Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình hình thành đường lối phân tích quan điểm xã hội chủ nghĩa sở hữu chủ yếu là quốc doanh p2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.56 KB, 10 trang )

Số lượng kinh doanh thương nghiệp những năm 1980
cũng ở mức 60 vạn. Năm 1980: 63,7 vạn; năm 1985: 63,7
vạn; năm 1986: 56,8 vạn.
Số người kinh doanh thương nghiệp những năm 1980
cũng ở mức 60 vạn. Năm 1980: 63,7 vạn; năm 1985: 63,7
vạn; năm 1986: 56,8 vạn.
Những số liệu trên cho thÊy søc sèng cđa kinh tÕ c¸ thĨ
rÊt bỊn bỉ, sự hiện diện của thành phần kinh tế này trong suốt
thời gian dài như một tất yếu khách quan, cần phải biết sử
dụng mặt tích cực của nó làm cho dana giàu, nước mạnh.

II. Bước khởi động phát triển kinh tÕ t­
nh©n.

1. B­íc chun biÕn vỊ nhËn thøc thùc tiễn.
Công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất về xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật đạt kết quả không cao. Thêm vào đó những
namư 1977 - 1978 nông nghiệp bị thiên tai nặng, năm 1979
xảy ra chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc, làm cho
bức tranh kinh tế đất nước ngày càng xấu đi.
12


Trước tình hình trên, Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ 6 khoá IV họp tháng 9 - 1979 đưa ra Nghị
quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp bách.
Nghị quyết là bước chuyển biến đầu tiên có ý nghÜa lín
®èi víi viƯc ®­a nỊn kinh tÕ tõng b­íc thoát ra khỏi cơ chế
quản lý kế hoạch hoá tập trung cao độ, mở đường cho những
cải cách kinh tế trong những năm sau này.
2. Kết quả phát triển của khu vực kinh tế tư nhân những


năm đầu thời kỳ ®ỉi míi.
Nhê cã chÝnh s¸ch ®ỉi míi kinh tÕ t­ nhân được thừa
nhận và tạo điều kiện phát triển, đóng góp tích cực vào phát
triển kinh tế của đất nước.
Trong công nghiệp, tư nhân đà đầu tư thêm tiền vốn để
mở rộng các cơ sở hiện có, hoặc xây dựng thêm cơ sở mới.
Năm 1988 khu vực này đầu tư thêm 80 tỷ đồng, thành lập
thêm 17.000 cơ sở, trong đó có 46 xí nghiệp tư nhân; 1.100
cơ sở tiểu thủ công nghiệp và hơn 15.000 hộ cá thể. Năm
1989 số vốn đầu tư tăng thêm 102 tỷ đồng, số xí nghiệp tư
nhân tăng gấp 4 lần so với năm 1988 (từ 318 xí nghiệp tăng

13


lên 1.284 xí nghiệp); hộ tiểu thủ công nghiệp và cá thể từ
31,85 vạn lên 33,33 vạn, tăng 4,6%. Trong hai năm 1990 1991 số vốn tăng thêm mỗi năm khoảng 100 tỷ đồng.
Năm 1989 thành phần kinh tế tư nhân thu hút thêm 39,5
nghìn lao động. Năm 1991 so với năm 1990 tăng thêm 4.000
cơ sở và lao động tăng thêm 10 nghìn người.
Giá trị tổng sản lượng thành phần kinh tế này năm 1989
tăng thêm 34,5% so với năm 1998, trong đó xí nghiệp tư
doanh tăng 51,9%; hộ tiểu thủ công nghiệp và các thể tăng
34, 0%.
Tỷ trọng giá trị sản lượng công nghiệp khu vực tư nhân,
cá thể chiếm trong giá trị tổng sản lượng toàn ngành công
nghiệp tăng khá đều đặn: năm 1986: 15,6%; năm 1987:
25,69%; năm 1998: 19,6%; năm 1989: 27,2%; năm 1990:
26,5%.
Trong thương nghiệp, lao động của thành phần kinh tế tư

nhân phát triển nhanh chóng: Năm 1968: 56,79 vạn người;
năm 1987: 64 vạn người; năm 1988: 71,89 vạn người; năm
1989: 79,3 vạn người; năm 1990: 81,1 vạn người. Ngoài ra

14


còn có lực lượng thương nghiệp không chuyên tham gia hoạt
động, năm 1990 có khoảng 16 vạn nưgời.

