Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Bước đầu nghiên cứu sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (ở hai thể loại Kịch bản văn học và truyện ngắn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 114 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
--------------------------------

NGUYỄN THUÝ QUỲNH



BƢỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU SỰ NGHIỆP VĂN
CHƢƠNG CỦA NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC
(Ở HAI THỂ LOẠI: KỊCH BẢN VĂN HỌC VÀ TRUYỆN NGẮN)

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS – TS Trần Thị Việt Trung


THÁI NGUYÊN – 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
MỤC LỤC


Phần mở đầu:…………………………………………………………………..2


Chƣơng I: Vài nét về đời sống xã hội - văn hóa Việt Nam giai đoạn
đầu thế kỷ XX và tác giả Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc…………………9
1.1. Đời sống xã hội – văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ảnh hưởng
đến việc hình thành ngòi bút Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………...9
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của tác giả Nam Xương
- Nguyễn Cát Ngạc………………………………………………………… 17
Chƣơng II. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật kịch bản
của Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc……………………………………...26
2.1.Tóm tắt các kịch bản của Nam Xương…………………………………....26
2.2. Một số đặc điểm nổi bật về nội dung tư tưởng của
kịch Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………………………………..31
2.3. Một số đặc điểm nổi bật về nghệ thuật
của kịch Nam Xương- Nguyễn Cát Ngạc……………………………………49
Chƣơng III. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật
truyện ngắn của Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc………………………...67
3.1. Vài nét về tình hình sáng tác truyện ngắn
của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………………………………..67
3.2. Một số đặc điểm nổi bật về nội dung truyện ngắn
của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc…………………………………………69
3.3. Một số đặc điểm nổi bật về nghệ thuật truyện ngắn của
Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc……………………………………………..93
Kết luận ………………………………………………………….. ……….107
Tài liệu tham khảo………………………………………………………. ..110




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3



PHẦN MỞ ĐẦU



1. Lý do chọn đề tài
Với hai kịch bản nổi tiếng một thời (giai đoạn đầu thế kỷ XX) là Ông
Tây An Nam và Chàng Ngốc, trong mấy chục năm qua, Nam Xương - Nguyễn
Cát Ngạc đã được các nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam khẳng định là một
trong những tác giả đầu tiên tham gia xây dựng nền móng của nền kịch nói
Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, ngoài sự khẳng định trên, cho đến nay, sự
nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chưa được nghiên cứu một cách
hệ thống và đầy đủ, cho dù sau khi hy sinh ở miền Nam vào năm 1958, ông
đã để lại một di sản văn chương khá phong phú. Trên thực tế, ngoài việc giới
thiệu khái quát tên tuổi của Nam Xương trong một số công trình nghiên cứu
về văn học và sân khấu Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX, tên tuổi ông ít
được nhắc tới, và các nhà nghiên cứu cũng thường xem xét ông trong tư cách
tác giả kịch bản. Nhưng cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát
Ngạc không chỉ có vậy. Với lòng yêu nước sâu sắc, ngay từ đầu, ông đã dấn
thân vào phong trào yêu nước, rồi gia nhập đội ngũ của những người cộng
sản, ông đã hai lần nhận án tử hình của Nhật và Pháp, và cuối cùng ông đã hy
sinh ở miền Nam năm 1958 với cương vị là chiến sĩ tình báo của cách mạng.
Trên bước đường hoạt động ấy, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc vẫn tiếp tục
sáng tác trên nhiều thể loại, từ kịch bản tới tiểu thuyết, truyện ngắn, một vài
thể loại khác và bộ phận chủ yếu của di sản này vẫn chưa được công bố. Vì
thế, giới nghiên cứu vẫn chưa có điều kiện tiếp xúc và khảo sát toàn bộ những
sáng tác của ông, và đó là lý do giải thích vì sao sự nghiệp văn chương của
ông lại chỉ được nghiên cứu một cách hạn hẹp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4

Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc bắt đầu sáng tác từ đầu những năm ba
mươi của thế kỷ trước. Trong giai đoạn này, công cuộc hiện đại hoá văn học
Việt Nam, như một yêu cầu khách quan của lịch sử, được hình thành từ giai
đoạn giao thời, đã phát triển một cách toàn diện. Sự ra đời của Thơ mới, của
tiểu thuyết và truyện ngắn, của nghệ thuật tạo hình, sân khấu kịch nói…đã tạo
nên một diện mạo mới của nền văn học - nghệ thuật nước nhà, tạo đà cho các
bước phát triển sau này. Chính vì thế, việc nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, đầy
đủ hơn về bối cảnh lịch sử - xã hội - văn hóa, về các tác giả đã đi tiên phong
trong giai đoạn đầu của công cuộc hiện đại văn học Việt Nam là hết sức quan
trọng và cần thiết. Nam Xương – Nguyễn Cát Ngạc là một trong những tác
giả như vậy. Nghiên cứu sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn
Cát Ngạc, chúng tôi mong muốn được khám phá và khẳng định vị trí của ông
đối với việc góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam
đầu thế kỷ XX.
Do sẵn lòng kính trọng và yêu mến những sáng tác của Nam Xương -
Nguyễn Cát Ngạc, đặc biệt là có may mắn được tiếp xúc với di cảo ông mà
gia đình ông còn lưu giữ, chúng tôi chọn đề tài Bước đầu nghiên cứu sự
nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (ở hai thể loại: kịch
bản và truyện ngắn) để bước đầu khảo sát về ông, với ý muốn phục dựng một
gương mặt văn học còn ít người biết tới. Sự phục dựng ấy có mục đích giới
thiệu và đưa ra một số nhận định bước đầu về đặc điểm sáng tác của Nam
Xương - Nguyễn Cát Ngạc, qua đó khẳng định những đóng góp của ông ở hai
thể loại: kịch bản và truyện ngắn. Ngoài hai thể loại này, ông còn sáng tác ở
các thể loại văn xuôi khác, nhưng trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn
cao học và do khả năng còn có giới hạn, nên chúng tôi chỉ đi sâu vào 2 thể
loại trên để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Là người tham gia hoạt động văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại từ

