Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Tap san Nang canh uoc mo so 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 62 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>LỜI NGỎ </b>
<b>CÙNG BẠN ĐỌC </b>
Bạn đọc thân mến!


Trên tay bạn đã có Tập san <i><b>“Nâng</b></i>
<i><b>cánh ước mơ”</b></i> số 5 rồi đó. Một năm chỉ
có một dịp để bạn được suy ngẫm và
thả hồn theo con chữ của những tác giả
tài hoa gần gũi nhất bên bạn. Số báo là
nơi hội tụ, kết tinh tài năng, trí tuệ, cơng
sức, nơi gặp gỡ tâm tình ấm cúng của cả
thầy và trị trường THCS Thái Nguyên
qua các thế hệ. Những bông hoa đồng
nội ngày nào giờ đã thêm hương thêm
sắc tự tin khoe mình dưới ánh nắng ban
mai rực rỡ.


Cách đây vừa tròn 4 năm, 20-11-2006
tập san <i><b>“Nâng cánh ước mơ” </b></i>đầu tiên
ra mắt bạn đọc với bao niềm vui, bỡ
ngỡ, mong đợi và cả sự hồi hộp lo âu.
Những trang báo tuy đơn sơ mộc mạc
nhưng lại chính là món q vơ giá thể
hiện lịng tri ân tới các thầy cơ giáo,
những người lái đị đưa thế hệ trẻ cập
bến tương lai. Bốn số báo qua, đã gói
ghém biết bao cảm xúc đẹp đẽ, tinh
khôi, vẹn nguyên ấm áp bao la tình
người. Theo dịng thời gian tờ báo càng
ngày càng lớn hơn cả về nội dung và ý
nghĩa. <i><b>“Nâng cánh ước mơ”</b></i> được lấy


cảm hứng từ ý của câu hát “Ai nâng
<i>cánh ước mơ cho em, là thầy cô không</i>
<i>quản ngày đêm. Ai dạy dỗ chúng em nên</i>
<i>người là thầy cô em ghi nhớ suốt đời…”</i>
đã đi vào tâm hồn bạn đọc mỗi dịp đầu
đơng khi cái nắng hanh hao và gió đầu
mùa se se lạnh.


20-11 năm nay, số báo tròn 5 tuổi, cái
tuổi bước đầu khẳng định được tâm thức
của mình. Cũng giống như một đứa trẻ
mới lớn đang dần thốt ra khỏi vịng tay
mẹ để khẳng định từng bước đi vững


chãi đầu đời, tập san này đang dần
chiếm lĩnh được tình cảm của bạn đọc để
lớn lên mạnh mẽ, “oai phong” hơn.
Cái có được của tập san khơng phải
là những sáng tác lung linh sắc màu rực
rỡ mà chính là cái chất sâu lắng, đằm
thắm u thương của tình thầy trị chân
tình mộc mạc, bình dị bao dung. Với các
thầy cơ, qua trang báo có thể gửi gắm tới
học trị mình biết bao tình thương u vơ
bờ bến. Cịn với các em học sinh, tuy
những bài báo còn non nớt thơ ngây
nhưng ắp đầy tình cảm. Có thể những
bài viết còn vụng về, những câu văn còn
bỏ ngỏ, tứ thơ còn chưa liền vần liền
mạch nhưng chúng ta đón nhận ở đó cái


tình cảm tinh khơi nhất của con trẻ dành
cho thầy cơ, trường lớp, q hương, bè
bạn, người thân của mình. Để rồi lớn lên
5 năm, 10 năm, hoặc 20 năm nữa nhìn
lại bạn cũng như tơi thấy mình ngờ
nghệch đáng yêu biết nhường nào. Nếu
có ước muốn được tìm lại cảm xúc vẹn
nguyên như thế chắc chẳng thể nào
đâu… Sáng tác của các em ngày một
thêm hay thêm ý nghĩa. Đồng nghĩa với
việc đó là sự đầu tư cho trang báo cũng
công phu hơn, chắt lọc hơn, trau chuốt
hơn. Tất cả đang khởi sắc và chuyển
mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

mái trường THCS Thái Nguyên, có
những bài viết của các em đã xa trường,
hướng về trường thân yêu. Thầy cô xin
ghi nhận tất cả tình cảm bao la ấy.
Chúng tôi mong rằng trên bước đường
phía trước cịn nhiều chơng gai vất vả,
các em ln là những cánh chim đầu đàn
giang đôi cánh rộng bay tới mn
phương mang theo những tình cảm tốt
đẹp này của các thầy cô.


Bạn đọc thân mến!


Tấm lòng tri kỉ của bạn đọc với trang
báo thật đáng trân trọng. Chúng ta cùng


chung niềm vui hướng về ngày hội lớn
20-11 và cùng chung sức làm cho cuốn
tập san mỗi năm thêm sự trưởng thành. 5
năm có thể nói là một mốc son đánh dấu
sự lớn lên của trang báo và cũng có thể
mở ra một bước ngoặt mới của sự đột
phá trong tư duy, sáng tạo của các tác
giả cùng những người Biên tập chắp bút
cho cuốn tập san có ý nghĩa hơn. Chúng
tơi mong được sự quan tâm, góp ý của
bạn đọc.


Trong những ngày thi đua lập thành
tích chào mừng ngày Nhà giáo Việt
Nam, chào mừng những ngày lễ lớn của
dân tộc, hoà chung với biết bao các hoạt
động sôi nổi trong nhà trường và đất
nước, hy vọng tập san số 5 <i><b>“Nâng cánh</b></i>
<i><b>ước mơ” </b></i>cũng góp một phần vào phong
trào thi đua ấy.


Và mừng ngày sinh nhật 5 tuổi đáng
nhớ này, Ban Biên Tập xin gửi lời cảm
ơn chân thành nhất tới bạn đọc gần xa.
Mong rằng các bạn luôn là độc giả trung
thành nhất của trang báo.


<b>BAN BIÊN TẬP</b>


<b>TẢN MẠN NHÂN NGÀY NHÀ</b>



<b>GIÁO VIỆT NAM 20.11 </b>





Dân tộc ta vốn có truyền thống <i>Tơn </i>
<i>Sư Trọng Đạo</i>. Truyền thống ấy đã ăn
sâu vào nếp nghĩ, cách sống và cách đối
nhân xử thế của người Việt. Ca dao xưa
còn ghi lại những lời lẽ người ta nhắc
nhau:


<i>“Sang sông phải bắc cầu Kiều</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

hết thế hệ học trò này đến thế hệ học trò
kia. Dù đơng nhưng cả hai nghề này lại
có thêm một tương đồng là vô cùng
thầm lặng, vô cùng tận tuỵ. Tận tuỵ
trong từng bước chân để khách bước
xuống đò, tận tuỵ trong từng nhát chèo
khua trên sông nước. Chỉ cần một chút
lơ là, khách có thể chưa bước lên đị đã
ngã bùm xuống nước. Lỡ tay để đò chao
là tội lỗi một đời nghề. Dìu con đị bình
n qua bến sơng rồi vẫn tận tuỵ để dìu
từng bước chân người bước lên bờ bên
kia cho vô sự. Đắm chuyến đò đi là luỵ
một đời nghề.


Rồi đây nữa, nghề dạy học còn được
ví như một nơng dân cần mẫn, lầm lụi và


chịu đựng:


<i>"Các em mở ra những trang sách ruộng </i>
<i>đồng</i>


<i>Tôi cúi xuống gieo vào hạt chữ</i>
<i>Có giọt mồ hơi và dấu tay mình ấp ủ</i>
<i>Lặng thầm nói với mai sau</i>


<i>Mải miết đôi tay đầy bụi phấn trắng phau</i>
<i>Như nhà nông bốn mùa lấm láp</i>


<i>Viên phấn tự mất đi để đâm chồi sự thật"</i>
<i> </i>Sự ví von này lại cũng có cái lý của
nó mặc dù hai nghề nghiệp này có đặc
điểm hồn tồn khác nhau. Nhưng có
sao đâu, dù nghề gì, muốn tinh cũng cần
sự tận tuỵ, dù có là lao động giản đơn
hay phức tạp cũng phải "<i>nhất nghệ tinh</i>"
mới "<i>nhất thân vinh</i>". Chính cái hết
lịng, cái lặng thầm, cái bụi phấn lấm láp
như bùn đất kia đã khiến nghề nông rất
gần với nghề giáo. Hơn thế nữa, nghề
nông gắn liền với hạt giống, với ươm
mầm, đó chính là cái "<i>hạt chữ</i>" mà
người thầy giáo gieo ngay trên trang
giấy trắng với những nét mực đen, và
gieo cả vào trang vở lòng trắng trinh của
lớp lớp học trị. Có lẽ chính từ mối liên
tưởng gieo mầm, ươm giống, làm nên



những chồi xanh hi vọng ấy mà Hồ Chí
Minh từng khái qt "<i>Vì lợi ích mười </i>
<i>năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm </i>
<i>năm thì phải trồng người</i>" như một chân
lý vĩnh hằng.


Dẫu ở thời đại nào đi chăng nữa, nếu
xét về vật chất thì nghề dạy học ln là
một nghề nghiệp nghèo nhất trong
những nghề cần tri thức. Nhưng đâu
phải như các nghề khác, chỉ cần có tri
thức là đủ, người thầy lại cần có tấm
lịng. Giữ được lịng mình trong sáng,
giữ được Phẩm - Hạnh - Thầy trong cái
xã hội đồng tiền này, chính là thử thách
lớn lao đối với người thầy.


Những năm học gần đây, toàn ngành
giáo dục đang tham gia vào cuộc vận
động "N<i>ói khơng với tiêu cực trong thi </i>
<i>cử và bệnh thành tích trong giáo dục</i>"
thì vai trị người thầy càng phải cơng
bằng, chính trực hơn. Năm học
2010-2011 được Bộ Giáo dục và Đào tạo xác
định là năm học tập trung cho chủ đề:
“Đ<i>ổi mới quản lý, nâng cao chất lượng </i>
<i>và đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã </i>
<i>hội</i>”. Đối với thầy cô giáo và cán bộ
quản lý giáo dục, hưởng ứng cuộc vận


động này chẳng có gì khác hơn là ngẫm
lại đặc điểm nghề mình để lịng mình
trong sáng, tự mình đổi mới phương
pháp dạy học, cải tiến và nâng cao chất
lượng quản lý giáo dục để góp phần vào
sự nghiệp phát triển nền giáo dục.


Người thầy trong công cuộc đổi mới
phải luôn giữ trọn đạo làm thầy để xứng
đáng với sự tôn vinh của xã hội và một
ngày lễ trọng đại nhất trong năm dành
cho mình: ngày 20-11.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>TRANG SÁNG TÁC CỦA THẦY CÔ</b>


<b> </b>


<b> </b>

<b>CƠ HỒ</b>


<i><b> TRUYỆN NGẮN</b></i>


Bà Hoà đặt lá thư xuống bàn,
ngước mắt nhìn lên tờ lịch treo tường, đã
bước sang tháng 11 rồi, trời trở hanh se
lạnh. Bà đọc lại chiếc phong bì


Con Nguyễn Hồng Văn
Quận 10 TPHCM
Kính gửi Cơ ...


Thời gian trơi đi nhanh thật, thấm


thốt đã hơn 20 năm ...


Ngày ấy bà cịn trẻ lắm, cơ giáo đẹp
người đẹp nết say sưa hết mực với nghề,
chồng là bộ đôị ở xa, chưa con cái nên
mọi thời gian cơ dành hết cho trường,
cho lớp. Hồ được đồng nghiệp tin cậy,
với cô mỗi tiết đến lớp là một niềm vui.


Bức thư nào của Văn gửi cho bà
cũng chứa chan tình cảm nó ln nhắc
đến những kỉ niệm khiến bà nhớ lại.


Buổi chiều hôm ấy cô giáo Hoà với
chiếc túi xách trong tay xuống nhà học
sinh kiểm tra “ góc họp tập”. Cơ dự định
sẽ đến nhà Văn, cậu học sinh học khá,
đen, gầy, có đơi mắt biết nói và khn
mặt phảng phất một nỗi buồn khó tả.


- Em chào cơ!


- Ơ! Văn em đi đâu về? Cơ đang
định tìm đến nhà em


- Em đi lấy thuốc cho mẹ em, nhà
em đây, mời cô vào!


Nhà Văn ở gần cuối xóm, tuy nhỏ
nhưng gọn gàng, sạch sẽ và khá ngăn


nắp, trước sân là luống rau ngót lên xanh
mơn mởn, từ trong nhà bước ra chào
Hoà một thiếu phụ gầy gị, xanh xao


- Thưa cơ đây là mẹ em!


- Chào cơ giáo, mời cơ vào nhà, tơi
vẫn cịn sợ gió


Chị vừa nói vừa bám tay vào bậu
cửa ...


Mẹ Văn vốn là một phụ nữ khoẻ
mạnh lam làm, chồng đi công tác xa, chị
hai vai gánh vác việc nhà, việc đoàn thể
vẹn toàn. Chị ngã bệnh từ cái trưa nắng
như đổ lửa, đang mải mê cố gặt cho
xong thửa ruộng duới đồng Vòng thì trời
bỗng nổi mây đen vần vũ, đổ mưa như
thác. Người chị mấy lần bị nước mưa và
cái nóng giữa trời cao tấn cơng cùng cái
đói làm mắt chị hoa lên gục ngã bên
đám lúa xén dở, may mà bà con kịp phát
hiện đưa đi cấp cứu


Vừa gượng dậy được lại một tin sét
đánh đã quật bà quỵ hẳn. Chồng bị tại
nạn giao thông đột ngột qua đời.


- Cháu Văn nhà tôi từ đây phải vừa


học vừa phải thay cả bố lẫn mẹ qn
xuyến việc gia đình cơ ạ.


Chị ngừng kể mệt mỏi dựa mình
vào thành giường hai mắt ầng ậng nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

viên em nhiều hơn. Chị yên tâm dưỡng
bệnh


Tiếng động của chiếc mo cau rơi
xuống sân làm Hoà như sực tỉnh. Bà giở
lá thư đọc tiếp. “ Cô ơi chiếc quần cô
chữa từ quần của chú cho con, con ngại
màu xanh Tô Châu phải đem nhuộm bùn
rồi mới giám mặc đi học, con còn giữu
cẩn thận, chờ khi con của con lớn con
sẽ mặc thử cho nó và kể về lai lịch chiếc
quần như một chuyện cổ tích thời hiện
đại cho nó nghe chắc cháu ngạc nhiên và
cảm động lắm cô nhỉ? Mẹ con giờ khoẻ
rồi, bà đã kể bao nhiêu lần cho vợ con
nghe về cô. Cô ơi con xin báo cho cô
một tin vui: Con vừa được nhận bằng
Thạc sỹ loại ưu. Và quyết định của gia
đình con là tết này sẽ ra Bắc về nhà cô
ăn tết, cô chuẩn bị thật nhiều rượu, thịt
cô nhé. Mẹ con mừng lắm cứ thắc thỏm
với con dâu: “Xa nhau bấy lâu giờ gặp
lại chắc cảm động lắm, mẹ chuẩn bị cái
gì về tặng cô chú để tỏ tấm lòng mẹ


nhưng mà dù nghìn vàng cũng không
xứng với tấm lòng thơm thảo của cơ
giáo Hồ đâu con ạ. Cơ giáo Hồ đã vực
Văn đứng lên, gia đình mình sống lại để
có ngày hơm nay”.


Bà Hồ gấp lá thư, bâng khuâng
nghĩ đến ngày gặp lại.


Thái Nguyên, ngày...tháng 11 năm
2010


<i>Cô giáo Đàm Thị Loan</i>


<b>TI</b>

<b>ẾNG THẦY ĐỌC THƠ</b>
<i>(Tặng thầy Hậu, chủ nhiệm lớp 7A)</i>
Chợt đi qua cửa lớp


Của chi đội 7A
Tôi lặng im đứng lại
Nghe tiếng thầy đọc thơ
Giọng thầy nghe nhẹ nhàng
Lúc thanh cao trầm bổng
Từng ý thơ thầy đọc
Nghe ngọt ngào làm sao
Tơi nhìn trong lớp học
Trị lắng nghe im lặng
Từng nét mặt đăm chiêu
Như muón nói mọi điều
Về bài thơ thầy đọc


“Thầy ơi em muốn học
Môn Văn thầy giảng hay
Chúng em hứa hăng say
Chất lượng cao kì này
Vượt bình quân của huyện”
Tôi nghẹn ngào lưu luyến
Muốn nghe mãi không thôi
Giờ học kết thúc rồi


Xin giờ sau thầy nhé!


<i>Cơ giáo Đồn Thị Hợp</i>


<b> </b>

<b>Cơ-trị đồng nghiệp</b>



Ba hai năm ở trong nghề


Năm nay dạy phải 7B chán chường
Trong lớp nhiều trò ẩm ương


Vào lớp “đánh vật” biết nhường ai đây?
Trò cũ nay đã làm thầy


Thấy cô vất vả em rày nên thương
“Cô ơi em đã tỏ tường


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Mà trong tâm thức thương cô thực lịng
“Em ơi cơ vẫn hằng mang


“Lái đị chở khách” qua sơng st đời


Đến nay cơ nở nụ cười


“Khách qua sơng” vẫn nhớ người đị
xưa”


Dù có vất vả sớm trưa


Cơ-trị đồng nghiệp thật vừa lịng nhau
Cô giáo Trần Thị Thu


<b> </b>

<b>“LÀM DÂU” Ở TRƯỜNG</b>


Bao năm lo việc cơng đồn


Mỗi lần đến dịp nhà trường liên hoan
Kể từ những việc cỏn con


Nào mắm, nào muối, rau thơm góp phần
Trong lòng vẫn cứ phân vân


Sao cho đồng nghiệp quây quần vui
chung


Đơi khi cũng thấy phật lịng


“Làm dâu” trăm họ vừa lòng hết đâu ?
Mặc dù đã bạc mái đầu


Vẫn lo công việc kém đâu mọi người
Đến nay sắp nghỉ hưu rồi



Nhường cho lớp trẻ cứ ngồi nghỉ ngơi
Cơm bưng nước rót tới nơi


Trong lịng thật thấy thảnh thơi yêu đời
Đêm đêm cứ ngủ ngon thôi


Không phải lo nghĩ như hồi trước đây.
<i>Cô giáo Trần Thị Thu</i>


<b>Thầy</b>



Một mùa thu như bao mùa thu trước
Nắng bừng lên trong mắt biếc học trò
Phấn trắng, bảng đen, nét mực thầy vẫ
đỏ


Sao con tìm mà chẳng thấy ngày xưa…
Thời gian qua mùa thu nay có khác


Bao chuyến đị qua chốn ấy sơng sâu
Nghĩa thầy cơ một đời không trả hết
Dẫu đời con qua biết mấy nhịp cầu.
Trang giáo án bao năm thầy vẫn mở
Mà tập bài thầy đã chấm khác xưa
Chúng con đi, biết khi nào về lại
Có bao giờ tìm được thủa thơ ngây…
Mùa thu qua, bụi thời gian rơi rắc
Nên tóc thầy một sáng bỗng bạc thêm
Trời xanh vẫ bình n ngồi cửa lớp
Chữ nghĩa tình mn thủa chẳng ngi


qn.


<i>Cô giáo Nguyễn Thị Quy</i>


TÌNH CƠ GIÁO



<i>Tặng học trị của cơ Chuốt </i>
“Cơ mong rằng em mãi là trị ngoan
Trong sáng vơ tư hồn nhiên mơ mộng.
Giữ cho tâm hồn luôn tươi trẻ,


Mãi sáng trong cái tuổi học trị”
“ Em tin rằng cơ cũng rất u em


Tình em nguyện dành cho cơ mãi mãi …
Nếu chia hai ,em xin làm trọn vẹn


Tình Mẹ -Cô, em hứa sẽ đong đầy”
Khi bến sông quê chưa có “ Cầu Kiều”,
Cơ vững lái con đị trong đêm tối
Ánh sao khuya sẽ soi đường chỉ lối
Giúp học trò vươn tới những tầm cao.
Thật tự hào hạnh phúc biết bao,


Cơ đã đưa bao trị đến bến


Lớp cũ lên đường, lớp sau lại đến


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>Cơ giáo Nguyễn Thị Chuốt</i>



<b>NĨI VỚI ANH</b>


Anh là rừng cây, cho em hạ cánh
Mỗi khi mỏi mệt đường đời
Anh là bờ bãi đắp bồi
Cho em xanh tươi cây lá
Anh là than khô củi nỏ


Đốm lửa em nhen đượm nồng.


Em là bé nhỏ nhọc nhằn
Miệt mài nỗi lo cơm áo


Cũng đã có lần khát khao bến lạ
Cũng đã có đêm mơ chẳng về anh
Nhưng vì sự ngọt bát canh


Vì lo cơm dẻo, em đành lại thôi
Vậy xin anh ở giữa đời


Cũng đừng trái gió trở trời nắng xiên
Mà em rã cánh bay nghiêng


Đất trời chao đảo, bình n chẳng cịn
Dịng sơng n, nổi sóng cồn


Làm cơn thác lũ dập dồn cuốn trôi
Cả ngàn cây, cả bãi bồi


Cả em-anh, cả cái thời có nhau


Đế mà cịn lại nỗi đau


Cho người hàng xóm nên câu chuyện
cười.




