Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Dia danh Viet Nam co thanh to Ben

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.94 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Địa danh Việt Nam có thành tố "Bến"</b>



Lê Trung Hoa


<b> </b>


<b>1.Theo số liệu sưu tập chưa thật đầy đủ của chúng tơi, trong địa danh Việt Nam có ít nhất</b>
40 đơn vị có thành tố Bến ở trước. Bến là chỗ bờ sơng, thường có bậc lên xuống để lấy
nước, tắm giặt. Bến còn là nơi quy định cho tàu thuyền, xe cộ dừng lại để hành khách lên
xuống, xếp dỡ hàng hố.


<b>2. Thành tố đứng sau có thể chia thành nhiều nhóm, như tên người, tên cây, tên </b>
cơng trình xây dựng,…


<b>2.1. Thành tố sau chỉ </b><i><b>tính chất</b></i>, chúng tơi mới tìm được một địa danh.


<b>Bến En là vườn quốc gia bảo tồn rừng ở huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hố, diện</b>
tích 16.634ha. Bến En là “bến lạnh”. Tiếng Việt có thành ngữ:“Run en phát rét”.


<b>2.2. Thành tố thứ hai là một </b><i><b>yếu tố ghép</b></i>.


<b>Bến Thủ là huyện cũ của tỉnh Long An, được lập ngày 11 – 3 – 1977 do nhập hai</b>
huyện Bến Lức và Thủ Thừa; đến ngày 14 – 1 – 1983 lại tách thành hai huyện như cũ.
Bến Thủ là tên ghép chữ đầu của hai huyện [5].


<b>2.3. Thành tố sau chỉ tên các </b><i><b>con vật</b></i> có mặt trong hai địa danh.


<b>Bến Trâu là rạch ở phường 14, quận Sáu, tp. HCM, dài 1.400m. Tại rạch này có</b>
một bến nước trước đây người địa phương thường thả trâu xuống tắm.


<b>Bến Nghé là tên một khúc sơng Sài Gịn chảy qua tp. HCM. Bến Nghé là nơi trâu</b>


thường ngâm mình ở đây.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Bến Đầm là khu công nghiệp và dịch vụ cảng ở huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa –</b>
Vũng Tàu. Bến Đầm là “bến tại đầm nước”.


<b>Bến Ghềnh là cầu trên quốc lộ 21, tỉnh Khánh Hoà, dài 167,8m. Bến Ghềnh vì tại</b>


<i>bến</i> này có một cái <i>ghềnh</i>.


<b>Bến Hải là tên sông chảy giữa hai huyện Gio Linh và Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị,</b>
dài 65km, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, chảy ra biển Đông tại cửa Tùng. Bến Hải cũng
là tên huyện cũ của tỉnh Quảng Trị, do nhập ba huyện Cam Lộ, Gio Linh và Vĩnh Linh
ngày 11 – 3 – 1977, đến các năm 1990 – 1991, lại tách ra thành ba huyện như cũ. Bến
Hải nửa thuần Việt nửa Hán Việt, nghĩa là “bến ở gần biển”. Âm gốc là Bến Hói (bến ở
gần hói nước) [6]. Thuyết này có lý vì để ghi chữ Hói, người ta phải mượn âm chữ Hải
[5].


<b>2.5. Tiếp theo, thành tố sau có thể là tên các </b><i><b>cơng trình xây dựng</b></i> ở gần đối
tượng.


<b>Bến Cầu là huyện của tỉnh Tây Ninh, diện tích 233,3 km</b>2<sub>, dân số 59.000 người</sub>
(2006), gồm một thị trấn và 8 xã. Tên huyện ra đời năm 1961. Bến Cầu là “bến nằm cạnh
cái cầu”.


<b>Bến Dựa là địa điểm ở làng Bình Thuyên, tỉnh Định Tường, nay là tỉnh Tiền</b>
Giang. Bến Dựa vốn là <i>Bến Vựa</i>, vì tại bến này có vựa chứa hàng trước khi chuyển vào
chợ Thuộc Nhiêu [5].