khá sớm và để lại dấu ấn qua hai kịch bản Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc
(trong đó, "ông Tây An Nam" đã trở thành một kiểu thành ngữ của người Việt
Nam khi đề cập tới những người Việt vọng ngoại, bắt chước phương Tây một
cách lố lăng), nhưng do nhiều biến cố của cuộc đời ông mà sự nghiệp của
Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chưa được giới nghiên cứu chú ý. Hơn nữa,
do sáng tác của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chủ yếu công bố trong vùng
tạm chiếm khi ông hoạt động công khai trong nội thành Hà Nội và sau đó vào
miền Nam hoạt động với danh nghĩa trí thức, nên việc sưu tầm tác phẩm của
Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc là rất khó khăn. Theo khảo sát bước đầu của
chúng tôi, cho tới nay đã có những công trình nghiên cứu sau đề cập đến tác
giả Nam Xương :
1. Bước đầu tìm hiểu Lịch sử kịch nói Việt Nam trước cách mạng tháng
Tám (Phan Kế Hoành - Huỳnh Lý, NXB Văn hoá, H.1978)
2. Từ điển Văn học, mục từ Nam Xương (bản in năm 1984)
3. Từ điển Văn học (bộ mới), mục từ Nam Xương (bản in năm 2005)
4. Văn học Việt Nam thế kỷ XX, GS Phan Cự Đệ chủ biên, NXB Giáo
dục, H.2004 (phần về kịch bản do PGS TS Phan Trọng Thưởng thực hiện).
5. Tổng tập văn học Việt Nam, tập 23, GS Đinh Gia Khánh chủ biên,
NXB Khoa học xã hội, H.1997.
6. Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, GS Hà Minh Đức chủ biên,
NXB Sân khấu, H.1997.
7. Bài báo Về tác giả vở kịch nói Ông Tây An Nam (Nguyễn Hòa, Tạp
chí Nghiên cứu văn học - Viện Văn học, số 7 năm 2001)
Trong các nguồn tư liệu này, thì ở 2 bộ từ điển chỉ giới thiệu về cuộc đời
và sự nghiệp của Nam Xương một cách khá sơ lược. Trong Từ điển Văn học,
mục từ Nam Xương, Trần Hữu Tá giới thiệu: "Nam Xương tham gia cách
mạng từ tháng Tám năm 1945, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
1948, làm công tác bí mật ở các thành phố Nam Định và Hà Nội. 1954, ông

được phái vào Sài Gòn công tác và hy sinh 1958. Thời gian hoạt động trong
vùng Hà Nội tạm bị chiếm (1948 - 1954), ông viết một tập truyện ngắn có giá
trị phê phán tích cực (Bụi phồn hoa), hai cuốn tiểu thuyết lịch sử đậm đà tinh
thần dân tộc (Bách Việt, Hùng Vương) và một vở kịch (Tây Thi). Dưới danh
nghĩa một nhà xuất bản tưởng tượng "Quê hương", ông đã in được hai cuốn
Bụi phồn hoa và Bách Việt nhằm động viên bạn đọc thành phố hướng về
chính nghĩa" [5, tr.11].
Chúng tôi xin giới thiệu một số đánh giá của các nhà nghiên cứu trong
các công trình trên:
Trong bài mở đầu cuốn Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX , có nhan
đề “Kịch nói Việt Nam, thời kỳ đầu hình thành và phát triển”, GS Hà Minh
Đức viết: “Nam Xương không trực tiếp đả kích vào bọn thực dân xâm lược,
mà phê phán đả kích vào cái hình bóng của nó qua những quái thai như Cử
Lân, một trí thức du học ở Pháp về và hoàn toàn mất gốc” “Chất hài trong
kịch Ông Tây An Nam của Nam Xương bộc lộ trong chiều sâu của xung đột
và tác giả biết dẫn dắt để nhân vật tự phơi bày những nghịch lý, những trò lố
lăng. Có thể xem đây là vở hài kịch thành công trong không khí chung của
thời kỳ này” [22, tr.12]
Trong công trình “ Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam” của
Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý, có viết: “Ở cuối thời kỳ này (thời kỳ 1927 -
1930, theo cách phân kỳ của 2 tác giả trên - NTQ), Nam Xương cũng để lại
hai vở kịch đáng chú ý là vở Chàng Ngốc và vở Ông Tây An Nam. Qua vở
Ông Tây An Nam, Nam Xương đả kích một bọn trí thức vong bản. Cũng qua
hai vở ấy, người ta thấy Nam Xương là người am hiểu về nghệ thuật kịch cổ
điển và có sở trường về lối hài kịch”.[13, tr42] Cũng trong cuốn sách trên,
Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý nhấn mạnh vị trí của kịch Nam Xương trong
sân khấu kịch nói đương thời: “... trong sự phát triển có thể nói là xô bồ của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
mấy năm 1929, 1930, 1931, người ta ít tìm thấy những vở có tiếng vang trong

kịch trường, trừ mấy vở của Nguyễn Hữu Kim, Vi Huyền Đắc, Tương Huyền
và nhất là của Nam Xương” [13, tr. 44].
Bài báo của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà viết: “Bằng hai vở
kịch nói Ông Tây An Nam (1930) và Chàng Ngốc (1931), Nam Xương -
Nguyễn Cát Ngạc đã cùng với Vi Huyền Đắc, Vũ Đình Long, Nguyễn Hữu
Kim…trở thành những nghệ sĩ đầu tiên đặt nền móng cho sự ra đời của
nghệ thuật kịch nói Việt Nam. Dù chỉ là đôi dòng, nhưng tên tuổi của Nam
Xương - Nguyễn Cát Ngạc thường được nhắc tới trong các công trình
nghiên cứu lịch sử văn học, nghiên cứu lịch sử sân khấu Việt Nam trong
những thập kỷ đầu của thế kỷ XX.”, “Có thể nói không quá lời rằng
Nguyễn Cát Ngạc, là một trong số ít các tác giả đầu tiên có những sáng tác
văn học về một gia đoạn lịch sử cách chúng ta rất xa là thời đại Hùng
Vương - một thời đại mà sử liệu hiện chỉ còn chủ yếu trong truyền
thuyết…Cho đến nay, truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc chưa được khảo
sát kỹ lưỡng. Có thể nhận xét, đây là những truyện ngắn được viết khá
công phu, được tổ chức theo lối kịch bản, có thắt nút cởi nút, đặc biệt tác
giả thường khai thác một cách tinh tế những tình huống có khả năng khắc
họa hình ảnh lố bịch của những kẻ bán nước hại dân. ”[14]
Có thể thấy rằng: hầu hết các công trình nghiên cứu trên đây chỉ mới
dừng ở những đánh giá ngắn gọn và khái quát về Nam Xương - Nguyễn
Cát Ngạc, chủ yếu ở vai trò một tác giả kịch bản giai đoạn đầu thế kỷ XX
trong một tổng thể chung của cả nền văn học hoặc riêng lĩnh vực kịch nói;
và mới chỉ có một bài báo của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà viết về
cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương. Toàn bộ sự nghiệp văn học của
Nam Xương nói chung và phần văn xuôi nói riêng chưa được khảo sát,
nghiên cứu. Bài báo của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà - tuy đã đề
cập tới phần văn xuôi của ông, nhưng cũng mới chỉ dừng ở việc đưa ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
những nhận định ban đầu. Chưa có công trình nào nghiên cứu sự nghiệp

văn chương của Nam Xương một cách hệ thống và hoàn chỉnh. Do đó,
việc nghiên cứu về Nam Xương là rất cần thiết.
3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong các
sáng tác của Nam Xương ở hai thể loại: kịch bản và truyện ngắn.
- Khẳng định các đóng góp của Nam Xương đối với sự hình thành và
phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại trong giai đoạn đầu thế kỷ XX ở
hai thể loại trên.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
- Toàn bộ các tác phẩm của Nam Xương, tập trung nghiên cứu các tác
phẩm kịch bản và truyện ngắn.
- Các tài liệu liên quan: các tác phẩm kịch bản, truyện ngắn cùng thời với
ông; các công trình nghiên cứu có đề cập đến sáng tác của Nam Xương.
- Các tài liệu lý thuyết, lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Chỉ ra được những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Nam
Xương trong thể loại kịch bản văn học.
- Chỉ ra được những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Nam
Xương trong thể loại truyện ngắn.
- Khẳng định vị trí, vai trò cùng những đóng góp quan trọng của Nam
Xương trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hoá nền văn học nước nhà ở
hai thể loại trên.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện luận văn, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp nghiên
cứu:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.