Đừng nghe anh !!! Với người ngoài...
Xinh tươi thiên hạ, của rơi khó cầm


<i>Cơ giáo Nguyễn Thị Hồng Anh (st)</i>


Anh


Anh con ngời đáng yêu
Hay vô cùng đáng sợ
Anh con ngời nhẫn tâm
Hay là ngời nhân từ
Anh tất cả trong em
Hay khơng là gì cả


Anh là ai trong hai con ngời ấy?
Anh đã đến để đời em biến động
Nỗi buồn vui chợt đến, chợt đi
Bao kì vọng rồi vỡ ồ trong mộng
Em gục đầu đi vào ảo mộng


Có bao giờ anh thơng hết em đâu?
Buồn da diết in sâu trong khoá mắt
Và bao đêm khổ tủi một mình



Em bàng hồng trớc cuộc đời trơi nổi
Mới chợt hiểu


Anh trong em m·i m·i.


<i> </i>

Nguyễn Thị Ninh



<b>Chia tay với trờng Thái Học</b>


Gn bú với trờng đợc thế thơi,
Chữ tình bỗng chốc bẻ làm đôi.
Gần nơi trờng mới, xa trờng cũ,
Thân một nơi hồn gửi đôi nơi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>



<b>LỜI CỦA THẦY</b>



Rồi các em một ngày sẽ lớn
Sẽ bay xa đến tận cùng trời
Có bao giờ nhớ lại các em ơi


Mái trường xưa một thời em đã sống
Nơi đã đưa em lên tầm cao ước vọng
Vị ngọt đầu đời bóng mát ca dao
Thủa học về cái nắng xơn xao


Lịng thơm ngun như mùi mực mới
Dẫu biết rằng những tháng ngày sắp tới


Thầy trị mình cũng có lúc chia xa
Sao lòng thầy canh cánh nỗi thiết tha
Muốn gởi các em thêm đôi điều nhắn
nhủ


Một lời khuyên biết thế nào cho đủ
Các em mang theo mỗi bước hành trình
Các em lúc nào cũng nhớ đừng quên:


Sống cho xứng với lương tâm phẩm
giá...


Rồi các em mỗi người đi mỗi ngã


Chim tung trời bay bỗng cánh thanh niên
Ở nơi đâu: rừng sâu, biên giới khắp ba
miền


Ở nơi đâu có thầy ln thương nhớ


Khi thầy về nghỉ hưu


Cây phượng già treo mùa hạ trên cao
Nơi bục giảng giọng thầy sao chợt thấp:
"Các con ráng… năm nay hè cuối


cấp…"


Chút nghẹn ngào… bụi phấn vỡ lao xao.



Ngày hôm qua hay tự tháng năm nào
Con nao nức bước vào trường trung học
Thương cây lúa hóa thân từ hạt thóc
Thầy ươm mùa vàng, đất vọng đồng
dao.


Mai thầy về, sân trường cũ nằm đau?
Hay nỗi nhớ lấp vùi theo cát bụi?
Dẫu cay đắng, dẫu trăm nghìn đau tủi
Nhọc nhằn nào thầy gửi lại ngày sau?


Mai thầy về, mùa gọi nắng lên cao
Vai áo bạc như màu trang vở cũ
Con muốn gọi sao lòng đau nghẹn ứ
Đã bao lần con ngỗ nghịch thầy ơi!
<i>Cô giáo Đào Thị Hồng Tuyên</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>Không đề</b>



Cầm bút lên định viết một bài thơ
Chợt nhớ ra nay là ngày nhà giáo
Chợt xấu hổ cho những lần cao ngạo
Thì ra con cũng giống bấy nhiêu người.
Cầm bút lên điều đầu tiên con nghĩ
Đâu là cha, là mẹ, là thầy…


Chỉ là những cảm xúc vu vơ, tầm
thường, nhỏ nhặt…


Biết bao giờ con lớn được,


Thầy ơi !


Con viết về thầy, lại “phấn trắng”,”bảng
đen”


Lại “kính mến”, lại “hy sinh thầm
lặng”…


Những con chữ đều đều xếp thẳng
Sao lại quặn lên những giả dối đến gai
người .


Đã rất chiều bến xe vắng quạnh hiu
Chuyến xe cuối cùng bắt đầu lăn bánh
Cửa sổ xe ù ù gió mạnh


Con đường trơi về phía chẳng là nhà…
Mơ màng nghe tiếng cũ ê a


Thầy gần lại thành bóng hình rất thực
Có những điều vô cùng giản dị


Sao mãi giờ con mới nhận ra.


<i>Ngô Võn Anh (st)</i>


<b>TM S VI HC TRề</b>


Học trò cần lắm


những lêi phª




<b> </b>Giờ đây tôi đã một thầy giáo dạy
văn, ngẫm lại tôi mới thấy lời phê của
ngời thầy có một ma lực rất lớn. Lời
phê của thầy trong bài kiểm tra
khơng chỉ đơn thuần có tác dụng chỉ
ra những cái đợc cần phát huy, cái yếu
kém cần khắc phục mà hơn thế nữa
lời phê của thầy cịn có tác dụng động
viên khích lệ học trò nỗ lực phấn đấu
tu dỡng đạo đức và trí tuệ.


Tơi cịn nhớ trong một bài báo
đăng trên <i>văn học và tuổi trẻ</i> nói về
lời phê của thầy giáo dạy toán ở lớp
chuyên văn, để động viên các em cần
quan tâm chăm chỉ học toán nh học
văn thầy đã phê rằng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Ngời ta thờng nói "văn học là nhân
học", chuyện văn học cũng là chuyện
cuộc đời, có hiểu đời mới hiểu văn và
ngợc lại hiểu văn sẽ giúp cho ta hiểu
đời hơn. Vậy là thầy giáo dạy văn trớc
hết phải cho các em thấy đợc mục
đích ý nghĩa và sự bổ ích của việc học
văn.


Học theo cách ngời đi trớc, qua
hơn chín năm lăn lộn trong nghề, tôi


đã cố gắng cần mẫn, tỉ mỉ, cẩn trọng
trong việc chấm và phê bài cho học
sinh. Tơi cịn nhớ vài trờng hợp lời
phê của tôi đã để lại ấn tợng với học
trò mà sau khi ra trờng các em vẫn nói
lại với tơi. Đó là trờng hợp một em
học sinh tên Nguyễn Đức Tài, một
học sinh học yếu, ý thức cũng tồi
th-ờng hay quậy phá lớp. Trong một bài
kiểm tra, tơi có phê cho em mấy câu:


<i>"Tài, em lẫm lỗi đã nhiều</i>
<i>Thầy mong em nh nhng iu thy</i>


<i>khuyên</i>


<i>Học hành khuya sớm cần chuyên</i>
<i>Quyết không thẹn với biệt tên Thế</i>


<i>Tài."</i>


Lại có một em viết bài văn miêu
tả lồi cây em yêu. Mở bài em giới
thiệu cây em yêu quý nhất là cây cau.
Nhng đến phần thân bài em lại viết về
cây dừa. Có nhiều câu em dùng từ rất
ngộ mà trong từ điển khơng có: "Tán
cây xèo ra", "Vì bị em lay gốc nên từ
đang xanh tốt hôm sau trông cây đã
phờ phạc, lử đử". Tôi không nhịn đợc


cời khi chấm bài của em. Cái cời mà
chỉ có những thầy dạy văn mới đợc
học sinh tặng cho. Tôi bèn phê cho
em mấy câu:


<i>"Thầy cha đợc thấy bao giờ</i>
<i>Cau kia lại hố ra dừa đợc sao?</i>


<i>Bµi nµy em tính thế nào</i>
<i>Điểm thấp chẳng nỡ điểm cao sao</i>


<i>nh</i>


<i>Em vỊ viÕt l¹i cho nhanh."</i>


Đến năm nay, tôi lại bắt gặp hai
trờng học sinh lớp 9 mà viết chữ vẫn
không ra hồn. Tôi giận và cũng buồn
đau lắm. Nhng cịng vÉn ph¶i nhẫn


tâm khuyên nhủ các em bằng lời phê
nhẹ nhàng:


<i>"Văn hay chữ cũng phải hay</i>
<i>Văn đâu cha thấy chữ này rất nguy</i>


<i>Em ơi rèn chữ tức thì</i>


<i>Bi ny em tính điểm gì- thầy cho?"</i>
Dạy văn, học văn, chấm văn


có biết bao niềm vui, nỗi buồn. Đó là
chuyện mn thuở. Tơi lại chợt nhớ
đến những câu thơ của giáo s Lờ Trớ
Vin:


<i>"Lạ gì cái chuyện văn chơng</i>
<i>Một câu một chữ khôn lờng chiều sâu</i>


<i>Dạy văn lấy cảm làm đầu"</i>


Ngày nhà giáo Việt Nam đang đến
gần, lịng tơi lại rạo rực một niềm hân
hoan khôn tả. Tôi thầm gửi đến các
thế hệ nhà giáo lời biết ơn sâu nặng.
Kính chúc các thầy cơ ln ln dồi
dào sức khoẻ, hạnh phúc. Tôi hi vọng
và tin tởng rằng với sự tận tâm, tận lực
của các thầy cô trong Hội đồng giáo
dục nhà trờng và sự nỗ lực phấn đấu
của các học trò thân yêu, năm học
này, chất lợng giáo dục của trờng
THCS Thái Nguyên sẽ đạt nhiều
thành tích cao, từng bớc góp phần làm
cho sự nghiệp giáo dục của xã nhà
ngày một khởi sắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>TÁC GIẢ VĂN HỌC </b>


<b> TRONG NHÀ TRƯỜNG</b>



Nhà văn Tơ Hồi: một


đời viết khơng ngừng


nghỉ



<b>Mùa xn này nhà văn Tơ Hồi bước </b>
<b>sang tuổi 91, vợ ông, bà Nguyễn Thị </b>
<b>Cúc cũng đã ở tuổi 85. Gần 70 năm </b>
<b>gắn bó đời vợ chồng từ lúc cuộc sống </b>
<b>cịn nhiều vất vả cho đến lúc tóc bạc, </b>
<b>răng long, với người phụ nữ Hà thành</b>
<b>đài các thưở xưa, chồng bà, nhà văn </b>
<b>Tơ Hồi vẫn là người say đi, say viết.</b>


Bây giờ dù mắt Tơ Hồi đã khơng cịn
tinh tường, muốn xem tin tức phải có
người đọc báo giúp, chân tay ông làm
mọi việc đều khó khăn, nhưng tết này
vẫn viết được hai bài báo. Trước đây
ông chỉ viết trong một ngày, nhưng giờ
đây để có hai bài báo chưa đầy 3000 chữ
ơng phải viết nó trong cả tháng. Nhưng
ông ấy hoan hỉ lắm, bà Cúc kể.


Người phụ nữ đài các Nguyễn Thị Cúc
thưở xưa giờ vẫn đẹp. Bà kể rằng, khi
nhìn thấy Tơ Hồi lần đầu tiên trong dịp
ơng về nhà cùng với anh trai mình, bà đã
nhận thấy sự khác thường của người
thanh niên ấy. Nhìn đơi dép cao su mòn
vẹt làm bà tin ngay lời anh trai kể, ông


ấy đã đi bộ nhiều năm từ nhà lên trường
ở phố Hàng Than để học. “Anh ấy chỉ
mặc một bộ đồ cũ kỹ duy nhất ấy trong
nhiều lần đến nhà tôi”. Và cô gái lãng
mạn thích thơ và hay đọc truyện ấy hiểu
rằng, người đàn ơng này có chí, nhất
định sẽ làm nên sự nghiệp.


Ngày quen nhau Tô Hồi đã có <i>Dế </i>
<i>mèn phiêu lưu ký</i>, bà Cúc kể. Nhưng
ngày đó văn chương của ơng chưa nổi
tiếng như thời sau này. Tuy nhiên có
một điều bà Tơ Hồi lấy làm ngạc nhiên
là từ ngày gặp nhau cho đến cả những
ngày tháng nằm trên giường bệnh, ông
chưa bao giờ ngừng viết. Bà luôn thấy
ông viết khi tác phẩm được hân hoan
chào đón, cả khi nhà xuất bản trả lại bản
in, cả khi dư luận lên tiếng. Mỗi ngày
ông đều cầm bút và tập bản thảo của ông
cứ dày theo thời gian. Ngay cả khi
những trận bút chiến nảy lửa về tác
phẩm của mình diễn ra ở trên khắp mặt
báo, Tơ Hồi cũng vẫn lẳng lặng ngồi
vào bàn và tiếp tục viết. Đối với Tô Hoài
viết là việc cần phải làm mỗi ngày, cho
dù ông không nhớ tất cả các tác phẩm và
những câu chuyện mình đã kể.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

thưở hàn vi của ơng mà bà khơng bao


giờ qn đó là Vũ Ngọc Phan. Bà Cúc
bảo: “cách mà ông ấy giúp cho chồng tơi
một cái cần câu thay vì cho một con cá
là cách ông Phan giúp cho Tô Hồi ln
vững một niềm tin để viết”. Chính vì thế
cho đến bây giờ những người con của
ông Phan như Vũ Tun Hồng, Giáng
Hương đều coi gia đình Tơ Hồi như
những người thân, bà Cúc kể.


Tơ Hồi tính tình lành lắm. Sự lành
hiền mà theo bà Cúc thường mang theo
đi của vợ con ông nhiều cơ hội tốt. Bà
Cúc kể, cái nhà ở Đồn Nhữ Hải ơng có
được bây giờ là nhờ bạn, nhà ở Nghĩa
Đô cũng do một người giúp đỡ tận tình
mà có. Cứ như ơng ấy thì khơng khéo
chẳng có nhà để ở.


Cũng vì sự liêm khiết và ln làm
những điều mà mình cho là đúng nên cái
thời người ta đi nước ngồi cịn là cả
niềm mơ ước, có thể làm giàu sau mỗi
chuyến đi thì q ông “Dế mèn” mang
về cho vợ chỉ là một xâu ớt cay. Món
q giá trị nhất bà Tơ Hoài nhận được từ
chồng mà bà vẫn giữ đến giờ là một
chiếc áo dài ông mua tặng bà sau một
chuyến đi Lào. Tất nhiên bà không giận
ông về những điều đó, bởi bà hiểu khơng


có ai hồn hảo, và cuộc đời bà được ông
bù đắp bằng những niềm tin mạnh mẽ
hơn.


Tô Hồi đã đi khơng biết bao nước,
đến hầu khắp tất cả các vùng ở Việt
Nam. Ơng ln coi những chuyến đi là
tiền đề cho việc viết. Ông cho rằng,
Cervantes có được Đơn - ki – hơ – tê là
nhờ làm nghề đi thu thuế khắp đất nước,
Cao Hành Kiện có Linh Sơn cũng nhờ


những chuyến vể thăm vùng phía Bắc
Trung Hoa. Vì thế, cứ rảnh ơng lại lên
đường. Chính vì quan niệm đó, sau mỗi
chuyến đi Tơ Hồi đều có sản phẩm.
Chuyến lên Tây Bắc 8 tháng năm 1992
ơng có Tập truyện Tây Bắc, Ba người
khác cũng là sản phẩm sau ba năm làm
đội phó phụ trách tòa án thời cải cách
ruộng đất ở Hải Dương, Thanh Hóa,
Thái Bình.


"Dế mèn phiêu lưu ký" của Tơ Hồi đã
làm sinh động tâm hồn bao nhiêu thế hệ
trẻ thơ của Việt Nam. Ông viết được tác
phẩm ấy cũng là do đã từng "chơi dế rất
khiếp" khi cịn nhỏ, ở ven sơng Tơ Lịch.
Ơng viết được vì ơng hiểu lồi dế. Tác
phẩm nổi tiếng ấy của ông giờ đã được


dịch ra 25 nước và ông vẫn nhận tiền tái
bản của NXB Kim Đồng hàng năm,
chừng 4 - 5 triệu. Những ngày này, khi
chúng tôi đến thăm, ông đương viết tác
phẩm cho thiếu nhi: "Hoa râm bụt - hoa
hồng bụt". Ơng nói, râm bụt là tả lá,
"rậm rạp" - theo cách giải thích của cụ
Nguyễn Lân, cịn người Nghĩa Đơ gọi
lồi cây này theo hoa, là cây hồng bụt.
Ơng nói, Cụ Hồ q lồi hoa này lắm, vì
q Cụ có rất nhiều. Cụ Hồ cho trồng
nhiều râm bụt quanh nơi ở, "vì thèm nhớ
q hương". Về cuối đời, Tơ Hồi nói
ơng học Tolstoy, lại trở về viết cho trẻ
em, viết cho tâm hồn còn trắng như tờ
giấy của chúng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

tích tuyệt vời nhất mà chính Tơ Hồi
u mến và muốn kể lại cho trẻ em
nghe. Ơng nói, ơng đã viết chúng bằng
thứ ngôn ngữ đẹp như thơ. Về Tấm
Cám, ông bỏ đi chi tiết Tấm ướp mắm
Cám; về Mỵ Châu - Trọng Thủy, ông
lược đi chi tiết vua Thục chém con gái
khi giặc đuổi đến gần mà cả hai cha con
đều nhảy xuống biển quyên sinh... Ông
muốn viết lại những câu chuyện cổ tích
theo cách của Tơ Hồi - người một đời
cầm bút.



Giờ đây, ông sống với vợ chồng người
con gái làm bác sĩ ở Nghĩa Đơ. Ơng
cùng lúc mắc nhiều triệu chứng của bệnh
tiểu đường, bệnh gút nên ở cùng con gái
để tiện việc chăm sóc. Việc cầm bút của
ơng đã khó khăn rất nhiều do tay ông bị
run, nhưng những lúc tinh thần minh
mẫn là Tơ Hồi ấy lại cầm lấy bút. Cuối
năm2009 nhà văn phải nhập viện mấy
lần, may thay thời gian này ông đã đi lại
được chứ không phải ngồi xe lăn. Nhưng
trong căn phịng làm việc cửa đóng kín
cả ngày vẫn bề bộn giấy tờ trên bàn viết.
<i>Cô giáo Phạm Thị Thắm (st) </i>


<b>TÁC GIẢ NGUYỄN DU</b>


<b>1- Gia đình và tuổi thơ</b>


Nguyễn Du sinh ngày 3-1-1765 tại quê
mẹ, làng Kim Thiều, xã Hương Mặc,
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.


Quê mẹ: Làng Kim Thiều có tên chữ là
Hoa Thiều, tên Nơm là làng Mấc, thuộc
xã Ơng Mặc, trấn Kinh Bắc. Quê ngoại
nổi tiếng về hai phương diện:


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

-Làng Kim Điền, Bắc Ninh nổi danh có
nhiều thiếu nữ đẹp. Nhiều bộ phả của


các dịng họ làng Hoa Thiều và tồn xã
Ơng Mặc có nói về gái vùng này thường
được kén chọn vào cung vua làm phi,
thiếp.


Mẹ của Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần
(1740 - 1778), con gái quan Câu kê họ
Trần ở làng Hoa Thiền huyện Đông
Ngạn xứ Kinh Bắc (nay là tỉnh Bắc
Ninh), vợ thứ ba của tể tướng Nguyễn
Nghiễm, nhỏ hơn chồng 32 tuổi, thuộc
hệ thứ 11 theo bản phả họ Trần ở Hoa
Thiều và bản phả của họ Nguyễn ở Tiên
Điền. Tể tướng Nguyễn Nghiễm có vợ
cả, vợ hai là hai chị em ruột họ Đặng:
Đặng Thị Dương và Đặng Thị Thuyết.
Nguyễn Nghiễm có tất cả 8 vợ và 21
người con. Tể tướng Nguyễn Nghiễm
kết duyên với Trần Thị Tần sinh được 4
trai, 1 gái, theo thứ tự: Nguyễn Trụ,
Nguyễn Nễ, Nguyễn Thị Diên, Nguyễn
Du và Nguyễn Ức.


Quê cha: Cha của Nguyễn Du là Nguyễn
Nghiễm (1708 - 1775), quê làng Tiên
Điền, huyện Nghi Xuân, Phủ Đức
Quang, trấn Nghệ An (nay là tỉnh Hà
Tĩnh).


Theo gia phả họ Nguyễn và sách Nghệ


An ký của Hồng Giáp Bùi Dương Lịch
(1757-1828) thì thời gian trước thế kỷ
XVI, Tiên Điền là một bãi đất cát bồi
của sơng Cả (cịn gọi là sơng Lam),
hoang sơ, cư dân thưa thớt, quanh năm
nước mặn dâng ngập bờ. Giữa thế kỷ
XVI, ông tổ họ Nguyễn là Quận công
Nguyễn Thuyên cùng người cháu là
Nam Dương Quận công đến dựng


nghiệp và tu bổ vùng này rồi đổi thành
U Điền. Sang thế kỷ XVII, U Điền đổi
tên là Tân Điền, Phú Điền, rồi Tiên
Điền. Theo sử sách ghi chép, Tiên Điền
được mệnh danh là nơi giang sơn tụ khí
và khơng biết từ bao giờ người dân xứ
Nghệ có câu “Ló (lúa) Xuân Viên, quan
Tiên Điền, tiền Hội Thống”. Tiên Điền
từng được Nhà Lê ban tên xã Trung
Nghĩa vì đã có cơng bảo vệ kinh thành
Thăng Long. Theo thời gian, nơi đây nổi
danh với Đền thờ Hội Quận công, Đền
thờ Uy Quận công, Đền thờ Trinh Dũng
hầu, Đàn tế Lĩnh Nam công, Đền thờ
Tiên Lĩnh hầu, Đền thờ Xuân Nhạc
công, Đền thờ Lam Khê hầu, Đền thờ
Điền Nhạc hầu, Đền thờ Hà Chân đài,
Mộ tổ họ Nguyễn, Mộ Xuân Nhạc quận
công, mộ Tán Quận công, Mộ Tiên Lĩnh
hầu, Mộ Nguyễn Du... Cụm di tích và


khu lưu niệm Nguyễn Du bao gồm khu
lưu niệm Nguyễn Du, đền thờ Nguyễn
Huệ (Anh cả của Nguyễn Nghiễm, bác
ruột Nguyễn Du), mộ và đền thờ


Nguyễn Nghiễm (thân phụ Nguyễn Du),
nhà thờ Nguyễn Trọng (chú ruột Nguyễn
Du) và khu mộ Nguyễn Du.