<b>Bến Đình là địa điểm đậu thuyền ở tp. Vũng Tàu. Sau vì khi thuỷ triều xuống,</b>
ghe thuyền khơng vào được nên bỏ. Bến Đình, vì “bến ở gần đình làng Thắng Nhì”,


Vũng Tàu. Bến Đình cũng là vùng đất ở xã Lý Nhơn, huyện Cần Giờ, tp. HCM. Bến
Đình là <i>bến</i> sơng Sồi Rạp, gần bến có một ngơi <i>đình</i> thờ ơng Dương Văn Hạnh, một phó
xã ở làng Lý Nhơn, kiên quyết không chỉ nơi ẩn núp của Trương Định nên bị Pháp chém
đầu. Trong đình cịn hai câu đối:


<i>Kim trung báo chủ tâm hà cải;</i>
<i>Bỉnh tiết thù dân chí bất suy.</i>


(Kiên trung báo chủ lịng khơng đổi;
Khí tiết vì dân chí chẳng suy).


<b>Bến Kho là địa điểm ở khu Đồng Quan, làng Hoà Thuận, nay thuộc xã Long</b>
Khánh, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Bến Kho vì dưới thời Thiệu Trị, Tự Đức, ơng
Trâu Văn Điền, nhờ thế lực của người cô, được chọn làm quản lý khu Đồng Quan, làm
kho chứa lúa tại đây trước khi nộp cho triều đình [11].


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

nay, đến tháng 3 – 1914 thì khánh thành. Bến Thành vì ban đầu chợ nằm gần <i>bến</i> Nghé


và <i>thành</i> Gia Định [4].


<b>2.6. Yếu tố sau có thể là </b><i><b>tên người</b></i> hoặc <i><b>thần thánh</b></i>.


<b>Bến Dược là vùng đất ở xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, tp. HCM, rộng 200ha.</b>
Trong những năm kháng chiến chống Pháp và Mỹ, dân địa phương đã đào nhiều đường
hầm dưới lòng đất (địa đạo) dài hàng trăm cây số để đánh địch. Bến Dược do <i>bến Bà</i>
<i>Dược</i> (tại đây có xóm <i>Bà Dược</i>) rút gọn mà thành [4].


<b>Bến Giằng là thị trấn của huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam. Bến Giằng có lẽ</b>
nói tắt của <i>bến Giằng Xay</i>. Giằng xay là tên một loại cây, dùng làm thuốc dân tộc. Hoặc
Giằng là biến âm của Giàng, tiếng dân tộc, nghĩa là “thần”, vì nơi đây có sơng Giàng,


huyện Giàng [5].


<b>Bến Hiên vừa là bãi bồi vừa là thị trấn thuộc huyện Hiên, tỉnh Quảng Nam. Bến</b>
Hiên là dạng rút gọn của <i>bến Ông Hiên</i>, người đầu tiên đến đây khai phá, dựng nhà, là
nơi gửi hàng hoá của người Kinh để trao đổi với đồng bào Cơ Tu [9].


<b>Bến Ma là cầu bắc qua sông Vũng Bầu, ở tp. Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà. Bến</b>
Ma là nơi tương truyền trước đây có nhiều ma [10].


<b>Bến Quân là hồ ở xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Bến Qn, vì</b>
nơi đây quân Tây Sơn từng đóng trại khi ra Bắc đánh quân Thanh [2…, 688].


<b>2.7. Thành tố sau chỉ những </b><i><b>hoạt động</b></i> của con người.


<b>Bến Bối là rạch ở quận Bình Thạnh, tp. HCM, dài độ 700m. Bối là “ăn trộm trên</b>
sơng”. Có lẽ tại bến này trước kia có nhiều kẻ trộm trên sông.


<b>Bến Đổi là địa điểm nay thuộc xã Cẩm Giàng, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh.</b>
Cũng gọi Trường Đổi. Bến Đổi là “nơi trao đổi hàng hoá giữa người Việt và người
Chăm” lúc quân Pháp mới xâm chiếm vùng này [3, 83 – 84].