- Phương pháp nghiên cứu hệ thống

7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương.
Chương I: Vài nét về đời sống xã hội - văn hóa Việt Nam giai đoạn
đầu thế kỷ XX và tác giả Nam Xƣơng.
Chương II. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật kịch bản của
Nam Xƣơng.
Chƣơng III. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn
của Nam Xƣơng
















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10




Chƣơng I
ĐỜI SỐNG XÃ HỘI – VĂN HOÁ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ
XX VÀ TÁC GIẢ NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC

1.1. Đời sống xã hội – văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ảnh
hƣởng đến việc hình thành ngòi bút Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc
1.1.1. Sự xâm nhập của văn hoá phương Tây và những biến động
trong đời sống xã hội - văn hoá Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX, về cơ bản người Pháp đã hoàn tất quá trình xâm lược
Việt Nam. Chính sách chia để trị và sự hình thành về mặt hình thức của ba xứ
Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ đã cho phép người Pháp xúc tiến công cuộc
khai thác thuộc địa ở “xứ Đông Dương thuộc Pháp” một cách triệt để, nhằm tận
thu của cải vật chất từ thuộc địa, và nhằm một mặt bù vào những thiệt hại nặng
nề từ các cuộc chiến tranh mà nước Pháp tham gia, một mặt tăng cường thêm
nguồn lực tạo ra sức mạnh của nước Pháp trong quan hệ quốc tế. Kết quả của
chính sách kinh tế đó là nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp hàng nghìn năm đã
bị phá vỡ, kinh tế tư bản hình thành và phát triển; nước ta trở thành một thuộc
địa bị khai thác đến tận cùng các của cải vật chất, đồng thời trở thành thị trường
tiêu thụ và cung cấp nguyên liệu cho tư bản công nghiệp và thương nghiệp
Pháp. Đi cùng với tình trạng này là việc giai cấp nông dân Việt Nam bị bần
cùng hoá, tầng lớp tiểu tư sản, thợ thủ công không có điều kiện để phát triển,
trở thành nguồn nhân công đông đảo và rẻ mạt cho các hãng buôn, chủ đồn
điền, chủ thầu của Pháp.
Về mặt chính trị, chế độ thực dân nửa phong kiến chưa từng có trong
lịch sử Việt Nam từng bước hình thành trên khắp lãnh thổ. Nó tiếp tục kìm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
hãm sự phát triển của đất nước dưới một hình thức khác, tuy nhiên chính sự

có mặt của nó lại phá vỡ và gây nên những biến động lớn trong xã hội Việt
Nam vốn hàng nghìn năm “bế quan toả cảng” dưới chế độ phong kiến kiểu
phương Đông.
Để bóc lột sức lao động và vơ vét tài nguyên ở nước thuộc địa, người
Pháp mở mang giao thông, thị trường buôn bán, phát triển nền kinh tế hàng
hoá thống nhất trong cả nước. Kèm theo sự phát triển ấy là việc mở rộng các
đô thị cũ, hình thành các khu công nghiệp mới “kiểu phương Tây”, rồi các
tỉnh lỵ, phủ, huyện lỵ được xây dựng như những trung tâm kinh tế - văn hóa
địa phương để phục vụ hoạt động, sinh hoạt của tầng lớp “Tây thuộc địa”, là
trung tâm hành chính để cai trị, đồng thời là nơi sơ chế, buôn bán và tiêu thụ,
sản phẩm có được trong quá trình bóc lột tài nguyên và tận dụng nguồn nhân
công rẻ mạt.
Quá trình đô thị hoá dẫn đến sự phá vỡ kết cấu xã hội. Hệ thống các giai
tầng đã có tuổi đời hàng nghìn năm, được tổ chức theo mô hình “tứ dân” (sĩ -
nông - công - thương ) dần dần bị phá vỡ do trong xã hội xuất hiện những dấu
hiệu sơ khai của quan hệ sản xuất kiểu mới mà nền kinh tế tư bản từ nước
Pháp mang lại. Những ngành nghề chưa từng có trong lịch sử dân tộc như
thông ngôn, ký lục, ký giả,... cho đến thợ cơ khí, thợ in ấn, phu mỏ,… lần lượt
xuất hiện, và tình trạng này cũng góp phần làm thay đổi cơ cấu nghề nghiệp
trong xã hội. Đông đảo nông dân bị bần cùng hoá do mất ruộng đất phải tha
hương ra các đô thị kiếm sống, hình thành một tầng lớp tiểu tư sản nghèo
ngày càng tăng mãi lên trong các đô thị; một số khác không nhiều trở thành
lực lượng phu mỏ, phu đồn điền, từng bước hình thành nên những bộ phận
đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Và do đó, cuộc xâm lăng của
người Pháp đã đẩy tới sự thoát thai ra khỏi cách thức tổ chức xã hội kiểu cũ,
từng bước làm nên một xã hội Việt Nam kiểu mới với sự xuất hiện của một số
tầng lớp xã hội mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Về sinh hoạt xã hội, đã diễn ra một tình trạng phân cực rõ rệt đến mức

đối lập giữa nông thôn và đô thị, giữa kẻ giàu và người nghèo. Một nền kinh
tế phụ thuộc với một số hàng hoá đến từ phương Tây, cùng với đó là một lối
sống kiểu khác với những giá trị văn hóa - văn minh khác lạ đã dẫn đến sự
thay đổi tâm trạng và lối sống trong xã hội Việt Nam đương thời. Từ việc tẩy
chay những gì thuộc về ngoại bang, dần dà người ta buộc phải thích ứng với
nó. Ở cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực, sự xâm nhập của cái mới đến từ
phương Tây đã làm thay đổi căn bản bộ mặt xã hội Việt Nam, phá vỡ sự bình
yên ngàn đời dưới luỹ tre xanh, đặt con người đứng trước sự tự ý thức trong
một xã hội phức tạp và rộng lớn, phải vật lộn trong những tính toán mưu sinh
trong các quan hệ ít nhiều mang dấu ấn của kinh tế thị trường tư bản, lạnh
lùng và “tiền trao cháo múc”.
Về mặt xã hội - văn hoá, công cuộc khai thác thuộc địa tự nó đòi hỏi phải
có một hệ thống hạ tầng cơ sở, một không gian văn hóa chính quốc thu nhỏ,
không chỉ nhằm phục vụ sinh hoạt mà còn có ý nghĩa quảng bá với cường độ
cao, tiến tới đồng hóa văn hóa bản địa thông qua việc tuyên truyền cho những
giá trị văn hóa - văn minh phương Tây mà văn hóa - văn minh Pháp là đại
diện. Hệ quả của quá trình “khai hoá văn minh” mà người Pháp thực hiện tại
xứ An Nam là sự phân hóa trong hoạt động tinh thần của xã hội. Biểu hiện cụ
thể nhất là qua tình trạng cùng tồn tại của lớp nhà Nho, trí thức khoa bảng do
nhà nước phong kiến Việt Nam đào tạo và những trí thức “Tây học” được đào
tạo ở các nhà trường thuộc địa hoặc được đào tạo tại nước Pháp. Tình hình
này đã đưa tới một hệ quả là sự du nhập những tri thức mới vào sinh hoạt tinh
thần của người Việt trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đây
cũng là thời kỳ mà lần đầu tiên các người con yêu nước của dân tộc được tiếp
xúc với những tư tưởng tiến bộ của nhân loại lúc bấy giờ. Họ học hỏi, họ suy
nghĩ và ý chí chấn hưng dân tộc, tư tưởng dân chủ và cách mạng được cái chí
sĩ yêu nước bàn thảo và truyền bá công khai, trở thành mục tiêu của một số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
phong trào yêu nước tiến bộ như Đông du, Đông kinh nghĩa thục,... cho thấy