III. Phạm vi kinh tế tư nhân

1. Các lĩnh vực kinh tế tư nhân
Việt Nam hiện có các thành phần kinh tế:
- Kinh tế nhà nước
- Kinh tế tập thể
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ
- Kinh tế tư bản tư nhân
- Kinh tế tư bản nhà nước
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ nam Ban chấp hành Trung
ương (khoá IX) về phát triển kinh tế tư nhân, đề cập đến kinh

15


tế tư nhân bao gồm hai thành phần kinh tế là kinh tế cá thể,
tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh
cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Kinh tế tư

nhân tham gia vào tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, công
nghiệp, giao thông vận tải, thương nghiệp và các loại hình
dịch vụ khác.
2. Các loại hình tổ chức kinh doanh của kinh tế tư nhân
Loại hình tổ chức kinh doanh của kinh tế tư nhân rất đa
dạng, phổ biến nhất là hộ cá thể, tiểu chủ; loại hình công ty
hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và và dưới hình thức:
công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần, công ty hợp danh.
Trong khu vực kinh tế tư nhân, hộ kinh doanh cá thể có
số lượng đông đảo, sử dụng nhiều lao động xà hội, huy động
nhiều vốn đầu tư, đóng góp tỷ trọng lớn vào GDP. Hộ kinh
doanh cá thể có tiền đề, là bước tập dượt và tích luỹ cho bước
phát triển cao hơn về hoạt động sản xuất kinh doanh là hình
thức doanh nghiệp tư nhân.

16


Các doanh nghiệp tư nhân đà góp phần sản xuất hàng
hoá có chất lượng cao, tham gia tích cực vào xuất khẩu hàng
hoá, nhất là nông sản hàng hoá, giúp nông dân tiêu thụ một
khối lượng hàng hoá nông sản. Sự hoạt động sôi động của
doanh nghiệp tư nhân đà thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế.
Các chủ tư nhân hầu hết là các doanh nghiệp trưởng
thành trong chế độ mới, nhiều người trong số họ là cán bộ
đảng viên, đà từng tham gia trong các cơ quan, doanh nghiệp
nhà nước và có một số đà trải qua thời kỳ tham gia lực lượng
vũ trang, có nguyện vọng muốn đem tài năng, trí tuệ của

mình vào phát triển kinh tế đất nước, làm giàu cho tổ quèc.

17


Phần II

Những vấn đề của khu vực kinh tế tư
nhân hiện nay

I. Thực trạng kinh tế tư nhân

Trong những năm qua kinh tế tư nhân tăng nhanh về số
lượng, vốn kinh doanh, thu hút lao động, nhất là loại hình
doanh nghiệp, công ty.
Kinh tế tư nhân phát triển rộng khắp trong các ngành
nghề mà pháp luật không cấm. Số cơ sở nhiều nhất mà pháp
luật không cấm. Số cơ sở nhiều nhất là trong lĩnh vực thương
mại, dịch vụ, xâ dựng, tiếp đến là công nghiêp, tiểu thủ công
nghiệp.
Kinh tế tư nhân phát triển rộng rÃi trong cả nước, nhưng
tập trung cao ở các đô thị, những địa phương có nhiều điều
kiện thuận lợi, được chính quyền quan tâm khuyến khích, hỗ
trợ.

