Lich su Dang
Tran Ngoc Song
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và cương lĩnh đầu tiên của Đảng
I BỐI CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC TA TRƯỚC NGÀY ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
l Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa
Dân tộc Việt Nam sớm hình thành trong q trình dựng nước và giữ nước. Với truyền thống
đồn kết và bất khuất, dân tộc ta từng đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược lớn mạnh.
Từ đâu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây, trong đó có đế quốc Pháp, đã nhịm ngó, xâm
lược nước ta, mở đâu bằng việc khai thơng bn bán và truyền giáo.
Nǎm 1858, đế quốc Pháp vũ trang xâm lược nước ta. Vua quan triều đình nhà Nguyễn từng
bước đầu hàng chúng. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1884, triều đình nhà Ngun đã ký Hiệp ước
Patơnốt, hồn tồn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ đó, Việt Nam trở thành thuộc địa của đế
quốc Pháp. Dưới chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai của chúng, xã hội Việt Nam có
nhiều thay đổi.
Về chính tri thực dân Pháp thi hành chính sách chun. Mọi quyền hành đêu nằm trong tay
người Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trị bù nhìn. Chúng thi hành chính sách chia để
trị. Chúng chia rẽ giữa ba dân tộc trên bán đảo Đơng Dương, rồi lập ra xứ Đơng Dương thuộc
Pháp nhằm xố tên các nước Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới. Đánh giá về chính
sách này, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã viết: "Chủ nghĩa thực dân Pháp khơng hề thay đổi cái
châm ngơn "chia để trị" của nó. Chính vì thế mà nước An Nam, một nước có chung một dân tộc,
chung một dịng máu, chung một phong tục, chung một lịch sử, chung một truyền thống, chung
một tiếng nói, đã bị chia nǎm sẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo trá sự chia cắt ấy, người ta hy vọng
làm nguội được tình đồn kết, nghĩa đồng bào trong lịng người An Nam và tạo ra những mối
xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau. Sau khi đẩy họ chống lại nhau, người ta lại ghép một
cách giả tạo các thành phần ấy lại, lập nên một "Liên bang" gọi là Liên bang Đơng Dương"...
Về kinh tế tư bản Pháp khơng phát triển cơng nghiệp ở nước ta, mà chỉ mở mang một số ngành
trực tiếp phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài ngun để cung cấp ngun liệu cho nền
cơng nghiệp của nước Pháp.
Chính sách độc quyền kinh tế Pháp đã biến Việt Nam thành thị trường của chính quốc, nơi vơ
vét tài ngun và bóc lột nhân cơng rẻ mạt.
Bên cạnh sự bóc lột nhân cơng và cướp đoạt tài ngun, đất đai, bọn thực dân Pháp cịn duy trì
chế độ phong kiến để giúp chúng bóc lột địa tơ, lợi tức và các hình thức thuế khố rất nặng nề.
Các mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nơng
dân, với giai cấp phong kiến địa chủ chưa được giải quyết, thì mâu thuần giữa dân tộc ta với bọn
đế quốc Pháp thống trị và phong kiến tay sai của chúng lại phát sinh, càng đẩy nhanh q trình
cách mạng của nhân dân ta.
Đánh giá về hiện tượng xã hội nói trên, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Sự tàn bạo của chủ nghĩa
tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ cịn phải làm cái việc là gieo hạt giống của cơng
cuộc giải phóng nữa thơi"
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của tư bản Pháp trùm lên phương thức sản xuất phong
kiến lỗi thời đã làm phân hố các giai cấp cũ, tạo ra kết cấu giai cấp mới.
2. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hố, giai cấp cơng nhân ra đời
Giai cấp địa chủ phong kiến trong những thế kỷ trước đã từng giữ vai trị tiến bộ nhất định trong
lịch sử. Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng đế quốc Pháp thì bản thân giai cấp này cũng bị
Trang 1
Lich su Dang
Tran Ngoc Song
phân hóa. Một bộ phận can tâm làm tay sai cho đế quốc Pháp để duy trì quyền lợi của bản thân,
một bộ phận khơng ít tiếp tục truyền thống dân tộc, đề xướng và lãnh đạo các phong trào Vǎn
thân, Cần vương chống đế quốc Pháp xâm lược, khơi phục triều đình phong kiến. Một số trở
thành những lãnh tụ của phong trào quần chúng nơng dân, vừa đấu tranh chống đế quốc Pháp,
vừa chống lại triều đình bán nước.
Một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện từ trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914
1918), vừa ra đời đã bị sự chèn ép của tư bản Pháp và phân hố thành hai bộ phận. Một số ít ơm
chân đế quốc, tham gia vào các cơ quan chính trị và kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp tư
sản mại bản. Một bộ phận khác tuy có mâu thuẫn nhất định với tư bản Pháp và triều đình phong
kiến, nhưng thế lực kinh tế yếu ớt, q quặt, phụ thuộc, khuynh hướng chính trị cải lương. Do
vậy, giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam tuy có tinh thần u nước, chống phong kiến và đế quốc,
nhưng họ khơng có khả nǎng lãnh đạo cách mạng. Họ chỉ có thể tham gia cuộc đấu tranh ấy
trong điều kiện nhất định.
Tầng lớp trí thức và tiểu tư sản là những người vốn được chế độ phong kiến và thực dân đào tạo.
Nhưng do truyền thống u nước chi phối, họ khao khát độc lập, tự do, dân chủ, nên cũng bị
phân hố. Một số ít cam tâm làm tay sai. Số đồng vẫn giữ được khí tiết dù ở hồn cảnh nào cũng
khơng ngi lịng cứu nước. Khi có điều kiện, những trí thức u nước thường đóng vai trị truyền
bá những tư tưởng mới và là ngịi pháo của các cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến.
Giai cấp nơng dân khao khát độc lập và ruộng đất, hǎng hái chống đế quốc và phong kiến. Sau
phong trào Vǎn thân, Cần vương, nhất là sau thất bại của cuộc khởi nghĩa n thế (1913), phong
trào nơng dân bị phân tán. Nơng dân là một lực lượng đơng đảo, u nước, nhưng khơng thể tự
vạch ra đường lối đúng đắn để tự giải phóng và khơng thể đóng vai trị lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp. Lớp cơng nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng
một số cơ sở cơng nghiệp, đơn trại và thành phố phục vụ cho cuộc xâm lược và binh định nước
ta. Trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (19141918), giai cấp cơng nhân cịn ít, chỉ 10 vạn
người và trình độ cịn thấp. Qua thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai (19241929), số lượng
cơng nhân chun nghiệp đã có 22 vạn người, chiếm 1,2% số dân. Nếu tính số người làm th
trong các hãng kinh doanh tư nhân vừa, nhỏ và số người vơ sản, nửa vơ sản sống ở thành thị và
nơng thơn, thì đội qn vơ sản ở Việt Nam trước nǎm 1930 có đến hàng triệu người.
Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, cũng như nơng dân và các tầng lớp lao
động khác, giai cấp cơng nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến và
tư sản, phần lớn xuất thân từ nơng dân. Đó là cơ sở khách quan thuận lợi cho hai giai cấp cơ
bản này có sự liên minh tự nhiên từ khi ra đời và phát triển trong q trình đấu tranh cách mạng.
Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, khơng có cơ sở xã hội cho chủ nghĩa cơng đồn và chủ
nghĩa cải lương thâm nhập, lũng đoạn từ bên trong, do vậy, giai cấp cơng nhân Việt Nam) tuy
cịn trẻ, số lượng ít, trình độ vǎn hố, kỹ thuật cịn thấp, nhưng ở nước ta đó là giai cấp đại biểu
cho lực lượng sản xuất tiến bộ nhất, sống tập trung, có ý thức kỷ luật, có nǎng lực cách mạng
triệt để và có tinh thần quốc tế vơ sản.
