thành phố và trung
đoàn 250 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng nhất. Tự vệ khu phố 4, khu phố 6,
Nhà máy Liên hợp Dệt và Chi cục xăng dầu được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng
ba. Ngày 10-7-1965, quân và dân Nam Hà long trọng mít tinh đón nhận cờ thưởng ln lưu
<i>Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh.</i>


Qua gần bốn năm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, tính đến ngày
8-11-1968, các lực lượng vũ trang Nam Hà đã bắn rơi 86 máy bay phản lực Mỹ (dân quân, tự
vệ bắn rơi 10 chiếc), góp phần bắn chìm một tàu biệt kích, bắn cháy một tàu chiến và một tàu
biệt kích khác, bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển quê hương.



Ngày 1-11-1968, Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống
nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà, chấp nhận ngồi vào đàm phán ở Hội nghị Pari.


Từ năm 1969, quân và dân Nam Định đã tranh thủ thời gian hồ bình, từng bước khắc phục
khó khăn, gian khổ, khắc phục hậu quả chiến tranh, rà phá bom mìn, bảo đảm an tồn cho các
tuyến giao thông vận tải, đẩy mạnh mọi mặt sản xuất.


Ngày 16-4-1972, Mỹ lại cho một lực lượng lớn máy bay, có cả B52, ồ ạt đánh phá Hải Phịng
và Thủ đô Hà Nội. Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ kéo dài 188 ngày
đêm, không quân Mỹ đã đánh phá 633 trận vào 893 mục tiêu khác nhau, số máy bay tham gia
đánh phá thành phố Nam Định lên tới 1.345 lượt chiếc.


Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai này, lực lượng vũ trang trong tỉnh bắn rơi 28 máy
bay, hai tàu chiến. Riêng lực lượng vũ trang địa phương lập công lớn, hiệu suất chiến đấu cao
gấp hai lần trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ.


Bước vào năm đầu cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại (1965) với khí thế thi đua Tay
<i>búa, tay súng, Tay cày, tay súng sản xuất nông nghiệp cũng đạt thắng lợi lớn, cơng nghiệp địa</i>
phương vẫn được duy trì, phát triển. Chiến tranh ác liệt nhưng sự nghiệp y tế, giáo dục và văn
hoá phục vụ đời sống nhân dân vẫn được duy trì và củng cố. Các phong trào <i>Tiếng hát át</i>
<i>tiếng bom, Dạy tốt học tốt, … được phát động khắp nơi và ngày càng sôi nổi.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc
Mỹ, quân và dân Nam Hà đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đồn kết thống nhất ý chí và
hành động, tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn, sản xuất và chiến đấu giỏi góp phần bảo vệ
vững chắc quê hương và miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ngày 30-4-1975, miền Nam hồn tồn
giải phóng. Trong niềm vui chung của cả nước, quân dân Nam Hà rất phán khởi tự hào vì đã
tích cực góp phần vào thắng lợi chung của cả dân tộc.



<b>Câu 5: Thành phố Nam Định được Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt Đề án tổng</b>
thể phát triển thành phố Nam Định trở thành trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của vùng Nam
đồng bằng sông Hồng năm nào? tiềm năng và điều kiện để Thành phố Nam Định phát triển?
Quyết định của thủ tướng chính phủ phê duyệt đề án quy hoạch tổng thể phát triển thành phố
Nam Định trở thành Trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của Vùng Nam đồng bằng sông Hồng
ngày 19 tháng 06 năm 2006.


<b>5.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển: </b>
<i>a) Quan điểm phát triển:</i>


- Phát triển thành phố Nam Định để đảm bảo vị trí, vai trị của Thành phố đối với Vùng Nam
đồng bằng sông Hồng ngày càng tăng lên, có đóng góp ngày càng nhiều vào tăng trưởng kinh
tế của Vùng.


- Phát triển thành phố Nam Định với tầm nhìn dài hạn, hướng tới văn minh, hiện đại và giữ
gìn được bản sắc riêng biệt của Thành phố. Gắn phát triển kinh tế với chỉnh trang, mở rộng
đô thị và phát triển kết cấu hạ tầng.


- Xây dựng thành phố Nam Định mang lại lợi ích khơng chỉ cho người dân Thành phố và tỉnh
Nam Định mà cho cả Vùng Nam đồng bằng sông Hồng.


