Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

DIEN BIEN CU THE CHIEN DICH HUE DA NANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.19 KB, 20 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Chiến dịch Huế - Đà Nẵng </b>


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


(đổi hướng từ Chiến dịch Huế-Đà Nẵng)
Bước tới: menu, tìm kiếm


<b>Chiến dịch Huế - Đà Nẵng</b>


<b>Thời gian</b>5 tháng 3 - 2 tháng 4 năm 1975
<b>Địa điểm</b> Huế, Đà Nẵng và


các tỉnh Trung Trung Bộ
miền Nam Việt Nam


<b>Kết quả</b> Chiến thắng quyết định của
QĐNDVN


<i>Một phần của Chiến dịch mùa xuân năm 1975</i>


<b>Tham chiến</b>


Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa


Mặt trận Dân tộc Giải
phóng


Miền Nam Việt Nam


Việt Nam Cộng hòa
Hoa Kỳ (cố vấn chỉ huy


và lập cầu hàng hải để di
tản)[<i>cần dẫn nguồn</i>]


<b>Chỉ huy</b>


Nguyễn Hữu An
Lê Tự Đồng
Chu Huy Mân


Ngô Quang Trưởng
Francis (chỉ huy CIA)


[<i>cần dẫn nguồn</i>]


<b>Lực lượng</b>


4 sư đoàn bộ binh


5 trung đoàn, 4 tiểu đoàn, 1
lữ đoàn độc lập


1 trung đoàn tăng - thiết
giáp


3 trung đồn pháo binh
1 sư đồn phịng khơng
1 lữ đồn cơng binh
1 lữ đồn thơng tin - liên
lạc



Quân đoàn 1 QLVNCH
134.000 quân,


449 xe tăng, xe bọc thép,
64 xe bọc thép M-42
gắn súng máy phịng khơng,
418 pháo 105-175 ly,
373 máy bay,


165 tàu xuồng các loại.


[1]


<b>Tổn thất</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

vượt biển thốt vây, cịn lại
trên 120.000 qn bị tiêu
diệt, bắt sống hoặc tan rã.
.


<b>[hiện] </b>


<b>x•t•s</b>


<b>Chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam</b>


<b>Chiến dịch Huế-Đà Nẵng là một chiến dịch trong các chiến dịch lớn của cuộc Tổng tấn </b>
công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 do Quân đội nhân dân Việt Nam phát động, dẫn đến
kết thúc cuộc Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch này bắt đầu từ ngày 5 tháng 3 đến ngày
29 tháng 3 năm 1975 sau khi chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu được một ngày. Diễn biến


các hoạt động quân sự của chiến dịch bao gồm ba chiến dịch nhỏ hơn được tiến hành gối
nhau về thời gian: Chiến dịch Trị Thiên 1975. Chiến dịch Nam-Ngãi và Chiến dịch Đà
Nẵng.


Giống như ở Tây Nguyên, sự can thiệp của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu với chiến lược
"cố thủ" mới của ông ta cũng là một trong những nguyên nhân đưa đến việc Quân khu I
thất thủ. Kết quả của chiến dịch này là Quân đoàn I Quân lực Việt Nam Cộng hoà phải
rút bỏ Quân khu I. Để tránh nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, Quân đoàn II phải bỏ lại toàn
bộ địa bàn ven biển miền Trung Trung bộ. Hai quân đoàn này sau đó đã phải giải thể.
Những đơn vị cịn lại được sáp nhập vào Qn đồn III. Tuyến phịng thủ của QLVNCH
đã lùi từ mức 1 (giữ Huế-Đà Nẵng trở vào) xuống dưới mức 5 (giữ Ninh Thuận trở vào),
làm phá sản những dự kiến hồi tháng 8 năm 1974 trong bản Kế hoạch quân sự Lý


Thường Kiệt 1975 cũng như kế hoạch phòng thủ 5 mức đã được tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu vạch ra ngày 11 tháng 3 năm 1975. Quân đội Nhân dân Việt Nam có thời cơ để đẩy
nhanh sự tan rã của QLVNCH và sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hoà.