Từ Tiên Điền nhìn qua Xuân Mỹ, thấy
núi Hồng Lĩnh đứng sừng sững mé
Tây-Nam. Vì thế nên Nguyễn Du đã lấy biệt
hiệu “Nam hải điếu đồ”, “Hồng Sơn lạp
hộ”; và câu đối truyền tụng đời này qua
đời khác ở Tiên Điền:


Hồng Sơn chi ngoại uất giai khí, Vị
Thủy chi kim thành đại giang.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Cha của Nguyễn Du đậu Nhị Giáp Tiến
Sĩ, làm quan tới chức Đại Tư Đồ, tể
Tướng (thủ tướng) dưới triều đại Lê
Hiển Tông (1740-1786).. Con trai
trưởng của Nguyễn Nghiễm là Nguyễn
Khản đỗ Tam giáp tiến sĩ, làm tới chức
Tham Tụng đời chúa Trịnh Khải. Con
thứ hai là Nguyễn Điều đậu Hương
Cống, trấn thủ tỉnh Sơn Tây, được
phong tước Điền Nhạc hầu. Con thứ ba
là Nguyễn Dao đậu tứ trường thi Hương,


chức Hồng lô Tự thừa. Con thứ tư là
Nguyễn Luyện đậu tam trường thi
Hương. Con thứ năm là Nguyễn Trước
và con thứ sáu là Nguyễn Nễ đều đậu tứ
trường thi Hương và Nguyễn Du là con
thứ bẩy, nên được gọi là cậu Chiêu Bảy.
Gia đình Nguyễn Du một gia đình khoa
bảng, cha con cùng làm quan dưới triều
Nhà Lê.


Dịng họ Nguyễn Du khơng những nổi
tiếng về khoa bảng mà còn nổi danh
trong lĩnh vực văn chương. Nguyễn
Nghiễm còn để lại những tập Quân
Trung liên vịnh, Xuân đình tạp vịnh, và
quyển Việt sử bị lâm cung cùng nhiều
tác phẩm chữ Nôm, từng làm bài phú
Khổng tử mộng Chu cơng, nay cịn
truyền tụng. Nguyễn Nễ cịn để lại Q
hiên giáp ất tập và Hồ trình hậu tập
cũng sở trường về văn Nôm. Cháu
Nguyễn Du là Nguyễn Thiện có tập thơ
Đơng phú và Nguyễn Đạm có tập thơ
Quan hải, tập thơ Minh quyên đều là
những văn hào đương thời. Danh sĩ
trong nước thời bấy giờ theo truyền tụng
có năm người lỗi lạc, được người Việt
cũng như người Tầu gọi là “An Nam
ngũ tuyệt” thì họ Nguyễn Tiên Điền có



đến hai người là Nguyễn Du và Nguyễn
Đạm.


Dòng họ này cịn được người đời kính
trọng về lịng trung nghĩa. Tổ tiên thuở
xưa theo Nhà Mạc thì nhiều người tuẫn
tiết khi Nhà Mạc mất ngôi. Thời Lê, sau
khi Nhà Lê sụp đổ, mấy anh em Nguyễn
Khản, Nguyễn Điêu, Nguyễn Luyện,
Nguyễn Du cho đến cháu là Nguyễn
Đạm đều khởi nghĩa cần vương. Từ
Triều đại Tây Sơn sang tới thời Nhà
Nguyễn nhiều người trong họ không
chịu ra làm quan, kiên trinh giữ tiết với
chúa cũ theo đúng phương châm "Tôi
trung không thờ hai chúa".


Câu ca dao: <i>“Bao giờ ngàn Hống hết </i>
<i>cây, Sông Lam hết nước họ này hết </i>
<i>quan” </i>


là chỉ cái danh giá, chức quyền của làng
Tiên Điền, của dòng họ Nguyễn Du là
vậy.


Năm 1771, lúc Nguyễn Du 5 tuổi thì
gia đình chuyển về làng Tiên Điền và
năm lên 10 thì cha mất. Khơng hiểu vì
q thương nhớ cha sinh bệnh rồi chết
hay vì một căn bệnh nào đó, mẹ cậu


cũng qua đời vào năm 1778, lúc mới 38
tuổi. Bị mồ côi cha mẹ, cậu phải ra
Thăng Long ở chung với người anh cả
cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản.
Nguyễn Khản bị kiêu binh ghét nên khi
ông được chúa Trịnh cử làm Tham tụng
thì họ kéo đến phá tan nhà và toan giết
ông. Nguyễn Khản bỏ chạy lên sống với
Nguyễn Điều, tổng trấn Sơn Tây; sau đó
lại chạy về Hà Tĩnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Khi Nguyễn Du 9 tuổi thì đất nước rơi
vào cuộc nội chiến Nam-Bắc giữa họ
Trịnh và Nhà Nguyễn tái phát. Cha của
Nguyễn Du được lệnh của Trịnh Kiểm,
phụ tá Hoàng Ngũ Phúc đem quân vào
chiếm Phú Xuân năm 1777. Trong thời
gian này Nguyễn Du sống và học hành
tại Kinh đô Thăng Long. Dù phải sống
trong hoàn cảnh rối loạn do đám kiêu
binh gây ra, nhưng Nguyễn Du đã thành
công trong việc học hành.


Năm 1783, Nguyễn Du đi thi Hương tại
trường thi Nghệ An và đậu Tam Trường.
Để quí độc giả hiểu rõ hơn, chúng tơi
xin nói một chút về chế độ thi cử thời
xưa:


-Đậu Nhất trường: khơng có học vị,


giống như đậu Trung học Đệ I cấp, lớp
Đệ Tứ thời Việt Nam Cộng Hòa; lớp 9
Trung học Phổ thông ngày nay.


-Đậu Nhị Trường: đậu Tú Tài I, lớp đệ
nhị thời VNCH; lớp 11 ngày nay.


-Đậu Tam Trường: đậu Tú Tài II, lớp đệ
nhất thời VNCH; lớp 12 ngày nay.
-Đậu Tứ Trường: đậu Cử Nhân.


Nguyễn Du lập gia đình, có 3 vợ và 18
con. Sau khi Nguyễn Du chết, gia đình
ly tán.


<b>3- Trên đường cơng danh </b>


Nguyễn Du không tiếp tục học và thi cử
nhân, mà theo chí hướng của người trai
thời chinh chiến nhận chức quan Thủ
Hiệu (Lãnh Binh) ở tỉnh Thái Nguyên,


thay cho người cha ni mới qua đời. Từ
đó, ơng có tự là Tố Như, hiệu Thanh
Hiên (có tài liệu nói Trai Hiên), biệt hiệu
Hồng Sơn lạp hộ


Ngược dịng thời gian, trước khi Nguyễn
Du sinh ra thì Nhà Lê đã mất quyền
hành. Họ Trịnh thao túng chính trường.


Xã hội rối loạn là nguyên nhân đưa đến
các cuộc khởi nghĩa tranh dành quyền
lực. Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu
Cầu và Nguyễn Danh Phương chưa tan,
thì Hồng Cơng Chất nổi lên từ năm
1739 cướp phá ở miền Hưng Hoá và
Thanh Hoá. Lê Duy Mật nổi lên từ năm
1738 đóng giữ miền Trấn Ninh, thường
xuống đánh phá đất Nghệ Tĩnh. Các
cuộc khởi nghĩa mới dẹp yên thì năm
1774, lại nổ ra cuộc đánh dẹp chúa
Nguyễn ở miền Nam. Cha của Nguyễn
Du phải ra chiến trường cùng đi với
Việp Công, giữ chức Hiệp tán Quân cơ.
Trong khi quân Bắc đương chiếm cứ
Thuận Hoá để cầm cự với quân Tây Sơn
thì Thăng Long lại xảy ra nạn Kiêu binh.
Năm 1882, loạn qn giết Hồng Đình
Bảo, phá nhà quan Tham tụng Nguyễn
Khản là anh cả của Nguyễn Du và nhà
quan Quyền phủ sự Dương Phương, giết
quan Thủ hiệu Nguyễn Triêm ngay trước
phủ chúa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Phạm Thế Ngũ thì Nguyễn Du khơng
theo kịp theo vua Chiêu Thống, nên trở
về ở Thái Bình, cùng người anh vợ là
Đồn Ngun Tuấn tụ tập dân binh mưu
cuộc khởi nghĩa, nhưng bị dẹp tan. Khi
ấy vua Quang Trung đã lên ngôi nắm


vững quyền hành ở miền Bắc; nhưng ở
miền Nam lại bị thua to, đất Gia Định bị
mất về tay Nguyễn Ánh.


Nguyễn Du bị thất bại ở Quỳnh Côi mới
nẩy sinh ý nghĩ vào Thanh Nghệ Tĩnh,
toan tìm đường vào Nam mượn sức chúa
Nguyễn chống Tây Sơn. Ơng đi tới Vinh
thì bị chận bắt và ở tù một thời gian.
May nhờ quan Trấn thủ Nghệ An của
Tây Sơn là người quen biết với Nguyễn
Nễ, người anh ruột cùng mẹ với ông.
Nguyễn Nễ đã ra hợp tác với nhà Tây
Sơn, được thăng Hàm Đông Các Đại học
sĩ, gia tăng Thái sử Thự tả Nghị lang,
tước Nghi Thành Hầu; nên Nguyễn Du
được thả. Đây là thời điểm khiến cho
một số tác giả cho rằng Nguyễn Du viết
truyện Kiều vào lúc đó, khi ơng trịn 30
tuổi. Nhận định này dựa vào truyện Kiều
có câu: “Trải qua một cuộc bể dâu”.
Bể dâu xuất phát từ câu “thương hải tang
điền” (bãi bể (biển), nương dâu), theo
nghĩa đen thì truyện thần tiên có nói về
sự tuần hồn trong vũ trụ cứ 30 năm
biển bồi đất thành ruộng dâu và 30 năm
ruộng dâu bị lở thành bể. Nghĩa bóng thì
cuộc đời của con người ln thay đổi
(theo chu kỳ 30 năm).



Sau khi được thả, Nguyễn Du trở về
làng sống trong thiếu thốn và chán nản,
tiêu khiển bằng ngắm núi nhìn sơng, săn
bắn khắp vùng Hồng Lĩnh, nên mới có


biệt hiệu là "Hồng Sơn Lạp Hộ". Nhiều
lần ông phải ăn ở nhờ nhà người khác,
có lúc ốm khơng có thuốc uống. Tập thơ
chữ Hán Thanh Hiên thi tập (Thanh
Hiên là hiệu của Nguyễn Du) được
Nguyễn Du viết chủ yếu trong những
năm tháng nàỵ.


<b>4- Làm quan dưới triều Nguyễn</b>


Năm 1802, Nguyễn Ánh toàn thắng Nhà
Tây Sơn, thống nhất đất nước, lên ngôi
lấy tước hiệu là Gia Long xuống chiếu
chiêu dụng các cựu thần Nhà Lê.
Nguyễn Du lúc đó 38 tuổi cũng nằm
trong danh sách được mời gọi. Bất đắc
dĩ ông phải ra làm Tri huyện Phù Dực
(nay thuộc tỉnh Thái Bình) tước Du Đức
Hầu; ít lâu sau được thăng lên chức Tri
phủ Thường Tín (tỉnh Hà Đơng). Năm
1806 ông cáo bệnh về nhà, được một
tháng lại bị mời ra thăng chức Đông Các
Đại Học Sĩ (ngang hàng với Tam Khôi,
tiến sĩ trong khi ông chưa đậu cử nhân),
năm 1809 làm cai bạ tỉnh Quảng Bình


(phó tỉnh trưởng coi về thuế má) và năm
1813 được thăng Cần Chính Điện Đại
Học Sĩ (Văn quan Nhất phẩm: chức cao
nhất trong hàng quan văn), được cử làm
chính sứ đi Trung Hoa. Sau khi đi sứ về
ông được được thăng Lễ Bộ Hữu Tham
Tri vào năm 1815.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

trọng dụng, nhưng Nguyễn Du khơng
mấy vui lịng nhận bổng lộc của triều
đình mới.


Sách Đại Nam Chính biên Liệt truyện
chép rằng ông làm quan hay bị người
trên đè nén, khơng được thoả chí, cho
nên thường buồn rầu. Sự kiện này xẩy ra
có thể vì đám quần thần miền Trung
ghen tị với Nguyễn Du, một cựu quan
chức đời Lê, người miền Bắc mà lại
được trọng vọng. Đối với vua mỗi khi
yết kiến ông làm ra vẻ sợ sệt, khơng biết
nói năng gì. Có lần vua đã trách rằng:
“Triều đình dùng người, cứ kẻ hiền tài là
dùng, chứ không phân biệt Nam Bắc.
Ngươi với Ngô Vị, đã được ơn tri ngộ
làm quan đến bực Á Khanh, biết việc gì
thì phải nói để hết chức trách của mình,
sao lại cứ rụt rè sợ hãi, chỉ vâng vâng dạ
dạ cho qua chuyện thôi!”.



Thực ra, nếu dựa vào sự trung thành của
dịng họ Nguyễn thì người ta phải hiểu
là Nguyễn Du khơng phải buồn phiền vì
quan trên đè nén, không phải là người sợ
hãi rụt rè. Ông là người dẫu làm quan
cho Nhà Nguyễn; nhưng tâm hồn lúc
nào cũng nhớ Triều Lê. Cái nỗi lịng sâu
kín này ơng khơng thể cơng khai bày tỏ
cùng ai, nên thường buồn rầu, bực tức;
thậm chí có khi ơng e sợ rằng đời sau
cũng chưa chắc có người hiểu thấu được
lịng mình:


<i>Bất tri tam bách dư niên hậu, </i>
<i>Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.</i>
<i>Xuân Diệu dịch ra lục bát </i>


<i>“Ba trăm năm nữa mơ màng </i>


<i>Biết ai thiên hạ khóc chàng Tố Như”.</i>
Tháng hai năm Quý Dậu (1813),
Nguyễn Du nhận lệnh vua làm Chánh
sứ, dẫn đầu phái đoàn gồm Đàm Ân Hầu
(tham sự bộ Lại) và Phong Đăng Hầu
(tham sự bộ Lễ), đi triều cống Trung
Hoa. Ngày 6/4 năm Quý Dậu, Chánh sứ
Nguyễn Du chính thức bước qua ải Nam
Quan, bắt đầu hành trình đến Bắc Kinh.
Những ngày tháng đua tài với các sứ
thần Hàn, Nhật... chắc họ Nguyễn đã tỏ


rõ được cái sở học uyên bác của mình.
Trong thời gian đi sứ, Nguyễn Du đã
được tận mắt chứng kiến nhiều nỗi oan
trái và cuộc sống khổ ải của dân nghèo,
sau này đã được tập hợp lại trong tập thơ
mang tên Bắc hành Tạp lục (131 bài).
Cũng trong thời gian này Nguyễn Du đã
có dịp tìm hiểu sâu nền văn hoá Trung
Quốc. Với vốn sống đa dạng và tài năng
kiệt xuất của mình, sau khi về nước, ơng
đã hồn thành tác phẩm Truyện Kiều,
lấy cảm hứng từ tập truyên của tác giả
Trung Quốc Thanh Tâm Tài Nhân.
Truyện Kiều sau đó đã vượt lên trên
nguyên tác, trở thành một kiệt tác thơ
trong lịch sử văn chương Việt Nam.
Tháng Tư năm Giáp Tuất (1814),


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Năm 1820, sau khi vua Gia Long chết,
Minh Mạng lên ngôi, cử ông đi sứ lần
nữa, nhưng lần này chưa kịp đi thì ông
đột ngột qua đời ngày mồng 10 tháng 8
âm lịch tức ngày 16-9-1820 trong một
cơn đại dịch, khi mới 56 tuổi.


Theo Đại Nam liệt truyện: "Nguyễn Du
là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề
ngoài tỏ vẻ giữ gìn, cung kính, mỗi lần
vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như
khơng biết nói năng gì...", và "Đến khi


đau nặng, ơng khơng chịu uống thuốc,
bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã
lạnh cả rồi. Ơng nói "được" rồi mất;
khơng trối lại điều gì."


<i>Cô giáo Bùi Thị Chiều (st)</i>


<b>CHÀO MỪNG THỦ ĐÔ </b>


<b> NGÀN NĂM VĂN HIẾN</b>

<b> Ngàn năm Thăng Long - </b>


<b>Hà Nội qua những cái tên </b>


<b> Thăng Long, với chữ “Thăng” ở bộ </b>
<b>Nhật, được ghi trong Đại Việt sử ký, </b>
<b>không chỉ là “Rồng bay lên”, mà cịn </b>
<b>có nghĩa “Rồng (bay) trong ánh Mặt </b>
<b>trời lên cao”. Đây là một tên gọi hoàn </b>
<b>toàn do người Việt sáng tạo.</b>


Thăng Long - Hà Nội là Kinh đô lâu
đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh


đất địa linh nhân kiệt này từ trước khi
trở thành Kinh đô của nước Đại Việt
dưới triều Lý (1010) đã là đất đặt cơ sở
trấn trị của quan lại thời kỳ nhà Tùy
(581-618), Đường (618-907) của phong
kiến phương Bắc. Từ khi hình thành cho
đến nay, Thăng Long - Hà Nội có nhiều
tên gọi.



<b>1. Long Đỗ.</b> - Truyền thuyết kể rằng lúc
Cao Biền nhà Đường, vào năm 866 đắp
Thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự
xưng là Thần Long Đỗ. Do đó trong sử
sách thường gọi Thăng Long là đất Long
Đỗ. Thí dụ vào năm Quang Thái thứ 10
(1397) đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý
Ly có ý định cướp ngơi nhà Trần nên
muốn dời Kinh đơ về đất An Tơn, Phủ
Thanh Hóa. Khu mật chủ sự Nguyễn
Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói:
“Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời Kinh
đơ đều gặp điều chẳng lành. Nay đất
Long Đỗ có Núi Tản Viên, có Sơng Lơ
Nhị (tức Sơng Hồng ngày nay), núi cao
sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi”. Điều
đó cho thấy Long Đỗ đã từng là tên gọi
đất Hà Nội thời cổ.


<b>2. Tống Bình.</b> - Tống Bình là tên trị sở
của bọn đơ hộ phương Bắc thời Tùy
(581 - 618), Đường (618 - 907). Trước
đây, trị sở của chúng là ở vùng Long
Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tùy
chúng mới chuyển đến Tống Bình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó,
thành này được gọi là Thành Đại La.
Trong Chiếu dời đô của Vua Lý Thái Tổ


viết năm 1010 có viết: “... Huống chi
Thành Đại La, đô cũ của Cao Vương
(tức Cao Biền) ở giữa khu vực trời
đất...”


<b>4. Thăng Long.</b> - Về ý nghĩa tên gọi
Thăng Long, chúng ta vẫn thường giải
thích rằng: Thăng là bay lên, Thăng
Long tức là rồng bay. Thực ra, ở trong
Hán tự có nhiều cách viết và giải thích
chữ “thăng”. Với cách viết thứ nhất, chữ
“thăng” có nghĩa là “đi lên cao, tiến
lên”, bên cạnh nghĩa đầu tiên của nó là
cái thưng, một dụng cụ đo lường dung
tích (từ văn học: “đẩu thăng: đấu


thưng”). Cách viết thứ hai: có chữ Nhật
đặt lên trên chữ Thăng mang ý nghĩa là
Mặt trời lên cao và cũng có nghĩa là “đi
lên cao”, như chữ “Thăng” ở cách viết
thứ nhất. Thăng Long, Kinh đô mới của
Lý Công Uẩn được ghi trong Đại Việt sử
ký, với chữ “Thăng” ở bộ Nhật, và do đó
bao hàm hai nghĩa: “Rồng bay lên”, và
“Rồng (bay) trong ánh Mặt trời lên cao”.
Đặt tên Thăng Long với cách viết như
trên, vừa ghi lại sự kiện Vua Lý Thái Tổ
thấy rồng xuất hiện trên đất được chọn
làm Kinh đô mới, đồng thời có sức
mạnh kỳ diệu và tốt lành của giống


Rồng, rất gần gũi với dân Việt, vẫn tự
cho mình là “con Rồng cháu Tiên”.
Có điều đáng chú ý là các từ điển thông
dụng Trung Quốc như Từ nguyên, Từ
hải (Từ nguyên xuất bản 1947, Từ hải
xuất bản 1967, chưa rõ những kỳ xuất
bản sau có khác khơng), khơng thấy ghi
từ Thăng Long ở cả 2 dạng viết chữ
Thăng. Riêng Trung văn đại từ điển (tập
5, Đài Bắc 1967, trang 208), ở chữ


“Thăng” là “Thưng” dạng viết thứ nhất
nói trên, có từ kép “Thăng Long” nhưng
là danh từ chung và được giảng là “rồng
bay lên”. Như vậy, có thể thấy tên gọi
Thăng Long với cách viết ghi trên sử cũ
là một địa danh hoàn tồn do người Việt
sáng tạo.