Là con đẻ của một dân tộc anh hùng, lớn lên trong thời đại mới, khi mà giai cấp cơng nhân Nga
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Bơnsêvích đã giành được chính quyền, Quốc tế cộng sản
đã thành lập, lại được lãnh tụ Nguyễn ái Quốc giác ngộ, giai cấp cơng nhân Việt Nam đã từ giác
ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, nhanh chóng phát triển từ tự phát đến tự giác. Tháng 11 nǎm
1922, 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn (Nam Bộ) đã bãi cơng. Từ nǎm 1920 đến nǎm 1925, có đến 25
cuộc bãi cơng trong cả nước. Nổi bật nhất là cuộc bãi cơng của cơng nhân Ba Son nổ ra từ ngày
4 tháng 8 đến ngày 28 tháng 11 nǎm 1925 để "kìm chân" chiếc tàu J.Misơlê của đế quốc Pháp
chuẩn bị đưa qn sang đàn áp cách mạng Trung Quốc. Cuộc đấu tranh này có tổ chức, chỉ đạo
Trang 2
Lich su Dang
Tran Ngoc Song
và biểu hiện tinh thần quốc tế cao cả. Tuy vậy, chỉ đến những nǎm 19281929, khi Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí Hội chủ trương "vơ sản hố" mới tạo điều kiện cho phong trào
cơng nhân chóng trưởng thành, phát triển lên trình độ tự giác.
3 Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dàn tộc, nhiều đảng phái xuất hiện
Lịch sử nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến những nǎm hai mươi của thế kỷ này đã
chứng kiến hơn 300 cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta chống đế quốc Pháp xâm
lược. Nhưng cuối cùng đều khơng giành được thắng lợi vì khơng có một đường lối cứu nước
đúng đắn.
Trước kia, chế độ phong kiến khi đang ở giai đoạn hưng thịnh, giai cấp phong kiến đã từng lãnh
đạo dân tộc đánh thắng bọn phong kiến phương bắc lớn mạnh xâm lược. Nhưng khi chế độ
phong kiến đã suy tàn và phải đối phó với một kẻ thù mới, một đế quốc thuộc loại cường quốc
thế giới, thì giai cấp phong kiến bất lực và trở thành phản động.
Thất bại của phong trào Cần vương là do thiếu đường lối đúng, thiếu một tổ chức cách mạng có
khả nǎng dắt dẫn dân tộc đến thắng lợi. Thất bại của phong trào này đánh dấu sự chấm dứt thời
kỳ dấu tranh chống ngoại xâm trong khn khổ hệ tư tưởng phong kiến. Thất bại của cuộc khởi
nghĩa n Thế dưới sự lãnh đạo của cụ Hồng Hoa Thám cũng chứng tỏ đó khơng phải là con
đường giành thắng lợi.
Khi các phong trào trên chấm dứt thì cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước ở nước ta bộc lộ
sâu sắc.
Sau khi từng bước ly khai con đường giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến, nhiều
người u nước Việt Nam hướng ra nước ngồi, tìm đến nhưng con đường mới để mưu sự
nghiệp giải phóng dân tộc như: con đường Duy Tân của Nhật Bản (1860), con đường Cách
mạng tư sản Pháp (1789), con đường Cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc (1911)...
Vào đâu thế kỷ này, nước Nhật từ sau cuộc vãn động Duy Tân đã trở thành nước đế quốc chủ
nghĩa, đã đánh bại Nga Hồng trong cc chiến tranh Nga Nhật (1905). Cách mạng 1905 ở
Nga nổ ra nhưng khơng thắng lợi. Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (nǎm 1911) đã đánh đổ
triều đình Mãn Thanh, lập ra nước Trung Hoa dân quốc. Những sự kiện trên đây đã ảnh hưởng
đến phong trào u nước Việt Nam.
ý thức hệ tư sản phương Tây đã thâm nhập vào Việt Nam. Một số sĩ phu tiến bộ tiếp thu tràn lưu
tư tưởng này, mong muốn nước mạnh, dân giàu theo con đường tư bản chủ nghĩa. Họ muốn noi
theo con đường phát triển của Nhật Bản, dựa vào Nhật để đánh Pháp. Tiêu biểu cho khuynh
hướng này là hội Duy Tân do cụ Phan Bội Châu sáng lập, với mục đích cổ động phong trào, tổ
chức lực lượng chống Pháp theo tơn chỉ "mở mang dân trí, chấn hưng dân khí, vun trồng nhân
tài". Số khác như các cụ: Lương Vǎn Can, Nguyễn Quyền... mở trường Đơng Kinh Nghĩa Thục ở
Hà Nội nhằm cổ động tinh thần u nước, bài xích chính sách cai trị của thực dân Pháp, khuyến
khích cải cách, chế diễu lũ phong kiến, cường hào v.v.. Là một nhà u nước nhiệt thành, nhưng
chủ trương của cụ Phan Chu Trinh khác hẳn với cụ Phan Bội Châu. Cụ Phan Chu Trinh tiêu biểu
cho xu hướng cải cách dân chủ tư sản (1789), phản đối việc vũ trang bạo động chống Pháp. Cụ
nói: "Bất bạo động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, ngoại vọng tất vong". Đó là lời tun bố của
cụ Phan Chu Trinh sau khi đi Nhật về (1581906). Sau này trong thư "thất trảm" gửi vua Khải
Định khi y sang Pháp (1922), cụ Phan Chu Trinh viết: "Mau mau quay đâu lại mà thối vị đi, đem
chính quyền trả lại cho quốc dân để quốc dân được trực tiếp với chính phủ Pháp mà làm việc
đặng mưu lợi ích sau này". Phong trào Đơng Du, Đơng Kinh Nghĩa Thục, chống đi phu, nộp thuế
ở Trung Kỳ là kết quả của khuynh hướng tư tưởng tư sản.
Tính chất phong trào dân tộc ở thời kỳ này có chuyển biến khác trước Một số tổ chức u nước
ra đời như hội Duy Tân (1904), trường Đơng Kinh Nghĩa Thục (1907), hội Đơng á đồng minh
(1908), Việt Nam quang phục Hội (19121924) v.v.. Song, vì đường lối chính trị của các tổ chức
Trang 3
Lich su Dang
Tran Ngoc Song
này khơng rõ ràng, nhất là khơng dựa vào quần chúng lao động, mà dựa vào uy tín cá nhân, nên
khơng tạo ra được sự thống nhất trong những người đề xướng phong trào. Vì vậy, khi những
người thủ lĩnh bị đế quốc Pháp bắt thì phong trào cũng tan rã theo. Cách mạng tháng Mười Nga
thành cơng (1917) đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử nhân loại. Quốc tế cộng sản, bộ
tham mưu của giai cấp vơ sản và các dân tộc bị áp bức tồn thế giới được thành lập. ở Trung
Quốc, sau phong trào Ngũ Tứ, Đảng cộng sản Trung Quốc ra đời (1921). ở Pháp, Đảng cộng
sản Pháp được thành lập (1920), sự kiện lịch sử này khơng chỉ là thắng lợi của giai cấp cơng
nhân và nhân dân lao động Pháp, mà cịn là thắng lợi của các dân tộc thuộc địa Pháp.
Đồng thời, với những chuyển biến trên thế giới, cách mạng Việt Nam lúc này cũng bắt đâu có
những chuyển biến mới.
Đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt tổ chức những người Việt Nam u nước ở Pháp đưa bản
"u sách 8 điểm" đến Hội nghị các nước đế quốc thắng trận ở thành phố Vécxây (61919); đồng
chí Nguyễn ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản tại Đại hội lần thứ 18 của
Đảng xã hội Pháp ở thành Tua và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp (1920).
Đồng chí Nguyễn ái Quốc được bầu vào đồn chủ tịch Hội nơng dân Quốc tế (l01923), và dự
Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản (1924). Tiếng bom Phạm Hồng Thái mưu sát tồn quyền
Méclanh (61924) ở Quảng Châu (Trung Quốc) v.v.. Tất cả như sự báo hiệu bước chuyển biến
mới về chất của phong trào cách mạng Việt Nam.
Tháng 4 nǎm 1921, trên Tạp chí Cộng sản của Đảng cộng sản Pháp, đồng chí Nguyễn ái Quốc
viết: "Người Đơng Dương giấu một cái gì đang sơi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách
ghê gớm, khi thời cơ đến".