<b>Mục lục</b>


[ẩn]


 1 Lực lượng các bên


o 1.1 Quân đội Nhân dân Việt Nam
o 1.2 Quân lực Việt Nam Cộng hoà


 2 Ý đồ quân sự - chính trị của các bên


o 2.1 Phương án tấn công của Quân đội nhân dân Việt Nam
o 2.2 Phương án phòng thủ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa



 3 Diễn biến các chiến dịch


o 3.1 Chiến dịch Trị Thiên Huế


 3.1.1 Các trận đánh chia cắt vịng ngồi
 3.1.2 Tấn công thành phố Huế


o 3.2 Chiến dịch Nam - Ngãi
o 3.3 Chiến dịch Đà Nẵng


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

 3.3.2 Tấn công và tan chạy
 4 Kết quả chiến dịch


o 4.1 Hình thái đột biến trên chiến trường miền Nam Việt Nam


 4.1.1 Những nhận định trái chiều và phản ứng của Hoa Kỳ
 4.1.2 Hệ quả của chiến dịch: QLVNCH mất cả miền Trung


o 4.2 Thái độ tiền hậu bất nhất của Nguyễn Văn Thiệu


 5 Chú thích


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Lực lượng các bên</b>



<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Quân đội Nhân dân Việt Nam</b>



<b>Binh lực</b>


<i>Tại Trị Thiên Huế và Đà Nẵng</i>: Tháng 3 năm
1975, lực lượng Quân đội nhân dân Viêt Nam trên


địa bàn Trị Thiên Huế có Qn đồn 2 - Binh
đoàn Hương Giang (thành lập tháng 5 năm 1974)
gồm các sư đồn bộ binh 304, 324, 325; sư đồn
phịng khơng 673; lữ đoàn pháo binh 164; lữ đoàn
xe tăng 203; lữ đồn cơng binh 219; trung đồn
thơng tin 463. Lực lượng quân khu Trị Thiên Huế
(B5 cũ) có mặt trên địa bàn gồm các trung đoàn bộ
binh 4, 46, 271, tiểu đoàn bộ binh độc lập số 21, 6
tiểu đoàn quân địa phương, một trung đoàn pháo
binh cơ giới, một trung đồn cao xạ, một trung
đồn cơng binh, một tiểu đồn đặc cơng, một tiểu
đồn vận tải cơ giới.[2]<sub>.</sub>


<i>Tại địa bàn phía Bắc khu 5</i>, sư đồn bộ binh 2 chủ
lực khu sau chiến dịch Nông Sơn - Thượng Đức,
trung đoàn 141 (sư đoàn 3), các trung đoàn pháo
binh 368 và 572, lữ đoàn bộ binh 52, trung đoàn
địa phương 96 (Quảng Đà), trung đoàn địa
phương 94 (Quảng Ngãi), các tiểu đoàn địa
phương 70 và 72 (Quảng Nam) đã đứng chân trên
các bàn đạp chiến lược tại khu vực Trung Phước
-Quế Sơn, đối diện với tuyến phòng thủ của sư
đoàn 2 QLVNCH ở Tiên Phước-Phước Lâm-Suối


Đá[3][4]


<b>Chỉ huy</b>


<b>Loạt bài</b>



<b>Chiến tranh Việt Nam</b>


<b>Giai đoạn 1954–1959</b>


Thuyết Domino
Hoa Kỳ can thiệp


Miền Bắc – Miền Nam


<b>Giai đoạn 1960–1965</b>


Diễn biến Quốc tế – Miền Nam


Kế hoạch Staley-Taylor
Chiến tranh đặc biệt


Đảo chính Chính phủ Ngơ Đình Diệm


<b>Giai đoạn 1965–1968</b>


Miền Bắc


Chiến dịch:


Sự kiện Vịnh Bắc Bộ


Mũi Tên Xuyên –Sấm Rền


Miền Nam
Chiến tranh cục bộ



Chiến dịch:


Các chiến dịch Tìm-Diệt


Phượng Hồng –Tết Mậu Thân, 1968


Diễn biến Quốc tế


<b>Giai đoạn 1968–1972</b>


Diễn biến Quốc tế
Việt Nam hóa chiến tranh


Hội nghị Paris
Hiệp định Paris


Chiến dịch:


Lam Sơn 719 – Chiến cục năm 1972 –


Hè 1972 –Linebacker –Linebacker II


<b>Giai đoạn 1973–1975</b>


Chiến dịch:


Xuân 1975
Phước Long



Tây Nguyên -Huế - Đà Nẵng


Phan Rang - Xuân Lộc
Hồ Chí Minh


Trường Sa và các đảo trên Biển Đơng
Sự kiện 30 tháng 4, 1975


<b>Hậu quả chiến tranh</b>


Chất độc da cam
Thuyền nhân


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>Quân đoàn 2</i>


Tư lệnh quân đoàn 2 (từ tháng 2 năm 1975): Thiếu tướng Nguyễn Hữu An.
Chính ủy qn đồn: Thiếu tướng Lê Linh.