<b>5. Đơng Đơ. </b>- Sách Đại Việt sử ký toàn
thư cho biết: “Mùa Hạ tháng 4 năm Đinh
Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán


Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ
đô hộ là Đông Đô” . Trong bộ Khâm
định Việt sử thông giám cương mục, sứ
thần nhà Nguyễn chú thích: “Đơng Đơ
tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa
là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô”



<b>6. Đông Quan.</b> - Đây là tên gọi Thăng
Long do quan quân nhà Minh đặt ra với
hàm nghĩa kỳ thị Kinh đơ của nước ta,
chỉ được ví là “cửa quan phía Đơng” của
Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ
cho biết năm 1408, quân Minh đánh bại
cha con Hồ Q Ly đóng đơ ở Thành
Đơng Đơ, đổi tên thành Đơng Quan.
Sách Đại Việt sử ký tồn thư chép:
“Tháng 12 năm Mậu Tý (1408) Giản
Định Đế bảo các quân “Hãy thừa thế chẻ
tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch
như sét đánh không kịp bưng tai, tiến
đánh Thành Đơng Quan thì chắc phá
được chúng”


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

cho nên gọi Thành Thăng Long là Đông
Kinh”


<b>8. Bắc Thành.</b> - Đời Tây Sơn (Nguyễn
Huệ - Quang Trung 1787 - 1802), vì
Kinh đơ đóng ở Phú Xn (tức Huế) nên
gọi Thăng Long là Bắc Thành


<b>9. Thăng Long.</b> - (Thịnh vượng lên).
Sách Lịch sử Thủ đô Hà Nội cho biết:
“Năm 1802, Gia Long quyết định đóng
đơ ở tại nơi cũ là Phú Xuân (tức Huế),
không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn
Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi


Kinh thành Thăng Long làm trấn thành
miền Bắc. Kinh thành đã chuyển làm
trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần
phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã
có từ lâu đời, quen dùng trong dân gian
cả nước, nên Gia Long thấy không tiện
bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long,
nhưng đổi chữ “Long” là Rồng thành
chữ “Long” là thịnh vượng, lấy cớ rằng
rồng là tượng trưng cho nhà Vua, nay
Vua khơng ở đây thì khơng được dùng
chữ “Long” là “rồng”


Việc thay đổi nói trên xảy ra năm
1805, sau đó Vua Gia Long cịn hạ lệnh
phá bỏ Hồng thành cũ, vì Vua khơng
đóng đơ ở Thăng Long, mà Hồng thành
Thăng Long lại rộng lớn quá.


<b>10. Hà Nội</b> - So với tên gọi Thăng Long
với ý nghĩa chủ yếu có tính cách lịch sử
thì tên gọi Hà Nội có tính cách địa lý,
với nghĩa “bên trong sông”.


<i>Cô giáo Vũ Thị Phương (st)</i>


<b>TRANG VIẾT HỌC TRÒ</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

thức để tự tin bước vào đời. Con lại tự
bảo mình phải cố lên…



Đã bao lần đi ngang qua ngôi trường
THCS Thái Nguyên, con lại thấy sống
trong tim mình bao nhiêu là kỉ niệm của
một thời tuổi thơ. Kí ức đẹp đẽ và vui
tươi ln thường trực trong tâm trí con,
đơi lần chợt ùa về làm con xao xuyến.
Xa trường đã lâu nhưng con chưa một
lần về thăm lại ngôi trường, thăm các
thầy cô giáo, một thời mà con đã gắn bó.
Thời gian khơng ngừng trơi, con cũng bị
cuốn vào trong lịng thời gian đó. Việc
học khơng ngừng nghỉ, khiến con khơng
có thời gian để thực hiện mong muốn
một lần về thăm trường. Con thấy mình
có lỗi. Nhưng con tự nhủ với lịng mình
dù có đi đâu thì cũng ln hướng về
trường, vẫn hằng ngày dõi theo sự


chuyển mình của ngơi trường với những
đổi thay tích cực hơn.


Nhớ về trường con lại thấy hiện ra
trước mắt con những hình ảnh, những kỉ
niệm thân thương mà con đã có được
cùng với các thầy cơ và bạn bè, con
khơng thể nào qn. Và có lẽ nó vẫn cịn
vẹn ngun như mới hơm qua chứ
khơng phải là ba năm nữa. Bởi lẽ con
yêu trường, yêu thầy cơ và bè bạn của


mình rất nhiều…Khoảng thời gian con
thấy hạnh phúc nhất và nhớ lâu nhất có
lẽ là năm học cuối cấp. Vì đó là những
ngày tháng cuối con được học ở trường,
là thời điểm đánh dấu một sự chuyển
biến: con phải xa trường. Những kỉ niệm
về năm cuối cấp còn in sâu đậm trong
tâm hồn con. Con sẽ nhớ mãi cô giáo
Hiệu trưởng Đàm Thị Loan rất nghiêm
nghị nhưng cởi mở và tâm lý, hiểu học
trò sâu sắc. Có lẽ dáng vẻ bề ngồi khiến
các bạn hơi sợ cơ nhưng là Hiệu trưởng


thì cơ phải cương nghị như thế mới trị
được lũ học trò “Nhất quỷ nhì ma”.
Người để lại trong con nhiều ấn tượng
nhất là cô Lê Thị Mát, cô chủ nhiệm lớp
9B của con. Cơ có nhiều điều khiến cho
con khâm phục và thấy mình phải noi
theo cơ. Có lẽ là giáo viên chủ nhiệm
nên tình u thương , chăm sóc của cơ
dành cho lớp 9B là đặc biệt nhất. Mỗi
giờ giảng trên lớp, cô truyền giảng hết
kiến thức cho chúng con, cô giảng bài tỉ
mỉ những chỗ chúng con chưa hiểu, dạy
chúng con nhiều điều hay lẽ phải. Cô
dạy chúng con phải biết cố gắng học
hành để sau này có một tương lai tốt đẹp
và hơn hết là đóng góp một chút sức lực
xây dựng đất nước quê hương. Cô không


bao giờ tạo áp lực về việc học hành cho
chúng con mà cô luôn đem đén những
tiếng cười sảng khi, vui vẻ trong giờ
học. Vì thế mà chúng con tiếp thu bài
cũng nhanh hơn, nhẹ nhàng hơn. Nhận
được sự quan tâm như thế chúng con tự
bảo nhau phải học tập thật tốt để cơ vui
lịng.


Con khơng thể nào quên những giờ
Ngữ văn mượt mà đằm thắm cùng giọng
đọc ngọt ngào của cô giáo Bùi Thị
Chiều. Qua các bài giảng của cô, con
thấy thêm yêu quê hương đất nước, tâm
hồn như được bồi đắp thêm khiến chúng
con nhận ra rằng: “sóng là để yêu


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

thể nào quên…Mỗi thầy cô là một tấm
gương học tập để chúng con soi xét bản
thân mình. Con cũng biết mình cịn
nhiều thiếu sót nhưng khi nhớ về những
lời chỉ bảo dặn dị của các thầy cơ con
lại thấy mình có thêm sức mạnh để phấn
đấu, để thực hiện được những ước mơ
của bản thân. Có lẽ, dù con có nói bao
điều đi nữa thì cũng khơng kể hết những
ân tình những cơng lao mà thầy cô dành
cho con.


Thời gian ấy đã lùi vào kí ức nhưng


những bài học mà các thầy cơ đã dạy
cho con thì suốt đời con cũng chẳng thể
nào quên được. Con bước vào đời bằng
hành trang mà mình đã có được và con
tin con sẽ làm được những gì mà con
muốn. Bởi con biết phía sau con đường
mình đang bước có các thầy cơ đang cổ
vũ động viên con vững bước.


Con gửi vào đây tất cả lịng thành
kính, sự biết ơn sâu sắc đối với các thầy
cô. Nhân ngày hôi Hiến chương các Nhà
giáo Việt Nam 20-11, con xin thay mặt
cho các thành viên cũ lớp 9B (khoá học
2007-2008) chúc các thầy cơ trong
trường mạnh khoẻ, có nhiều niềm vui
trong cuộc sống và gặt hái được nhiều
thành công trong sự nghiệp trồng người.
Học trò cũ
<i>Vũ Thị Hoa-9B, niên khố 2007-2008</i>


<b>GỬI</b>


<i>(Bùi Hồng Ngun-9B)</i>


Cơn gió nào trở lại
Ơ cửa lớp mở ra
Lời thầy cô vọng mãi
Nâng ước mơ bay xa
Giọt nắng nào đi qua


Con đường ta tới lớp
Ngẩn ngơ con chim hót
Vịm lá xanh dịu dàng
Cơn mưa nào lang thang
Ướt sân trường xưa cũ
Hương ngọc lan nhắn nhủ
Hàng ghế đá thầm thì
Về lại những màu thi
Tiếng ve nào xanh thẳm
Bâng khuâng làn mây trắng
Dòng nước mắt xa vời
Tháng năm nào trong tơi
Cịn vẹn ngun kí ức
Cịn lấm lem dấu mực
Tà áo trắng sân trường
Biết bao là thân thương
Gửi lại đây cho nắng
Gửi cho gió cho mưa
Giứ dùm ta một nửa.


<b>AO TRƯỜNG</b>


<i>(Bùi Hồng Ngun-9B)</i>
Sóng khơng xơ dài bờ cỏ


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Nơi đây in bóng bao người
Thuỷ chung dãi dầu mưa gió
Đợi chờ người chốn xa xơi
Tuổi thơ ao là vành nơi
Vẫy vùng của bao lớp người
Để khơng chìm giữa biển đời


Ai bảo ao trường nhỏ bé.


<b>CÔ LÀ TẤT CẢ</b>



<i>(Nguyễn Thị Thuỳ Linh-9B)</i>
Cô là tất cả


Cô là mẹ em
Cho em tri thức
Vững bước vào đời
Cô là mẹ hiền
Cô dạy cho em
Điều hay lẽ phải
Tiến tới tương lai
Cô người trồng cây
Ươm mầm cây lớn
Cô ươm đời em
Thành cây hoa thơm
Cô là đôi cánh


Cho em bay xa
Cô là bài ca
Dạy em biết hát
Cơ là gió mát
Để em ngủ ngon
Cơ ươm mầm non
Sao thật khôn lớn
Cô là trăng rằm
Cô là cô Tấm
Cô là vì sao



Sáng chiếu đời em
Cơ vì chúng em
rải bao vất vả
Cô là tất cả
Tất cả của em.


<b>NHỚ</b>



<i>(Nguyễn Thị Thuỳ Linh-9B)</i>


Hàng phượng vĩ đang rộn rã tiếng ve
Như náo nức say sưa báo hè về
Sân trường đỏ nắng, lòng rạo rực
Nhớ lại mùa thu ôn bài thao thức


Gốc phượng đây, ghi kỷ niệm khó qn
Mỗi chúng em cất đơi cánh bay lên
Nhưng mãi nhớ trường xưa lớp học cũ
Nhớ tháng ngày vui vẻ sống bên nhau
Nhớ những điều mà cô đã dạy bảo
Để chúng em vững đơi cánh vào đời.


<b>CƠ GIÁO CỦA EM</b>


<i>(Đàm Thanh Nam-9B)</i>
Cô giáo của em


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Ngọn cỏ ngậm sương
Mặt trời trở giấc
Cô giáo của em


Bước vào cửa lớp
Gió lùa hoa mướp
Vờn chú ong non
Cơ giáo của em
Cất cao giọng hát
Mây thành gió mát
Lồng lộng trong em.
Cô giáo của em
Lung linh cánh mỏng
Như bà tiên mây
Dỗ giấc em ngoan.


<b>VÔ ĐỀ</b>


<i>(Đàm Văn Hướng-9B)</i>
Nắng sân trường gọi hồn ai lơ lửng
Dưới hàng cây to nhỏ chuyện ngây thơ
Bước chân đi trên đường đời chập chững
Phút chốc nhìn lá rụng mất mộng mơ
Một chiếc lá chưa vàng nằm cạnh gốc
Phải lìa cành vì gió chẳng mến thương
Nhắc lên tay mà lịng buồn muốn khóc
Mai xa rồi những lưu luyến còn vương.
Xa bạn bè vẫn còn duyên gặp gỡ


Kỉ niệm nhồ biết tìm lại nơi đâu
Dịng sơng kia có khi nào ngừng chảy
Nó xa nguồn đẩy dạt bèo trơi mau.


<b>TRƯỜNG XƯA</b>




<i>(Vũ Thị Thu Hồ-9B)</i>


Bụi dứa gai vẫn nép mình trước cổng
Dãy ao trường cá vẫn quẫy tung tăng
Tán bàng xưa vẫn xồe ơ đội nắng
Biết bao tuổi thơ lớn với trường làng.
Chính ở nơi này ngày xưa ta học


Những chiếc bàn vẫn hòn gạch kê chân
Tấm bảng đen treo tường bằng dây thép
Và nhìn thầy cơ năm tháng tảo tần
Chính ở nơi này ngày xưa ta học
Nhiều cây đã thành cổ thụ lưu niên
Dẫu năm tháng nhiều gió xơ bão đổ
Màu lá xanh vẫn cịn sắc dịu hiền
Phịng thí nghiệm mở nhìn được bốn
phía


Mỗi khung trời xanh một ước mơ riêng
Viên phấn viết vẫn trắng như ngày ấy
Đến hôm nay vẫn khơng phai mờ được.
Chính ở nơi này ngày xưa ta học


Ngôi trường làng bây giờ đã đổi tên
Bao cơng sức tạc thành nhiều kỉ niệm
Sóng đơi cùng thầy giáo - phụ huynh.
Ai đã từng về thăm lại trường xưa
Chiều thu nay còn đẹp nắng sân trường
Bao kỉ niệm dẫn ta về quá khứ



Thưở khăn quang còn đỏ thắm trên vai.


<b>TÌNH CƠ</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Một người cơ hết lịng vì trị nhỏ
Dành nhiệt huyết về sự nghiệp trồng
người.


Cơ cho em cả bầu trời tri thức
Nâng đỡ em trên bước đường xa


Những lời giảng vẫn ngân nga tha thiết
Âu yếm em tựa lòng mẹ bao la.


Để rồi khi mai phải xa cách cơ
Em khơng qn tình cơ như lịng mẹ
Cô khơi dậy cả những tâm hồn nhỏ
Vun đắp lên cho sự nghiệp đưa đị.


<b>LỜI CƠ</b>



<i>(Nguyễn Văn Bảo-9B)</i>
Tuổi thơ chở đầy cổ tích


Dịng sơng lời cơ ngọt ngào
Đứa em đi cùng đất nước


Chòng chành nhịp võng ca dao.
Em gặp trong lời cơ hát



Cánh cị bằng dải đồng xanh
Em u màu đỏ hoa phượng
Em yêu màu trắng da trời
Em yêu những lời cô hát
Cho em khôn lớn từng ngày
Cô ơi trong lời cơ hát


Có cả cuộc đời hiện ra
Lời cơ chắp em đơi cánh
Lớn rồi em sẽ bay xa
Thời gian hồ vào mái tóc
Một màu trắng bạc nơn nao
Lời cơ cứ chậm dần xuống
Cho lời em mãi bay xa.


<b>THƯ GỬI CÔ GIÁO CŨ</b>


<i>(Bùi Thị Thuỷ-9B)</i>


Chắc cơ cịn nhớ em chứ thưa cơ
Em vẫn bên cơ-người học trị cũ
Bao năm đi xa lòng thầm tự nhủ
Rồi một ngày em sẽ trở về thăm


Dòng thời gian chảy theo những tháng
năm


Hai mươi năm qua em chẳng trở lại
Nhưng vẫn tin và mong ước mãi
Được gặp cô-người mẹ hiền dấu yêu
Nhớ những năm xưa sớm sớm chiều


chiều


Những ngày giá rét, trời mưa hay nắng
Cặp sách thân quen cô lên lớp thầm lặng
Mang bao tri thức ấp ủ vạn mầm cây
Con chữ xếp dày trên từng trang vở
Dịng mực tím vẫn cịn ở nơi đây
Ơi! Nét bút học trị u biết mấy.
Dẫu đi xa em hằng mong chốn ấy
Có bạn bè vui đùa tựa hơm nao


Kỉ niệm ơi đừng phai nhồ trang giấy
Cho em bé nhỏ bên cô như hôm nào.


<b>THẦY GIÁO NGỒI SOẠN BÀI</b>


<i>(Bùi Thị Thuỷ-9B)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

Như thì thầm to nhỏ


“Thầy soạn bài trong đêm”
Sương rơi ướt bên thềm
Thầy vẫn ngồi ở đó
Vì lớp học trị nhỏ
Vì ngày mai sáng thêm.


<b>SAO SÁNG NHẤT</b>



<i>(Đàm Thị Khánh Vân-9B)</i>
Bầu trời của chúng ta



Có bao vì sao sáng
Nhưng sáng nhất gọi là
Ngơi sao thầy cơ giáo
Thầy giúp em nghị lực
Để đạt được ước mơ
Thầy dạy em học toán
Phép cộng, trừ, nhân, chia
Một ngày kia đi xa


Em mãi nhớ về thầy
Ơi bai này khó q
Mong thầy trở về đây.
Cịn người mẹ thứ hai
Chính là cơ giáo đó
Cơ dạy em học bài
Biết đọc rồi biết viết
Năm nay phải xa trường
Em viết mấy vần thơ
Bày tỏ niềm yêu thương
Tới bao thầy cơ giáo
Mong cơ sẽ trẻ mãi
Dìu dắt bao thế hệ
Tiến bước tới tương lai
Trở thành vì sao sáng.


<b>HÀNH TRANG VÀO ĐỜI</b>



<i>(Đàm Thị Khánh Vân-9B)</i>
Cô là con thuyền nhỏ



Đưa học trị sang sơng
Cơ đưa đến ước mơ
Cùng với nghị lực sống
Cô dạy em miệt mài
Học điều hay lẽ phải
Để bước qua con đường
Đầy gian nan vất vả
Cô giúp em tìm hiểu
Về những điều chưa biết
Cơ ân cần dạy bảo


Để em đạt điểm cao
Ngồi buồn sao em khóc
Tại vì nhớ đến cô


Bao công lao dạy dỗ
Mà cô đã dành cho.


<b>CÔ ƠI</b>


<i>(Nguyễn Thị Linh-9B)</i>
Rời mái trường thân yêu


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Cô về đâu chẳng biết
Vẫn mang lời tha thiết
Từ giọng cô dịu hiền
Thời gian bước triền miên
Cô chưa lần quay lại
Chúng em nhớ cô mãi
Mong thấy cô trở về
Lúc xưa cô vỗ về



Nay chúng em khôn lớn
Ngày xa trường gần đến
Bao giờ gặp lại cô.


<b>VIẾT CHO NGƯỜI </b>



<b> SẮP XA TRƯỜNG</b>





Muốn khắc tên lên bàn học cũ
Chỗ ngồi quen thuộc mỗi ban mai
Và khung cửa trắng cành hoa sữa
Giữ lại cho nhau chút mộng dài
Hãy bước êm qua bờ cỏ mượt
Chân run như thuở mới vào trường
Tóc xõa che hờ con mắt ướt


Ngậm ngùi em giấu những yêu thương


Hãy gửi tình trên ơ ngói đỏ


Rêu xanh phong kín nỗi lẻ loi buồn
Có nhớ gì khơng em gái nhỏ


Khi mùa thu lộng gió mưa sương
Hãy viết cho đầy trang vở học
Những tên bè bạn rất hồn nhiên


Em sẽ thương thêm đời áo trắng
Ngày qua mang những ước mơ hiền
Hãy giữ cho đầy tim kỉ niệm


Của ngôi trường cũ sắp rời xa
Em sẽ thương thêm màu mực tím


Với qng đời thơm gió thật thà


Hãy dừng lại dưới hàng bạch đàn
Cho hồn xanh một chút mơ thôi
Lỡ mai đời có nhiều dơng bão
Em cũng cịn đây một chỗ ngồi
Và ghi nhớ vào trang vở học
Ngày em làm một cánh chim đi
Có ta làm chứng cho em khóc
Hứa với trường em sẽ trở về


<i>( Đàm Thị Hương Hiền 8B)</i>




<b>VƠ ĐỀ</b>



Tơi viết vào đây vài dịng lưu bút
Biết rằng nét mực sẽ có ngày phai
Sống bên nhau những ngày êm ái
Tuổi học trò xin mãi nhớ thương
Lưu ở đây vào dòng chữ nhỏ


Gọi là kỉ niệm tuổi thơ ngây
Bạn ơi xa cách đừng quên nhé
Hãy lật từng trang nhớ đến tôi




<b>NGÔI NHÀ THỨ HAI</b>





</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<i>Đàm Thị Hồng Diệp 8B</i>


<b>TẤM LỊNG HỌC TRỊ</b>



20-11 đến rồi


Lịng em sao xuyến bồi hồi nhớ mong
Nhớ hình dáng nhỏ cao gầy


Nhớ bàn tay ấy cầm tay năm nào
Nhớ quá nhớ nhiều hơn sao


Nhớ làn hơi ấm từ bao tháng ngày
Nhớ lời cô dạy thật hay


Chắp em đôi cánh em bay vào đời
Cô ơi!em nhớ đời đời



Công ơn cô dạy lúc thời học sinh


<b>CA DAO VỀ HỌC TRÒ LƯỜI</b>





Bạn lười chơi game bỏ học


Bị game cuốn hút lực học xuống ao
Cô ơi cô giúp em nao


Kiểm tra sắp đến em nào biết chi
Kiểm tra lận đận một y


Thân lười nên ngó xuống nhịm bốn bên
Ngày thì ước những ngày game
Kiểm tra thì ước sẽ xem được bài
Thật là một cậu khôi hài


Nếu không chăm học làm bài điểm
không.