- Phát triển dựa vào nội lực và lợi thế của Thành phố, nhất là lợi thế về vị trí địa lý và nguồn
nhân lực, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương đối với các cơng trình có tính chất vùng và thu
hút đầu tư từ bên ngoài.


- Phát triển kinh tế gắn với các lĩnh vực xã hội, đào tạo nguồn nhân lực cho Thành phố, cho
Tỉnh và Vùng.


- Phát triển kinh tế gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh; là địa bàn trọng yếu giữ vững an
ninh, quốc phịng cho cả Vùng và Thủ đơ Hà Nội.



</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

- Mục tiêu tổng quát: xây dựng thành phố Nam Định phát triển, hiện đại nhưng vẫn có bản
sắc riêng, có vai trị ngày càng lớn, thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh Nam Định và của Vùng
Nam đồng bằng sông Hồng cùng phát triển.


- Một số mục tiêu cụ thể:


+ Mục tiêu về kinh tế: phấn đấu nhịp độ tăng trưởng GDP của Thành phố giai đoạn 2005 -
2010 đạt bình quân 14%/năm, giai đoạn 2011 - 2015 đạt 13,8%/năm, giai đoạn 2016 - 2020
đạt 13,6%/ năm (cao gấp 1,3 - 1,4 lần so với mức tăng bình quân chung của Vùng Nam đồng
bằng sông Hồng và tỉnh Nam Định).


Đưa tỷ trọng GDP của Thành phố trong Vùng Nam đồng bằng sông Hồng từ 8,35% năm
2004 lên 10,2% vào năm 2010, đạt 12,2% vào năm 2015 và 14,4% vào năm 2020.


Đưa tỷ trọng đóng góp của Thành phố vào tăng trưởng kinh tế của Vùng Nam đồng bằng
sông Hồng đạt 12,5% giai đoạn 2005 - 2010, khoảng 15,5% giai đoạn 2010 - 2015 và 18,2%
giai đoạn 2016 - 2020.


+ Mục tiêu về phát triển đô thị và kết cấu hạ tầng: phát triển mở rộng gắn kết với vùng phụ
cận; các khu đô thị cũ được cải tạo, chỉnh trang; các khu đô thị mới được xây dựng hiện đại,
có kết cấu hạ tầng đồng bộ. Kiến trúc đơ thị có bản sắc riêng của Vùng. Xây dựng mạng lưới
kết cấu hạ tầng của Thành phố đạt các tiêu chí của đơ thị loại II và tiến tới đạt các tiêu chí của
đô thị loại I, đảm bảo đáp ứng các yêu cầu của đô thị trung tâm Vùng.


+ Mục tiêu xã hội: mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng toàn diện các lĩnh vực giáo dục -
đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, thể thao của Thành phố, đáp ứng yêu cầu của Thành phố
loại I. Gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống vào phát triển kinh tế - xã hội
của Tỉnh và của Vùng.



+ Mục tiêu về an ninh, quốc phòng: là khu vực phòng thủ vững chắc, góp phần giữ vững an
ninh, quốc phịng cho cả Vùng.


+ Mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái: xây dựng Thành phố xanh, sạch, đẹp; bảo vệ cảnh
quan theo hướng truyền thống, hiện đại.


<b>5.2. Các khâu đột phá chủ yếu:</b>
<i>a) Trong lĩnh vực công nghiệp:</i>


- Xây dựng, mở rộng nhà máy chế biến hoa quả, nước giải khát, chế biến thịt, chế biến thuỷ
hải sản xuất khẩu để thu hút nguồn nguyên liệu trong Tỉnh và Vùng, thúc đẩy các ngành nông
- lâm - ngư nghiệp của Vùng phát triển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

- Nâng cấp, mở rộng, hiện đại hoá các nhà máy dệt, may.


- Xây dựng ngành công nghiệp điện tử để từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
Tỉnh và Vùng.


<i>b) Trong lĩnh vực dịch vụ:</i>


- Thực hiện dự án bảo tồn, tơn tạo và phát huy giá trị văn hố thời Trần; xây dựng các khách
sạn đạt tiêu chuẩn cao cấp, các khu vui chơi giải trí để phát triển Thành phố thành Trung tâm
du lịch - văn hoá của Vùng.


- Xây dựng Trung tâm thương mại - hội chợ - triển lãm quy mô Vùng, mạng lưới chợ đầu
mối, siêu thị thúc đẩy thương mại phát triển.