Đúng như nhận xét của đồng chí Nguyễn ái Quốc, từ những nǎm 1920 trở đi, phong trào cách
mạng Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng cách mạng theo xu
hướng tư tưởng tư sản, đã xuất hiện những tổ chức u nước tiếp thu tư tưởng tiến bộ mới. Đặc
biệt là chủ nghĩa MácLênin hệ tư tưởng của giai cấp cơng nhân ngày càng có tác động mạnh
mẽ vào phong trào u nước và phong trào cơng nhân.
ở Việt Nam, giai cấp tư sản dân tộc chưa bao giờ giương được ngọn cờ giải phóng dân tộc.
Đảng lập hiến của Bùi Quang Chiêu (1919) về cǎn bản là một tập đồn địa chủ "tư sản hố".
Nǎm 1926, họ đưa ra thuyết "Pháp Việt đề huề" thì mặt nạ làm tay sai cho đế quốc Pháp lộ rõ.
"Thuyết trực trị" của Nguyễn Vǎn Vĩnh, "Thuyết bảo hồng lập hiến" của Phạm Quỳnh đã bộc lộ
chân tướng ơm chân đế quốc Pháp. Xu hướng quốc gia cải lương của nhóm Huỳnh Thúc Kháng
cũng ít tiếng vang.
Phong trào đấu tranh trong những nǎm 19231927, địi tự do, dân chủ theo kiểu cách mạng tư
sản, nhưng động lực của nó là những người tiểu tư sản chứ khơng phải do đảng của giai cấp tư
sản lãnh đạo. Biểu hiện của phong trào này là nhiều hội, đảng u nước của thanh niên trí thức
kế tiếp nhau ra đời: Tân Việt thanh niên đồn tức Tâm tâm xã (19231925), hội Phục Việt
(1925), Đảng thanh niên của Trần Huy Liệu (1926), Thanh niên cao vọng đảng của Nguyễn An
Ninh (19261929), Tân Việt cách mạng đảng (19261930), Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí Hội (19251929), Việt Nam quốc dân đảng (19251930) v.v... Những tổ chức u nước cách
mạng nói trên đã có tác dụng nhất định trong việc truyền bá tư tưởng mới, giáo dục lịng u
nước và tập hợp số quần chúng thanh niên trí thức, tiểu tư sản. Nhưng, họ chưa vạch ra được
một đường lối cách mạng phù hợp với u cầu của dân tộc. Tâm tâm xã nêu cao quyết tâm "khơi
phục quyền làm người của người Việt Nam", nhưng "chưa bàn đến chính thể". Tân Việt cách
mạng đang nhận rõ mục đích giải phóng dân tộc, nhưng chưa thấy vị trí lịch sử của giai cấp cơng
nhân, Việt Nam quốc dân đảng chủ trương chống đế quốc, chống phong kiến, nhưng lại sao
chép rập khn chủ nghĩa Tam dân của Tơn Dật Tiên (Trung Quốc).
Nhìn chung, các hội và đảng u nước nói trên có tinh thần chống đế quốc, nhưng chưa nhận
Trang 4
Lich su Dang
Tran Ngoc Song
thức được xu thế phát triển khách quan của thời đại sau Cách mạng tháng Mười Nga, nên khơng
thấy được giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng xã hội,
chủ nghĩa u nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vơ sản, chưa thấy độc lập
dân tộc phải gắn liền với chế độ mới để đi đến xố bỏ mọi sự bất cơng và áp bức bóc lột. Những
người trong các tổ chức này cũng khơng thấy hết bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế
quốc, khơng nhận thức được vai trị lãnh đạo của giai cấp cơng nhân, vai trị của quần chúng
nhân dân, trước hết là nơng dân trong cách mạng. Bởi những hạn chế đó, những người u
nước trong các tổ chức này chưa thể xác định được một đường lối cách mạng đúng đắn.
Riêng Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội do đồng chí Nguyễn ái Quốc sáng lập, là
một tổ chức cách mạng, phần lớn gồm những người trí thức, tiểu tư sản, sớm tiếp thu chủ nghĩa
Mác Lênin, sớm có khuynh hướng cộng sản chủ nghĩa. Đảng Tân Việt, sau những nǎm 1926
1927 đã chịu ảnh hưởng về đường lối của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội.
Cuộc đấu tranh về ý thức hệ và về đường lối cứu nước giữa Việt Nam thanh niên cách mạng
đồng chí Hội và các tổ chức u nước nói trên đã diễn ra từ những ngày đầu đồng chí Nguyễn ái
Quốc trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập đảng vơ sản kiểu mới
ở Việt Nam, từng bước khắc phục sự khủng hoảng về đường lối cứu nước.
II ĐỒNG CHÍ NGUYỄN ÁI QUỐC TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁCLÊNIN CHUẨN BỊ THÀNH
LẬP ĐẢNG
l Đồng chí Nguyễn ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà u nước
đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ, thì đồng chí Nguyễn ái Quốc đã ra đi tìm
đường cứu nước theo phương hướng mới.
Gần mười nǎm bơn ba khắp các châu lục (19111920), Người đến những nước thuộc địa và
những nước đế quốc như Anh, Mỹ, Pháp... quan sát, nghiên cứu, suy nghĩ, đã phát hiện một
chân lý: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ của giai
cấp cơng nhân với nhân dân lao đồng ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa...
Dưới ánh sáng Cách mạng tháng Mười, Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin và
ảnh hưởng của cuộc đấu tranh thành lập Đảng cơng sản Pháp..., chủ nghĩa Mác Lênin, chân lý
cách mạng của thời đại đã sớm được khẳng định trong nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 12 nǎm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua, đồng chí Nguyễn ái
Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và chủ trương thành lập Đảng cộng sản
Pháp. Giải thích việc làm đầy ý nghĩa đó, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Đệ tam Quốc tế nói sẽ
giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ. Cịn Đệ nhị Quốc tế khơng hề
nhắc đến vận mạng các thuộc địa. Vì vậy, tơi đã bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho
đồng bào tơi, độc lập cho Tổ quốc tơi, đây là tất cả những điều tơi muốn."
Sự kiện này đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của
đồng chí Nguyễn ái Quốc.
Từ đó Người xác định con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam là: giải phóng giai
cấp vơ sản mới thực sự giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp cua chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới .
Từ khi trở thành người cộng sản, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã xúc tiến mạnh mẽ việc truyền bá
chủ nghĩa Mác Lênin vào phong trào giải phóng dân tộc và phong trào vơ sản ở các nước thuộc
địa, trong đó có Việt Nam.
Cuối nǎm 1921, tại Đại hội lân thứ nhất của Đảng cộng sản Pháp, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã
Trang 5
Lich su Dang
Tran Ngoc Song
trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề "chủ nghĩa cộng sản và thuộc địa", và kiến nghị thành lập
Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng. Nǎm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản
Pháp được thành lập Đồng chí Nguyễn ái Quốc được cử làm trưởng tiểu ban nghiên cứu về
Đơng Dương. Với cương vị này, đồng chí đã tích cực tun truyền, giáo dục và giới thiệu cho
Đảng cộng sản Pháp nhiều chiến sĩ cách mạng của các nước thuộc địa ở châu á châu Phi...
Cũng nǎm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, Người đã cùng với một số chiến sĩ
cách mạng ở các nước Angiêri, Mađagátxca, Xênêgan, Tuynidi, Marốc, Đahơmây v.v..sáng lập
ra Hội liên hiệp thuộc địa. ở Pari, trong đó Hội người Việt Nam u nước ở Pháp làm nịng cốt.
Thơng qua tổ chức này và báo Người cùng khổ, diễn đàn của các dân tộc bị áp bức, chủ nghĩa
Mác Lênin đã đến với các dân tộc thuộc địa, đồng thời tình hình các nước thuộc địa đã đến với
nhân dân Pháp. Cùng với báo Người cùng khổ mà đồng chí Nguyễn ái Quốc làm chủ nhiệm,
kiêm chủ bút và quản lý, Người cịn viết nhiều bài đǎng trên các báo Nhân đạo (L'humanité), cơ
quan Trung ương của Đảng cộng sản Pháp, Đời sống thợ thuyền (La Vie Ouvrière), tiếng nói của
giai cấp cơng nhân, Tạp chí Cộng sản (La Revue communiste), cơ quan lý luận của Đảng cộng
sản Pháp v.v.. Hầu hết bài viết của Người đều tập trung lên án chủ nghĩa thực dân.