<i>Bùi Thị Ngọc Diệp 8b</i>


<b>Cô giáo em</b>



Sáng nào em đến lớp
Cũng thấy cô đến rồi
Đáp lời chào “cơ ạ”



Cơ mỉm cười rất tươi
Cơ giáo em cịn trẻ
Và cô cũng rất hiền
Cô dạy em từng chữ
Là từ a đến y


Bây giờ em lớn khôn
Nhớ cái hồi cịn nhỏ
Hồi cơ dạy em viết
Rồi dạy em làm thơ
Thời thơ ấu đã qua
Nhớ lại ngày cịn nhỏ
Ngày cơ dạy chúng em
Dạy những bài học tốt
20-11 là ngày đẹp trong năm
Em dành những bông hoa
Những bông hoa điểm tốt
Để em đền ơn cô


<i> </i>


<i> Bùi Thị Linh Giang 6a</i>


<b>Cô giáo của chúng em</b>


Cơ giáo là mẹ hiền


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Tiếng nói nhẹ lướt qua
Ánh mắt cơ trìu mến
Mái tóc dài mềm mượt


Dạy chúng em từng chữ
Ôi yêu sao, yêu thế
Cô giáo của chúng em


<i>Vũ Thị Hạnh 6b</i>


<b>Ngày vui 20/11/2010</b>



Hôm nay là ngày của các thầy cô
Chúng em vui lắm


Một bông hồng em dành tặng cơ
Một bài ca hát riêng tặng thầy
Những món q nhỏ bé


Mang nhiều những kỉ niệm
Những ngày tháng đã qua
Cơ và trị bên nhau


Ơi sao vui, vui thế
Ngày vui của thầy cô


<i>Vũ Thị Hạnh 6b</i>




<b>Cô giáo lớp em</b>



Cô giáo dạy lớp em


Rất xinh lại rất hiền
Trong những giờ lên lớp
Dạy chúng em hiểu bài


Những dòng chữ nghiêng nghiêng


Cơ nắn nót từng hàng
Để chúng em dễ đọc
Để em nhìn viết theo
Những lúc chưa hiểu bài
Hoặc chưa làm bài được
Em lại nhờ cô giảng
Cô giảng là hiểu ngay
Cô là người dạy dỗ
Dìu dắt em lên người
Cơ dạy nhiều lẽ phải
Để chúng em hiểu đời
Bây giờ em khơn lớn
Nhớ ngày cịn bé thơ
Nhớ những lời cơ dạy
Chẳng thể nào quên cô


<i>Nguyễn Thị Hằng 7a </i>


<b>Truyện cười: </b>



<b>Câu chuyện về Mỏ Khoét</b>



Trong giờ ngữ văn hôm nay thầy giáo


gọi Mỏ Khoét:


-Em hãy đặt cho thâỳ hai từ láy:
-Dạ thưa thầy …trong lúc đang suy
nghĩ,Mỏ Khoét nhìn ra sân thấy vỏ bim
bim liền trả lời:


-Thưa thầy Bim bim, Zon zon ạ!
<i>Đồn Phương Nga 7a</i>


<b>Khơng cho nhìn bài</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

Linh:Cậu làm gì mà giữ hồi bài ghê
thế?


Hải: khơng giữ thì để bọn nó nhìn thấy
tờ giấy trắng của tớ rồi cười ha ha!
Linh:!!!...


<i>Đoàn Phương Nga 7a</i>




<b>Nước Lào?</b>


Trong giờ địa lí kinh tế


Cơ:Ai có thể cho cơ biết,hàng hóa của
nước nào đang được bán nhiều nhất trên
thị trường nước ta?



Trị:Thưa cơ, nước Lào ạ


Cơ:Căn cứ vào đâu em nói thế?


Trị:Thưa cơ, vì em thường nghe thấy
người ta rao “Ai mua bánh mì Lào”, “Ai
mua chiếu Lào”…




<b>7A thân u</b>


7A lớp tơi ơi!


Đó có phải là nơi
Một vùng trời cổ tích
Là một nơi u thích
Mãi mãi ở trong tơi
Nhưng đó cũng là nơi
Mà tơi ln ghi nhớ
Một vùng trời rộng mở
Đó là những ước mơ
Cũng là lúc đợi chờ
Đèn chúng ta thắp sáng
Hãy thực hiện mơ ước
Bằng những lời thơ hay


<i>Đoàn Phương Nga 7a</i>


<b>Vơ đề</b>




<i>(Tặng các thầy cơ giáo kính mến)</i>
Thời gian thấm thốt trơi


Em càng xa, càng xa
Với những kỉ niệm đẹp
Về thầy cơ cấp 1


Hồi ấy thật là vui


Khơng có người cơ nào
Mà em đây qn được
Tồn thầy cơ dạy tốt
Những bài học ngày xưa
Người cô em nhớ nhất
Là cô giáo Lan Anh
Dáng người cô thon thả
Dạy những bài học hay
Và làm văn tưởng tượng
Của những ngày trẻ thơ
Và một người cô nữa
Là cô Miến dạy em
Hồi em học lớp 4
Cô dạy rất là hay


Làm cho em khâm phục
Em yêu các thầy cô
Cùng em vượt chặng
Con đường quá khứ xưa
Mà em đã từng trải


Những kỉ niệm vui buồn
Bây giờ em đã lớn


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Của mái trường này đây
Lớp em là 6a yêu mến
Với thầy Đức chủ nhiệm
Thầy dạy mơn Tốn, Sinh
Mỗi khi có bài khó


Thầy giảng giải kĩ càng
Cịn một cơ giáo nữa
Là cơ Thắm dạy Văn
Mỗi khi có chuyện hay
Cơ thường đọc diễn cảm
Cho chúng em say mê
Mỗi lời cơ cất lên
Em hình dung một thứ
Em q tuổi học trị
Vì biết bao điều lạ
Về thế giới xung quanh
Cả những câu chuyện kể
Về chuyện lạ ngày xưa


<i>Phạm Đức Thịnh 6a</i>




<b>Ơn thầy </b>


Ơn thầy lớn biết bao
Làm sao em trả được

Nhớ những ngày thơ ấu
Thầy ân cần dạy bảo
Từng học sinh thơ dại
Chăm lo từng nét bút
Uốn nắn từng bàn tay
Dạy dỗ em từng ngày
Để mai sau khôn lớn
Em tiến bước vào đời
Tuổi học trò thơ ấu,
Mãi mãi nhớ thầy cô
<i> Đàm Thị Tình 6a</i>




<b>Cảm nghĩ về thầy cô giáo</b>





Cha mẹ là người nâng đỡ chúng ta bước
vào xã hội. Bạn bè là người giúp đỡ
chúng ta vượt qua khó khăn trong đời
sống. Nhưng thầy cơ giáo là người giúp
ta có kiến thức để tự tin bước vào cuộc
sống,


Có nhiều bài hát viết về tình cảm của
học trị đối với thầy cơ. Trong những bài
ca ấy, các tác giả đã gửi gắm biết bao
tình cảm về thầy cơ giáo của mình.
Thầy cơ là người nâng đỡ chúng ta


trên con đường học vấn


Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chư phải yêu lấy thầy
Bạn hãy thử nghĩ mà xem,nếu khơng
có thầy cơ giáo thì sẽ như thế nào? Mọi
người chẳng ai có đủ kiến thức để làm
việc,sẽ chẳng có những thứ cao cấp như
điện thoại ,ti vi…nhân loại Sẽ khơng
người nào có cảm súc, cả nhân loại sẽ
đều trở nên ngu dốt. Ôi như thế sẽ là
thảm họa rất lớn cho nhân loại nuế như
mọi người vẫn nói tình mẫu tử thiêng
liêng ,cao q nhất thì theo tơi , tình
thầy trị cũng như vậy.Mootj thứ tình
cao đẹp nhưng khơng ở lai lâu trong
ta .Nó rồi cũng sẽ phai tàn theo thời
gian. Hãy nhớ rằng Thầy cô giaos người
đưa ta vào tầng tri thức . Bước vào thề
ki mới – thế kỉ của tri thức . Chúng ta
hãy kính trọng thầy cơ như kính trọng
cha mẹ mình


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<b>LƯU NIỆM </b>



<b> </b>


Xa rồi sao? Hỡi giọt nắng học vàng
Em trút giận vào cơn mưa mùa hạ


Ai mang trong mình một chút thân


thương


Nỗi nhớ thầy cô và nỗi nhớ bạn bè
Xa lắm rồi chùm nắng với hàng me
Lá trải lối em đi cùng chẳng cịn gì qua
nữa


Đường tới trường em mãi mãi ghi nhớ
trong tim


Thuở học trò cùng như ước mơ xanh.




<b>VỀ THĂM MÁI TRƯỜNG XƯA</b>


<i> (Gửi tặng trường THCS Thái Nguyên)</i>
Tôi lại về thăm mái trường xưa


Bốn mùa qua đi thủa bấy giờ


Náo nức tuổi xuân về nhận lớp
Tiếng trống trường khua rộn ước mơ
Mải mê tơi tìm bóng dáng xưa


Hàng cây trước lớp búp non tơ
Giờ đây bàn ghế như nguyên vẹn
Bục giảng hôm nao vẻ đợi chờ


Tôi như thấy bóng mình ngày ấy


Cơ giáo Hiền bên những học sinh
Buổi tựu trường vui như mở hôị


“Khuôn vàng, thước ngọc”vẫn đinh ninh
Và rất nhớ trường mình nho nhỏ


Đơn sơ tường, mái ngói rêu phong
Nhưng bầu nhiệt huyết ln sơi động
Giảng dạy say sưa,dốc một lịng
Tơi về vui lắm tình thân thiết
Rồi đến hôm nao bạn cũng về


Trường lớp khang trang,xinh đẹp quá!
Trái tim tôi ngơ ngẩn say mê




<b>Sân trường ngày nghỉ hè</b>





Sáng nay em trở lại sân trường
Có gì man mác lẫn bâng khng


Chợt hiểu lịng mình thì đã muộn
Gót sen hồng khuất chín tầng mây
Đã muộn mà sao em vẫn thế
Góc cũ từ đây em vẫn nhớ về
Cửa lớp học em , ai đã cài chặt
Nào có thương tình ai nhớ ai?


Đâu đó cịn đâu ánh mắt huyền
Nụ cười tươi thắm mãi đơi mơi
Chiều chiều đứng nhìn nhau ta nói
Chỉ bằng sáng mắt với đôi môi


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Mà nhìn sân vắng lại buồn thêm
Gót sen dời đi mà bỗng chốc
Cỏ đã nút đẩy mỗi góc sân


Khắp phố đi về khơng cịn ai dạo gót
Chỉ cịn một mình ai luyến tiếc thầm


HOA TRƯỜNG HOA PHƯỢNG
Bao năm xa cất chốn quê hương


Tương ngộ tình thương tuổi đền trường
Bạn cũ q mình cịn có nhớ


Hoa trường hoa phượng đỏ muôn
phương
<i>Nguyễn Thị Thái- 8a</i>




<b>Gặp lại thầy</b>


Con dừng lại phía hàng cây


Bồi hồi khi gặp dáng thầy hôm nao
Trường xưa vẫn nét ngày nào


Và đây vẫn dáng thầy cao cao gầy


Vẫn bao la một vòng tay


Đón con như thể chưa ngày cách xa
Kiềm lịng để lệ khỏi nhòa


Giọng thầy dầm ấm :”Thật là phải con “
Cái tên thầy gọi riêng con


Đến giờ con tháy vẫn cịn mới ngun
Ước mong con mãi khơng qn


Thật lịng gắng chí đừng phiền nghe con
Lợi danh danh lợi sẽ mịn


Những điều thầy dạy con hồi khắc tâm
Nhớ tóc thầy điểm hoa râm


Cùng lời chỉ dạy âm thầm mang con
Ai quên đi chuyến đò ngang


Quên sao người lái người sang bén đò
<i>Đàm Xuân Lương -7a</i>


<b>Tặng Cô</b>


Sắp xa rồi hai tiếng cô ơi


Sẽ chẳng cịn nghe thấy tiếng nói cười
Những bài cơ giảng lòng ghi nhớ


Em giữ hành trang bước vào đời
Ngày mai cất bước xa trường lớp
Hơm nay cịn đó mãi khơng thơi
Bài thơ vọng lại đầy lưu luyến
Chân níu bàn tay nước mát rơi
<i> Đàm Xuân Lương-7a</i>


<b>Tuổi Học Trò</b>



Lớp 6 rồi nhanh quá các bạn ơi
Mới ngày nào còn thơ ngây
Mà bây giờ thực sự đã lớn


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Bao nỗi niềm trong từng ánh mắt
Tuổi học trị hồn nhiên như trang giấy
Thầy cơ bạn bè bao nhiêu kỉ niệm
In đậm trong những dòng lưu bút
Nắm tay nhau quyết tâm học hành cho
tốt


Trọn con đường tràn ngập tương lai
<i>Nguyễn Thị Huyền -6a</i>


Truyện cười:


<b>Tiếp thị</b>



Cơ giáo:-Trị em hãy giải nghĩa câu
thành ngữ



“Đẽo cày giữa đường”


Trò (đang mơ màng) :Em … em… thưa
cơ đây có thể là một cách giới thiệu làm
đồ nơng cụ mang tính chất tiếp thị của
người xưa đấy ạ!


Cả lớp ngã bổ chửng


<i> Đàm Xuân Lương-7a</i>


<b>Các nước</b>



Thầy giáo :Các em hãy kể tên các nước
tiếp giáp với Việt Nam !


Tí(nhanh nhẹn giơ tay ):Thưa thầy là
Trung Quốc , Lào,Campuchia ạ!
Thầy giáo :Cịn nước nào nữa khơng?
Tí : Thưa thầy là nước Biển Đông ạ !
Cả lớp … !


<b>Sống nhờ ngịi bút</b>


Biên : Tớ tồn sống nhờ ngịi bút
Hải : Cậu viết báo làm thơ à ?


Biên : Khơng , Mình khơng làm thơ báo
gì cả .


Hải : Thế cậu làm gì ?



Biên : Tớ viết thư về nhà xin tiền bố mẹ
Hải : !?...


<i>Đàm Xuân Lương – 7a</i>




<b>Ước mơ làm cô giáo </b>



Cô ơi cô


Em sẽ gắng chăm ngoan
Để sau này làm cô giáo
Một cô giáo như cô
Dạy các em học sinh
Biết lấy các điều tốt
Trở thành người tài giỏi
Để xây dựng đất nước
Một ước mơ đẹp tươi
Để đạt được ước mơ
Em sẽ chăm học hành
Khỏi phụ lịng của cơ
Đã dạy dỗ cho em
Những điều hay lẽ phải


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<b>Nắng hè trên </b>



<b>mái trường thân yêu</b>




Mùa hè đã đến rồi


Những tia nắng chói chang
Chiếu nắng xuống mái trường
Những hàng cây trên sân
Xịe những tán lá rộng
Cành lá xanh mươn mướt
Thi nhau che ánh nắng
Cây phượng của lớp em
Nụ phượng chúm chím nở
Thành ra những bơng hoa
Với những màu đỏ chói
Suốt cả mùa hè


Ve kêu râm ran
Tán lá xòe rộng
Làm rợp sân trường
Những giờ giải lao
Ra gốc phượng ngồi
Phượng xịe tán lá
Ơm ấp chúng em
Nắng cịn đâu nữa
Chỉ cịn bóng râm


<i> Nguyễn Thị Huyền – 6a</i>


<b>Bài học đầu tiên</b>



Bài học đầu tiên cô dạy cho con



Hãy sống bằng trái tim biết chia sẻ
Nếu cuộc đời khơng có những ích kỉ
Làm sao con có thể lớn khơn !


Bài học đầu tiên cơ dạy cho con


Đừng lùi bước trước khó khăn thử thách
Nếu khơng có niềm tin vào phía trước
Làm sao con có thể thành cơng !


Bài học đầu tiên cô dạy cho con
Hãy nâng niu từng bông hoa chiếc lá
Nếu tâm hồn khô căn như sỏi đá
Làm sao con có thể cười vui !
Có những điều dẫu là nhỏ bé thôi
Nhưng lại là những điều cao đẹp nhất
Bạn hãy nhớ “Chỉ cần ta chân thật ,
Hạnh phúc sẽ ln chờ đón ta”
Vũ Thị Ninh – 9a




<b>Thầy giáo tôi </b>


Mới bước vào năm học


Thầy giáo tôi khác liền
Với vẻ mặt dịu hiền
Thầy ân cần dạy bảo
Đôi khi thầy nghiêm khắc


Với nhưũng bạn làm sai
Nhưng thầy vẫn miệt mài
Vẫn hăng say công việc


Thầy là người lái đò


Chở con thuyền sang sông
Thầy là người vun trồng
Cho mầm cây tươi tốt…


<b>Học trò với số pi</b>


(p<i><b>i= 3,14)</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>





Ba ơi con rất nhớ nhà
Một mình con nhớ tới bà , tới ông
Bốn tháng xa cách dịng sơng
Một thời để nhớ trong lòng của con
Năm nào con chạy lon ton


Chín thơm quả ngọt, quả ngon bà dành
Hai mùa lá đỏ rồi xanh


Sáu năm đi mãi đã thành nhớ nhung
Năm nay chín nhớ mưuơì mong
Ba ơi con sẽ về cùng quê xa



Năm nay con sẽ về nhà


Tám ngày sum họp nhà ta vui vầy
Chín rồi trái ngọt vườn cây
Bẩy năm chăm sóc giờ đây đã vàng
Con giờ theo chuyến đò ngang
Ba đưa xuống bến để sang thăm bà
Hai dịng sơng nhỏ q ta


Ba chợt nhớ lại ngày xa mái trường
Tám năm chinh chiến mù sương
Bốn phương khói lửa vẫn thường đọc
thơ


Lòng con ưuơm những ước mơ
Đêm đêm con nhứo vần thơ thuở nào
Số ti hấp dẫn biết bao


Con đưa từng số đi vào lời ca…


<b> Trò chuyện với mái trường</b>



Làm sao tôi quên buổi chiều đi học


Áo trắng tung bay ở giữa sân trường
Làm sao tôi quên giờ phút chia tay
Tâm hồn lưu luyến rời xa nơi này
Tôi vẫn nhớ trường xưa và lớp cũ


Giữ cho tôi bao kỉ niệm thân thương
Giữ cho tôi khung trời xanh mộng tưởng
Của ngày xưa và những bạn bè xưa


<b>Thầy và chuyến đị xưa</b>


Căng xi năm tháng êm trơi


Con đị kể chuyện một thời rất xa
Rằng người chèo chống đón đưa
Mặc cho bụi phấn giữa trưa bay nhiều
Bay lên tựa những cánh diều


Khách ngày xưa đó ít nhiều lãng qn
Rời xa biển nước qn tên


Gió sơng vắng lặng buồn tênh tiếng cười
Giọt sương rơi mặn bên đời


Tóc thầy bạc trắng giữa trời chiều đơng
Măt thầy mịn mải xa trơng


Bơ vơ đứng giữa những dòng thời gian.
<i> -Phạm Thị Hiền </i>





<b>Nhắn bạn</b>



Bạn ơi ta hãy cố lên



Chăm ngoan học giỏi ghi tên điểm vàng
Chúng ta cần phải chăm ngoan


Thầy cô yêu mến trăm ngàn tình thương
Mỗi ngày mỗi buổi đến trường


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Hai mươi-mười một tình thương dạt dào
Bạn ơi hãy cố lên nào


Chào mừng ngày hội vui nào vui hơn.
<i> -Trần Thị Thu Hiền </i>




<b>Cơng ơn thầy cơ</b>


Mỗi khi em đến học đường


Nhìn thầy cơ giáo tình thương dạt dào
Lịng thầy cơ giáo biết bao


Dạy em mọi mặt không nào em quên
Hôm nay em được tiến lên


Trị ngoan trị giỏi chẳng qn cơng thầy
Tháng,năm,tuần,thứ,ngày ngày


Hiền em rèn luyện để thầy cô vui.
<i>-Trần Thị Thu Hiền </i>




<b>Truyền thống lớp tơi – 9a</b>



Việc quay cóp cốt ở nhanh tay
Phơ tơ giỏi khi nhiều khi ít
Như lớp 9a ta từ trước


Vốn có nền quay cóp đã lâu
Cả lớp 4 tổ đã chia


Trang bị các nơi đều giống


Từ địa, sinh,lí, hoạ bao lần xây nền
phịng bị


Cùng tốn, nhạc, hố, văn mỗi bên quay
cóp một trang


Tuy sợ hãi nhiều lúc thót tim
Nhưng mà việc lần nào cũng thoát
Vậy nên


9a tuy liều nhưng thốt nạn
Việc lớn đã quyết đều xong xi
Cả lớp cùng bắt tay đồn kết
Trong kì này quyết lên hàng nhất
Việc nay xem xét


Chứng cớ còn nguyên



<i>- Trần Thị Thu Hiền </i>


<b>Góc cười</b>



Trong giờ kiểm tra miệmg cuối năm,
thầy giáo gọi một học sinh lên bảng trả


lời “hỗn hợp” là gì?
Học sinh trả lời


-Dạ, thưa thầy, hỗn hợp ví dụ như hỗn
hợp gồm muối, ổi, xoài xanh ạ


Thầy : ? !!!


Trong giờ văn thầy giáo hỏi học sinh:
-Em hãy cho biết hoàn cảnh ra đời của
truyện ngắn này?


Học sinh trả lời:


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Thầy ngạc nhiên
-Tại sao?