<i>c) Trong lĩnh vực xã hội:</i>


Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng quy mô Vùng: Bệnh viện đa khoa 700 giường, Bệnh viện


phụ sản, các trường đại học, cao đẳng, trung tâm đào tạo nghề, khu liên hợp thể thao đào tạo
và tập huấn vận động viên quốc gia.


<b>5.3. Phương hướng phát triển các ngành và lĩnh vực:</b>
<i>a) Công nghiệp, khu - cụm công nghiệp: </i>


- Coi trọng đầu tư phát triển các ngành nghề có hàm lượng khoa học - cơng nghệ cao, có giá
trị gia tăng lớn, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh tế.


- Kết hợp giữa đầu tư đổi mới thiết bị, cơng nghệ các cơ sở hiện có và xây dựng mới các cơ
sở có lợi thế về nguyên liệu, lao động và các ngành công nghệ cao. Hướng mạnh vào xuất
khẩu và thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn.


- Xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp; đầu tư cơ sở hạ tầng để đón nhận đầu tư
trong nước và nước ngoài; di dời các cơ sở sản xuất nằm xen lẫn trong các khu dân cư.


- Phát triển các ngành công nghiệp cụ thể sau:


+ Phát triển ngành cơ khí, điện, điện tử trở thành ngành cơng nghiệp mũi nhọn; trong đó, chú
trọng phát triển cơ khí nơng nghiệp, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, lắp ráp và sản xuất
phụ tùng ôtô, xe máy, sản xuất phụ tùng thiết bị dệt may, cơ khí mỹ nghệ xuất khẩu...


+ Công nghiệp công nghệ cao: đầu tư phát triển các ngành công nghiệp điện tử - tin học, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học; xây dựng trung tâm công nghệ thông tin quy mô
Vùng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Định, Công ty cổ phần may Sông Hồng, Công ty cổ phần may Nam Hà,... Tạo điều kiện để
thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho ngành dệt may thay đổi thiết bị, công nghệ hiện đại; tạo
điều kiện phát triển các cơ sở sản xuất dân doanh.



+ Công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm: phát triển mạnh công nghiệp chế biến lương
thực, thực phẩm, đồ uống. Hình thành các doanh nghiệp trọng điểm. Đầu tư xây dựng mới,
mở rộng, đổi mới công nghệ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất.


+ Công nghiệp vật liệu xây dựng: các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng được đầu tư
thiết bị hiện đại; đồng thời, nghiên cứu sản xuất một số loại vật liệu mới.


+ Một số ngành công nghiệp khác: duy trì các cơ sở sản xuất hiện có; khuyến khích các cơ sở
dân doanh phát triển sản xuất bao bì, giấy, các chất tẩy rửa, chế biến các sản phẩm từ gỗ, tre
nứa... Phát triển công nghiệp sản xuất dược phẩm, nhất là đông dược.


+ Xây dựng các khu cơng nghiệp Hịa Xá, Mỹ Trung, Thành An, Bảo Minh, Hồng Tiến và
các khu - cụm công nghiệp tập trung khác.


<i>b) Thương mại, dịch vụ, du lịch:</i>


- Phát triển các cơ sở thương mại, dịch vụ. Xây dựng các trung tâm thương mại, hội chợ -
triển lãm, siêu thị; xây dựng, nâng cấp mạng lưới chợ...


- Phát triển các loại hình dịch vụ như: vận tải, bưu chính - viễn thơng, tài chính, ngân hàng,
kiểm tốn, bảo hiểm...


- Mở rộng quy mơ, loại hình dịch vụ, nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật
ngành du lịch theo tiêu chuẩn quốc tế. Gắn phát triển du lịch với tôn tạo, bảo tồn các di tích
lịch sử, văn hóa; khơi phục và phát triển các lễ hội... Đa dạng hóa các loại hình du lịch... xây
dựng, nâng cấp các điểm tham quan du lịch, các khu vui chơi giải trí có quy mô cấp Vùng, hệ
thống cơ sở lưu trú du lịch đạt tiêu chuẩn quốc tế, các trung tâm triển lãm, giới thiệu sản
phẩm.


<i>c) Giáo dục - đào tạo:</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

- Tăng cường cơ sở vật chất cho các trường đại học hiện có. Nâng cấp, thành lập mới một số
cơ sở đào tạo khác, phù hợp quy hoạch chung.


<i>d) Khoa học - công nghệ: </i>


Đầu tư nguồn lực cho việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ tại các trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề. Hình thành trung tâm ứng dụng công nghệ
sinh học; tổ chức lại các trung tâm sự nghiệp.