Nǎm 1925, được sự giúp đỡ của những người cộng sản Pháp, tác phẩm Bản án chế độ thực
dân Pháp của đồng chí Nguyễn ái Quốc viết bằng tiếng Pháp được xuất bản lần đầu tiên ở Pari.
Tư tưởng, quan điểm cơ bản của Người về chiến lược và sách lược cách mạng thuộc địa đã
bước đầu thể hiện trong tác phẩm.
Bản án chế độ thực dân Pháp tố cáo trước nhân dân Pháp và thế giới những tội ác của bọn thực
dân khơng chỉ ở Việt Nam, Angiêri mà ở khắp các thuộc địa. Bằng biểu tượng "con đỉa hai vịi",
Nguyễn ái Quốc đã làm cho người đọc thấy rằng: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù
chung của giai cấp vơ sản và nhân dân lao động bị áp bức, bị bóc lột ở các nước chính quốc và
các dân tộc thuộc địa. Bản án chế độ thực dân Pháp đã góp phần vào việc thiết lập sự liên minh
giữa cách mạng vơ sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, phải
thực hiện sự liên minh chật chẽ với nhau để chống kẻ thù chung, vì "chỉ có sự hợp tác này mới
bảo đảm cho giai cấp cơng nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng".
Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả nǎng cách mạng to lớn. Phải làm cho các dân tộc thuộc
địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đồn kết lại để đặt cơ sở cho một
Liên minh phương Đơng tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách
mạng vơ sản".
Bản án chế đơ thực dân. Pháp đã phê phán thái độ "cầu cạnh xin xỏ thay đổi quốc tịch" của một
số người mang tư tưởng cải lương tư sản, đồng thời đề cao tinh thần tự lực, tự cường, tự mình
giải phóng cho mình: "cơng cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực
của bản thân anh em" và hướng cách mạng thuộc địa phát triển theo con đường cách mạng của
Quốc tế cộng sản.
Bản án chế độ thực dân Pháp là tác phẩm lý luận đầu tiên của cách mạng nước ta, góp phần
truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam. Nhờ tác phẩm đó và các bài viết của đồng chí
Nguyễn ái Quốc, nhân dân ta, trước hết là những người trí thức tiểu tư sản u nước, tiến bộ đã
hướng về và tiếp thụ chủ nghĩa Mác Lênin.
Tháng 6 nǎm 1923, đồng chí Nguyễn ái Quốc rời nước Pháp đến Mátxcơva để tham dự Hội nghị
nơng dân quốc tế tân thứ nhất (101923); đồng thời trực tiếp học tập, nghiên cứu kinh nghiệm
Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Lênin. Ngày 1761924, đồng chí được Trung ương
Đảng cộng sản Pháp uỷ nhiệm tham gia Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản. Sau đó, đồng chí
cịn tham gia các đại hội Quốc tế cơng hội đỏ, Quốc tế phụ nữ, Quốc tế thanh niên, Quốc tế cứu
tế đỏ Tại các Đại hội quốc tế nói trên, đồng chí Nguyễn ái Quốc tiếp tục làm rõ những quan điểm
của mình về vai trị lịch sử của giai cấp vơ sản thuộc địa, về mối quan hệ giữa phong trào cách
mạng ở thuộc địa với cách mạng vơ sản ở chính quốc và nêu rõ sự cần thiết phải thủ tiêu hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc trước khi xố bỏ chế độ thối nát này trên tồn thế giới.
Trang 6
Lich su Dang
Tran Ngoc Song
2. Đồng chí Nguyễn ái Quốc trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng
Giữa tháng 12 nǎm 1924, với tư cách là uỷ viên Bộ phương Đơng của Quốc tế cộng sản, trực
tiếp phụ trách Cục phương Nam, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã từ Liên Xơ đến Quảng Châu
(Trung Quốc) để hoạt động, xây dựng phong trào và đào tạo cán bộ cách mạng cho một số nước
ở Đơng Nam á. Tại đây, đồng chí đã cùng với các nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc, Triều
Tiên, ấn Độ, Thái Lan, Inđơnêxia, Malaixia, v.v..sáng lập ra Hơi liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở
á Đơng.
Tháng nǎm 1925, đồng chí Nguyễn ái Quốc thành lập Việt Nam thanh niên cách mang đồng chí
Hội, trong đó có tổ chức trung kiên là cộng sản đồn làm nịng cốt để trực tiếp truyền bá chủ
nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam, chuẩn bi điều kiện cho việc thành lập chính đảng của giai cấp
vơ sản Việt Nam. Người đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo được hơn 200 cán bộ
cách mạng. Trong số này, nhiều người được chọn đi học trường Đai học phương Đơng ở Liên
Xơ (Trần Phú, Lê Hơng Phong, Hà Huy Tập, v.v..), một số được cử Vào học qn sự ở trường
Hồng Phố (Trung Quốc) như Trương Vân Lệnh, Phùng Chí Kiên. Cịn phần lớn đưa về nước
hoạt động. Người cho ra tờ báo Thanh niên làm cơ quan tun truyền của Hội.
Đầu nǎm 1927, cuốn Đường cách mệnh gồm những bài giảng của Người trong các lớp đào tạo
cán bộ ở Quảng Châu, được Bộ tun truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á Đơng
xuất bản.
Trong tác phẩm quan trọng này, đồng chí Nguyễn ái Quốc nêu ra những tư tưởng cơ bản về
chiến lược và sách lược của cách mang Việt Nam.
Đường cách mệnh đề cập đầu tiên đến vấn đề tư cách người cách mang, nhắc nhở cán bộ phải
vị cơng vong tu, nói thì phải làm,... giữ chủ nghĩa cho vững,... ít lịng tham muốn về vật chất,... hy
sinh,... giữ bí mật,... phục tùng đồn thể v.v..
Tác phẩm nêu ra ba loai tư tưởng về cách mạng và chia ra hai thứ cách mạng là "dân tộc cách
mạng" và "thế giới cách mạng", rồi khẳng định tuy có khác nhau "nhưng 2 thứ cách mệnh ấy vẫn
có quan hệ với nhau". "Tất cả dân cày, người thợ trong thế giới bất kỳ nước nào, nịi nào đều
liên hợp nhau lại như anh em một nhà, để đạp đổ tất cả tư bản trong thế giới, làm cho nước nào,
dân nào cũng được hạnh phúc, làm cho thiên hạ đại đồng ấy là thế giới cách mệnh".
Tác phẩm phân tích những hạn chế của cách mạng tư sản ở Mỹ (1776), ở Pháp (1789) và khẳng
định chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để.
Đường cách mệnh chỉ rõ đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là tư bản đế quốc chủ
nghĩa, phong kiến địa chủ; đồng thời, chỉ rõ động lực và lực lượng cách mạng: "cơng nơng là gốc
cách mệnh cịn học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ... chỉ là bầu bạn cách mệnh của cơng nơng".
Trong khi kêu gọi sự đồng tâm, nhất trí làm cách mạng, giải phóng dân tộc, tác phẩm đã phê
phán hành động ám sát cá nhân và những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa khác chỉ xúi dân bạo
động mà khơng bày cách tổ chức; hoặc làm cho dân quen tính ỷ lại mà qn tính tự cường.
Quần chúng một khi đã được giác ngộ, có tổ chức và lãnh đạo sẽ là lực lượng cách mạng vơ
địch: "dân khí mạnh thì qn lính nào súng ống nào cũng khơng chống lại".
Đường cách mệnh chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Tác phẩm
cịn nhấn mạnh ý thức tự lực tự cường, muốn người ta giúp cho thì mình phải tự giúp mình trước.