sự “lột xác” trong nhận thức của thế hệ người Việt Nam đầu tiên tiếp xúc với
khoa học - văn minh phương Tây và cũng cho thấy tính chất quyết định trong
tiến trình lịch sử dân tộc ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Cũng
trong thời kỳ này, chủ nghĩa Mác - Lê nin, tinh hoa rực rỡ nhất của nhân loại
đã được tiếp thu, kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào cách mạng
của giai cấp công nhân còn non trẻ đã trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn cho
sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày nay là Đảng Cộng sản Việt
Nam - lực lượng tiên phong lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Chúng tôi trình bày vài nét về bối cảnh xã hội – văn hoá Việt Nam đầu
thế kỷ XX để làm cơ sở cho việc nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà
văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, bởi đó là những điều kiện khách quan
đã tác động mạnh mẽ, và là đối tượng phản ánh trong tác phẩm của ông, cũng
như góp phần hình thành tư tưởng và thế giới nghệ thuật của ông.
1.1.2. Quá trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX và những ảnh hưởng trực tiếp đến nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát
Ngạc.
Sự ra đời và diễn biến của nền kinh tế - xã hội – văn hoá kiểu mới trên
đây đã tác động sâu sắc đã tác động sâu sắc tới mọi lĩnh vực vật chất - tinh
thần của xã hội, và tất nhiên đối với văn học, nó cũng đặt ra các yêu cầu
khách quan cho tiến trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam. Đồng thời, tự
thân đời sống văn học cũng đứng trước yêu cầu phải đổi mới theo xu hướng
hiện đại, bởi sự tham góp của các thành tố quan trọng về kinh tế - xã hội - văn
hóa đã có vai trò như “bà đỡ” cho tiến trình hiện đại hoá văn học. Và trên
thực tế, nhiều biến động văn hóa - xã hội đã diễn ra và cũng là điều kiện để
văn học phát triển.
Trước hết là sự thay thế dần chữ Hán, chữ Nôm bằng chữ quốc ngữ.
Thời kỳ này, chữ quốc ngữ thật sự đã trở thành một chiếc cầu nối giữa văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
hóa Việt với văn hóa phương Tây. Có thể xem chữ việc sử dụng chữ quốc

ngữ là thành tựu quan trọng của việc dân chủ hoá nền văn học. Sự phát triển
của chữ quốc ngữ gắn liền với sự thay đổi tư duy của xã hội mới, kéo theo
những kiểu công cụ chuyển tải mới như báo chí, và cả cách thức truyền bá
mới như in ấn với số lượng lớn và hàng loạt, cập nhật và phổ cập trong mọi
thành phần xã hội của hệ thống thông tin đại chúng - những phương tiện ngay
đến thời cận đại ở Việt Nam vẫn còn kém cỏi. Ngoài việc thông báo tin tức,
luận bàn các vấn đề xã hội, giới thiệu những thành tựu văn hoá - văn minh
phương Tây..., một hệ quả của sự phát triển hệ thống thông tin đại chúng là
đưa tới việc xuất hiện và đăng tải các tác phẩm văn chương “viết theo lối
mới”, khác hẳn với hình thức - nội dung những tác phẩm văn chương vẫn
được sáng tác và phổ biến theo “lối truyền thống”. Sự lên ngôi của chữ quốc
ngữ thay thế cho chữ Hán, chữ Nôm cùng với sự phát triển của các phương
tiện truyền thông, và quan trọng nhất là sự thay đổi về tư tưởng của các tầng
lớp trong xã hội, nhất là nhân sĩ trí thức, đã dẫn đến sự phát triển có tính bước
ngoặt của nền văn học nước nhà.
Một nền văn học hiện đại vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của sự thay
đổi lực lượng tác giả và công chúng của nó. Nếu như trong cả ngàn năm
trước, văn học trung đại là sự biểu hiện thành văn của chính trị - đạo đức, là
sản phẩm của các bậc nho sĩ, vua quan, mà mục đích chủ yếu họ khi cầm bút
là để bày tỏ chí hướng, bộc lộ khí phách người quân tử, văn chương là “thi dĩ
ngôn chí”, là “văn dĩ tải đạo”, thì vào đầu thế kỷ XX văn chương hiện đại đã
làm thay đổi vị trí và tâm thế người cầm bút. Và quan trọng hơn cả là các
quan niệm về đặc trưng và chức năng của văn học cũng thay đổi. Khi mà
những quan niệm về mỹ học phương Đông về sự ước lệ, tượng trưng, quy
phạm… đã hầu như không còn phù hợp nữa. Đặc biệt là một quan niệm mới
về đời sống tinh thần cho thấy văn chương không chỉ là chính trị, là luân lý,
mà nó còn mang tải những đặc trưng nghệ thuật riêng khác để phản ánh xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
hội, để bộc lộ cảm xúc, thái độ cá nhân của người cầm bút. Đó là cơ sở để