18


1. Tình hình tăng trưởng doanh nghiệp
Trong giai đoạn 1996-2000, số lượng đơn vị sản xuất,

kinh doanh hoạt động trong khu vực kinh tế tư nhân tăng lên
đáng kể, số hộ kinh doanh cá thể tăng 6,02%, số doanh
nghiệp tăng 45,61%, nhưng không đều qua các năm (số hộ
kinh doanh cá thể năm 1997 giảm, số doanh nghiệp năm
1998 giảm và tăng mạnh từ năm 2000 khi có Luật doanh
nghiệp).
Trong cơ cấu các hình thức tổ chức kinh doanh của khu
vực kinh tế tư nhân, các hộ cá thể chiếm số lượng rất lớn,
đến cuối năm 2000 có 2.137.731 hộ và 29.548 doanh nghiệp.
Trong các loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân
chiếm số lượng lớn nhất, tiếp đến là công ty trách nhiệm hữu
hạn, sau đó là công ty cổ phần, công ty hợp danh chiếm số
lượng không đáng kể.
1.1. Đối với hộ kinh doanh cá thể
Hộ kinh doanh cá thể có số lượng lớn, phát triển rộng rÃi
nhiều năm nay. Số hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiÖp tõ

19


1.498.611 hộ năm 1992 tăng lên 2.016.259 hộ năm 1996.
Tốc độ tăng bình quân 7,68%/năm, mỗi năm tăng bình quân
129.412 hộ.
Từ năm 1996 đến năm 2000 số lượng hộ kinh doanh cá
thể tăng chậm, đến năm 2000 mới có 2.137.731 hộ, bình
quân tăng 1,47%/năm, mỗi năm tăng 30.300 hộ cá thể phi
nông nghiệp. Hộ nông nghiệp ngoài hợp tác xà năm 2000 có
7.656.165 hộ. Tổng cộng năm 2000 có 9.793.787 hộ kinh
doanh cá thể.
Quy mô của hộ kinh doanh cá thĨ nãi chung rÊt nhá, sư

dơng lao ®éng trong gia đình là chính, trung bình mỗi hộ có
1-2 lao động. Vốn kinh doanh ít. Ngoại lệ, qua khảo sát thực
tế ở các thành phố lớn, có nhiều hộ kinh doanh cá thể thuê
đến hàng chục thậm chí hàng trăm lao động như cơ sở Đức
Phát (cơ sở làm bánh ngọt ở thành phố Hồ Chí Minh) thuê
tới 900 lao động.
1.2. Đối với doanh nghiệp tư nhân
* Đăng ký doanh nghiệp

20


Doanh nghiệp tư nhân thực hiện đăng ký kinh doanh từ
khi có Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân tăng rất
nhanh. Tính chung thời kỳ 1991-2000, số doanh nghiệp đăng
ký kinh doanh tăng bình quân là 96,24%/năm. Từ 132 doanh
nghiệp năm 1991 đến hết năm 1996 có 30.897 doanh nghiệp
đăng ký doanh nghiệp. Các năm 1997-1999 số lượng doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh giảm. Từ năm 2000 đến nay khi
Luật doanh nghiệp được thực hiện, số lượng doanh nghiệp
đăng ký kinh doanh tăng rất nhanh. Sau 2 năm thực hiện
Luật doanh nghiệp đến ngày 31-12-2001 cả nước đà có 35440 doanh nghiệp mới đăng ký hoạt động. Năm 2000 có
14.400 doanh nghiệp mới đăng ký bằng 250% so với năm
1999. Năm 2001 có 21.040 doanh nghiệp mới đăng ký bằng
140% so với năm 2000. Nếu tính từ khi Luật doanh nghiệp
có hiệu lực thi hành đến tháng 4.2002 cả nước đà có trên
41.000 doanh nghiệp mới thành lập. Nh­ vËy c¶ n­íc cã
kho¶ng 97.900 doanh nghiƯp.

21




×