Học sinh thản nhiên


-Vì nếu có thời gian sẽ viết tiẻu thuyết
dài tập chứ không phải truyện ngắn ạ.
Thầy:



- ???!


Bố:Con chẳng học hành gì cả,suốt ngày
chỉ rong chơi.Nếu khơng học sau này
làm sao thành tài được.


Con:Nhưng con sợ thành tài lắm bố ạ.
Bố:tại sao con sợ?


Con:Vì”chữ tài liền với chữ tai một
vần”,bố không biết à?


Bố:?!!!


<i>Trần Thị Thu Hiền 9a</i>


<b> Bàn tay cô</b>



Bàn tay cô ấm áp
Nâng những bước em đi


Bàn tay cô lạ là
Mang bao điều thú vị
Bàn tay cơ cầm phấn
Viết dạy từng dịng thơ


Bàn tay cơ như mơ
Như những vì sao sáng
Bàn tay cơ mỗi sáng


Mang lại những niềm vui
Bàn tay cũng ngọt bùi
Như những dòng suối mát
Bàn tay dạy múa hát
Và dạy cách làm thơ
Em biết những ước mơ
Từ tay cô xây dựng
Bàn tay cô khác những
Với các bàn tay kia
Bàn tay cô khuya khuya
Mang bao nhiêu bài giảng
Bàn tay viết lên bảng


Những dịng chữ thân quen
Bàn tay ấy vì em


Vì tương lai tốt đẹp
<i> Đoàn Thị Nga -7a </i>


<b>Chuyện lớp tôi </b>



Lớp tôi luôn nhộn nhịp
Bởi tiếng cười tiếng ca
Nhất là bạn Đàm Hà
Cứ vừa ca vừa nhảy


Chuyên ngành ca bằng máy
Là bạn Thành nú na


Còn sáng tác chuyện ma


Là Hằng Nga bàn trưởng
Luôn đưa ra định hướng
Để nướng bánh nướng khoai
Ngồi trong lớp nói hồi
Là Đồn Hà tổ trưởng
Các bạn hay lĩnh xướng


Phương, Hoa ,Thảo,Ngát,Tùng
Cịn hay nói lung tung


Là bạn Nhung nhí nhảnh
Muốn sưu tầm tranh ảnh
Của các bạn lớp tôi
Hãy liên lạc một hồi
Lớp 7a nhà vui nhộn;


<i>Đoàn thị Nga 7a</i>


<b>Gánh hàng hoa </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

Toả mùi ngát hương
Nào là hoa cúc
Nào là hoa ly


Hoa nào cũng đẹp
Đầy xe mẹ đi


Từng hạt mưa nhỏ
Lắc rắc , li ti...


Đậu vào hạt nhuỵ
Cánh nhung ướt mềm
Gánh hàng của mẹ
Rong khắp phố phường
Gieo mầm ước mơ
Em vui đến trường


<i>Đỗ Thu Hằng-8B </i>




<b>LỚP 9B</b>



<i>(Phạm Thị Duyên-9B)</i>
Lớp 9B chúng tôi


32 thành viên đó
Các bạn ln tiến tới
Để đạt thành tích cao


Khuyến khích nhau học hỏi
Cùng tiến không mệt mỏi
Để đạt được điểm cao
Lớp tơi có phong trào
Thi đua làm việc tốt
Cùng chăm ngoan cả lớp
Vững bước tới tương lai
Sẽ mãi mãi khơng phai
32 gương mặt ấy.



<b>GĨC NHỎ NGÀY XƯA</b>



<i>(Phạm Thị Dun-9B)</i>


Nơi góc nhỏ ngày xưa cịn ngun đó
Vẫn cây bàng, ghế đá thảm cỏ xanh
Nơi bọn mình cùng bên nhau trị chuyện
Trong những giờ ra chơi thật là nhanh.
Góc nhỏ đó có ai ngồi đã khóc


Bị điểm hai cơ ghi sổ đầu bài
Rồi ở đó cùng bên nhau vui học
Nghĩ đến giờ kỉ niệm vẫn chưa phai.
Từ nơi ấy mỗi người đi một ngả
Và cũng nơi đây bè bạn gặp nhau
Sau bao tháng năm cuộc đời vất vả
Kể cho nhau nghe kí ức những ngày sau.


<b>NHỚ VỀ CƠ</b>



<i>(Nguyễn Thị Nguyệt-9B)</i>
Đã bao lần em nhớ về cô


Người cho em cả bầu trời tri thức


Nét chữ in nghiêng trên từng dòng mực
Năm tháng qua in dấu chẳng phai mờ
Đã bao lần em nhớ về cơ



Mang tình thương cơ cho em tất cả
Tấm lịng cơ ơi dào dạt q


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

<b>BÀN TAY CƠ</b>



<i>(Nguyễn Thị Nguyệt-9B)</i>
Có một miền đất rất xa


Nơi bàn tay cơ để lại
Bàn tay ngọt ngào hoa trái
Thành phố trên trang sách em
Cô ngồi soạn bài trong đêm
Lung linh ánh đèn toả sáng
Mỗi ngày đứng trên bục giảng
Dắt em từng bước vào đời
Xôn xao âm thanh đất trời
Trên bàn tay cô đã dắt
Cho em cả một bầu trời.


<b>NHỚ VỀ CÔ</b>



<i>(Vũ Văn Đồn-9B)</i>
Đã bao năm rồi em nhớ về cơ
Người cho em cả bầu trời tri thức
Cơ cho em bao tình thương mẫu mực
Như tình mẹ thiêng liêng ấp ủ các con
Em nhớ mãi buổi mùa thu năm ấy
Gặp lại cô giữa non nước mây trời
Cơ vẫn trẻ, dịu dàng đáng kính
Để lại trong em kí ức một thời.



<b>K</b>

<b>Ỷ NIỆM XƯA</b>



<i>(Đàm Văn Chung-9B)</i>
Hai mươi năm rồi tơi phải xa trường
Hình bóng cơ luôn hiện về thân thương
Nhớ bảng đen và những lời cô dạy
Tôi mãi khắc ghi không quên điều ấy.


Hai mươi năm rồi tôi xa người bạn
Những kỉ niệm tuổi thơ nhiều vô hạn
Lại gợi về trong tôi chút bồi hồi


Bao buồn vui suốt năm tháng không vơi
Hai mươi năm rồi tơi xa nơi ấy


Khi bạn bè tơi chẳng cịn được thấy
Mùa hè sang phượng đỏ rực trời


Bỗng nhớ lại lịng thao thức khơn ngi


<b>VUI CƯỜI</b>



<b>Tâm hồn ăn uống</b>




Trong giờ Sinh học:


- Nam, em hãy kể tên những cây sống
ngắn ngày.



- Thưa cơ là cây lạc, cây lúa ạ!
- Cịn cây gì nữa khơng?


- Thưa cơ...là cây kem ạ!!!


<b>GIẤU ĐẦU HỞ ĐI</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

- Hùng, hãy cho thầy biết bạn nào nói
chuyện riêng trong lớp?


- Thưa thầy em khơng biết ạ!
- Vì sao vậy?


- Dạ, nãy giờ em nói chuyện với bạn Lan
nên không để ý ạ!


<i>(Bùi Thị Thuỷ-9B st)</i>


<b> Lớp 8B thân yêu</b>


Bước sang năm học mới.


Lớp tôi học giỏi nhất
Và dẫn đầu tồn trường.
Mà tơi cũngkhơng ngờ
Lớp tôi tiến bộ nhanh


Thật là nhanh nhanh nhanh.
Đây là điều vui thật



Được các thầy cô khen
Nhất là cô chủ nhiệm
Giống như giục chúng tơi
Chúng tơi thật vinh hạnh
Vì có hai người mẹ
Mặc dù cơ đã già


Nhưng trong tâm chúng tôi
Cô là người đẹp nhất


Không chỉ thế đâu thơi
Cơ cịn rất vui tính
Cơ quan tâm chúng tơi


Nhất những bạn học kém
Cô sẽ rèn cho giỏi


Vào những giờ sinh hoạt
Cô nhắc nhở chúng tôi
Về những điều sai trái
Mà chúng tôi mắc phải
Trông giống như người mẹ
Đang dạy dỗ con cái


Rồi cơ cười và nói
Các em hãy cố lên
Để lớp luôn giữ vững
Đạt học sinh giỏi trường…


<i>Nguyễn Thị Anh- 8B</i>



<b>Gửi lớp 9A thân thương</b>



Các bạn mến yêu của tôi ơi ! Thời gian
trôi đi chẳng quay đầu trở lại.Thấm
thốt, giờ đây chúng mình đã là học sinh
lớp 9 rồi.”Ơi nhanh thật”.Vậy là chúng
mình sắp bước vào một kì thi căng
thẳng.


Đã 9 năm qua mình và các bạn đã
học tập chung với nhau và gắn bó keo
sơn.Trong lớp mình các bạn đều ln
u thương giúp đỡ nhau trong học tập
và luôn coi nhau như những thành viên
trong một đại gia đình.Trong suốt những
năm tháng ấy,chúng mình đã có biết bao
kỉ niệm cùng bao niềm vui,nỗi


buồn.Tuổi học trị chúng mình thật đẹp
đẽ,hồn nhiên.Đơi lúc chúng mình cịn
cãi cọ lẫn nhau nhưng rồi lại đâu vào
đấy,lại vẫn là bạn bè thân thiết như hơm
nào.Chính sự đồn kết của các bạn trong
lớp mà lớp chúng mình ln là lớp xuất
sắc về mọi mặt và luôn được các thầy cô
yêu quý khen ngợi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

nào,cổng trường cấp ba đang đón chào
chúng ta.”Các thành viên 9A ơi hãy xích


lại gần nhau,cùng nối vòng tay lại bước
tới con đường tràn ngập tương lai tươi
sáng.Và hơn bao giờ hết,mình mong 30
thành viên hãy chăm chỉ học tập,có như
thế chúng mình mới vượt qua kì thi vào
cấp 3 đạt kết quả cao.


Mình tự hào và vui sướng biết bao
khi được học cùng các bạn dưới mái nhà
chung 9a.Dù thời gian hay khoảng cách
thì với mình các bạn ln là những
người bạn tốt.


Mình mãi yêu các bạn…
<i>Vũ Thị Thương -9a</i>


<b>Nhớ cô</b>



Thời gian trôi không bao giờ trở lại
Dù không đành cũng chẳng thể làm chi
Cơ ơi cơ em biết nói câu gì


Để chia tay mà lịng khơng đau đớn.
Vẫn nhớ cơ hơm nào trên bục giảng
Ngày lại ngày đến lớp nụ cười vui
Thấm thốt trơi thời gian ơi ngắn ngủi
Khiến giờ đây nước mắt cứ tuôn trào.
Cô giáo ơi ngày mai này gặp lại
Cơ cịn nhớ lũ học trị ngây thơ



Em nơi đây luôn từng ngày mong nhớ
Gặp lại cô dù chỉ trong giấc mơ…


<i>Vũ Thị Thương-9A</i>


<b>Lớp 9</b>



Lớp 9 rồi,bao tâm sự buồn vui
Bao nỗi niềm in trong từng ánh mắt
Tuổi chúng mình hồn nhiên cùng tiếng
hát


Dịng kí ức ngày nào còn vẹn nguyên.
Lớp 9 rồi, nhanh quá nhỉ bạn ơi!
Mới hơm nào cịn ngây ngơ,mới lạ
Mà giờ đây như thực sự đã lớn


Ngày lại ngày tiếng nói cười thiết tha.
Lớp 9 rồi, trường cấp 3 phía trước
Bạn tơi ơi, hãy chăm chỉ học hành
Nắm tay nhau cùng quyết tâm tiến bước
Tới con đường tràn ngập tương lai.
Lớp 9 rồi, có lẽ phải chia tay


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

<b>Thầy cô</b>



Thầy cô như những chùm chìa khóa
Mở kho tàng văn hóa cho chúng em
Chắp cho em đơi cánh diệu kì



Đưa em vào bầu trời khoa học
Nào ai biết cuộc đời nhà giáo
Cuộc đời nhà giáo rất đơn sơ
Cây bút vị trí đầu quan trọng


Mực thấm vào như máu chảy trong tim.
<i>Nguyễn Vân Anh-6A</i>


<b>Cơ ơi</b>



Đã bao năm qua rồi
Cơ ơi , cơ cịn nhớ
Ngày em cịn bé xíu
Mẹ dắt em đến trường
Em bước vào cửa lớp
Thấy lớp như là nhà
Thấy cô như là mẹ
Các bạn như người thân
Anh chị ,em trong nhà
Cô ơi cơ cịn nhớ


Ngày xưa cơ dạy em
Tập viết những chữ cái
Và dạy em đành vần
Từng chữ ,từng chữ một
Cô ơi cơ cịn nhớ


Cơ dạy em cách vẽ
Vẽ một ngơi nhà nhỏ


Cho ba sáu thành viên
Với đầy đủ màu sắc
Xanh đỏ tím vàng hồng
Cơ ơi cơ cịn nhớ


Cơ dạy em hát không
Hát một bài rất hay


Mà ai ai cũng biết
Bài giành cho trẻ nhỏ
Ngày đầu tiên đi học
Cô ơi cô cịn nhớ
Bao nhiêu kỉ niệm đẹp
Đã chơn vùi trong đó
Một tuổi thơ hi vọng
Đang đến gần bên em
Chắp cánh cho tương lai
Một ngày mai tươi sáng
Cho một đời học sinh


<i>Đàm Thị Hương-8b</i>


<b>Thầy cô là tất cả</b>



Thầy cô là cha mẹ


Dạy dỗ chúng ta nên người
Thầy cơ là lái đị


Đưa thế hệ trẻ qua sơng


Thầy cơ là bể xanh


Dập dềnh sóng vỗ lăn tăn
Thầy cơ là chân trời
Để cánh cị bay theo
Thầy cơ là ngọn gió
Đung đưa những lá cành
Thầy cơ là tất cả


Đưa chúng ta vào đời


<i>Đàm Thị Hương-8b</i>


<b>Cô giáo của em</b>



Khi em biết thời gian không dừng lại
Trôi qua đi những tháng , ngững ngày
Sau hai năm có điều gì qn lãng
Em ngẩm lịng giọt nắng buổi cơ qua
Thời gian đánh rơi sợi tóc mưa nhịa
Kí ức năm xưa vẫn cịn nguyên đó
Mỗi nhớ ơi đừng như sỏi đá


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

Em khóc ,em cười hạnh phuc bết bao
nhiêu


Cơ đứng lại ngày nối ngày đi mai
Bóng đem nghiêng khoảng trời đem
thức dậy



Bụi phấn trịn như những vì sao


Có lúc giật mình thoảng giấc chiêm bao
Lời giảng năm xưa về theo cơn mưa dội
Hoa quỳnh nở đêm trắng lòng bối rối
Bài học nào bên ấy em quên


Em sợ mình khơng chọn một tình
thương


Giần dỗi vu vơ dại khờ không tỉnh giấc
Giử lại cô khoảng hồn em ngẫng biếc
Có chút ấm nào cơ sưởi những mùa
đơng


<i> Đàm Thị Thu Hà - 6a </i>


<b>Thầy đi bộ đội</b>



Thầy đi bộ đội chiều qua


Chúng em thơ thẩn vào ra chúc mừng
Nhớ bao tháng năm rịng thầy dạy
Nhìn thấy vui càng thấy thương hơn
Chúng em lòng như là buồn


Vẫn cười hát để thầy cịn đi xa
Em nhìn mấy bơng hoa ngồi cửa
Hỏi rằng hoa có nhớ thầy khơng


Bơng hoa rung nhẹ cánh hơng


Chắc hoa muốn nói mà khơng nói gì
<i>Vũ Thi Thùy Linh-6a </i>


<b>Lời thầy cô</b>



Lời thầy cô không quên
Em sẽ ln nhớ mãi
Nhưỡng lời giảng bỏ ích
Đó là những nấc thang
Giúp chúng em tiến bộ
Trên con đường vinh quang


<i>Vũ Thị Thanh Huyền-6A</i>


<b>Cô</b>



Ở trường cô là mẹ em
Cô giúp em học bài nhanh
Cơ giúp em tính tốn giỏi
Cơ dịu dàng như mẹ hiền
Cô chăm chút cho chúng em
Những buổi đi học muộn
Cô cho chúng em vào
Rồi nhắc nhở hẳn hoi
Từng li từng tí một
Em rất là u cơ


<i>Vũ Thị Thanh Huyề-6a</i>


<b>Thầy</b>


Thầy là một người cha


Dạy bảo chúng em từng điều
Thầy vun đắp cho mai sau
Như con đường rộng mở
Ơi. Lịng thầy bao la
Khơng kể sao cho hết


<b>Nắng âm sân trường</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Chim chuyển cành buông tiếng lạnh
băng quơ


Chúng em ngồi nghe thầy giảng bình thơ
Nắng ghé theo chốn lên ngồi bệ cửa
Và cả gió cũng biết mê thơ nữa


Thổi khồng vào mắt giọng thầy ngâm
Cả lốp say theo từng nhịp bổng trầm
Đập từng bơng vàng ngây rơi xoay tít
Nghày vẫn xn, chim từng đơi ríu rít
Sà xuống sân tắm nắng ấm màu xanh
Sân trường càng rộnh rực đến thênh
thang


Kiêu hãnh khoe trên mình màu nắng ấm
Lời thơ thầy vẫn nhịp nhàng sâu lắng
Nắng ấm hơn nhờ giọng ấm của người
<i>Đàm Thị Huyền-7A</i>





<b>Điểm 10 cơ cho</b>


Cơ là mẹ hiền


Cho em trí thức
Nâng niu từng bước
Cho em bay xa
Em u cơ gi
Như yêu me cha
Điểm 10 cô cho
Thắm trên trang giấy
Em vui biết mấy
Khi cầm trên tay
Quyển vơ nhỏ này
Chứa đầy yêu thương
Cô đã cho em


Biết bao điểm 10


<i>Nguyễn Thị Hằng-7a</i>




<b>Nhớ thầy</b>


Hỡi những người bạn của lớp 7a
Cịn nhớ về thầy của chúng ta
Khơng biết thế nào cấ bạn ạ !


Lịng tơi xao xuyến nhớ mãi về thầy
Ngày tháng thầy dạy chúng mình
Thầy dạy chúng mình đạo đức làm
người


Dạy hết những gì mà thầy đã biết
Chẳng quản khó nhọc thầy vẫn ln
cười


Yêu thương đùm bọc chúng mình như
con


để chúng mình khơn lớn từng ngày
Ước gì bây giờ chung mình nhỏ lại
Để được gọi laị hai tiếng “thầy ơi”


<i>Nguyễn Thị Hằng-7A</i>


<b>Biết ơn</b>



Đời học sinh trong sáng tựa trăng rằm
Dẫn dắt em đi cô chẳng quản tháng năm
Thấy cơ sao lịng em náo nức


Cơ đén bên em xây cửa dựng nhà
Hạt giống đó , cơ bắt đầu vun xới
Cho đời nở hoa rực rỡ tương lai
Cho non sông sáng đẹp tận chân trời


Cô giáo em nghề ươm hoa đẹp q
Gần gũi em,cơ cịn dạy khâu vá
Từng mũi kim nắn nót đẹp dịng đời
Khun bảo chúng em biết làm người
Lịng hiếu thảo mn đời em vẫn nhớ
Những ngày đầu em cịn bỡ ngỡ
Lẽ thường tình ai chẳng biết đó thơi
Cơ chắp cho em đơi cánh bay mn ngả
Tâm hồn em như đang giục dã


Kỉ niệm học trị khó tả thành thơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>




<b>Trường tôi</b>



Ngôi trường trung học Thái Nguyên
Ngôi trường mà tôi yêu mến


Ai cũng mong muốn được vào
Thi đua rèn tính thật thà


Châm ngoan học giỏ mọi nhà tin yêu
Thầy cô dạy bảo bao điều


Chăm lo sớm tối như yêu con mình
Bạn bè sống có nghĩa tình


Giúp nhau học tập hết mình tiến lên


Thầy trị cùng quyết luyện rèn


Mục tiêu phán đấu không quyên dẫn đầu
Môi trường thân thiện thương u


Học trị tích cực sớn chiều chăm ngoan
Trường tơi ai thấy cũng khen


Dạy tốt học tốũnứng danh anh hùng
<i>Đoàn Thị Vân-6A</i>


<b>Cảm ơn nhé</b>



Chu một lần dám nhìn thẳng vào nhau
Đâu thể hiểu được gì qua ánh mắt
Nhưng ta biết có một điều .... bí mật
Chân dung ta bạn gửi bóng thiên thần
Phố biển buổi chiều lúng túng bước chân
niềm vui nấp sau nỗi lòng con gái


Bạn vẫn thế vu vơ và khờ dại
Ta rụt rè nghe cảm xúc thăng hoa




<b>Cố lên nào</b>



Cười lên đi ...vui nhé các bạn tôi ơi
Rồi nỗi buồn sẽ đi qua rất vội


Xiết tay nhau ta về chung một lối


Hồn nhiên cợt đùa như thủơ còn thơ
Bạn đừng hờn khi tỉnh giấc tan mơ
Tia nắng ngoài hiên lùa vào ấm áp
Ừ! hãy xem như là trang giấy nháp
Sách vở kia... mọi sự lạ bắt đầu


<b>Vè lớp 6a</b>



Ve vẻ vè ve
Vè lớp 6a
Học thì khỏi nói
Lễ phép khỏi chê


Ngoan ngỗn nhất trường
Thầy u bạn mến


Lúc nào cũng nhất
Lớp ai sánh nổi
Với lớp 6a


Phải giỏ thật nha
Nhưng mà chăng có
Vì lớp 6a


Là lớp vững nhất


<i>Đàm Thị Thu Hà-6A </i>



<b>Chuyện cây bút bi</b>


Bút bi viết hết mưc rồi


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

Ai mua ruột mới dùng như bình thường
Hay là vứt vội ra đường


Ơ tơ nghiền phải trong thương bủt rồi
Thôi thôi bũt chả nhiều lời


Chỉ mong được những điểm 10 nở hoa.
<i> Đỗ Thị Ái - 9a</i>




<b>Truyện...chàng lười </b>


Trăm năm trong cõi học đường
Chữ “lười”chữ “nhác vẫn thường gặp
nhau


Chữ “học” thường vắng trong đầu
Nên mùa thi đến phải cầu chữ “phao”
Chữ “ảo thuật”bị...nốc ao


Chữ “sao” chữ “liếc” không sao trổ nghề
Suốt ngày mặt ủ mày ê


Phen này chữ “ngỗng” sẽ về cùng
“ngan”!