hình thành một thế hệ nhà văn mới, có tư tưởng mới mà lõi cốt là tư tưởng
dân chủ và ý thức cá nhân; có phương pháp sáng tác mới mà cơ bản là các
phương pháp sáng tác từ phương Tây du nhập vào. Họ có thể là bất cứ ai,
thuộc bất cứ tầng lớp nào trong xã hội: nhà nho, trí thức Tây học, viên chức
nhà nước, nhà báo, thầy giáo trường huyện, học sinh, sinh viên…và nhiều
người trong số họ dần dần trở thành nhà văn chuyên nghiệp, khai sinh một
loại hình nghề nghiệp mới cho xã hội.
Gắn với người viết văn, công chúng người đọc cũng thay đổi. Với sự phổ
biến của chữ quốc ngữ, và sự phát triển của các phương tiện truyền thông,
người đọc trong xã hội hiện đại không còn ở trong tình trạng có sự phân biệt
(dù tương đối) như trong xã hội trung đại - chỉ có người đọc dân gian và
người đọc bác học, tức tầng lớp trí thức phong kiến. Người đọc trở nên đông
đảo và phong phú, với đủ các tầng lớp xã hội. Họ có thể là tầng lớp tiểu tư sản
và tư sản mới, là những trí thức Tây học, viên chức nhà nước, sinh viên, cũng
có thể là những học trò trường huyện, hay các bà, các cô nội trợ...Sự tiếp nhận
tác phẩm văn chương hiện đại của họ đã diễn ra dễ dàng hơn, nhanh chóng
hơn nhờ những vốn liếng tri thức họ tiếp nhận từ cuộc tiếp biến văn hoá Đông
- Tây, giúp cho họ trở thành những thế hệ độc giả đầu tiên của văn học hiện
đại Việt Nam.
Và một tiến trình hiện đại hoá văn học đã diễn ra, với những giá trị nội
dung và nghệ thuật mới, chưa từng xuất hiện trong lịch sử văn học nước nhà.
Văn học Việt Nam vượt qua lối xướng hoạ ngâm vịnh truyền thống, bước đầu
thoát ra khỏi những chế định văn học thời Trung đại để đặt chân vào một lãnh
địa hoàn toàn mới, đặt văn chương vào cõi đời thế tục, đi tìm sinh khí cho văn
chương từ cuộc sống, qua tác phẩm chuyển tải ý chí và suy tư về thời cuộc.
Các tác giả Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn, Lê Hoằng
Mưu, Đặng Trần Phất, Tản Đà …được xem là dấu nối giữa văn học cận đại và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
văn học hiện đại ở Việt Nam, trong đó Tản Đà đã tiến một bước khá dài trên

hành trình đi tìm một diện mạo mới của văn học. Cùng với ông, Hoàng Ngọc
Phách với Tố Tâm - cuốn tiểu thuyết được coi như là sự khởi đầu của nền tiểu
thuyết, vở kịch Chén thuốc độc của Vũ Đình Long mở đầu cho nền kịch nói
Việt Nam…, là những người đã đặt những viên gạch móng thành công cho sự
ra đời của nền văn học Việt Nam hiện đại. Thời kỳ này đã diễn ra các “cuộc
cách mạng” về thể loại. Trong khi các thể loại truyền thống của văn học dân
tộc như các thể thơ dân gian (ca, vè, hát dặm), các thể thơ cảm hoài, ngôn
chí, thể văn tế cổ điển… vẫn tiếp tục được sử dụng, thì lại có sự xuất hiện ồ ạt
rồi dần dần hoàn chỉnh và đạt đến đỉnh cao của các thể loại văn học du nhập
từ phương Tây. Về văn xuôi, xuất hiện tiểu thuyết, phóng sự, ký sự, tuỳ bút,
truyện ngắn,… Về thơ, có thơ trữ tình, thơ trào phúng. Về kịch, lần đầu tiên
thể loại kịch nói từ phương Tây đã du nhập vào Việt Nam, và trên cơ sở sự
tiếp nhận những yếu tố tương hợp của kịch hát truyền thống (đặc biệt là
phong cách hài hước của chèo cổ), nó nhanh chóng được công chúng tiếp
nhận; sau đó là kịch thơ. Những thể loại mới không chỉ đóng vai trò cấu tạo
nên diện mạo văn học hiện đại mà còn là nền tảng quan trọng cho sự phát
triển thể loại của văn học Việt Nam các thời kỳ sau.
Sau giai đoạn văn học giao thời, văn học Việt Nam bước vào một thời kỳ
phát triển mạnh mẽ trên tất cả các phương diện của tiến trình hiện đại hoá.
Theo các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam, đây là thời kỳ hoàn thiện diện
mạo hiện đại trên tất cả mọi phương diện của đời sống văn chương - học thuật
Việt Nam. Trên phương diện tư tưởng - nghệ thuật, là sự phát triển rực rỡ của
ba dòng văn học hiện thực, lãng mạn và cách mạng. Trên phương diện thể
loại, phải nói rằng đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất, kết tinh những đỉnh
cao về tác gia, tác phẩm trên tất cả các thể loại văn học: tiểu thuyết, truyện
ngắn, thơ, kịch, nghiên cứu lý luận phê bình, dịch thuật…Về phương diện đội
ngũ, một đội ngũ đông đảo chưa từng có, với tên tuổi của Nhất Linh, Thạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Lam, Khái Hưng, Thế Lữ, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Nam Cao, Hàn Mặc

Tử, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính,Chế
Lan Viên…cùng những Hai đứa trẻ,Chí Phèo, Bỉ vỏ,Dế mèn phiêu lưu ký,
Bước đường cùng, Số đỏ, Lửa thiêng, Thơ thơ, Điêu tàn,Vang bóng một thời,
Chân quê,… đã in đậm dấu ấn, trở thành những “cột mốc” trong văn học Việt
Nam suốt một thời đại.
Thành công của cách mạng tháng Tám 1945, và sau đó là cuộc chiến đấu
gian khổ trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp đã tác động rất lớn
tới tâm thế xã hội - công dân của trí thức, nghệ sĩ Việt Nam nói chung và nhà
văn Việt Nam nói riêng. Xu thế của lịch sử, ý thức về lòng tự hào, tự trọng
dân tộc, cùng sự giác ngộ về lý tưởng đã thôi thúc đa số nhà văn nhà thơ
thành danh từ trước cách mạng đứng vào đội ngũ của nhân dân, dùng ngòi bút
như một công cụ phụng sự nhân dân. Một nền văn học cách mạng và kháng
chiến đã ra đời theo bước chân của những văn nghệ sĩ - chiến sĩ trên các nẻo
đường trường kỳ kháng chiến. Thực tế cho thấy, sự lựa chọn của các nhà thơ
đã làm nên Thơ mới (như Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Chế Lan Viên…),
hoặc các nhà văn từng là “chủ soái” của văn chương hiện thực phê phán (như
Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao…) đã trực tiếp góp phần quan
trọng để tạo dựng nền văn học Việt Nam kiểu mới còn non trẻ. Đứng vào
hàng ngũ cách mạng, họ trực tiếp tham gia để làm nên một cao trào sáng tác
văn học hướng về chủ nghĩa yêu nước, về tinh thần dân tộc, về sự hy sinh của
mọi người cho sự nghiệp lớn… Khi nhà văn xác định phải gắn bó sự nghiệp
sáng tác với sự nghiệp dân tộc thì không có cách nào khác, họ phải tham gia
vào với sự nghiệp đó thông qua hoạt động nghề nghiệp.
Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc cũng là một nhà văn - chiến sĩ, một
người cầm bút xuất phát từ lập trường yêu nước để đến với lý tưởng cách
mạng của giai cấp vô sản. Gia nhập làng văn nghệ từ những năm hai mươi,
khi còn là một sinh viên trường Cao đẳng Công chính, ông là người đã có mặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
ngay từ giai đoạn nền văn học dân tộc chuyển mình hoà nhập cùng thời đại,