<i>đ) Y tế và chăm sóc sức khỏe: </i>


Xây dựng bệnh viện đa khoa cấp Vùng quy mô 700 giường; xây dựng trung tâm y tế dự
phịng đủ năng lực để giám sát, phân tích và thông báo dịch bệnh kịp thời trong cả Vùng; hỗ
trợ kỹ thuật trong y tế dự phòng cho các tỉnh trong Vùng. Phát triển Trung tâm sức khỏe lao
động và môi trường của Tỉnh; xây dựng trung tâm kiểm sốt và phịng chống HIV/AIDS. Xây
dựng mới, nâng cấp và sắp xếp lại các bệnh viện đa khoa và chuyên khoa. Nghiên cứu thành
lập trường Cao đẳng kỹ thuật y - dược. Xây dựng cơ sở vật chất của Trung tâm y tế Thành
phố; củng cố y tế xã, phường, phấn đấu các trạm y tế đều đạt chuẩn quốc gia.


<i>e) Văn hóa - thơng tin: </i>


Coi trọng việc phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Gắn việc tôn tạo, nâng cấp các khu
di tích lịch sử, văn hóa và tổ chức lễ hội phát triển du lịch. Tập trung xây dựng một số cơng
trình văn hóa có quy mơ lớn, có khả năng phục vụ cho cả Vùng như: Khu di tích lịch sử thời
Trần, Bảo tàng tổng hợp; các khu vui chơi giải trí, trung tâm điện ảnh sinh viên. Xây dựng
trung tâm phát thanh và truyền hình cấp Vùng tại thành phố Nam Định.


<i>g) Thể dục - thể thao: </i>



Xây dựng thành phố Nam Định trở thành Trung tâm huấn luyện, đào tạo vận động viên tài
năng trẻ và tổ chức thi đấu của Vùng. Có đầy đủ điều kiện tổ chức các cuộc thi đấu thể dục,
thể thao trong nước và quốc tế, các đại hội thể dục - thể thao, các hoạt động văn hóa quần
chúng. Kết hợp giữa phát triển thể dục - thể thao quần chúng với phong trào thể thao thành
tích cao. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho ngành thể dục - thể thao như: Khu liên hợp thể
thao tài năng trẻ, Trung tâm huấn luyện quốc gia, Khu liên hợp thể thao quy mô vùng, Trung
tâm y tế thể dục - thể thao.


<i>h) Nông nghiệp - ngư nghiệp: </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

sở chế biến, dịch vụ, thương mại thủy sản. Kết hợp phát triển nông nghiệp - ngư nghiệp với
du lịch sinh thái, gắn với bảo vệ tài nguyên, môi trường sinh thái.


<b>5.4. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng:</b>
<i>a) Mạng lưới giao thông: </i>


Phát triển đồng bộ hệ thống giao thông vận tải tạo thành mạng lưới hoàn chỉnh, liên hoàn,
liên kết được các phương thức vận tải, đảm bảo giao thơng thơng suốt, nhanh chóng an toàn
và thuận lợi trên phạm vi Thành phố, tồn Tỉnh và khu vực Nam đồng bằng sơng Hồng bao
gồm các mạng lưới đường bộ, đường sắt, đường thủy.


<i>b) Bưu chính - viễn thơng: </i>


Phát triển mạng lưới bưu chính - viễn thơng theo hướng hiện đại và đa dạng hóa các loại hình
dịch vụ bưu chính - viễn thơng. Nâng số máy điện thoại bình qn lên 25 máy/100 dân vào
năm 2010 và lên 35 máy/100 dân vào năm 2020. Xây mới các bưu cục và điểm cung cấp dịch
vụ bưu chính - viễn thơng cho các phường mới thành lập, các khu công nghiệp tập trung và
các khu dân cư lớn.


<i>c) Cấp điện: </i>



Tiếp tục tiến hành cải tạo lưới điện 6 KV và 35 KV thành lưới điện 22 KV; ngầm hóa lưới
điện hạ thế khu vực trung tâm Thành phố khi có điều kiện; cải tạo các trạm biến áp hiện có
thành trạm 22/04 KV...


<i>d) Cấp nước: </i>


Nâng cơng suất Nhà máy nước Nam Định lên 75.000 m3<sub>/ngày đêm; trong giai đoạn tiếp theo </sub>


xây thêm một số nhà máy nước mới với công suất 35.000 m3<sub>/ngày đêm để đến năm 2010 có </sub>


trên 80% và đến năm 2020 có trên 90% dân số được dùng nước máy; cải tạo và lắp đặt mới
hệ thống đường ống dẫn nước thô, đường ống truyền dẫn và phân phối nước sạch.