Phó tư lệnh: Đại tá Hồng Đan.


Phó chính uỷ: Đại tá Nguyễn Cơng Trang.


Sở chỉ huy Qn đồn đóng tại Động Truồi (Tây Nam Huế) [5]


<i>Quân khu Trị-Thiên</i>


Tư lệnh kiêm chính uỷ: Thiếu tướng Lê Tự Đồng.
Phó chính uỷ: Nguyễn Văn Thanh


Phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng: Nguyễn Chi


Tham mưu phó: Nguyễn Mạnh Thoa.


Sở chỉ huy Quân khu đóng tại Cốc Ba Bó.[6]


<i>Bộ tư lệnh khu 5</i>


Tư lệnh: Thiếu tướng Chu Huy Mân
Chính uỷ: Võ Chí Cơng


Phó Tư lệnh: Nguyễn Chơn


Phó Chính uỷ: Thiếu tướng Đồn Kh
Sở chỉ huy qn khu đóng tại Trà My.


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Quân lực Việt Nam Cộng hoà</b>



<b>Binh lực</b>


Đầu năm 1975, Quân khu I - Quân đoàn I Quân lực Việt Nam Cộng hịa là đơn vị có biên
chế mạnh nhất trong các quân khu, biệt khu. Do nằm ở địa bàn đối diện với miền Bắc,
Quân đoàn này có 3 sư đồn bộ binh 1, 2 và 3; sư đoàn dù và sư đoàn thuỷ quân lục chiến
thuộc lực lượng tổng trù bị với biên chế mỗi sư đồn có 4 lữ đồn; bốn liên đồn biệt
động quân 11, 12, 14, 15; 5 thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép 4, 7, 11, 17, 20; 13 chi đội xe
bọc thép tăng phái cho các sư đoàn bộ binh; 21 tiểu đoàn pháo binh; sư đoàn khơng qn
số 1; 2 tiểu đồn cao xạ tự hành; 2 hải đoàn tuần duyên và 2 giang đoàn; 50 tiểu đoàn và
5 đại đội bảo an; 6 đại đội cảnh sát dã chiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>Chỉ huy chiến trường</b>


Tư lệnh Quân khu I - Quân đoàn I: Trung tướng Ngô Quang Trưởng


Chỉ huy không quân: Chuẩn tướng Nguyễn Văn Khánh


Chỉ huy quân dù: Thiếu tướng Lê Quang Lưỡng.
Chỉ huy thủy quân lục chiến: Thiếu tướng Bùi Thế Lân.
Chỉ huy hải quân: Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Ý đồ quân sự - chính trị của các bên</b>



<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Phương án tấn công của Quân đội nhân dân Việt Nam</b>



<b>Hướng Trị Thiên</b>


Sau các chiến dịch Nông Sơn - Thượng Đức (phối hợp với chủ lực khu 5), La Sơn - Mỏ
Tàu (K18), Quân đoàn 2, binh lực chủ yếu của mặt trận Trị-Thiên của QĐNDVN đã
chiếm dược một số bàn đạp chiến dịch quan trọng và bố trí thành một vịng cung lớn từ
phía Bắc (Đơng Hà - Ái Tử) quan phía Tây (Khe Sanh - Ba Lòng) đến Tây và Nam Huế
(A Lưới, Nam Đông) bao quanh các lực lượng của QLVNCH tại Quảng Trị và Thừa
Thiên. Toàn bộ sư đoàn 304 và trung đồn 3 (sư đồn 324) có mặt ở Nông Sơn - Thượng
Đức để chuẩn bị tấn công Đà Nẵng từ phía Tây. Riêng trung đồn 95 (sư đoàn 325) đã
được điều động đến Nam Tây Nguyên từ tháng 1 năm 1975, không tham gia chiến dịch.
Trên địa bàn khu 5, sư đoàn 2 (chủ lực khu) đang chiếm lĩnh các vị trí thuận lợi ở Tiên
Phước, Trà My, Trà Bồng nối liền với vùng Đắc Tô - Tân Cảnh. [8]