Đồng chí Nguyễn ái Quốc đã thấy khả nǎng cách mạng thuộc địa có thể giành thắng lợi trước,
khơng thụ động chờ đợi cách mạng vơ sản chính quốc thắng lợi để được giải phóng.
Người viết: "An Nam dân tộc cách mệnh thành cơng thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì
Trang 7
Lich su Dang
Tran Ngoc Song
cơng nơng Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ" .
Tác phẩm khẳng định: muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, trước hết phải có đảng cách mạng.
Đảng ấy phải lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm kim chỉ nam: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin"
Tác phẩm đã giới thiệu các tổ chức chính trị quốc tế, các hình thức làm ǎn hợp tác và hướng
nhân dân ta tham gia các tổ chức đó. Đường cách mệnh chỉ rõ: "Ai làm cách mệnh trong thế giới
đều là đồng chí của dân An Nam".
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội và tác phẩm Đường cách mệnh đã trực tiếp chuẩn
bị về tư tưởng, lý luận chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng vơ sản kiểu mới ở Việt Nam.
3 Vai trị của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội
Những nǎm trước, các cuộc đấu tranh của cơng nhân địi tự do dân chủ, địi cải thiện đời sống,
tuy đã có ý thức giai cấp nhưng vẫn nằm trong phong trào dân tộc nói chung, Cơng nhân đấu
tranh địi thả nhà cách mạng Phan Bội Châu, để tang nhà chí sĩ Phan Chu Trinh, hay đình cơng
địi thả Nguyễn An Ninh (19251926), thể hiện lập trường tư tưởng của họ chủ yếu là u nước,
giải phóng dân tộc. Những nǎm 19281929, khi Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội
thực hiện chủ trương "vơ sản hố" thì phong trào cơng nhân đã có những bước phát triển rõ rệt.
Những cuộc đình cơng hay chống đi phu đi lính vẫn nhằm vào bọn tư bản thực dân và tay sai
của chúng, nhưng đã có tổ chức, có kỷ luật hơn.
Phản ánh bước phát triển này, đồng chí Tơn Đức Thắng, một chiến sĩ cách mạng vơ sản đã từng
kéo cờ phản chiến trên hạm đội của Pháp ở Hắc Hải để bảo vệ Cách mạng tháng Mười Nga, đã
viết: Từ chỗ phong trào rời rạc, nhờ ảnh hưởng của cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, báo
Người cùng khổ, và mấy tờ Việt Nam hồn, mà bước đâu lan rộng, bước đâu có tổ chức, để đầu
nǎm 1927 cơng nhân đi vào phong trào Thanh niên cách mạng đồng chí Hội một cách sâu rộng.
Từ hình thức các hội hữu ái, tương tế, giai cấp cơng nhân đã tự tổ chức ra cơng hội. Từ cơng hội
nhà máy Ba Son (1925) đã ra đời các cơng hội nhà máy xe lửa Trường Thi (Vinh Nghệ An),
cơng hội nhà máy xi mǎng Hải Phịng, cơng hội nhà máy dệt Nam Định, cơng hội các mỏ than
Mạo Khê, Hồng Gai v. v.. Ngày 28 tháng 4 nǎm 1929, Tổng cơng hội Bắc Kỳ được thành lập.
Tiếp đó, tháng 10 nǎm 1929, Tổng cơng hội Nam Kỳ cũng ra đời.
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội cũng hoạt động và phát huy ảnh hưởng mạnh mẽ
trong phong trào nơng dân và có vai trị quyết định trong việc làm cho phong trào nơng dân ngày
càng xích lại gần phong trào cơng nhân.
Thực tế lịch sử Việt Nam chứng minh rằng, trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách
mạng giữa giai cấp cơng nhân và giai cấp tư sản, phần quyết định là giai cấp nào nắm được
nơng dân. Cương lĩnh của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã đề ra: "Tịch ký và
đem về cơng tất cả ruộng đất của tụi đồn điền nhà chung và q tộc, vua chúa. Tịch ký và đem
về cơng tất cả ruộng đất của địa chủ trên 100 mẫu. Đất ruộng tịch ký về phân phối cho dân cày
cày cấy chung". Khẩu hiệu đấu tranh của Việt Nam thanh niên cách mang đồng chí Hội có nói:
"Miễn thuế ruộng nǎm mất mùa" "Đất bồi, đất hoang về dân cày. Phản đối sự cưỡng chiếm
những đất ấy", "Thực hành 1/4 lúa ruộng cho địa chủ, đồn điền", "miễn góp lúa ruộng nǎm mất
mùa", "Đóng góp tạp dịch bình đẳng, phản đối sự miễn sưu, miễn dịch cho q tộc và nhà giàu"
Trái lại, tất cả các đảng và tổ chức u nước khác, kể cả Việt Nam quốc dân Đảng, ngồi chủ
trương giải phóng dân tộc đều khơng có chủ trương đấu tranh cho quyền lợi của cơng nhân và
nơng dân.
Đánh giá sự trưởng thành của phong trào cơng nơng trong những nǎm 19281929, Dự thảo Luận
cương chính trị (l01930) của Đảng viết: "Vơ sản giai cấp Đơng Dương tuy chưa đơng đúc,
nhưng số thợ thuyền càng ngày càng thêm, nhứt là thợ đồn điền. Sự đấu tranh của thợ thuyền
càng ngày càng hǎng hái. Dân cày cũng đã tỉnh dậy chống đế quốc và địa chủ rất kịch liệt.
Trang 8
Lich su Dang
Tran Ngoc Song
Những cuộc bãi cơng trong nǎm 19281929, những cuộc đấu tranh rất dữ dội của thợ thuyền và
dân cày trong nǎm nay (1930) đã chứng tỏ rằng, sự đấu tranh của giai cấp ở Đơng Dương ngày
càng bành trướng. Điều đặc biệt và quan trọng nhất trong phong trào cách mạng ở Đơng Dương
là sự đấu tranh của quần chúng cơng nơng có tính chất độc lập rõ rệt, chớ khơng phải là chịu ảnh
hưởng quốc gia chủ nghĩa như trước nữa"
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội là tổ chức đại diện cho giai cấp vơ sản lúc bấy giờ
đã tranh thủ được tầng lớp trí thức tiểu tư sản Việt Nam.
Vào cuối nǎm 1929, đầu nǎm 1930, những điều kiện cho sự ra đời một đảng vơ sản ở Việt Nam
đã chín muồi.
4. Ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam
Vào đầu nǎm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí Hội khơng cịn đủ sức lãnh đạo. Trong lúc đó, số lượng cộng sản đồn
trong Thanh niên cách mạng đồng chí Hội ngày thêm nhiều. Cần phải thành lập một Đảng cộng
sản để lãnh đạo phong trào, đó là một u cầu khách quan và đã có những tiền đề nhất định.
Tháng 3 nǎm 1929, những cộng sản đồn trong Kỳ bộ Thanh niên cách mạng đồng chí Hội Bắc
Kỳ gồm các đồng chí: Trần Vǎn Cung, Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngơ Gia Tự, Đỗ Ngọc
Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Vần Tn, Dương Hạc Đính đã họp tại số nhà 5Đ, Hàm Long,
Hà Nội, quyết định thành lập chi bộ cộng sản và chủ trương tiến tới thành lập Đảng cộng sản
thay thế Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội để lãnh đạo cách mạng.
Ngày 1 tháng 5 nǎm 1929, tại Đại hội tồn quốc lần thứ nhất của Việt Nam thanh niên cách mạng
đồng chí Hội, kiến nghị của đồn đại biểu Kỳ bộ Bắc kỳ về việc giải tán Hội để thành lập Đảng
cộng sản khơng được chấp nhận. Đồn đại biểu Bắc kỳ rút khỏi Đại hội về nước, ra lời kêu gọi
cơng nhân, nơng dân và các tầng lớp nhân dân ủng hộ chủ trương thành lập Đảng cộng sản.