và gắn bó với nó theo cách riêng của mình cho đến hơi thở cuối cùng. Ông
còn là một trong những người xây dựng nền kịch nói Việt Nam, góp phần vào
tiến trình hiện đại hoá văn học nước nhà. Có thể nói, ngòi bút văn chương
Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc vừa là kết quả của tiến trình hiện đại hoá văn
học, vừa là một trong những nhân tố tích cực góp phần kiến tạo nên tiến trình
này. Qua việc tìm hiểu đời sống kinh tế - xã hội - văn hoá Việt Nam và tiến
trình hiện đại hoá văn học nửa đầu thế kỷ XX, chúng tôi muốn khai thác
những tác động, ảnh hưởng của chúng đến quá trình vận động về tư tưởng và
sáng tác văn học của nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc.
Một điều đáng chú ý là: ông xuất hiện khá sớm, có tác phẩm nổi tiếng
ngay từ giai đoạn văn học giao thời. Tuy nhiên, trong thời kỳ rực rỡ nhất của
quá trình hiện đại hoá văn học, cũng như sau khi Cách mạng tháng Tám thành
công thì ông lại đồng hành cùng những bước đi của dân tộc trong tâm thế của
một chiến sĩ cách mạng hơn là một nhà văn. Những thông tin về cuộc đời và
sự nghiệp của ông sẽ góp phần lý giải điều này.
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của tác giả Nam Xƣơng - Nguyễn
Cát Ngạc
1.2.1.Vài nét về tiểu sử tác giả Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc
Cho đến nay, thông tin về Nam Xương trên các tài liệu chúng tôi khảo
cứu được rất hạn chế. Ngoài các tư liệu đã dẫn ở phần mở đầu, chúng tôi tìm
trên trang web tìm kiếm Google, chỉ có 4 trang web giới thiệu về Nam
Xương, đó là các trang web: dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn của Bách
khoa toàn thư Việt Nam; nghethuatsankhau.com.vn của Trung tâm bảo tồn và
phát triển nghệ thuật sân khấu Việt Nam (sử dụng lại thông tin của Bách khoa
toàn thư Việt Nam, không có bổ sung gì thêm); một trang web của người Việt
ở nước ngoài, là vietnamlit.org, và trên một diễn đàn của trang web Olympia
Việt Nam ở địa chỉ .olympiavn.org/forum. Những nội dung được giới thiệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
cũng rất sơ sài, về thân thế, sự nghiệp và 2 tác phẩm nổi tiếng của ông là Ông

Tây An Nam và Chàng Ngốc, bài giới thiệu dài nhất không quá 300 chữ.
Chúng tôi dẫn ra như vậy để minh chứng rằng, thông tin về cuộc đời và
sự nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc còn được rất ít người biết tới
và có đôi chỗ không thống nhất. Theo khảo cứu của chúng tôi, tiểu sử Nam
Xương - Nguyễn Cát Ngạc có thể tóm tắt như sau:
Nam Xương tên thật là Nguyễn Cát Ngạc, sinh năm 1905 tại quê hương
ông ở xã Phù Khê, huyện Từ Sơn - Bắc Ninh. Trong gia tộc, ông là anh em
ruột với ông thân sinh nhà sử học Nguyễn Lương Bích, và là chú họ đồng chí
Nguyễn Văn Cừ - một trong những Tổng bí thư đầu tiên của Đảng ta. Học hết
tiểu học ở quê nhà, Nguyễn Cát Ngạc ra Hà Nội học tiếp trung học tại Trường
Bưởi. Ở Hà Nội trong thời kỳ các tư tưởng và phong trào yêu nước nở rộ,
chàng thanh niên Nguyễn Cát Ngạc nhanh chóng tiếp thu và hăng hái tham
gia các hoạt động để bộc lộ lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc của mình.
Năm 1926, tại lễ tang Phan Chu Trinh, Nguyễn Cát Ngạc tham gia rất tích
cực, vì vậy ông bị thực dân Pháp bắt giam một thời gian. Ra tù, ông tiếp tục đi
học và học xong Cao đẳng với bằng Tham tá công chính.Vừa làm nghề công
chính, vừa sáng tác, vừa tham gia các phong trào yêu nước, ông là một trong
những thành viên đầu tiên của nhóm Nam Đồng Thư xã - tổ chức tiền thân
của Việt Nam Quốc dân đảng, cùng với Trần Huy Liệu, Nguyễn Thái Học…
Sau khi Quốc dân đảng thất bại trong khởi nghĩa Yên Bái tháng 2 năm
1930, nhận thấy con đường của Quốc dân đảng là không có tương lai, Nguyễn
Cát Ngạc tìm đến với Việt Minh và tham gia hoạt động cách mạng. Vì vậy khi
phát xít Nhật vào Đông Dương, chúng đã bắt giam và tuyên án tử hình ông.
Nhưng ngay khi đó, Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được cứu thoát
và về hoạt động tại Nam Định. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ (1946) ông
lên chiến khu. Năm 1948 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cũng năm này, thực hiện nhiệm vụ được tổ chức giao, dưới danh nghĩa ''trí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
thức dinh tê'', Nguyễn Cát Ngạc trở về Hà Nội, vừa hoạt động công khai bằng

nghề công chính, vừa hoạt động tình báo. Đầu năm 1954, Nguyễn Cát Ngạc
bị lộ, thực dân Pháp bắt và giam ông tại nhà giam Thanh Liệt và sau đó là
nhà giam Hỏa Lò. Khi Hiệp định đình chiến được ký kết năm 1954, ông được
quân đội đón về Hà Nam, vài tháng sau, dưới danh nghĩa ''trí thức di cư'', ông
vào miền Nam tiếp tục hoạt động và mất ngày 15 tháng 1 năm 1958. Về cái
chết của Nguyễn Cát Ngạc, theo nguồn tin chính thức thì ông bị ốm rồi qua
đời, nhưng dư luận Sài Gòn những năm đó lại cho rằng ông bị kẻ thù đầu độc.
Bức thư vĩnh biệt ông viết cho người con trai là Nguyễn Mạnh Đàm chính
vào ngày ông mất, cho thấy dư luận có cơ sở, vì dường như ông đã biết trước
được sự ra đi của mình:
"Đàm con! Tiếc là lúc vĩnh biệt Ba không gặp con. Ba hy vọng lá thư này
con đọc được. Ba không thể tiếp tục cùng con chung việc lớn. Vậy con ở lại
cố làm nốt những việc Ba thường nhắn nhủ. Kín đáo và thận trọng, càng lên
cao càng tốt. Trí lớn nuôi 20 năm nhưng chỉ cần làm trong một buổi. Đừng
hoang toàng mà hỏng việc, đừng bất nhân mà hỏng nghĩa, đừng thất ý thượng
cấp mà hỏng cơ đồ. Chúc con khoẻ, nghe lời Ba nuôi dạy các cháu nên người
hữu dụng của đất nước. 23 giờ đêm ngày 15.1.1958, Ba - Nguyễn Cát Ngạc".
Năm 1976, khi nước nhà thống nhất, tổ chức mới có thể gửi Giấy báo tử
của ông tới gia đình, Giấy báo tử ghi rõ mức lương của ông tương đương với
cấp bậc đại uý của quân đội. Trong bản xác nhận của đơn vị do đồng chí
Nguyễn Mạnh Khoát - Trung tá thuộc Cục nghiên cứu thuộc Bộ Tổng Tham
mưu (nay là Đại tá Nguyễn Mạnh Khoát, đã nghỉ hưu tại Thành phố Hồ Chí
Minh) viết, Nguyễn Cát Ngạc là: “Cơ sở nội thành từ 1954 đến 1958, hòa
bình lập lại do yêu cầu công tác chúng tôi phái ông vào Nam tiếp tục công tác
đến 1958 thì ốm và mất” và ông: “là người tích cực công tác và hoàn thành
nhiệm vụ tốt”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Ông được Nhà nước truy tặng danh hiệu liệt sĩ. Bằng Tổ quốc ghi công
của ông mang số 546 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 7.12.1976. Lễ

