Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tài liệu ôn chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.83 KB, 12 trang )

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
Bằng lý luận và thực tiễn hãy phân tích và chứng minh luận
điểm: “cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ
động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách
mạng vơ sản ở chính quốc” là một điểm sáng tạo lớn của Hồ
Chí Minh.
 Ở Tư tưởng Hờ Chí Minh là mợt hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong
hệ thống quan điểm đó có nhiều luận điểm hết sức sáng tạo, thể
hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
hoàn cảnh cụ thể nước ta. Những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí
Minh rất phong phú, đa dạng, bao quát nhiều mặt, nhiều lĩnh vực,
đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh tính đúng đắn
và giá trị to lớn.
 Trong bài viết này, chúng tôi xin đề cập đến một trong những luận
điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc,
đó là luận điểm: “Cách mạng giải phóng dân tộc cần phải chủ động,
sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở
chính quốc”.
 Như chúng ta đã biết: Mác – Ăngghen là những người đã sáng lập
ra học thuyết cách mạng và khoa học của giai cấp vô sản. Bằng lý
luận triết học, kinh kế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học,
hai ông đã vạch rõ bản chất bóc lột và tất yếu diệt vong của chủ
nghĩa tư bản, vạch rõ vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản

1


và con đường đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và quần
chúng lao động chống giai cấp tư sản - con đường cách mạng vô
sản để thủ tiêu xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.


 Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử quy định, Mác và Ăngghen tập trung
nghiên cứu từ thực tiễn xã hội châu Âu, nên chưa có điều kiện bàn
nhiều về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, các ông mới
chỉ bắt đầu tiếp cận vấn đề dân tộc, thuộc địa ở một số trường hợp
cá biệt (Ba Lan, Airơlen). Nói chung, quan điểm của các ông là: khi
giai cấp vô sản ở chính quốc giành được chính quyền thì đương
nhiên các dân tộc thuộc địa sẽ được giải phóng.
 Lênin đã bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác. Cống hiến lớn của
Lênin là nghiên cứu những đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc, phát
hiện quy luật không đều của chủ nghĩa tư bản, ở đây cũng phải nói
thêm rằng: Lênin sinh ra và hoạt động chủ yếu ở nước Nga rộng
lớn, chủ nghĩa tư bản phát triển ở mức trung bình, trong thời kỳ chủ
nghĩa tư bản phát triển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, ngoài
mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản ở các
nước tư bản, trên thế giới đã xuất hiện và phát triển càng gay gắt
mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa
đế quốc thực dân. Cuối cùng Lênin đi đến một luận điểm nổi tiếng:
Cách mạng có thể thắng lợi trong một số nước, thậm chí ở một
nước mà ở đó tập trung mâu thuẫn và là chỗ yếu của dây chuyền
đế quốc chủ nghĩa. Lênin đã trực tiếp lãnh đạo thành công Cách
mạng tháng Mười Nga vĩ đại, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử loài
người. Lênin đã vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác, tiến hành

2


cách mạng vô sản thành công, đi từ giải phóng giai cấp đến giải
phóng dân tộc, giải phóng nhân loại với khẩu hiệu: “Vô sản toàn
thế giới và các dân tộc bị áp bức liên hiệp lại”. Cả Lênin và Mác
đều cho rằng học thuyết của các ông chỉ là “kim chỉ nam” chứ