Ngày 17 tháng 6 nǎm 1929, những đảng viên trong chi bộ 5Đ Hàm Long đã họp tại số nhà 316
phố Khâm Thiên, Hà Nội, tun bố thành lập Đơng Dương cộng sản Đảng, cử ra Ban chấp hành
trung ương lâm thời gồm các đồng chí: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngơ Gia Tự, Trần
Vǎn Cung, Nguyễn Phong Sắc, Trần Tư Chính, Ngun Vǎn Tn; thơng qua Tun ngơn và
quyết định xuất bản báo Búa Liềm, xúc tiến việc xây dựng tổ chức đảng và các đồn thể quần
chúng.
Sau khi Đại hội tồn quốc của Việt Nam thanh niên cách mạng đơng chí hội bế mạc, 6 uỷ viên
mới được bầu vào Tổng bộ là Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Thiệu, Châu Vǎn Liêm, Nguyễn Sĩ Sách,
Lê Hồng Sơn, Phạm Vǎn Đồng đã họp bàn việc thành lập Đảng cộng sản, cử ra ban trù bị gồm
các đồng chí lãnh đạo Tổng bộ nói trên. Thực hiện chủ trương này, những cộng sản đồn cịn lại
trong Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã hình thành các chi bộ cộng sản. Ngồi hai
chi bộ cộng sản ở Trung Kỳ và Nam Kỳ cịn có chi bộ cộng sản người Việt Nam ở Thái Lan và
một chi bộ ở Hồng Kơng (Trung Quốc).
Thượng tuần tháng 8 nǎm 1929, An Nam cộng sản đảng được thành lập tại cǎn phịng số 1, lầu
2 "Phong cảnh khách lâu", ở đường Bơnác Philippin Sài Gịn (nay là góc đường Lê Lợi Nguyễn
Trung Trực thành phố Hồ Chí Minh). Hội nghị này đã cử ra Ban lâm thời chỉ đạo của Đảng, gồm
các đồng chí Châu Vǎn Liêm (tức Việt), Ngun Thiệu, Trần Não, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn,
Nguyễn Sĩ Sách do đồng chí Châu Vần Liêm làm bí thư.
Sau Đơng Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản đảng, các đảng viên Tân Việt cách mạng
đảng chịu ảnh hưởng của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã tiến hành Đại hội
thành lập Đơng Dương cộng sản liên đồn vào ngày 1 tháng 1 nǎm 1930, gồm các đồng chí Trần
Hữu Chương, Nguyễn Khoa Vǎn (tức Hải Triều, Nguyễn Xn Thanh, Trần Đại Quả, Ngơ Đức
Đề, Ngơ Đình Mãn, Lê Tiềm, Lê Tốn. Đại hội chưa kết thúc thì các đại biểu đã bị chính quyền
Trang 9
Lich su Dang
Tran Ngoc Song
Pháp bắt.
Do vậy, Đơng Dương cộng sản liên đồn ra đời nhưng chưa có Ban chấp hành trung ương.
Đơng Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng sau khi ra đời đã có sự tranh giành ảnh
hưởng, tranh giành quần chúng và cơng kích lẫn nhau. Đây là những mâu thuẫn trong q trình
phát triển đi lên của phong trào cộng sản Việt Nam.
Tình hình ấy phản ánh sự ấu trĩ và khuynh hướng biệt phái, tiểu tư sản trong phong trào cơng
nhân và phong trào u nước. Hai đảng đã nhiều lần trao đổi thư từ để giải quyết những bất
đồng nhưng vẫn khơng thống nhất được.
Những người cộng sản và những người u nước chân chính đều nhận thấy cần phải sớm khắc
phục hiện tượng trên, thành lập một đảng cộng sản thống nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam
tiến lên.
III HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA
ĐẢNG
1 Thống nhất các tổ chức cộng sản
Trước tình hình xuất hiện ba tổ chức cộng sản trong một nước. Quốc tế cộng sản đã gửi thư cho
những người cộng sản ở Đơng Dương nêu rõ: "nhiệm vụ quan trọng hơn hết và tuyệt đối cần kíp
của tất cả những người cộng sản Đơng Dương là sớm lập một đảng cách mạng của giai cấp vơ
sản, nghĩa là một đảng cộng sản quần chúng. Đảng ấy phải là một đảng duy nhất và ở Đơng
Dương chỉ có đảng ấy là tổ chức cộng sản mà thơi".
Quốc tế cộng sản đã chỉ thị cho đồng chí Nguyễn ái Quốc chịu trách nhiệm "hợp nhất các phần
tử cộng sản chân chính lại, để thành lập một đảng duy nhất". Nhận chỉ thị này, mùa thu nǎm
1929, đồng chí Nguyễn ái Quốc từ Thái Lan trở lại Hương Cảng chuẩn bị kế hoạch thực hiện
nhiệm vụ lịch sử trọng đại nói trên.
Từ ngày 3 đến 7 tháng 2 nǎm 1930, Hội nghị hợp nhất được tiến hành tại nhà một cơng nhân ở
xóm thợ đường Cửu Long gần Hương Cảng (Trung Quốc). Tham dự Hội nghị có các đồng chí
Trịnh Đình Cửu và Ngun Đức Cảnh, đại biểu của Đơng Dương cộng sản đảng; Ngun Thiệu
và Châu Vǎn Liêm, đại biểu của An Nam cộng sản đang. Hội nghị tiến hành dưới sự chủ trì của
đồng chí Nguyễn ái Quốc, đại biểu của Quốc tế cộng sản.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, các đại biểu đã hồn tồn nhất trí tán thành ý kiến của đồng
chí Nguyễn ái Quốc và thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng lấy tên là Đảng cộng
sản Việt Nam.
Hội nghị đã thơng qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng cộng
sản Việt Nam. Những vǎn kiện quan trọng này đều do đồng chí Nguyễn ái Quốc dự thảo. Hội
nghị cịn thơng qua Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản và
Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến quần chúng cơng, nơng, binh, đồng bào và đồng chí trong cả
nước nhân dịp thành lập Đảng.
Hội nghị đã nhất trí về việc hợp nhất và tổ chức các đồn thể quần chúng; thơng qua Điều lệ tóm
tắt của Cơng hội, Nơng hội, Đồn thanh niên cộng sản, Hội phụ nữ, Hội cứu tế đỏ, Hội phản đế
(tức Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc)v.v..
Hội nghị cịn quyết định kế hoạch thống nhất các cơ sở Đảng trong cả nước, thể thức cử Ban
chấp hành trung ương lâm thời và bàn việc liên hệ để thu nạp Đơng Dương cộng sản liên đồn.
Hội nghị cũng nhất trí rằng, khi về nước các đại biểu đêu lấy danh nghĩa thay mặt đại biểu quốc
tế (tức là đồng chí Nguyễn ái Quốc) mà tiến hành cơng việc của Hội nghị hợp nhất.
Trang 10
Lich su Dang
Tran Ngoc Song
Nói về nỗi vui sướng của ngươi cộng sản trước sự kiện lịch sử này, về sau đồng chí Nguyễn
Thiệu, đại biểu của An Nam cộng sản đảng dự Hội nghị hợp nhất đã viết: "Tơi vơ cùng cảm ơn
đồng chí Vương (tức đồng chí Nguyễn ái Quốc) đã làm cho tơi được thoả lịng. Đảng mới, tên
mới, tất cả đều thống nhất theo tinh thần mới. Có thể nói rằng, mỗi người đều được mà chẳng ai
mất gì. Đồng chí Vương đã đem lại cho chúng tơi nhiều q, nhiều gấp mấy lần những điều mà
chúng tơi mong ước. Đêm ấy về nhà, chúng tơi khơng ngủ được vì q vui mừng
Nhờ sự hoạt động tích cực của các đồng chí đại biểu thay mặt đồng chí Nguyễn ái Quốc, chỉ
trong một thời gian ngắn, các đảng bộ ở cơ sở đã được hợp nhất. Các tổ chức quần chúng cũng
thống nhất theo điều lệ mới. Lâm thời chấp uỷ của Đảng ở các xứ được chỉ định và Ban chấp
hành trung ương lâm thời được thành lập. Các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Hới, Trần Vân
Lan, Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao, Phan Hữu Lầu, Hồng Quốc Việt được các đảng bộ cử vào
Ban chấp hành trung ương lâm thời do đồng chí Trịnh Đình Cửu đứng đầu.