Ngày 21 tháng 2 năm 1975, Bộ tư lệnh mặt trận Trị Thiên có sự tham sự của các chỉ huy
Quân đoàn 2 và Quân khu Trị Thiên đã thông qua kế hoạch hành động quân sự xuân hè
1975 (mật danh K175) dự kiến từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1975 và kế hoạch chiến dịch
mùa thu 1975 dự kiến từ tháng 7 đến tháng 8 năm 1975. Với lực lượng tổng cộng 7 trung
đoàn trên hướng Thiên và 4 trung đoàn trên hướng Đà Nẵng, Bộ tư lệnh mặt trận
Trị-Thiên vạch kế hoạch ban đầu cho chiến dịch với mục tiêu trước mắt là đánh chiếm toàn
bộ tỉnh Quảng Trị, bao vây cô lập Huế và nếu có điều kiện phát triển thì đánh chiếm tồn


bộ địa bàn Trị Thiên Huế.[9]


Để thực hiện ý đồ trên đây, hướng tấn cơng chính của Qn đồn 2 được điều chỉnh từ
Tây Bắc Huế (tuyến đường 12) xuống Tây Nam Huế (tuyến đường 14 nhằm mục tiêu cô
lập toàn bộ cánh Bắc của Quân đoàn 2 QLVNCH với cánh Nam ( Đà Nẵng và Quảng
Nam-Quảng Ngãi). Toàn bộ địa bàn Trị Thiên được chia thành 5 khu vực tấn công gồm:
Khu vực Quảng Trị (từ Nam Sông Thạch Hãn đến sông Mỹ Chánh); khu vực Bắc Thừa
Thiên (Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà); khu vực thành phố Huế và ngoại vi; Khu
vực đồng bằng Nam Huế Phú Vang, Hương Thuỷ; các trọng điểm giao thông trên đường
số 1 tại Phú Lộc và bắc Hải Vân.[10]


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Sau khi chia cắt Huế với Đà Nẵng, Bộ tư lệnh khu V sẽ phối hợp tổ chức chiến dịch
Nam-Ngãi tại địa bàn hai tỉnh này nhằm chia cắt Đà Nẵng với địa bàn ven biển miền
Trung Trung bộ (thuộc Quân khu II-QLVNCH). Do hai trung đoàn bộ binh 2, 12 và trung
đoàn pháo binh 368 (thiếu) của sư đoàn 3 Sao Vàng đang hoạt động phối hợp với Quân
đoàn 3 ở hướng đường 19 - An Khê trong khuôn khổ chiến dịch Tây Nguyên; các lực
lượng tham gia chiến dịch của Bộ tư lệnh Khu 5 chỉ cịn sư đồn 2, trung đoàn 141 (sư
đoàn 3), các trung đoàn pháo binh 368 và 572, lữ đoàn bộ binh 52, trung đoàn địa phương
96 (Quảng Đà), trung đoàn địa phương 94 (Quảng Ngãi), các tiểu đoàn địa phương 70 và
72 (Quảng Nam). Mục tiêu của chiến dịch là cụm quân của sư đoàn 2, thiết đoàn 11 và
Liên đoàn bảo an 912 QLVNCH tại khu vực Tiên Phước, Phước Lâm, Suối Đá, phát triển
xuống Tam Kỳ, Quảng Ngãi. Nếu có thời cơ thì đánh chiếm tồn bộ địa bàn tỉnh Bình
Định, bao gồm cả thành phố Quy Nhơn.[11]


<b>Hướng Đà Nẵng</b>


Phưwng án ban đầu là bao vây, cô lập Đà Nẵng với các vùng xung quanh; chia cắt cụm
quân Đà Nẵng với cụm quân phía Bắc và phía Nam của Qn đồn I - Qn lực Việt
Nam Cộng hồ, khơng cho các lực lượng này co về cố thủ Đà Nẵng. Sau đó tùy tình hình,
có thể tổ chức tiến công vào căn cứ liên hợp hải - lục - không quân tại Đà Nẵng trong


hành tiến.[12]


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Phương án phòng thủ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa</b>



Sơ đồ Quân khu I của QLVNCH


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>Các tuyến phòng thủ</b>


<i>Tuyến "da cam":</i> Theo kế hoạch của tướng Ngơ Quang Trưởng, tuyến này có ý nghĩa như
tuyến phòng thủ biên giới quốc gia; là tuyến tổng tiền đồn tiếp giáp với đối phương, vừa
là tuyến bàn đạp để tấn công, vừa là tuyến ngăn chặn đầu tiên mọi cuộc tấn công của đối
phương. Tuyến này được bố trí binh lực và hỏa lực mạnh; được tăng cường các lực lượng
có khả năng đột kích sâu như thiết giáp, biệt động.