không phải là “chân lý tuyệt đối”, là “tuyệt đỉnh” .
 Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, 9 nước tư bản đế quốc chủ
nghĩa đã chia nhau thống trị toàn cầu. Chúng tha hồ làm mưa, làm
gió, áp bức, bóc lột các dân tộc thuộc địa. Nhiều nhà cách mạng
châu Âu tỏ ra bi quan và đưa ra luận điểm không đúng rằng “không
thể có những cuộc chiến tranh dân tộc được” và luận điểm trên đã
bị Lênin phê phán. Mặc dù vậy, Quốc tế Cộng sản vẫn nhận định,
chỉ khi nào cách mạng vô sản chính quốc thành công thì sự nghiệp
giải phóng ở các nước thuộc địa mới giành thắng lợi. Thể hiện
quan điểm đó, Tuyên ngôn thành lập Quốc tế Cộng sản (3-1919) có
đoạn viết: “Việc giải phóng các thuộc địa chỉ có thể tiến hành với
việc giải phóng giai cấp công nhân ở chính quốc”, rằng “công nhân
và nông dân không chỉ ở An Nam, Angiêri, Bengan mà cả ở Ba Tư
và Ácmeni chỉ có thể được độc lập khi nào công nhân ở Anh và
Pháp đã lật đổ chính phủ Lôigioóc và Clêmămgxô, giành chính
quyền về tay mình”.
 V.I. Lênin mặc dù cũng đã sớm nhận thấy sức mạnh to lớn của
phong trào giải phóng dân tộc và người đã viết đề cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa, trong đó nhấn mạnh tư tưởng phải kết hợp
chặt chẽ phong trào cách mạng vô sản chính quốc với phong trào
giải phóng dân tộc ở thuộc địa; các nước làm cách mạng vô sản

3


thành công phải giúp đỡ cách mạng ở các nước thuộc địa, nhất là
các nước kinh tế lạc hậu, còn nhiều tàn tích phong kiến... Tuy nhiên
cũng như những nhà lãnh đạo Quốc tế cộng sản bấy giờ, Lênin đặt
cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc,
là “hậu bị quân” của cách mạng vô sản chính quốc và cách mạng

giải phóng dân tộc chỉ có thể thắng lợi khi cách mạng vô sản chính
quốc thắng lợi.
 Nguyễn Ái Quốc tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III.
 Nhưng vốn là người dân thuộc địa và là người cộng sản lăn lộn
trong phong trào thuộc địa và nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa thực
dân, Người đã đề ra những luận điểm về tính chủ động, tính tích
cực của cách mạng giải phóng dân tộc, của nhân dân các nước
thuộc địa, bổ sung vào những luận điểm chung lúc bấy giờ.
 Theo Nguyễn Ái Quốc, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở
chính quốc, nhân dân các dân tộc thuộc địa có thể “chủ động đứng
lên, đem sức ta mà giải phóng cho ta”, giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc.
 Quan điểm đó xuất phát từ tư tưởng độc lập tự chủ, tự lực, tự
cường của Hồ Chí Minh, đó là nền tảng của luận điểm: Cách mạng
thuộc địa có thể giành thắng lợi trước, không thụ động chờ cách
mạng vô sản ở chính quốc thắng lợi để được giải phóng. Người đã
từng nói: “Tiếc thay, một số đông chiến sỹ vẫn còn tưởng rằng, một
thuộc địa chẳng qua chỉ là một xứ mà trên là mặt trời, dưới là cát,
vài cây dừa xanh với mấy người khác màu da, thế thôi. Và họ hoàn

4


toàn không để ý gì đến”. Trong tình hình ấy, Hồ Chí Minh cảm thấy
không thể chỉ trông cậy vào sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp,
mà phải tự lực, tự cường. Trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp các
thuộc địa (1921), Người viết: “Công cuộc giải phóng anh em chỉ có
thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Đến
“Đường Cách mệnh” (1927), Người lại chỉ rõ: “Muốn người ta giúp