<b>Bến Kéo la địa điểm thuộc xã Long Thành, tỉnh Tây Ninh, trên quốc lộ 22, cách</b>
tỉnh lỵ 8km. Vì trước kia đường sá khó đi nên hàng hố từ Sài Gịn chở đến đây phải tập
trung lại để thuê xe bò chở tiếp. Bến Kéo là “bến tập trung xe để kéo hàng” [3, 66].


<b>Bến Lội là cầu trên quốc lộ 1A, bắc qua suối Chai và suối Sâu, ở tp. Phan Thiết,</b>
tỉnh Bình Thuận, dài 37,8m, mới xây trước năm 1975. Bến Lội còn là địa điểm nằm sát
bờ biển, thuộc xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Vì nơi đây
nước cạn, có thể lội qua suối dễ dàng [7;8].



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>Bến Rớ là ngã ba nơi gặp nhau của sông Ba Tri cá trại và rạch Bần Quỳ, thuộc xã</b>
Châu Hoà, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Bến Rớ, vì nơi đây ngư dân có dựng một số rớ
giàn để đánh bắt tơm cá.


<b>Bến Thuỷ là cảng bên bờ sông Lam, nằm cách tp. Vinh, tỉnh Nghệ An 5km về</b>
hướng đông nam. Bến Thuỷ có nghĩa là “bến đóng tàu thuỷ” nói gọn lại.


<b>2.8. Một số yếu tố vốn là </b><i><b>sự vật</b></i>, <i><b>đặc sản</b></i> hoặc <i><b>đặc điểm</b></i> của nơi đó.


<b>Bến Cát là huyện của tỉnh Bình Dương, mới tách ra từ huyện Bến Cát cũ năm</b>
1999, diện tích 588,4km2<sub>, dân số104.900 người (2006), gồm thị trấn Mỹ Phước và 14 xã.</sub>
Bến Cát là “bến có nhiều cát”.


<b>Bến Dầu là chơ ở xã Đại Thạnh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Bến Dầu là</b>
“bến chuyên bán dầu rái” [9].


<b>Bến Đá là đèo ở chỗ giáp giới hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, gần Tam Quan.</b>
Tên chữ là Thạch Tân. Bến Đá là “bến có nhiều đá” [5].


<b>Bến Gỗ là địa điểm ở xã Hồ Hưng, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, có một di</b>
chỉ khảo cổ học thuộc văn hoá Chăm. Bến Gỗ là “bến tập trung gỗ khai thác ở miền
Đông để chở bằng thuyền về miền Tây tiêu thụ”.


<b>Bến Phân là cầu nằm trên đường Thống Nhất, quận Gò Vấp, tp. HCM, dài</b>
84,2m, rộng 7m. Bến Phân ngày xưa là <i>bến</i> bán <i>phân</i> tằm để bón cho trầu và thuốc lá
nên có tên trên [4].


<b>Bến Súc là địa điểm bên quốc lộ 51, thuộc thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.</b>
Bến Súc xưa kia là nơi tập trung gỗ rừng để chở về miền Tây Nam Bộ tiêu thụ [8].



<b>Bến Súc cịn là cảng ở trên sơng Sài Gịn, tại chỗ giáp giới của hai tỉnh Bình</b>
Dương và Tây Ninh. Bến Súc chỉ “bến chứa những khúc gỗ lớn”.


<b>Bến Ván là sông chảy qua An Tân và đầm An Thái, tỉnh Quảng Nam, dài độ</b>
6km. Tên chữ Hán là Bản Tân. Bến Ván cũng là cầu xe lửa bắc qua sông Bến Ván, tỉnh
Quảng Nam, dài 1.640m [1]. Bến Ván là “bến chứa nhiều ván”.


<b>Bến Kiền là cảng trên sơng Cấm, tp. Hải Phịng. Tại đây có khu cơng nghiệp</b>
đóng tàu đánh bắt cá lớn. Bến Kiền có lẽ là “bến có nhiều khúc gỗ cây kiền kiền” [5].