Đảng bộ Hoa kiều ở Chợ Lớn cũng cử đồng chí Lưu Lập Đạo tham gia Ban chấp hành trung
ương lâm thời của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 24 tháng 2 nǎm 1930, hai đồng chí Châu Vǎn
Liêm, Nguyễn Thiệu thay mặt đại biểu quốc tế, các đồng chí Phan Hữu Lầu, Hồng Quốc việt
thay mặt Ban chấp hành trung ương lâm thời cùng với đồng chí Ngơ Gia Tự, Bí thư lâm thời
chấp uỷ của Đảng bộ Nam Kỳ đã họp và quyết định chấp nhận Đơng Dương cộng sản liên đồn
gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam.
Như vậy, chỉ nửa tháng sau, kể từ ngày Hội nghị hợp nhất bế mạc, ba tổ chức cộng sản ở Đơng
Dương đã hồn tồn thống nhất trong một đảng duy nhất Đảng cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam tháng 2 nǎm 1930 có ý nghĩa như Đại hơi
thành lập Đảng. Hội nghị đã vạch ra một đường lối cách mạng và đường lối xây dựng Đảng đúng
đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Đường lối đúng đắn
đó là điều kiện quan trọng nhất để ba tổ chức cộng sản nhanh chóng thống nhất ý chí và hành
động, gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối chiến lược đúng đắn là sự cổ vũ to lớn đối với
phong trào cách mạng đang ở thời kỳ phát triển sơi sục. Đường lối của Đảng được cơng bố trở
thành tiếng kèn tập hợp lực lượng quần chúng, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Chính cương lĩnh vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Lời kêu gọi được Hội nghị hợp nhất thơng qua là
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng...
2 Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
Chính cương vắn tắt của Đảng nhận định rằng, Việt Nam là một xứ thuộc địa, nửa phong kiến,
cơng nghiệp khơng phát triển "vì tư bản Pháp hết sức ngǎn trở sức sinh sản, làm cho nghành
cơng nghiệp bản xứ khổng thể mở mang được".
Kinh tế nơng nghiệp chiếm ưu thế, "nơng nghệ ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng
hoảng, nơng dân thất nghiệp nhiều". Tình hình đó đưa đến mâu thuẫn ngày càng kịch liệt giữa
một bên là dân tộc ta trong đó có cơng nhân, nơng dân và tồn thể dân tộc với một bên là đế
quốc Pháp và tay sai của chúng. Đánh giá hai giai cấp tư sản và địa chủ là những đối tượng cần
xố bỏ, Đảng ta đã có sự phân biệt: "Tư bản bản xứ khơng có thế lực gì ta khơng nên nói cho họ
đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ
nghĩa". Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phải làm "tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Đây là một thể loại cách mạng vơ sản ở các nước thuộc địa mà sinh thời Mác, Lênin và ngay cả
Quốc tế cộng sản cũng chưa nói đến. Sau này, Đang ta hồn chỉnh tên gọi của thể loại cách
mạng này, và được gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trang 11
Lich su Dang
Tran Ngoc Song
Mục tiêu chủ yếu lúc này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lược và tay sai của chúng,
giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Mục đích cuối cùng là xây dựng thành cơng chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
Theo tư tưởng của đồng chí Nguyễn ái Quốc thì cuộc cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản bao gồm hai cuộc vận động là cuộc vận động giải phóng
dân tộc và cuộc vận động xây dựng đất nước độc lập tự do hạnh phúc, phần lớn coi giai đoạn
cách mạng là giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Hai cuộc vận động này
liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc vận động trước thành cơng
tạo điều kiện cho cuộc vận động sau giành thắng lợi, Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này:
giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội khơng có bức tường ngǎn cách, khơng phải tiến
hành một cuộc cách mạng chính trị lân thứ hai để giải quyết vấn đê chính quyền như cách mạng
Nga và cách mạng Trung Quốc.
Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nǎm vững ngun lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới, thấu suốt con đường phát triển
tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận rõ mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng dân tộc dân
chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh đâu tiên của Đảng là cương lĩnh giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ cách mạng mà Cương lĩnh vạch ra là "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến, làm cho nước Nam được hồn tồn độc lập tổ chức ra qn đội cơng nơng" thâu hết sản
nghiệp lớn... của tư bản đế quốc,..thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của cơng chia
cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân nghèo mở mang cơng nghiệp và nơng nghiệp thi hành
luật ngày làm 8 giờ"
Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc dân chủ và nội dung xã hội chủ nghĩa. Song, nổi
bật là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai của chúng (đại địa chủ, đại tư sản phản cách mạng và
vua quan phong kiến) giành lại độc lập, tự do, dân chủ cho tồn dân tộc.
Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh của Đảng chủ trương đồn kết tất cả các giai cấp cách
mạng, các lực lượng tiến bộ và cá nhân u nước, tập trung lực lượng đánh đổ kẻ thù chủ yếu
của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc Pháp và tay sai, mở đường cho cách mạng phát triển đến
thắng lợi hồn tồn.
Để bảo đảm vai trị lãnh đạo của đảng tiên phong của giai cấp cơng nhân, Đảng chủ trương giải
quyết hài hồ từng bước quyền lợi của các giai cấp cách mạng dù cịn có những mâu thuẫn nhất
định về quyền lợi. Vê vấn đê ruộng đất, "xương sống của cách mạng thuộc địa", Đảng chủ
trương tiến hành từng bước với những nội dung thích hợp với từng thời kỳ cách mạng. ở giai
đoạn giải phóng dân tộc thì quốc hữu hố tồn bộ đồn điền và đất đai của đế quốc và địa chủ
phản cách mạng Việt Nam để chia cho nơng dân nghèo, "phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm
thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến" Đối với chủ nghĩa tư bản thì "thâu
hết sản nghiệp lớn (như cơng nghiệp, vận tải, ngân hàng v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa
Pháp để giao cho chính phủ cơng nơng binh". Cịn đối với các tầng lớp "phú nơng, trung, tiểu địa
chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ
trung lập". Sau khi cách mạng giải phóng dân tộc giành được thắng lợi, chính quyền đã về tay
cơng nơng, Đảng sẽ lãnh đạo tiến hành những cải cách nhằm sửa đổi lại những bất cơng và
phân phối lợi nhuận giữa những nhà tư sản và những người vơ sản một cách cơng bằng hơn.
Trong khi khẳng định "cơng nơng là gốc cách mạng", Sách lược vắn tắt của Đảng vạch rõ, "phải
hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào
phe vơ sản giai cấp"
Về ngun tắc liên minh, Sách lược vắn tắt đã viết: "Trong khi liên lạc với các giai cấp phải rất
cẩn thận, khơng khi nào nhượng một chút lợi ích gì của cơng nơng mà đi vào đường thoả hiệp"
Trang 12
Lich su Dang
Tran Ngoc Song
Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng của quần
chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi dựng ra chính phủ cơng nơng
binh chứ khơng phải bằng con đường cải lương.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vơ sản thế giới, đứng trong mặt trận cách
mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp cơng nhân thế giới mà đội qn tiên phong của mặt
trận này là Liên Xơ. Sách lược vắn tắt ghi rõ: "Trong khi tun truyền cái khẩu hiệu nước An Nam
độc lập, phải đồng tun truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vơ sản giai cấp thế
giới, nhất là vơ sản giai cấp Pháp"
Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trị lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng "thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng... phải thu phục cho được đại bộ
phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa
chủ và phong kiến", đồng thời phải liên minh với các giai cấp cách mạng và tầng lớp u nước
khác, đồn kết họ, tổ chức họ đấu tranh cho giai phóng dân tộc và để đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản.
Đảng cộng sản Việt Nam kết nạp đảng viên khơng những trong cơng nhân tiên tiến, mà cịn kết
nạp những người tiên tiến trong nơng dân lao động, trí thức cách mạng và trong các tầng lớp
khác. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp vơ sản, lấy chủ nghĩa Mác Lênin
làm nền tảng tư tưởng. Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động. Đảng viên phải "tin theo
chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản, hǎng hái tranh đấu và dám hy
sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng".