cho, thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã” và Người dự báo:
Việt Nam dân tộc cách mạng thành công thì tư bản Pháp yếu, công
- nông Pháp làm cách mạng cũng dễ. Năm 1945, Nhật đầu hàng
Đồng minh, thời cơ cách mạng đã đến, Người kêu gọi: “Toàn quốc
đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”
 Luận điểm sáng tạo nêu trên của Hồ Chí Minh mang tính cách
mạng và khoa học, đúng đắn, dựa trên những luận điểm đã được
Người khảo sát và chứng minh:
 Về phía chủ nghĩa tư bản, Người nhận thức sâu sắc vai trò của
thuộc địa đối với sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ
nghĩa tư bản đặt nền móng trên sự bóc lột hàng ngàn người lao
động ở các thuộc địa, nửa thuộc địa. Bởi vậy chủ nghĩa tư bản chỉ
tan rã hoàn toàn và vĩnh viễn khi chúng ta phá bỏ được nền móng
của lâu đài đế quốc chủ nghĩa.
 Về phía phong trào giải phóng dân tộc, Người nhận thức rõ tiềm
năng cách mạng của các dân tộc bị áp bức là rất to lớn, nó sẽ bùng
lên mạnh mẽ, hình thành một “lực lượng khổng lồ” khi được giáo
dục, giác ngộ, tổ chức, lãnh đạo. Ngay từ năm 1921, Người đã viết:
“Người châu Á tuy bị phương Tây coi là lạc hậu - họ vẫn hiểu rõ

5


hơn hết sự cần thiết phải cải cách toàn bộ xã hội hiện tại”. Người
dự báo: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp
bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của vài tên thực dân lòng
tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ và trong
khi thủ tiêu một trong những điều kiện sống còn của chủ nghĩa tư
bản, chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ anh em phương Tây
trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Cũng từ đánh giá đó, Người

đi đến khẳng định: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới tùy
thuộc phần lớn vào các thuộc địa, một cái cánh cửa của cách mạng
vô sản thế giới”.
 Người đưa ra luận điểm nổi tiếng: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa
có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi
khác bám vào giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa”. Từ đó Người
vạch rõ chủ nghĩa thực dân không chỉ là kẻ thù của các dân tộc bị
áp bức, mà đồng thời là kẻ thù của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động chính quốc. Cũng từ luận điểm nổi tiếng đó và quán triệt
sâu sắc quan điểm của Lênin về mối quan hệ giữa cách mạng chính
quốc và cách mạng thuộc địa, trong các Đại hội của Đảng Cộng sản
Pháp và Đại hội V Quốc tế cộng sản, Người kiên quyết đấu tranh
phê phán những người cộng sản chính quốc coi nhẹ vấn đề thuộc
địa, không quan tâm đến cách mạng thuộc địa. Hồ Chí Minh là
chiến sỹ tiên phong lên án chủ nghĩa thực dân đế quốc và cũng là
người thi hành bản án chôn vùi chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam,
mở đầu cho thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên thế giới.

6


 Về Việt Nam và Đông Dương, Người nhận định: Ngay dưới ách áp
bức, bóc lột tàn khốc của chủ nghĩa thực dân, người Đông Dương
không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi. Sự đầu độc
của bọn thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể
làm tê liệt tư tưởng cách mạng của họ...Sự tàn bạo của chủ nghĩa
tư bản đã chuẩn bị đất rồi, chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái
việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”. Trong lời
kêu gọi nhân dân thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người viết:
Sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho

đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng
thì chết. Chính vì vậy mà phong trào cách mạng ngày càng lớn
mạnh...”.
 Như vậy, luận điểm về khả năng giành thắng lợi của cách mạng
thuộc địa trước cách mạng chính quốc và nhân dân thuộc địa có
thể đứng lên tự giải phóng cho mình là một sáng tạo có tầm quan
trọng to lớn của Hồ Chí Minh, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác
– Lênin. Nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá đó ngang với sáng tạo
của Lênin khi Lênin đưa ra luận điểm: “Cách mạng vô sản có thể
thành công trong một số nước, thậm chí trong một nước là nơi tập
trung “mâu thuẫn” để thay cho luận điểm của Mác: “Cách mạng vô
sản chỉ có thể thành công đồng thời ở các nước”.
 Luận điểm sáng tạo đó của Hồ Chí Minh có ý nghĩa chỉ đạo thực
tiễn rất quan trọng. Đó là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta tin
tưởng và quyết tâm tổ chức lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng lên
làm cách mạng để tự giải phóng khỏi ách đế quốc xâm lược và