<b>2.9. Sau cùng, thành tố sau là tên các loại </b><i><b>cây cối</b></i> ở địa điểm đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

cỏ lá nhỏ, mọc theo bờ nước, rễ là vị thuốc sài hồ. Tên dịch ra từ Hán Việt của Bến Lức


là <i>Lật Giang</i>[4].


<b>Bến Tắt là địa điểm trên sông Bến Hải, thuộc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.</b>
<b>Bến Tắt cũng là tên cầu bắc qua sông Bến Hải, trên đường Hồ Chí Minh, do Cu Ba xây</b>
dựng năm 1973, dài 150m, rộng 6m, được cơng nhận là di tích quốc gia năm 1986, bị lũ
cuốn trôi năm 1985, được trục vớt tháng 12 – 2006. Bến Tắt là “bến có mọc nhiều mây
tắt” [1].


<b>Bến Tre là tỉnh ở Nam Bộ, diện tích 2.310km</b>2<sub>, dân số 1,299 triệu người (2006),</sub>
gồm 1 thị xã và 7 huyện. Tỉnh được thành lập ngày 1 – 1 - 1900. Tên dịch sang chữ Hán
lá Trúc Giang (dịch khơng sát). Có hai cách lý giải: 1. Bến Tre là “bến có nhiều cây tre
mọc”. Người Khmer cũng gọi tương tự <i>Prêk Rưsei</i> “rạch Tre” [12]. 2. Dạng gốc là <i>Srok</i>


<i>Kompon Trey/Treay “</i>xứ bến cá” [13]. Tại Bến Tre, người ta khơng thấy có nhiều tre, nên


thuyết 2 có lý hơn.



<b>Bến Lạc là đảo nhỏ ở phía bắc quần đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hồ. Bến Lạc vì</b>
bến ở vị trí tách ra khỏi quần đảo như bị lạc giữa biển khơi.


<b>3. Hầu hết các địa danh trong bài này đều là từ thuần Việt. Chúng phản ảnh những</b>
con người, địa hình, cảnh vật, động vật… nơi chúng chào đời. Vì vậy, chúng như những
bức tranh giúp chúng ta hiểu rõ hơn đất nước, lịch sử, văn hoá dân tộc.


<b> TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


1. Đinh Xuân Vịnh, <i>Sổ tay địa danh Việt Nam</i>, HN, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2002.


2. Đỗ Hữu Thích (trưởng ban biên tập), <i>Địa chí Thanh Hố, tập 1. Địa lý và lịch sử</i>,
HN, Nxb Văn hóa – Thông tin, 2000.


3. Huỳnh Minh, <i>Tây Ninh xưa</i>, HN, Nxb Thanh niên, 2001.


4. Lê Trung Hoa, <i>Từ điển địa danh thành phố Sài Gịn – Hồ Chí Minh</i>, Nxb Trẻ, 2003.
5. Lê Trung Hoa, <i>Từ điển từ nguyên địa danh Việt Nam</i>, bản đánh máy, chưa xuất bản.
6. Lê Văn Đức, <i>Việt Nam từ điển</i>, SG, Khai trí, 1970.


7. Phan Minh Đạo, <i>Địa danh ở tỉnh Bình Thuận</i>, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Sở,
2005.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

9. Thạch Phương – Nguyễn Đình An (chủ biên), <i>Địa chí Quảng Nam</i>, bản đánh máy,
chưa xuất bản.


10. Trần Việt Kỉnh, <i>Nha Trang có những dịng sơng cổ</i>, trong “Văn hố sơng nước miền
Trung”, HN, Nxb KHXH, 2006, tr. 381 – 380.



11. Trương Ngọc Tường, <i>Một số địa danh ở Tiền Giang</i>, Văn hoá nghệ thuật Tiền Giang,
tháng 11 – 2000, tr.27 – 31.


12. Trương Vĩnh Ký, x. Lê Hương, <i>Người Việt gốc Miên</i>, tr. 253 – 264. TS.Thái Văn
Chải dịch phần Địa danh.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×