Trong tơn chỉ của mình, Đảng chỉ rõ phải "lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để
tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản".
Do sớm nhận thức được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội trong cách mạng vơ sản ở nước thuộc địa, coi trọng độc lập tự chủ, tự lực tự
cường của từng quốc gia, Hội nghị hợp nhất chủ trương thành lập Đảng cộng sản Việt Nam;
đồng thời có kế hoạch giúp những người cách mạng ở Lào và ở Campuchia sáng lập ra đảng
tiên phong của dân tộc mình. Sau ngày Đảng cộng sản Việt Nam thành lập, tháng 4 nǎm 1930,
một số chi bộ cộng sản đầu tiên của giai cấp vơ sản và nhân dân lao động Lào đã ra đời ở Viên
Chǎn, Thà Khẹt, Bị Neng. Đầu nǎm 1930, một số nhóm cộng sản ở Campuchia được thành lập
ở Phnơmpênh và ở Cơngpơngchàm. Chi bộ cộng sản đâu tiên ở Campuchia được thành lập ở
trường trung học Xixơvát (Phnơmpênh).
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ở một nước thuộc địa, giai cấp cơng nhân chỉ chiếm 1,2% dân
số, đã có Cương lĩnh cách mạng đúng đắn nguy từ đâu. Điều đó chứng minh rằng, Đảng đã nắm
vững bản chất khoa học và cách mang của chủ nghĩa Mác Llênin, giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp, sớm kết hợp yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc một
cách sáng tạo, gắn chủ nghĩa u nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vơ sản, phát huy được
truyền thống u nước, đánh giá đúng vị trí của từng giai cấp cách mạng, đồn kết được các lực
lương u nước, nhờ đó mà Đảng đã nắm được quyền lãnh đạo cách mang.
Cương lĩnh đâu tiên là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác Lênin,
đường lối của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào hồn cảnh cụ thể nước
ta, là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của đồng chí Nguyễn ái Quốc về cách mạng dân tộc
dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước thuộc địa nửa phong kiến.
Nhưng khơng phải những giá trị tư tưởng, đường lối đúng đắn trên đã được mọi người nhận
thức, qn triệt. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng tháng 10 nǎm 1930 đã phê phán
những "sai lầm" của Hội nghị hợp nhất và quyết định "thủ tiêu Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt và Điều lệ" của Đảng, thơng qua Luận cương chính trị theo tinh thần chỉ thị củaQuốc tế
Trang 13
Lich su Dang
Tran Ngoc Song
cộng sản, đổi tên đảng là "Đảng cộng sản Đơng Dương ".
Sở dĩ có vấn đề chưa thống nhất giữa Cương lĩnh đầu tiên do Hội nghị thành lập Đảng vạch ra
với Luận cương chính trị và các vǎn kiện của Hội nghị trung ương Đảng tháng l01930 là vì
khơng chỉ do kết hợp hay tách rời yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc, mà cịn do xác định đúng
hay chưa đúng vị trí của mỗi yếu tố đó trong điều kiện cụ thể của nước ta. Đồng chí Nguyễn ái
Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, đánh giá đúng hơn và đầy đủ hơn yếu tố dân
tộc trong cách mạng Việt Nam.
Tuy bị phê phán, nhưng thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh cho sự đúng đắn, sáng
tạo của Cương lĩnh đầu tiên.
Sau 30 nǎm đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh; (tức đồng
chí Nguyễn ái Quốc) đã viết: "Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số
nhân dân ta... Vì vậy, Đảng ta đã đồn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung
quanh giai cấp mình.
Cịn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cơ lập. Do đó, quyền lãnh
đạo của Đảng ta Đảng của giai cấp cơng nhân khơng ngừng củng cố và tǎng cường".
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời phản ánh sự phát triển tất yếu khách quan của xã hội Việt Nam.
Điều kiện quốc tế cho sự ra đời của Đảng là thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, sự thành
lập Quốc tế cộng sản và nhiều đảng cộng sản ở khắp các lục địa.
ở nước ta, giai cấp cơng nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, phong trào u nước
đã chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác Lênin. Đường lối cứu nước theo chủ nghĩa Mác Lênin,
đã chiến thắng đường lối cải lương và quốc gia cách mạng. Phong trào giải phóng dân tộc phát
triển dưới sự chỉ đạo của tư tưởng, đường lối, phương pháp cách mạng của đồng chí Nguyễn ái
Quốc.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và xác lập vai trị lãnh đạo cách mạng; đồng thời, với sự thất bại
của cuộc khởi nghĩa n Bái (921930), đánh dấu sự chấm dứt ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư
sản, xác lập ảnh hưởng của hệ tư tưởng vơ sản trong cách mạng Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đâu thời đại mới trong lịch sử nước ta, thời đại giai cấp cơng
nhân và đảng tiên phong của nó đứng vị trí trung tâm, kết hợp mọi phong trào u nước và cách
mạng, quyết định nội dung, phương hướng phát triển của xã hội Việt Nam. Đây là thời đại nhân
dân Việt Nam khơng chỉ làm nên lịch sử vẻ vang của mình, mà cịn góp phần vào sự nghiệp
chung của các dân tộc bị áp bức là xố bỏ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, giành độc
lập, dân chủ, hồ bình và tiến bộ xã hội.
Nắm vững chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Nguyễn ái Quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách
mạng Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với phong trào cách mạng các nước, kết hợp nhân tố dân
tộc với nhân tố giai cấp, dân tộc với quốc tế, dân tộc với thời đại, độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội, tạo thành sức mạnh tổng hợp để chiến thắng chủ nghĩa đế quốc xâm lược và xây dựng
đất nước giàu mạnh. Q trình chuẩn bị và thành lập Đảng eộng sản cho ta những kết luận:
Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phầm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác
Lênin với phong trào cơng nhân và phong trào u nước Việt Nam.
Học thuyết Mác Lênin khẳng định rằng, Đảng cơng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác Lênin với phong trào cơng nhân. Quy luật chung này được đồng chí Nguyễn ái Quốc vận
dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, nơi giai cấp cơng nhân cịn ít về số lượng, nhưng người
vơ sản bị áp bức, bóc lột thì đồng. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào cơng nơng
và phong trào u nước dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trang 14
Lich su Dang
Tran Ngoc Song
Muốn xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải coi trọng đầy đủ cả ba
yếu tố trên.
Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự phát triền cao và thống nhất của
phong trào cơng nhân và phong trào u nước.
Đảng ta là con đẻ của phong trào cách mạng của cơng nhân, nơng dân và các tầng lớp lao động
và trưởng thành thơng qua đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến.
Muốn củng cố và phát triển Đảng, địi hỏi phải củng cố và phát triển phong trào cách mạng của
quần chúng. Đảng mật thiết liên hệ với quần chúng, hướng dẫn, lãnh đạo phong trào quần
chúng, thơng qua thực tiễn phong trào cách mạng mà củng cố và phát triển Đảng.
Thứ ba, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả thống nhất của phong trào cách mạng
trong cả nước, là sự đồng tâm nhất trí của những chiến sĩ tiên phong.
Những người cộng sản Việt Nam dù ở trong Đơng Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản
đảng hay Đơng Dương cộng sản liên đồn, lúc bấy giờ tuy có những vấn đề bất đồng, nhưng đã
biết đề cao trách nhiệm của đội tiên phong, đặt lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp lên trên hết nên đã
sớm thống nhất vào một đảng duy nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Thứ tư, đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng được thể hiện trong
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tãt là phù hợp với u cầu của tồn Đảng và tồn
dân.
Cương lĩnh đâu tiên trở thành ngọn cờ tập hợp, đồn kết các lực lượng và lãnh đạo phong trào
cách mạng từ khi Đảng được thành lập.
Thực tiễn cách mạng nước ta ngày càng khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo của những tư
tưởng chiến lược và sách lược trên đây của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Đại hội đại biểu tồn
quốc lân thứ VII của Đảng đã khẳng định: "lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động" của tồn Đảng, tồn qn, tồn dân ta
trong giai đoạn hiện nay.
Trang 15