7


khỏi nghèo nàn lạc hậu. Đó cũng là cơ sở của tinh thần độc lập tự
chủ, tự lực tự cường của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp cách
mạng. Nhờ tinh thần đó mà cách mạng Việt Nam giành được
những thắng lợi vĩ đại. Thực tế là sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt
Nam không phải giải quyết ở Pari (thủ đô của Pháp) như cố lãnh tụ
Pháp đã khẳng định, mà là ở Việt Nam, là do kết quả của cuộc
chiến đấu lâu dài của nhân dân Việt Nam, đã thành công trước
cách mạng vô sản ở Pháp, Mỹ, đã góp phần thúc đẩy phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp Mỹ
và các nước khác...

 Điểm lại thời kỳ trước khi các cuộc đấu tranh của nhân dân ta có
Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, có thể thấy được trong
hơn 80 năm đâu tranh chống thực dân Pháp đã có rất nhiều cuộc
đấu tranh vũ trang diễn ra oanh liệt của nhân dân ta nổ ra nhưng
vẫn chưa dành thắng lợi, nguyên nhân chủ yếu có thể thấy là do
các cuộc đấu tranh đó không có một giai cấp tiền phong lãnh đạo,
chưa có một lý luận cách mạng soi đường, chưa có đường lối
chiến lược sách lược đúng đắn dẫn đến các cuộc đấu tranh nổ ra
thiếu tính chủ động và sáng tạo.
 Khi Đảng ra đời với đường lối chỉ đạo đúng đắn của Đảng và chủ
tịch Hồ Chí Minh mà công cuộc giải phóng dân tộc ở Việt Nam đã
giành được những thắng lợi to lớn.
 Diễn biến cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 diễn ra thành công
mau lẹ và ngoạn mục chính là kết quả của một quá trình đấu tranh
lâu dài, kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt nhưng nguyên

8


nhân chủ yếu của thắng lợi do chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
đứng trên lập trường giai cấp công nhân, vận dụng một cách sáng
tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt
Nam, nêu cao ngọn cờ độc lập dân tộc.
 Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 1954) cũng như thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước (1954 - 1975) càng chứng minh lời tổng kết hoàn toàn đúng
đắn của Hồ Chí Minh tại Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 2 năm
1951): “Từ xưa đến nay, mỗi khí Tổ quốc bị xâm lăng thì thinh thần
ấy lại sôi nổi, nó kết thành một nàn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn,
nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
bán nước và cướp nước”.

 Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ này, khi phong trào giải phóng
dân tộc ở Việt Nam và ở các nước thuộc địa giành được độc lập
với nhiều mức độ khác nhau, thì lịch sử loài người được ghi lại như
thời kỳ sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc. Hiện tượng lịch sử có tính chất thế giới ấy càng làm sáng tỏ tư
tưởng độc lập tự chủ, tự cường, tự mình giải phóng cho mình và lời
dự đoán hơn 50 năm về trước mà Hồ Chí Minh đã viết trong Bản án
chế độ thực dân Pháp và Đường cách mệnh. Mọi ý nghĩ của Người
đã trở thành hiện thực. Hồ Chí Minh đã trở thành “Một trong những
người đầu tiên làm tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”,
đã góp phần cùng với loài người loại trừ một trở lực to lớn trên con
đường tiến lên thế giới văn minh, xóa đi một vết nhơ trong lịch sử là
chế độ thuộc địa.

9


 Vượt lên trên tầm nhìn của các nhà yêu nước lớp trước, Hồ Chí
Minh không chỉ phát huy ý chí tự lực tự cường để hoàn thành sự
nghiệp giải phóng dân tộc về mặt chính trị mà còn vận dụng truyền
thống tốt đẹp đó vào sự nghiệp xây dựng đất nước để “đi tới xã hội
cộng sản”.
 Thấm nhuần lý luận Mác – Lênin và nhận thức sâu sắc đặc điểm
dân tộc Việt Nam, ở giai đoạn giải phóng dân tộc cũng như bước
vào giai đoạn xây dựng đất nước. Hồ Chí Minh tin tưởng tuyệt đối
vào truyền thống yêu nước của nhân dân và khả năng cách mạng
của các giai cấp từ: công nhân, nông dân, lao động trí óc đến giai
cấp tư sản dân tộc và các tầng lớp và cá nhân yêu nước khác.
Lòng tin đó được Người thể hiện trong cuộc đấu tranh về quan
điểm và lý luận trong Đảng Cộng sản Pháp sau khi được thành lập