<i>Tuyến "xanh lục":</i> Cịn gọi là tuyến trì hỗn; tuyến phịng thủ này có nhiệm vụ tiếp tục ngăn
chặn nếu đối phương vượt qua tuyến "da cam"; có nhiệm vụ tiêu hao lực lượng đối
phương, kéo dài thời gian và tạo cơ hội cho tuyến sau có thêm thời gian tổ chức phịng
thủ hoặc tiến hành phản kích.


<i>Tuyến "xanh dương":</i> Có nhiệm vụ chốt giữ các khu phòng thủ đã được phân định, tiêu hao,
tiêu diệt đối phương đã suy yếu khi vượt qua hai tuyến trước, tổ chức phản kích đẩy đối
phương ra ngồi. [13]


<b>Các hướng phịng thủ</b>


<i>Hướng Trị Thiên Huế (Kế hoạch phịng thủ có mật danh X.28)</i>: Gồm sư đoàn bộ binh 1,
sư đoàn thủy quân lục chiến, các liên đoàn biệt động quân 4 và 15, các liên đoàn bảo an
913, 914; các thiết đoàn số 17 và 20; 10 tiểu đoàn pháo binh; 1 tiểu đoàn cao xạ tự hành;
1 phi đoàn trực thăng; 2 phi đội trinh sát; hải đồn dun phịng 106. Các lực lượng này
chịu trách nhiệm phòng thủ phần cịn lại của tỉnh Quảng Trị và tồn bộ tỉnh Thừa Thiên,


từ Nam sông Thạch Hãn đến sườn phía Bắc dãy núi Bạch Mã. Chỉ huy hướng này là
trung tướng Lâm Quang Thi, Phó tư lệnh Quân đồn I, đóng Sở chỉ huy tiền phương
Qn đồn tại Huế.


<i>Hướng Đà Nẵng (Kế hoạch phịng thủ có mật danh Z.36)</i>: Gồm sư đoàn bộ binh 3; sư
đoàn dù; các thiết đoàn số 4 và 7; các liên đoàn biệt động quân 11 và 14; liên đoàn bảo an
911; sư đồn 1 khơng qn; 8 tiểu đồn pháo binh; 1 hải đồn dun phịng và 2 giang
đội. Các lực lượng QLVNCH trên hướng này chịu trách nhiệm phịng thủ thành phố Đà
Nẵng và tỉnh Quảng Tín từ sườn phía Nam dãy Bạch Mã đến bờ Bắc sơng Vu Gia; do
đích thân trung tướng Ngơ Quang Trưởng, tư lệnh Quân đoàn I trực tiếp chỉ huy. Bộ Tư
lệnh quân đoàn I đặt tại Đà Nẵng.


<i>Hướng Quảng Nam-Quảng Ngãi (Kế hoạch phịng thủ có mật danh X.36)</i>: Gồm sư đoàn
bộ binh 2, liên đoàn 12 biệt động quân, thiết đoàn 11, 3 tiểu đoàn pháo binh, liên đoàn
bảo an 912, 1 hải đoàn duyên phòng và 1 giang đội. Các lực lượng trên hướng này chịu
trách nhiệm phòng thủ phần còn lại của tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Ngãi từ bờ Nam
sơng Vu Gia đến đèo Bình Đệ dưới quyền chỉ huy của chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, tư
lệnh sư đoàn bộ binh 2. Bộ tư lệnh sư đoàn đặt tại căn cứ Chu Lai. [14][15]


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Diễn biến các chiến dịch</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Binh lực chủ yếu tại cánh quân phía Bắc của Qn đồn I - QLVNCH đóng ở Trị Thiên
Huế được bố trí thành 7 khu vực phòng thủ:


 Khu vực từ Thị xã Quảng Trị đến sơng Mỹ Chánh có các lữ đồn 258 và 369 thủy


quân lục chiến, liên đoàn 913 bảo an, thiết đoàn 17 (thiếu) và lực lượng địa
phương quân của các chi khu quân sự Hải Lăng, Triệu Phong, Mai Lĩnh.