Đẻ ra chữ “trứng”tràn lan



Coi chừng hai chữ “lưu ban” đang rình
Nghĩ qua vía lạc hồn kinh


Về nhà chắc hẳn đầy mình chữ “lươn”!


<b>Chuyện lạ</b>



Lớp tơi có chuyện lạ đời


Lười biếng tồn điểm 9,10 thường xuyên
Bao nhiêu trị giỏi buồn phiền


Tồn 2 với 1 liên miên tháng ngày
Lười thì học cái thuộc ngay


Bao chàng giỏi học đêm ngày toàn quên
Lười tồn xếp thứ đầu tiên


Đội sổ trị giỏi triền miên ê chề
Ghi bài giỏi thường bỏ bê


Bao nhiêu chàng nhác say sưa chép bài
Học nhóm giỏi đến chơi dài


Trong khi lũ nhác miệt mài từng đêm


Những chuyện tôi kể ở trên


Chỉ là chuyện tếu...góp thêm nụ cười
Muốn tin ngược lại bạn ơi


Còn lười còn vác nặng người buồn đau...

<b>Vui cười</b>



Cô giáo:Em nào cho cô biết Đông Nam
Á gồm những nước nào ?Cơ mời bạn Tí
Tí:Thưa cô,Đông Nam Á gồm 2 nước là
Đông Á và Nam Á ạ.


Cô giáo :...???...


Thầy giáo:Em nào có thể cho thầy biết
nghĩa của cụm từ “nghiêng nước


nghiêng thành” mà Nguyễn Du dùng để
tả Thuý Kiều trong đoạn trích “ Chị em
Thuý Kiều” được không ? Thầy mời bạn
Nam


Nam:(Đang mơ màng):Thưa thầy,tác giả
Nguyễn Du muốn báo trước sắp có một
cơn động đát xảy ra ở nơi Thuý Kiều ở.
Thầy giáo:...!!...


<i>Nguyễn Quang Thắng-9A </i>


<b>CẢM XÚC VÀ SUY NG</b>

<b>ẪM</b>



<b>VỀ THẦY CÔ</b>





<b>MÃI NHỚ VỀ CÔ</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

từng được nghe trong suốt cả thời học
sinh của mình. Bài giảng về tình yêu quê
hương, gia đình trong ca dao dân ca Việt
Nam, lời giảng của cô thật sống động,
em như thấy trước mắt mình xanh ngút
ngàn những đồng lúa, thấy giếng nước
gốc đa, thấy lũy tre làng, thấy thấp
thoáng những cánh cị bay hồi chẳng
mỏi…Với em, cơ là một cánh cị khơng
bao giờ mỏi, cơ đã chắp thêm niềm tin
cho em hun đúc ước mơ trở thành cơ
giáo sau này. Những bài tập sau đó cơ
cho, em làm với tất cả niềm u thích,
thấy mình trưởng thành hơn trong cách
viết và cảm nhận qua những lời văn cơ
sửa. Có những bài nét chữ sửa của cơ
cịn nhiều hơn cả nét chữ của em. Bộn
bề với gia đình, với giáo án những giờ
lên lớp chính thức, thấy thương làm sao
những đêm cô ngồi miệt mài để sửa cho
chúng em từng câu, từng chữ. Những lần
học trong thư viện, cô mang về cho em
thật nhiều sách và bảo là phải cố mà đọc.
Đêm đến học bài trên lớp xong, giở


những quyển văn mẫu dày cộm ra mắt
em như muốn dít lại, thấy chữ cứ quay
vòng vòng. Thế là ngày ấy cà phê là
thức uống không thể thiếu mỗi tối học
bài. Sáng lên lớp mấy đứa bạn nhìn và
cứ chọc cặp mắt thâm quầng như con cú
lọ của em. Cô thấy vậy la cho một trận,
tội không biết sắp xếp thời gian biểu, cơ
bảo học như vậy thì đến sức khỏe cũng
chẳng cịn nói gì là học hành thi cử. Học
với cô thật thoải mái, bạn nào cũng có
thể đưa ra cảm xúc và suy nghĩ của
mình, quan trọng hơn hết vẫn là kiến
thức có được, đậu hay khơng đậu chỉ là
vấn đề thành tích.


Kì thi Học sinh giỏi năm ấy, em biết cô
hi vọng vào em thật nhiều. Nhưng kết
quả không như mong đợi. Em không đạt.
Lúc hay tin, em buồn nhiều thật nhiều,
nhưng miệng vẫn cố mỉm cười và nói
với cơ rằng em khơng sao. Nhìn nụ cười
méo xệch của em lúc đó, cô an ủi và
khuyên em cố gắng ở những lần thi sau,
cơ hội luôn mở ra với những người cố
gắng. Kì thi năm sau nữa, em vẫn không
đỗ dù đã cố hết sức. Mấy bạn trong lớp
thấy em ngồi buồn xo, lại gần an ủi chắc
mày lận đận đường thi cử, rồi tụi nó bày
đủ trị để chọc em vui, nhưng khơng biết


sao lúc đó nước mắt em lại chảy dài.
Chạy ra hành lang, hít một hơi thật sâu.
Bao hi vọng của mẹ, bao hi vọng của cô,
bao hi vọng của bản thân cuối cùng cũng
chỉ là một con số 0 to tướng. Ước mơ trở
thành cô giáo dạy Văn như cô sao mà xa
xơi q. Những cánh cị mang ước mơ
ngày ấy bay đi mất. Mất niềm tin, mất hi
vọng thì sự cố gắng cũng khơng cịn.
Ngày ngày vẫn đến trường, tối tối vẫn
ôn bài, nhưng em chẳng tin mình có thể
làm được một gì đó hay hơn. Cơ hiểu
với một đứa học trị cá tính như em thì
việc thua là đồng nghĩa với thất bại.
Món q cơ tặng cho em gần ngày thi
học kì II lớp mười hai là quyển sách <i><b>Hạt</b></i>
<i><b>giống tâm hồn – Cho lòng dũng cảm và</b></i>
<i><b>tình u cuộc sống</b></i>. Bên dưới dịng chữ


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

vọng lại về, cô là người kéo ước mơ
cánh cò ngày ấy về lại cho em.


Còn nhớ một lần kiểm tra, bài tập làm
văn mà em đã làm bằng tất cả kiến thức
và tình cảm của mình chỉ vỏn vẹn được
bảy điểm. Em khơng buồn vì điểm số ấy,
mà cảm thấy bị tổn thương vì câu nhận
xét được viết bằng bút đó thật rõ ràng
bên cạnh <i><b>“Học thuộc hay sử dụng tài </b></i>
<i><b>liệu.”</b></i> Với một đứa học sinh giỏi văn, đó


là một nỗi tủi lớn. Em bị sốc sau bài
kiểm tra ấy và ốm nằm nhà gần hai
ngày. Cơ biết tin và nói em đem bài
kiểm tra đó cho cơ xem, sau đó cơ đã
giúp em làm đơn phúc khảo ra hội đồng
để chấm lại bài làm văn ấy. Kết quả sau
cùng được chín điểm, nhưng dịng nhận
xét bên cạnh đã trở thành một kỉ niệm
không vui của em thời trung học. Em đã
lấy một mẩu giấy và kẹp vào trong bài
kiểm tra dịng chữ của mình: <i><b>“Khơng </b></i>
<i><b>sao cả, mình hãy cứ là mình, rõ ràng </b></i>
<i><b>mình khơng học thuộc và cũng chẳng </b></i>
<i><b>sử dụng tài liệu, hãy thư giãn và cố </b></i>
<i><b>gắng!”</b></i>


. Những lúc mệt mỏi, thấy niềm tin lung
lay lại bật dậy mở quyển sách của cơ ra,
để rồi sau đó có thể mỉm cười tự nhủ:


<i><b>“Ta ơi hãy thật dũng cảm và nhớ đừng</b></i>
<i><b>bao giờ từ bỏ ước mơ của mình.”</b></i> Em
biết trên con đường khó khăn phía trước
em sẽ chẳng cơ đơn, vì bên em có tình
thương của mẹ, và những tình cảm tốt
đẹp của cơ. Cảm ơn cơ vì những tình
cảm cơ đã giành cho em. Cảm ơn những
bài học đơn giản nhưng sâu sắc mà cô đã
dạy, để cho em bước chân vào cuộc sống
và thấy mình trưởng thành hơn khi va



vấp sau những bước ngã đầu tiên. Lời
bài hát ngày nào em vẫn nhớ…


<i>“Thưa thầy em đã thuộc bài học sáng </i>
<i>nay trong bài giảng có bụi phấn trắng </i>
<i>bay bay trên tóc thầy... Giọng thầy như </i>
<i>tiếng hát, lời thầy như bài thơ, cho em </i>
<i>những ước mơ tới chân trời rộng mở. </i>
<i>Bài học đầu tiên, có bóng hình núi sơng </i>
<i>u thương những cánh đồng nối tiếp </i>
<i>đường cha ông. Bài học đầu tiên ấm êm </i>
<i>lời ru của mẹ con cò trắng bay qua câu </i>
<i>ca dao ngọt ngào...”<b>( Bài học đầu tiên. </b></i>
<i><b>Nhạc sĩ: Trương Xuân Mẫn)</b></i>…Cô đã
mang đến cho em bài học đầu tiên về
lòng dũng cảm và quyết tâm khơng bao
giờ từ bỏ ước mơ của mình – ước mơ về
những cánh cị bay hồi khơng mỏi…
<i>Học trị của cơ </i>


<i>Đàm Thị Khánh Vân-9B</i>


<b>TÂM HỒN RỘNG MỞ</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

lâng lạ thường. Và từ đâu, những kí ức
hiện lên trước mắt con, dường như còn
nguyên vẹn, như thể con vẫn đang được
sống trong những ngày tràn đầy hạnh
phúc ấy.



Học với thầy thật thoải mái, con khơng
biết tới hai chữ “gị bó” là gì. Chúng con
được tranh luận với các bạn, với thầy
mọi điều thấy khúc mắc. Thầy không bắt
chúng con phải thế này, hay phải thế kia,
mà cứ để cho trí óc của học trị được
thoả sức sáng tạo. Chúng con khơng cảm
thấy những cái gọi là ngần ngại, xấu hổ,
…thế nên đây có lẽ đã trở thành một
ngơi nhà. Thầy khơng có những cách
dạy q đặc biệt, nhưng thầy vẫn là
riêng thầy, chúng con đều thấy rất thú vị.
Trong suốt những năm dạy học về trước,
thầy đã khổ cơng sưu tập rất nhiều đề
tốn hay, đó là những tập giấy dày cộp
đã phai màu. Học với thầy cần phải có
cái đầu ngỗ nghịch nhưng sáng tạo và
tiếp thu nhanh. Và nếu những học sinh
sau này của thầy đều giống chúng con,
thì tất cả sẽ nhận thấy được rõ ở thầy
tâm huyết. Trong tim thầy luôn trào
dâng những giọt nhiệt huyết và tình
thương học trị vơ bờ bến. Con cũng
không biết phải diễn tả như thế nào, bởi
lẽ, những người trong cuộc sẽ cảm nhận
điều đó bằng suy nghĩ và con tim, cịn
với ngơn từ, con sẽ khó lịng mà thể hiện
được hết.



Con biết thầy vẫn ln ở phía sau
chúng con và tiếp cho chúng con động
lực, thắp sáng những ước mơ của chúng
con. Thầy là thầy, là cha và là người bạn
lớn. Với tất cả tấm lịng mình, con và
các học trò muốn chúc thầy:


Ngàn lời chúc tuyệt vời
Vạn trái tim biết nói
Nhiều nụ cười trên môi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

<i><b> </b></i>


<i><b>CÔ MÃI TRONG TRÁI TIM CON</b></i>


<i> “ Người thầy vẫn lặng lẽ đi về sớm </i>
<i>trưa, từng ngày giọt mồ hôi rơi nhẹ </i>
<i>trang giấy, để em đến bên bờ ước mơ, </i>
<i>dù năm tháng sơng dài gió mưa cành </i>
<i>hoa trắng vẫn lung linh trong vườn xưa </i>
<i>”</i>. Mỗi khi lời bài hát ấy vang lên lại gợi
cho tôi nhớ về cô - một người nghiêm
khắc nhưng cũng rất mực dịu hiền , một
người cơ ln hết lịng tận tuỵ với học
trị và tận tâm với nghề. Đó là cơ giáo
dạy văn và cũng là cô chủ nhiệm lớp tôi
những năm cuối cấp.


Hồi ấy khác với những người
bạn cùng lớp, tôi là một học sinh trầm


tính, ít nói. Hơn nữa, tơi lại học khá môn
văn nên dường như sự quan tâm chú ý
của cô đối với tôi cũng nhiều hơn. Trong
giờ học, cô hướng ánh mắt về tôi, gọi tôi
phát biểu để lôi kéo tôi vào những bài
giảng văn. Nhưng chính sự khác biệt
trong cách xử sự của cơ lại gây cho tơi
một cảm giác khó chịu, không thoải
mái.Cho đến buổi học hôm ấy, cô không
dạy văn như mọi ngày mà lại dạy thay
môn âm nhạc! Yêu cầu mà cô đưa ra làm
mỗi người sẽ phải đứng trước lớp trình
bày một bài hát. Cả lớp ai cũng ồ lên,
đầy háo hức, ngoại trừ tơi. Với một học
sinh như tơi, trình bày một điều gì đó đã
là q đỗi khó khăn chứ chưa nói đến
việc tơi sẽ phải hát cho cả lớp nghe! Đó
là điều mà tơi chưa bao giờ ngờ tới.Thật
may, cuối cùng tôi cũng đã nghĩ ra cách
đối phó, tơi sẽ khơng hát một mình mà
sẽ rủ đứa bạn thân lên hát cùng. Lần
lượt, lần lượt từng người trong lớp cũng
hoàn thành xong bài hát của mình, theo
một cách rất hào hứng. Đến lượt tôi,


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

viết bài và chỉnh sửa những lỗi sai ngay
khi tôi mắc phải, tơi cũng khơng để tâm,
thậm chí cịn thờ ơ với những điều cơ
nói. Cũng từ ấy mà những bài kiểm tra
của tôi điểm thấp đi trông thấy, tơi càng


lấy đó là cái cớ để khăng khăng giữ cái
suy nghĩ rằng cô không ưa tôi nên cơ
mới cho tơi điểm kém, và dù tơi có cố
gắng mấy đi chăng nữa những bài văn
của tôi cũng chẳng thể được điểm cao.
dần dần những ác cảm trong tôi về cô
càng trở nên sâu sắc hơn, và dường như
niềm u thích của tơi đối với mơn văn
cũng theo đó mà tan biến mất. Thời gian
dần trôi đi, ngày thi tuyển sinh vào lớp
10 cũng đã cận kề. Chỉ còn một tháng
nữa thơi, một tháng nữa tơi sẽ bước vào
phịng thi sau cả một quãng thời gian
chuẩn bị. Vẫn đi học ơn đều đều, nhưng
dường như tơi đón nhận những kiến thức
văn học bằng tất cả sự thờ ơ, lãnh đạm
có thể có. Như cảm nhận thấy khơng khí
nặng nề trong lớp học, trong một buổi
chiều, cơ dành nhiều thời gian hơn để trị
chuyện với chúng tơi. Cô tâm sự về
những điều mà cô mong muốn ở chúng
tôi không phải là điểm số mà là những gì
chúng tơi đã học được sẽ có ý nghĩa cho
cuộc sống sau này. Cô chia sẻ với chúng
tôi về những khó khăn trong nghề nhà
giáo về cái lần trời mưa mà giữa đường
lại bị hỏng xe phải khó khăn lắm cơ mới
về được đến nhà, về cảm giác hổ thẹn
khi cô không thể làm tròn trách nhiệm
của một người vợ, người mẹ trong gia

đình, về nỗi lo lắng khi học sinh của cơ
khơng thích học văn, và về niềm tự hào
khi những người học trò cũ vẫn về thăm
và kể cho cơ nghe về những thành tích
đã làm được. Nhìn vào ánh mắt cơ, một
cảm giác hổ thẹn chợt len lỏi trong tôi .


Tôi chợt nhận ra mình đã q ích kỉ khi
nghĩ những quan tâm, lo lắng mà cô
dành cho tôi là sự phân biệt đối xử. Tơi
hồn tồn khơng có quyền trách móc khi
cơ đã cố gắng giúp tơi hiểu sự tự tin có ý
nghĩa quan trọng như thế nào với cuộc
sống. Tại sao cô phải đi dạy xa nhà? Tại
sao cô phải hi sinh thật nhiều để rồi nhận
lấy những trách móc, ghét bỏ từ chính
đứa học trị mà cơ đã hết lịng nâng đỡ
dìu dắt ấy? Tôi chợt cảm thấy hối hận vô
cùng. Ngay lúc ấy, tơi đã nhận ra rằng
những gì tơi cần làm là phải cố gắng, cố
gắng thật nhiều để có thể làm hết khả
năng của mình và để bù đắp những lỗi
lầm mà tôi đã gây ra. Những buổi học
sau đó, tơi thấy hứng thú hơn với những
bài học văn, khơng biết là vì lịng nhiệt
huyết, tình u nghề của cơ đã khiến tơi
say mê hay bởi vì tơi đã tìm lại được
niềm u thích mà tự tơi đã đánh mất vì
những hiểu lầm, vì sự nản chí, thờ ơ với
mơn học này. Và kì thi tuyển sinh năm


ấy tơi đã đạt điểm rất cao nhưng điều đó
khơng cịn q quan trọng mà quan
trọng hơn là chúng tơi biết cách đương
đầu với những khó khăn trở ngại, biết
được rằng khi ta làm mọi thứ với tất cả
niềm say mê, bằng tất cả khả năng của
mình thì dù kết quả ra sao cũng không
cảm thấy hối tiếc. Cô đã dạy cho chúng
tôi bài học về sự tự tin, về niềm tin và
lịng say mê – những bài học có lẽ sẽ
theo tôi đi hết cuộc đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

nhớ hoặc cũng có thể qn đi đứa học
trị nhút nhát mà cơ đã dìu dắt năm nào.
Nhưng có một điều chắc chắn, tơi sẽ
chẳng bao giờ quên cô, quên đi bài học
làm người mà cô đã dạy. Chỉ mong sao
bài viết này sẽ thay tôi gửi đến cô lời tri
ân chân thành, sâu sắc.


<i>Học trị cũ mãi nhớ ơn cơ</i>
<i>Trần Minh Phương Anh-9C</i>


Khố học 2001-2002



<i><b>Đại dương khơng bão tố </b></i>



“Các em cho tôi biết, trên thế giới
này có mấy đại dương?” Cơ hỏi, dáng cơ
khơng cao nhưng cô đầy đặn phúc hậu,


giọng cô vang, hùng hồn.


Cả lớp đồng thanh rất to: “Thưa cô
có 4 đại dương là Thái Bình Dương, Đại
Tây Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng
Dương”.


“Thiếu”. Lớp ngơ ngác. Cô tỉnh
khô.


Còn một đại dương nữa chứa đầy
bão tố mà hơm nay các em mới có điều
kiện khám phá. Đó là Trần Thị Đại
Dương ! Xin giới thiệu với các anh chị


tôi là Trần Thị Đại Dương – giáo viên
mới chuyển về trường và tôi sẽ phụ trách
môn Địa lý lớp ta trong năm học này.
“Vỗ tay”. Cơ hồn thành xuất sắc
cuộc ra mắt đầy ngoạn mục và ấn tượng.
Cô vào lớp như thường lệ cả lớp đứng
lên cái rụp. Rồi lại cười ré lên, rồi đột
ngột im, phút địa chấn 6,5 độ rích te
diễn ra rất nhanh. Đâu lại vào đấy!
Giờ giảng bài của cơ con kiến bị
cũng nghe thấy tiếng động. Chẳng tên
thảo dân nào dại dột không tự lượng sức
mình đám mảnh khảnh chống thuyền ra
khơi đối đầu với đại dương vạm vỡ đầy
bão tố. Cơ nói:



- "Mơn học của tơi là mơn phụ. Q vị
thích thì học khơng thích mời ra ngồi
chơi tơi cho phép"


Chớ dại! nói vậy mà khơng phải
vậy. Dĩ nhiên chẳng tên học trị nào nói
mình khơng thích cả, thích tuốt.