(1920). Ở châu Âu, cho mãi đến khi Quốc tế Cộng sản ra đời (31919), nhiều người Cộng sản vẫn không tin rằng chế độ cộng sản
có thể áp dụng được ở châu Á và Đông Dương, nơi kinh tế chưa
phát triển. Trong lúc đó, bằng sự phân tích lý lẽ về những đặc điểm
lịch sử ở khu vực này, Người đã trình bày những nguyên nhân cơ
bản và khẳng định: “Chế độ cộng sản có thể áp dụng được ở châu
Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng” dễ dàng hơn là với châu
Âu. Vì vậy, trong sự nghiệp cứu nước, xuất phát từ nhận thức
truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc và tinh thần quốc
tế vô sản, Hồ Chí Minh không chờ giai cấp công nhân phát triển
đầy đủ, mà đã kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước đưa đến việc ra đời của Đảng Cộng

10


sản Việt Nam ngày 3 - 2 - 1930; không chờ có lực lượng vũ trang
cách mạng với vũ khí đầy đủ, mà đã tiến hành hai cuộc kháng
chiến toàn dân với quan điểm “dân khí mạnh thì quân lính nào,
súng ống nào cũng không chống lại nổi”.
 Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng cũng không chờ cho lực lượng
sản xuất phát triển mới lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước, mà
chủ trương kết hợp xây dựng với cải tạo, vừa xây dựng cái mới,
vừa cải tạo cái cũ, lấy xây dựng làm nhiệm vụ trung tâm và chủ yếu
trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Ở Hồ Chí Minh, tư
tưởng độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, tự lực cánh sinh xây dựng
đất nước là một nhận thức có ý nghĩa lý luận và có cơ sở thực tiễn.
Đây không phải là giáo điều, không tưởng hay cô độc, mà được Hồ
Chí Minh tổng kết từ quá trình lịch sử dân tộc và lịch sử phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế.
 Từ những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước

ta, thấy được tính chất phức tạp chưa từng có của “cuộc chiến đấu
khổng lồ”, tạo dựng một xã hội hoàn toàn mới, Hồ Chí Minh đã đề
xuất việc giáo dục toàn Đảng, toàn dân phải “có tinh thần sáng tạo,
tìm tòi cái mới, học tập cái mới”. Người cho rằng: với tinh thần tự
chủ, sáng tạo và đổi mới thì việc gì khí chúng ta cũng làm được.
Cả cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh đã thể hiện một tấm gương
sáng mẫu mực tuyệt vời về sự đổi mới và sáng tạo không ngừng.
 Nhận thức sâu sắc vị trí con người, mục tiêu của cách mạng là giải
phóng con người Việt Nam, là cốt lõi của tư tưởng độc lập tự chủ,

11


tự cường, tự mình xây dựng đất nước, không ỷ lại, trông chờ sự
giúp đỡ từ bên ngoài.
 Đó là sự sáng tạo và công lao to lớn của Hồ Chí Minh.
 Hồ Chí Minh là lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc, đồng
thời cũng là chiến sỹ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Do đã sống và hoạt động ở nhiều nước tư bản phát triển
và các thuộc địa cũng như các nước xã hội chủ nghĩa, nên Người
am hiểu thực chất chế độ kinh tế, chính trị, xã hội ở các nước đó.
Nên luận điểm của Người về công cuộc giải phóng dân tộc cần tiến
hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc là hoàn toàn có cơ sở cả về lý
luận và thực tiễn và thực tế luận điểm đó đã được chúng minh là
đúng đắn ở Việt Nam, một nước vốn là thuộc địa của Pháp.

12




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×