<i>đ) Thốt nước và vệ sinh mơi trường: </i>


- Hồn chỉnh mạng lưới thoát nước Thành phố; xây dựng hệ thống xử lý nước thải, rác thải.
- Xây dựng, cải tạo, nâng cấp hệ thống công viên, cây xanh.


- Xây dựng mới lò hỏa táng tại nghĩa trang Cánh Phượng; quy hoạch xây dựng mới các nghĩa
trang nhân dân.


- Xây dựng thành phố Nam Định theo hướng xanh, sạch, đẹp; bảo vệ cảnh quan kết hợp hài
hoà giữa truyền thống, hiện đại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Củng cố đê, kè, cống; cứng hóa mặt đê Nam Phong; tiếp tục kiên cố hóa kênh mương; xây
dựng các trạm bơm phục vụ tưới tiêu.


<b>5.5. Định hướng tổ chức không gian Thành phố:</b>
<i>a) Phân khu chức năng: </i>



Dự kiến đến năm 2020, Thành phố được chia thành 4 khu chức năng, bao gồm:


- Khu vực trung tâm (là khu các phố cũ): là nơi đặt trung tâm chính trị, hành chính, văn hóa
của Tỉnh và Thành phố.


- Khu phát triển mở rộng về phía Bắc: xây dựng một số cơng trình có quy mơ, tính chất Vùng
như: cơng viên văn hóa - du lịch Tức Mạc, làng cổ Tức Mạc, Khu di tích đền Trần, Chùa
Tháp, Khu liên hợp thể dục - thể thao, khu các trường đại học - trung học chuyên nghiệp và
nghiên cứu khoa học, các bệnh viện...


- Khu phát triển mở rộng về phía Tây và Tây Nam: bố trí các khu cơng nghiệp tập trung, kho
bãi, là đầu mối giao thông đường bộ, đường sắt.


- Khu phát triển mở rộng về phía Nam sông Đào: cải tạo, xây dựng các khu dân cư, làng xóm
cũ thành một quần thể làng sinh thái. Trồng hoa, cây cảnh với xây dựng mơ hình làng sinh
thái. Vùng đất phía Tây gần sơng Đào dự phịng để phát triển cơng nghiệp.


<i>b) Định hướng phát triển không gian theo các giai đoạn:</i>


- Giai đoạn I: tập trung phát triển 7 khu đô thị mới đã được phê duyệt và chỉnh trang, cải tạo
các khu đô thị cũ.


- Giai đoạn II: phát triển đô thị về phía Nam sơng Đào.


- Giai đoạn III: tiếp tục mở rộng phát triển đơ thị về phía Nam sơng Đào và phía Tây - Tây
Nam Thành phố.


<i>c) Định hướng phát triển kiến trúc: </i>



- Xây dựng thành phố Nam Định mang đậm bản sắc Vùng Nam đồng bằng sơng Hồng: gìn
giữ các phố cũ, các khu đơ thị mới xây dựng theo kiểu đô thị vườn. Xây dựng các cửa ô vào
Thành phố.


- Xây dựng Thành phố với đặc điểm kiến trúc thể hiện nền văn minh lúa nước, kết hợp các
cơng trình tiêu biểu (điểm nhấn) như Trung tâm thương mại, Bảo tàng tổng hợp...


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

- Giai đoạn I (1 - 2 năm) - Giai đoạn chuẩn bị: tiến hành lập quy hoạch xây dựng, quy hoạch
sử dụng đất và quy hoạch chi tiết các khu chức năng. Thực hiện công tác tổ chức bộ máy
quản lý của Thành phố. Xây dựng các chính sách ưu đãi nhằm thu hút nguồn nhân lực chất
lượng cao, thu hút đầu tư. Phối hợp với các Bộ, ngành đưa các cơng trình có quy mơ Vùng
vào quy hoạch, kế hoạch đầu tư của các ngành.


- Giai đoạn II (3 - 5 năm) - Tạo các tiền đề cơ bản: xây dựng cơ sở vật chất, các cơng trình có
quy mơ Vùng, mạng lưới kết cấu hạ tầng. Thu hút mạnh đầu tư vào các khu công nghiệp trên
địa bàn Thành phố.