truy điệu Nguyễn Cát Ngạc được Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân
Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, bên cạnh có mặt của đại diện đơn vị và gia
quyến, còn có các văn nghệ sĩ cùng thời với ông như Văn Cao, Nguyễn Xuân
Sanh… Phần mộ ông hiện ở Nghĩa trang Liệt sĩ TP Hồ Chí Minh.
1.2.2. Quá trình sáng tác của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc
Theo những nghiên cứu (có thể còn chưa đầy đủ) của chúng tôi, quá trình
sáng tác của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc có thể chia ra thành 2 giai đoạn:
trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
1.2.2.1 Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Tắm mình trong không khí duy tân và xu hướng đổi mới, hiện đại hoá
nền văn học nước nhà thời kỳ văn học giao thời, Nguyễn Cát Ngạc khi ấy là
sinh viên trường Cao đẳng Công chính, đã có điều kiện tiếp xúc với những
tinh hoa của văn học thế giới được truyền bá bởi hội đoàn, nhà xuất bản, tạp
chí canh tân lúc bấy giờ, như hội Khai trí tiến đức, An Nam tạp chí, Nam
Phong tạp chí,... Ra trường, vừa làm nghề công chính trong bộ máy hành
chính của Nhà nước Pháp thuôc, vừa tham gia cách mạng, ông vừa viết báo
và say mê nghiên cứu văn chương, đặc biệt là nghiên cứu về kịch phương
Tây. Ở vào giai đoạn sân khấu kịch nói Việt Nam đã nỗ lực hiện đại hoá sân
khấu truyền thống, đang tìm cách thoát khỏi sự phụ thuộc sâu sắc vào kịch
bản dịch và hoạt động của sân khấu phương Tây, Nam Xương là một trong
những tác giả đầu tiên viết kịch bản văn học Việt Nam, tiếp theo Vũ Đình
Long, Nguyễn Hữu Kim, Vi Huyền Đắc, Tương Huyền... Ông đã viết các vở
kịch Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc, là những vở kịch thành công đầu tiên
của kịch nói hiện đại Việt Nam. Hai vở kịch Ông Tây An Nam (hài kịch 3 hồi
- viết xong tháng 8 năm 1930, Nam ký xuất bản năm 1931) và Chàng Ngốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
(hài kịch 5 hồi - 1930) của Nam Xương được báo chí bình luận và khen ngợi.
Năm 1934, 1935, ban kịch Bắc kỳ (La cène Tonkinoise - ban kịch nổi tiếng ở
Hà Nội, hoạt động trong 2 năm 1934-1934; không phải là tên một vở kịch của

Nam Xương như vietnamlit.org nêu) của Tạ Quang Cát dựng, gây được tiếng
vang lớn trên sân khấu kịch lúc bấy giờ, nhất là trong số đông khán giả có tinh
thần dân tộc sâu sắc.
Có thể nói, sáng tác kịch là say mê của ông. Theo ông Nguyễn Hải
Thoại, con trai của Nam Xương kể lại thì: “Có hai điều cuốn hút cha tôi từ khi
còn học ở trường Bưởi, đó là say mê kịch nói và nghiên cứu chủ nghĩa Mác.
Có một câu nói của Henri Bergson mà ba tôi rất thích, ông ghi lên ô kính của
cái tủ sách đầy ắp những Racine, Corneille, Molière…, câu ấy là: “Một dân
tộc càng trí tuệ, càng biết yêu sân khấu” (Plus un peuple est spirituel, plus il
aime le théâtre). Ba nói với tôi, lúc tôi độ 14 - 15 tuổi:
- Ba rất mong về hưu, sống trong thanh thản và viết kịch.
- Ba ơi, lúc ấy con sẽ chép lại kịch cho ba (tôi nói với ba như vậy)”.
Tiếp theo 2 vở kịch nổi tiếng này, Nam Xương còn viết một số vở hài
kịch khác nhưng chưa dựng, như Thuốc tê Ô Cấp, Tội ăn cắp, Nói khoác, Đại
gia văn sĩ... Sau đó, có lẽ việc tham gia hoạt động ở Việt Nam Quốc dân
đảng, và sau này tham gia Việt Minh, cùng nhiều lần bị bắt bớ, tù đày, nên
hoạt động văn chương của ông bị gián đoạn.
1.2.2.2. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ (1946), ông đưa
gia đình lên chiến khu. Nhưng rồi thực hiện nhiệm vụ được tổ chức giao, Nam
Xương - Nguyễn Cát Ngạc cùng gia đình trở về Hà Nội. Ông đưa vợ con về
Nam Định sinh sống, còn mình thì ở Hà Nội, dưới danh nghĩa “trí thức dinh tê”,
vừa hoạt động công khai bằng nghề công chính, vừa hoạt động tình báo. Trong
thời kỳ này, ông có điều kiện hợp pháp để tiếp nối công việc viết văn, vì thế đã
cho xuất bản nhiều truyện ngắn và truyện dã sử. Với Nhà xuất bản Quê Hương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
do ông trực tiếp làm giám đốc, ông đã cho xuất bản 2 tiểu thuyết lịch sử Bách
Việt, Hùng Vương (bản còn lại không ghi rõ thời gian xuất bản) và tập truyện
ngắn Bụi phồn hoa xuất bản tháng 7 năm 1950, gồm 7 truyện ngắn.