Học cô lơ tơ mơ là xơi chữ 0 tròn
ngay,nhưng đặc biệt được xơi chữ 0
cũng không hề dễ chút nào như thằng
Hậu, dù mấy lần năn nỉ cơ cho nó điểm
0 để về chỗ vì nó thuộc dạng “người
nghệ sĩ lang thang hồi trên phố” thì cơ
dứt khốt khơng chịu. Khơng thuộc bài
thì lần sau gọi tiếp, gọi tiếp khi nào
thuộc thì thơi. Vậy mà có lần uống thuốc
liều, thằng Phái giơ tay hỏi “Thưa cơ nơi
nào lạnh nhất thế giới”.


”Nam cực! Nói chung là vùng cực” - Cô
tỉnh khô.


Thưa cô Nam cực, Bắc cực cũng
chưa lạnh bằng Dương cực?


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

đầu tiên cả lớp gãi đầu có cảm giác áy
náy, có lỗi với cơ.



Cuối năm lớp 9, chúng tôi nhận tin thi
vào cấp 3 môn thứ ba là môn Địa.
Những lớp khác ai nấy mặt đều có cảm
giác chán ngán và lo lắng. Nhưng lớp tôi
tự dưng ai nấy đều cảm thấy vui và tự
tin. Giờ chia tay cuối năm cô là người
phát biểu cuối cùng. Cả lớp nín thở cơ
cảm ơn tất cả các em.


- “Dẫu sao cũng mong các em hiểu ra
nơi lạnh nhất thế giới không phải là
Dương cực”


Tất cả chúng tôi nghe cay cay sống mũi.
Sau đó lớp trưởng lớp tơi thay mặt lớp
nói với cơ một câu hoa mĩ mà chân
thành cảm động.


“Thưa cô đại dương lạnh lẽo nhất
chứa đầy bão tố những đại dương cũng
chất chứa tình người. Tất cả chúng em
xin cúi đầu trước Biển Cả”


Tuy bây giờ, chúng tơi khơng cịn
học cơ nữa nhưng những kỷ niệm về cô
luôn làm cho chúng tôi luôn nhớ về mỗi
khi gặp nhau, cô là một tấm gương cho
chúng tôi noi theo. Chỉ mong rằng bài
viết này thay tôi gửi lời cảm ơn chân
thành đến cô – là đại dương thứ 5 trên


thế giới - Đại dương không bão tố


(<i>Nguyễn Thị Thuỳ Linh)</i>


<b>TH</b>

<b>ẦY</b>



Cơn gió vơ tình thổi mạnh sáng nay
Con bỗng thấy tóc thầy bạc trắng
Cứ tự nhủ rằng đó là bụi phấn


Mà sao lịng xao xuyến mãi không nguôi


Bao năm rồi ? Đã bao năm rồi? Thầy ơi!
Lớp học trò ra đi, còn thầy ở lại


Mái chèo đó là những viên phấn trắng
Và thầy là người đưa đò cần mẫn
Cho chúng con định hướng tương lai
Thời gian ơi xin dừng lại đừng trôi
Cho chúng con khoanh tay cúi đầu lần
nữa


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

Các nguyên liệu phụ như lạc, vừng được
rang chín giịn, xát bỏ vỏ. gạo nếp hoa
vàng được rang nổ bỏng, nở tung, sạch
trấu, dậy mùi thơm. Mỡ lợn muối đường
hơn nửa tháng, thái nhỏ như hạt lựu, xào
ngọt lấy độ trong, giòn. Cà rốt xào nước
đường, nước gừng, vỏ quýt tươi. Cho
các nguyên liệu đã chuẩn bị trộn đều với


đường mía, đun nóng trên chảo đến khi
đạt tới mùi thơm thích hợp thì đưa vào
khn gỗ được chuẩn bị sẵn, có lót vừng
bên trong, nhồi nén cho bánh trở nên
cứng, sau đó lấy ra cho vào bao bì, ta sẽ
được bánh cáy thành phẩm. Bánh không
phơi nắng, không sấy qua lửa nhưng để


được rất lâu nếu làm đúng kỹ thuật.
Nghe tên bánh cáy nhiều người ngỡ đây
là loại bánh làm từ con cáy biển, nhưng
khơng phải. Bánh cáy được làm hồn
tồn bằng gạo nếp, lạc, vừng và các gia
vị cũng như các loại hoa lá để tạo mầu
cho bánh. Dân gian có truyền thuyết
rằng loại bánh này là do thần cáy biển
ban cho. Thuở ấy, cả một vùng phía Tây
tỉnh Thái Bình vẫn cịn là những bãi lầy
ven biển, cửa biển Đan Nhai cách không
xa làng Nguyễn là mấy Không biết
truyền thuyết kia đúng được bao nhiêu
phần nhưng nếu nhìn kỹ lát bánh cáy,
những màu vàng trắng xen lẫn hồng cam
cho ta cảm giác nó giống như trứng cáy.


<b>CÙNG EM GIỚI THIỆU SẢN VẬT VÀ DANH THẮNG QUÊ HƯƠNG</b>



<b>BÁNH CÁY THÁI BÌNH</b>


Bánh cáy là một loại bánh dân dã mà ngoài quê lúa Thái Bình thì chưa thấy ở đâu có.


Ngay cả tại Thái Bình, chỉ bánh cáy được làm bởi những nghệ nhân làng Nguyễn
(huyện Đông Hưng) mới là loại ngon và có tiếng nhất.


Từ thành phố Thái Bình, theo Quốc lộ 10 tới thị trấn Đông Hưng, rẽ trái sang Quốc lộ
39, đi một đoạn là tới làng Nguyễn quê hương của bánh cáy. Làng Nguyễn rất nổi tiếng
với các sản phẩm của nghề dệt, nghề chế biến thực phẩm nhưng đồ q tiến vua thì chỉ
có bánh cáy.


Làm bánh cáy khá phức tạp. Nguyên liệu chính là gạo nếp, các nguyên liệu phụ thì rất
nhiều: gấc, quả hoặc là lá dành dành, lạc, vừng, cà rốt, gừng, vỏ quýt, mỡ lợn.


Gạo nếp làm bánh được chia làm 2 phần, một phần đồ xôi với nước quả gấc tạo nên
màu hồng thắm; phần còn lại đồ xôi với nước quả dành dành tạo nên màu vàng tươi.
Hai loại xôi này đều được giã bằng chày như làm bánh dầy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

Cũng có thể đây là lý do mà loại bánh cổ
truyền này có tên là bánh cáy. Nhưng có
lẽ do loại bánh cổ truyền này có vị hơi
cay khi ăn nên gọi là bánh cay, rồi dần
dần gọi lệch sang thành bánh cáy


<i> (Cơ giáo Bùi Thị Chiều-st)</i>


<b>NHỚ MÙA CỐM VỊNG</b>


<b> </b>


<b>"Mùa thu, mùa cốm vào ngay mùa </b>
<b>hồng" (Nguyễn Bính)</b>



Khơng biết nhà thơ của hương đồng
gió nội này đã ở Hà Nội bao lâu mà sao
lại gọi đúng vị mùa thu Hà Nội đến thế.
Hàng năm cứ mỗi độ thu về là người Hà
Nội lại nao nao như chờ đợi một cái gì
đó. Chỉ đến khi nghe tiếng rao trong trẻo
cất lên: Ai cốm Vòng ơ! mới thấy lịng
nhẹ nhõm. Mà cũng lạ thật!


Nói đến cốm, chưa cần ăn, chỉ nghĩ
thôi cũng đã thấy ngất lên mùi thơm dịu
của lúa non xanh màu lưu ly được gói
trong những tàu lá sen thơm ngát màu
ngọc thạch. Cốm Vòng quả là một thứ
đặc biệt trong mọi thứ quà Hà Nội.
Không biết tự bao giờ người làng Vòng
ở huyện Từ Liêm ngoại thành Hà Nội đã
tạo được một món ăn tuyệt vời và độc
đáo đến thế. Cốm Hà Nội mới đích thực


là cốm, mà chỉ có cốm làng Vòng mới
ngon, mới nổi tiếng. Kẻ Lủ cũng làm
cốm, nhưng cốm Kẻ Lủ chỉ bán trong
làng. Có người cho rằng, ở làng Vịng có
giống nếp vàng, giống này khi cịn non
gặt về, đồ chín, giã nhanh, đều tay, sàng
sảy, ủ kín mới có được cái loại cốm dẻo
và thơm như thế . Còn màu xanh hấp
dẫn đó thì do hồ thêm nước lá cơm xơi.
Hà Nội có mùa cốm. Sáng sớm tinh


mơ đã có cốm. Cốm được gói từng gói
trong lá sen. Cốm ăn bằng tay, lấy ngón
tay nhón từng nhúm nhỏ đưa vào miệng,
nhai nhỏ nhẹ, hương cốm thơm rất dễ
chịu. Mua cốm là phải ăn ngay, nếu để
lâu, cốm se lại, khô đi, mất độ dẻo. Cốm
gói trong lá sen là để cho khỏi khô và
đượm lấy hương thơm ngát của lá sen tơ,
làm tăng thêm vị cốm. Cốm để khô có
thể đem thắng nước đường làm món
cốm xào. Đây cũng là món cốm người
Hà Nội thích ăn. Ngồi ra cốm cịn được
làm thành món chả cốm rất ngon. Nhưng
thích nhất vẫn là cốm tươi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

<b>DI TÍCH LỊCH SỬ</b>



Thái Bình là mảnh đất địa linh


nhân kiệt có truyền thống và


lịch sử lâu đời. Mảnh đất ấy


gắn liền với bao di tích lịch sử,


bao nét văn hoá dân gian


truyền thống độc đáo. Và nếu


là người dân Thái Bình, dù đi


đâu xa chúng ta cũng ln nhớ


mãi về ngôi chùa cổ linh


thiêng, uy nghi vững trãi cùng


thời gian năm tháng, một biểu


tượng của văn hoá dân gian


Thái Bình: Chùa Keo




<b> CHÙA THẦN QUANG</b>
<b> (CHÙA KEO)</b>


Chùa thường gọi là chùa Keo, tọa lạc
ở xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái
Bình.


Chùa ban đầu có tên là Nghiêm


Quang, được dựng từ năm 1067 ở hương
Giao Thủy, cạnh bờ sông Hồng. Đến
năm 1167, chùa mới đổi tên là chùa
Thần Quang. Do ảnh hưởng mực nước
sông Hồng, từ năm 1611, chùa đã được
dân làng dời đi, lập lại chùa mới ở Nam
Hà và Thái Bình. Việc dựng chùa mới
được bắt đầu từ năm 1630, hoàn thành
năm 1632. Chùa được trùng tu nhiều lần
vào các thế kỷ XVII, XVIII và năm
1941. Chùa có quy mơ kiến trúc rộng
lớn trên một khu đất khoảng 58.000m.
Điện Phật được bài trí tơn nghiêm. Sau
chùa Phật có đền thờ Thiền sư Khơng
Lộ, người khai sơn ngơi chùa vào thời
Lý. Cơng trình kiến trúc nổi tiếng của
chùa là gác chuông. Gác chng cao
11,04m, có 3 tầng mái. Tầng một có treo
một khánh đá (dài 1,87m), tầng hai có
quả chng đúc năm 1686, tầng ba và


tầng thượng có chng đúc năm 1796.
Chùa là ngôi cổ tự nổi tiếng bậc nhất ở
Việt Nam. Chùa đã được Bộ Văn hóa
cơng nhận là (Di tích lịch sử - văn hóa
quốc gia).


Hằng năm vào ngày mồng 4 tháng
giêng âm lịch, nhân dân làng Keo xã
Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái
Bình lại mở hội xuân ngay ở ngôi chùa
mang tên làng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

ngày Thiền sư Không Lộ (1016-1094),
người sáng lập ngôi chùa, qua đời (Ngài
qua đời ngày 3 tháng 6 Âm lịch). Trong
ngày hội, người ta tổ chức lễ rước kiệu,
hương án, long đình, thuyền rồng và tiểu
đỉnh. Trên con sông Trà Lĩnh ngang
trước chùa chảy ra sông Hồng, người đi
hội đổ về xem cuộc thi bơi trải, thi kèn
trống, thi bơi thuyền và biểu diễn các
điệu múa cổ. Trong chùa thì có cuộc thi
diễn xướng về đề tài lục cúng: hương,
đăng, hoa, trà, quả, thực, thật sinh động.
<i><b>Dù cho cha đánh mẹ treo, </b></i>


<i><b>Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm. </b></i>


Nếu có dịp về thăm chùa Keo, thì du
khách hãy đến vào hội mùa thu. Từ


thành phố Nam Định, qua phà Tân Đệ,
rẽ phải, theo đê sông Hồng, đi khoảng
10 km là đến chùa. Nằm ở chân đê sông
Hồng giữa vùng đồng bằng không một
bóng núi non, chùa Keo với gác chng
nhưmột hoa sen vươn lên giữa biển lúa
xanh rờn được vun bón bởi phù sa sơng
Hồng do nước sơng Trà Lĩnh bồi đắp.
Chùa Keo có tên chữ là Thần Quang
Tự, được xây dựng từ năm 1630 đến
năm 1632 theo phong cách kiến trúc thời
Lê, nhờ sự vận động của bà Lại Thị
Ngọc, vợ Tuần Thọ Hầu Hồng Nhân
Dũng, và Đơng Cung Vương phi Trịnh
Thị Ngọc Thọ.


Nhưng lịch sử của ngơi chùa thì có bề
dày đến hơn chín thế kỷ. Theo sách
Khơng Lộ Thiền sư ký ngữ lục, năm
1061, Không Lộ dựng chùa Nghiêm
Quang tại làng Giao Thủy (tên nôm là
làng Keo) bên hữu ngạn sông Hồng. Sau
khi Thiền sư Không Lộ qua đời, chùa
Nghiêm Quang được đổi tên là Thần
Quang Tự. Theo thời gian, nước sơng
Hồng xói mịn dần nền chùa và đến năm


1611, một trận lũ lớn đã cuốn trôi cả
làng mạc lẫn ngôi chùa. Dân làng Keo
phải bỏ quê cha đất tổ ra đi: một nửa dời


về đông nam hữu ngạn sông Hồng, về
sau dựng nên chùa Keo - Hành Thiện
(nay thuộc tỉnh Nam Định); một nửa
vượt sông đến định cư ở phía đơng bắc
tả ngạn sơng Hồng, về sau dựng nên
chùa Keo - Thái Bình này.


Văn bia và địa bạ chùa Keo còn ghi lại
diện tích tồn khu kiến trúc chùa rộng
đến 58.000 m2. Hiện nay tồn bộ kiến
trúc chùa cịn lại 17 cơng trình gồm 128
gian xây dựng theo kiểu "Nội cơng
ngoại quốc". Từ cột cờ bằng gỗ chị
thẳng tắp cao 25 m ở ngoài cùng, đi qua
một sân lát đá, khách sẽ đến tam quan
ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh
cửa chạm rồng chầu (thế kỷ 16). Sau đó
là chùa thờ Phật, gồm ba ngôi nhà nối
vào nhau. Trong cùng là tịa gác chng,
nhà tổ và khu tăng xá.


Gác chng chùa Keo là một cơng
trình nghệ thuật bằng gỗ độc đáo, tiêu
biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thời hậu
Lê. Được dựng trên một nền gạch xây
vuông vắn, gác chuông cao 11,04 m
gồm 3 tầng mái, kết cấu bằng những con
sơn chồng lên nhau. Bộ khung gác
chuông làm bằng gỗ liên kết với nhau
bằng mộng ngậm, nâng bổng 12 mái


ngói với 12 đao loan uốn cong dáng vẻ
thanh thoát, nhẹ nhàng. Tầng một treo
khánh đá 1,20 m và chng đồng cao
1,30 m, đường kính 1m đúc vào thời Lê
Hy Tông (1686); hai tầng trên treo
chng nhỏ cao 0,62m, đường kính 0,69
m đúc vào năm 1796.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

quý giá mà còn chứa đựng những điều
huyền bí gắn liền với cuộc đời Thiền sư
Không Lộ. Theo sách Trùng san Thần
Quang Tự Phật tổ bản hành thiền uyển
ngữ lục tập yếu, Thiền sư Không Lộ vốn
họ Dương, sinh ra trong một gia đình
ngư phủ, xuất gia theo Thiền sư Lôi Hà
Trạch.


Tương truyền rằng từ khi đắc đạo,
Thiền sư Khơng Lộ có khả năng bay trên
không, đi trên mặt nước và thuần phục
được rắn, hổ. Truyền thuyết còn kể rằng
trước khi viên tịch, Ngài hóa thành khúc
gỗ trầm hương, lấy áo đắp lên và khúc
gỗ biến thành tượng. Thánh tượng này
nay còn lưu giữ trong hậu cung quanh
năm khóa kín cửa.


Cứ 12 năm một lần, làng Keo lại cử ra
một người hội chủ và bốn viên chấp sự
để làm lễ trang hoàng tượng Thánh.


Những người này phải ăn chay, mặc
quần áo mới, họ rước thánh tượng từ
cấm cung ra rồi dùng nước dừa pha tinh
bưởi để tắm và tô son lại cho tượng
Thánh. Công việc này phải làm theo một
nghi thức được quy định rất nghiêm
ngặt, những người chấp sự phải tuyệt đối
giữ kín những gì đã thấy trong khi trang
hoàng tượng Thánh.


Đến thăm chùa, khách có thể nhìn thấy
những đồ thờ quý giá tương truyền là đồ
dùng của Thiền sư Không Lộ như một
bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vơi to
và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà
người ta kể lại rằng chính do Khơng Lộ
nhặt được thuở cịn làm nghề đánh cá và
giữ làm chén uống nước trong những
năm tháng tu hành.


Thật đáng tự hào biết bao khi chúng ta
được chiêm ngưỡng một di tích lịch sử
quê hương đẹp và có giá trị như vậy. Để


ngơi chùa cổ được mãi mãi cịn lại với
thời gian, bạn ơi chúng ta hãy nhắc nhau
có ý thức gìn giữ và bảo vệ nhé. Chùa
Keo không chỉ là niềm hãnh diện của
người dân Thái Bình đâu mà cịn là một
nét kiến trúc đọc đáo ghi dấu một thời


trong lịch sử dân tộc nữa đấy.


Hãy một lần đến với nơi cổ tự này bạn
nhé!




<i><b>Hai mươi tháng mười một kỉ niệm </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

<i> Ơn tình thầy bao la</i>
<i> Bát ngát như rừng hoa</i>
<i> Vì đàn em thân yêu</i>
<i> Vì đàn em thân yêu…</i>


Đã lâu lắm rồi tôi mới được nghe
lại bài hát ngọt ngào này. Vẫn cái cảm
giác êm ấm, vẫn tự dưng cay cay ở sóng
mũi trước những lời ca tha thiết, chân
tình, vẫn là cảm xúc của lần đầu hát lên
nó. Bài hát dẫn tơi về với những kỉ nệm
xa xưa, gợi tôi nhớ đến những thầy cơ
giáo của mình biết bao, những người
nghiêm khắc, những người dịu hiền,
những người đã đi xa và cả những người
tôi chưa một lần gặp lại.


Hai mươi tháng mười một năm ấy là một
ngày mưa tầm tã. Tôi đến thăm thầy giáo
dạy lớp một, tôi lúng túng hệt như ngày
đầu tiên đến lớp vì sợ thầy khơng nhận


ra mình. Bấm chng rồi nghe tiếng thầy
vồn vã: “Sang phải không con? Vô nhà
đi kẻo lạnh!”. Thầy vẫn vậy, vẫn vui vẻ,
vẫn hiền hịa với đơi mắt trìu mến. Giờ
đây trên tóc thầy đã điểm những sợi bạc
và vầng tráng cũng đã líu nhíu nếp
nhăn… Thầy nhận bông hồng nhỏ từ tay
tôi, cười thật hiền: “Hôm nay thầy chẳng
dám đi đâu, sợ học trị tới lại khơng gặp,
tội nghiệp!”. Tơi cầm lấy bàn tay giờ đã
khơ ráp vì bụi phấn, bàn tay vẫn nắn nót
viết câu cách ngơn lên bảng mỗi đầu
tuần, bàn tay đã dìu nét chữ tơi viết nên
câu “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Ngày
trước thầy đã giúp một bạn cùng lớp với
tôi, từ một học sinh lười biếng không lo


học mà giờ đây bạn ấy đã cần cù, siêng
năng và học thật tốt nên chúng tôi
thương thầy vô hạn. Giọng nam thật
hiền, thật ngọt, thủ thỉ dặn tôi: “Ráng
học giỏi nghe con, rồi mai mốt lại về
thăm thầy.”. Chỉ như thế thôi mà tôi
không thể nén được cảm xúc trong lịng
mình và đối với tôi thầy thật thiêng
liêng, cao cả.


<i>Khi tóc thầy bạc</i>
<i> Tóc em vẫn cịn xanh</i>
<i> Khi tóc thầy bạc trắng</i>


<i> Chúng em đã khôn lớn rồi.</i>


Thầy ơi, cảm ơn Người thật
nhiều, cảm ơn tóc Người đã bạc cho
chúng con nên người…


<b> Bạn đọc thân mến!</b>





</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

Thay cho lời kết, thay cho tấm lòng
một người trò cũ xin gửi tới thầy cô
lời tri ân sâu sắc. Và cũng thay lời
cho các thầy các cô xin gửi tới các
em, những học trò trong vòng tay
thân thương, những tình cảm tốt đẹp
nhất. Mong rằng, cuộc đời này dẫu
cịn cạm bẫy, những khó khăn nhưng
tình cảm thầy-trị ln là một thứ tình
cảm trong sáng nhất!


</div>

<!--links-->
Một số vấn đề lý luận cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nền kinh tế thị trường
  • 61
  • 605
  • 1
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×