- Giai đoạn III (8 - 10 năm) - Giai đoạn phát triển: hồn thiện các cơng trình có quy mơ Vùng;
phát huy hiệu quả các cơng trình trên địa bàn Thành phố.


<i>b) Các chương trình ưu tiên nghiên cứu đầu tư: </i>
- Phát triển kết cấu hạ tầng.


- Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
- Phát triển dịch vụ.


- Phát triển nguồn nhân lực và các lĩnh vực văn hóa - xã hội.
- Phát triển nơng nghiệp - ngư nghiệp.


<i><b>Câu 6: Cảm nghĩ của bạn về truyền thống lịch sử - văn hoá của Nam Định và việc phát</b></i>


<b>huy các giá trị đó để góp phần xây dựng tỉnh Nam Định giầu đẹp, văn minh? </b>


Đây là thành phố lâu đời có lịch sử gần 750 năm. Ngay từ thời Nhà Trần đã xây dựng Nam
Định thành phủ Thiên Trường dọc bờ hữu sơng Hồng, có 7 phường phố. Năm 1262, Trần
Thánh Tông đổi hươngTức Mạc (quê gốc của nhà Trần) thành phủ Thiên Trường, sau đó
phủ được nâng thành lộ. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), nhà Lê gọi là thừa tuyên Thiên
<b>Trường. Năm 1469 dưới thời vua Lê Thánh Tơng, lần đầu tiên có bản đồ Đại Việt, Thiên</b>
Trường được đổi làm thừa tuyên Sơn Nam. Năm 1741, Thiên Trường là một phủ lộ
thuộc Sơn Nam Hạ, bao gồm 4 huyện Nam Chân (Nam Trực), Giao Thủy,Mỹ Lộc, Thượng
Nguyên. Năm 1831, là một phủ thuộc tỉnh Nam Định. Ngày nay là các huyện Giao
Thuỷ, Xuân Trường, Nam Trực, Trực Ninh, Mỹ Lộc đều thuộc tỉnh Nam Định.


Dưới thời Nguyễn, Nam Định là một thành phố lớn cùng Hà Nội và kinh đô Huế. Thời đó
Nam Định cịn có trường thi Hương, thi hội, có cả Văn Miếu như Hà Nội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

mô dân số nội thành so với các thành phố ở miền Bắc chỉ đứng sau Hà Nội và Hải Phòng (đã
hơn 30 vạn dân đạt 17.221 người/ 1 km2 vào năm 2011). Từng có liên hiệp nhà máy dệt lớn
nhất Đơng Dương nên Nam Định cịn được gọi là "Thành phố Dệt". Đây là thành phố có
nhiều tên gọi chính và văn học: Thiên Trường, Vị Hồng, trấn Sơn Nam Hạ, Thành Nam,
Non Côi sông Vị, thành phố Hoa Gạo, thành phố Dệt, thành phố bên sông Đào, Nam Định...
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Dân
chủ Cộng hịa quy định trong Sắc lệnh số 77 ngày 21-12-1945 Nam Định là thành phố đặt
dưới quyền cấp kỳ (Bắc Bộ). Từ 1945 đến 1956 Nam Định là thành phố trực thuộc Trung
ương.


Ngày 3-9-1957 sáp nhập thành phố Nam Định vào tỉnh Nam Định, là tỉnh lỵ tỉnh Nam Định.
Thời kỳ 1965-1975 là tỉnh lỵ tỉnh Nam Hà; 1975-1991, là tỉnh lỵ tỉnh Hà Nam Ninh;
1991-1996, trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Nam Hà. Từ 6-11-1991-1996, là tỉnh lỵ tỉnh Nam Định.


Thật là thiếu xót thay vì mình là người Nam Định sống trong mảnh đất cha ông ta xưa để lại


giàu truyền thống dựng nước và giữ nước. Chúng ta mang trong mình dịng máu “Lạc Hồng”;
từ khi được tìm hiểu lại lịch sử Thiên Trường lịng tơi rất xúc động nghẹn ngào như đang
sống lại như trở lại thời hào khí năm xưa cha ơng ta là các bậc vua chúa, quan tướng, nho sĩ,
các bậc hiền tài hay những thảo dân trung thành với quốc gia Đại Việt. Thiên Trường đã đi
vào lịch sử của dân tộc ta ghi nhận những năm tháng hào hùng những mốc son chói lọi từ
những ngày đầu dựng nước và giữ nước.


</div>

<!--links-->
<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' />

<a href=' /><a href=' /><a href=' />
<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' />

<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' />

×