Đầu năm 1954, Nguyễn Cát Ngạc bị lộ, thực dân Pháp bắt và giam ông.
Khi Hiệp định đình chiến được ký kết năm 1954, ông được quân đội đón về
Hà Nam, vài tháng sau, dưới danh nghĩa “trí thức di cư”, ông vào miền Nam
tiếp tục hoạt động. Trong khoảng 4 năm cho đến khi ông mất (1958), ông vừa
hoạt động công khai vừa viết văn, làm báo, viết sử (bộ sách Sử ký Việt Nam,
bút danh Nguyễn Trúc Thanh, gồm ba quyển, trình bày lịch sử dân tộc từ thời
cổ đại đến năm 1765, in tại NXB Liên hiệp ở Sài Gòn vào năm 1956). Theo di
cảo, thời gian này ông sống ở nhiều nơi, cộng tác với khá nhiều báo chí,
hưởng ứng các phong trào ái hữu, như Hội truyền bá quốc ngữ. Nhưng phần
tác phẩm còn lưu trữ được lại không nhiều. Đáng chú ý là hầu hết di cảo đều
ghi thời gian sáng tác là năm 1955, kèm theo các địa danh Bạc Liêu, Phú
Quốc, Cần Thơ. Theo những gì còn lại, cho thấy khoảng thời gian này ông
viết rất khoẻ, rất nhiều, không chỉ truyện ngắn mà còn sáng tác kịch, viết sách
giáo khoa lịch sử. Với sức viết ấy và tâm huyết của ông với văn chương,
chúng tôi nghi ngờ rằng, những gì còn lại chưa hẳn đã là tất cả sáng tác của
ông, mà có lẽ vì hoàn cảnh phức tạp và việc hoạt động bí mật trong lòng địch,
nên các sáng tác của ông trong khoảng hai mươi năm kể từ khi Ông Tây An
Nam ra đời năm 1931, đã không được lưu giữ đầy đủ.
Một minh chứng cho sự nghi ngờ của chúng tôi là: Ở cuốn Bụi phồn hoa
do NXB Quê hương xuất bản tại Hà Nội năm 1950 có trang giới thiệu sách
“cùng một tác giả” (Nguyễn Cát Ngạc), ghi: “ Đã xuất bản: Bách Việt -
chuyện dài lịch sử, 14$00; Bụi phồn hoa - Tập chuyện ngắn, 6$00. Sắp xuất
bản: Hùng Vương - Chuyện dài lịch sử; Tây Thi – Bi kịch năm hồi; Hai người
đàn bà - Tập chuyện ngắn. Phát hành tại Nhà xuất bản Quê hương, 38C phố
Trưng Vương (Rollandes) – Hà Nội”. Chúng tôi đã sưu tầm được bản in hoặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
bản thảo của các tác phẩm Bách Việt, Bụi phồn hoa, Hùng Vương,Tây Thi,
nhưng bản thảo tập Hai người đàn bà thì chưa tìm được. Trong số di cảo của
ông mà chúng tôi đang nghiên cứu cũng không có truyện ngắn nào tên là Hai

người đàn bà. Vì vậy, chúng tôi cho rằng tập bản thảo hoặc truyện ngắn này
đã bị thất lạc.
1.2.3. Các tác phẩm đã xuất bản và di cảo
Tác phẩm của Nguyễn Cát Ngạc để lại khá phong phú về thể loại như
kịch bản sân khấu, truyện ngắn, truyện dã sử, tiểu luận văn hóa, đoạn văn
ngắn. Điểm lại chưa đầy đủ, Nguyễn Cát Ngạc có những tác phẩm sau:
1.2.3.1. Về kịch bản văn học:
Hai tác phẩm được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Hà Nội, là: Chàng
Ngốc (hài kịch năm hồi, NXB Nam Định - Trường Phát in năm 1930) mã số
P. 12381 (17) Nam Xương; Ông Tây An Nam (hài kịch ba hồi, NXB Hà Nội -
Nam Kỳ in năm 1931) mã số M.6368 (19) Nam Xương.
Trong di cảo ông còn các kịch bản:
- Tây Thi (bi kịch năm hồi tám cảnh),
- Văn Chủng (bi kịch năm hồi),
- Tội ăn cắp (kịch vui),
- Thuốc tê Ô Cấp (kịch vui).
Theo gia đình cho biết, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc còn có hai kịch
bản Nói khoác (hài kịch một hồi) và Đại gia văn sĩ (hài kịch năm hồi) hiện
chưa tìm thấy.
1.2.3.2. Về truyện ngắn:
Về truyện ngắn đã xuất bản, Nguyễn Cát Ngạc có tập Bụi phồn hoa do
NXB Quê hương xuất bản tại Hà Nội năm 1950, gồm 7 truyện ngắn: Bụi phồn
hoa, Một nhà cách mạng, Chữ Quý, Một nạn nhân, Vàng, Ngôi đất công
khanh, Tái hợp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Trong di cảo còn có 19 truyện ngắn ở dạng bản thảo, chưa xác định được
là đã công bố hay chưa (nói như vậy bởi trong một số bản thảo, ông còn để lại
bút tích trên đầu trang: “để đăng Sài Gòn Mới”, “Truyện dự thi tại Hội
Truyền bá quốc ngũ Cần Thơ”), được ký với các bút danh Nguyễn Tác Cang,

Nguyễn Trúc Thanh, Nguyễn Cát Ngạc, bao gồm: Hội đồng vĩ nhân, Khách
quan, Vô sỉ, Tình chia đôi ngả, Vẽ mặt văn khôi, Vô liêm sỉ, Có chí thì nên,
Giao Lương Sơn, Một tấm lòng vàng, Nước Trivitri, Truyện giải trí, Đánh
ghen trong mồ, Tình trong biên giới, Kiếp bình bồng, Hai lần ly biệt, Tình
quê, Yêu nghệ thuật, Hai nhân vật tỉnh Bắc Giang, Lưu Bình - Dương Lễ.
Cũng về thể loại truyện ngắn, nhưng viết về đề tài lịch sử, ông ghi là
“truyện dã sử", trong di cảo của ông còn có các tác phẩm: Hoàng Trừu,
Huyền Trân công chúa, Nguyễn Thị Lộ, Trên chòi Khâm Thiên, Tráng sĩ Phù
Đổng.
Ngoài 19 truyện trên được ông ghi là “truyện ngắn”, Nguyễn Cát Ngạc
còn viết một số tiểu phẩm ngắn cho một chuyên mục riêng được ông đặt tên
là Kiến văn chí dị, gồm các bài: Giống Waltrabar, Nước tự do, Ma Hàng
Giầy, Cái chết của ông lang Doanh, Ma Hàng Cỏ, Cây đèn Khổng Minh.
Những tiểu phẩm này cũng được ông viết theo kết cấu của truyện ngắn.
1.2.3.3. Về tiểu thuyết:
Nguyễn Cát Ngạc đã cho in hai cuốn tiểu thuyết viết theo lối chương hồi
là Bách Việt và Hùng Vương tại NXB Quê hương (Hà Nội năm 1950). Hiện
nay chưa tìm thấy bản in của cuốn Hùng Vương, chỉ còn lại bản thảo.
1.2.3.4. Về sử ký:
Ông có bộ sách Sử ký Việt Nam (bút danh Nguyễn Trúc Thanh) gồm ba
quyển, trình bày lịch sử dân tộc từ thời cổ đại đến năm 1765, bộ sách này
được “soạn theo chương trình Ban Trung học của Bộ Quốc gia Giáo dục”
(chính quyền miền Nam cũ) đã được in tại NXB Liên hiệp ở Sài Gòn vào năm
1956.

×