 Khu vực từ bờ nam sông Mỹ Chánh đến cửa ngõ phía Bắc thành phố Huế có lữ



đồn 147 thủy quân lục chiến, thiết đoàn 20, các cụm pháo binh tại Đồng Lâm,
An Lỗ, 2 tiểu đoàn của liên đoàn bảo an 914 và lực lượng địa phương quân của
các chi khu quân sự Quảng Điền, Phong Điền.


 Khu vực Tây Bắc thành phố Huế do trung đoàn bộ binh 51 (sư đoàn 1) và địa


phương quân của chi khu quân sự Hương Trà phòng thủ.


 Khu vực thành phố Huế: Tại cửa Thuận An có hải đoàn 106, các duyên đoàn 11


và 12. Tại Thành phố Huế có 3 tiểu đồn bảo an, 5 đại đội cảnh sát dã chiến;
giang đồn 32 đóng tại bến Tịa Khâm.


 Khu vực đồng bằng sơng Hương từ Tây Nam Huế đến Phú Lộc có binh lực mạnh


nhất gồm các trung đoàn bộ binh 1, 3 và 54 (sư đoàn 1), 1 chi đoàn của thiết đoàn
17, liên đoàn 15 biệt động quân, 3 tiểu đoàn của liên đoàn bảo an 914 và địa
phương quân của tiểu khu Thừa Thiên, các chi khu quân sự Hương Thuỷ, Phú
Vang, Phú Thứ, Nam Hoà.


 Khu vực ven biển từ Phú Lộc đến Bắc đèo Hải Vân do lữ đoàn dù số 2, 3 tiểu


đoàn của liên đoàn bảo an 914 và địa phương quân thuộc chi khu qn sự Phú
Lộc phịng thủ. Ngồi ra cịn có 1 hải đội và hai giang đội đóng tại cửa Tư Hiền.


[16]


Để thực hiện kế hoạch tấn công, Bộ tư lệnh mặt trận Trị Thiên sử dụng 2 sư đoàn 324 và
325 (thiếu trung đoàn 95), ba trung đoàn, 2 tiểu đoàn địa phương và trung đoàn pháo cơ


giới của Quân khu Trị Thiên, trung đoàn pháo binh 164, 2 trung đoàn cao xạ của sư đồn
phịng khơng 673 và lữ đồn xe tăng 203 tấn công Trị Thiên Huế. Trong giai đoạn đầu
của chiến dịch tạm thời chỉ sử dụng 1 đại đội xe tăng. Hướng tấn công chủ yếu từ Tây
Nam Huế do Quân đoàn 2 phụ trách, các hướng khác do Quân khu Trị Thiên đảm nhận.


[17]


<b>[sửa] Các trận đánh chia cắt vịng ngồi</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

lẫn cho cơ quan tình báo và tham mưu Qn đồn I QLVNCH trong việc phán đốn
hướng tấn cơng chính của QĐNDVN.[18]


Từ ngày 6 đến ngày 7 tháng 3, chi khu quân sự Mai Lĩnh và 11 phân chi khu khác bị 4
tiểu đoàn địa phương QĐNDVN tại Quảng Trị đánh chiếm. Trong khi tướng Lâm Quang
Thi đang đòi tướng Ngơ Quang Trưởng tăng viện cho Quảng Trị thì 5 giờ 45 phút sáng
ngày 8 tháng 3, sư đoàn 324 bắt đầu tấn công căn cứ Mỏ Tàu, các điểm cao 75, 76, 224,
273 và 303 ở Tây Nam Huế. Đến ngày 10 tháng 3, hai tiểu đoàn của các trung đoàn 1 và
54 (sư đoàn 1 QLVNCH) bị loại khỏi vòng chiến đấu tại các điểm cao 224 và 273; chi
đoàn thiết giáp 47 ở Núi Nghệ bị trung đoàn 1 (sư đoàn 324) tiêu diệt. Căn cứ Phổ Lại do
tiểu đoàn bảo an 130 đóng giữ bị trung đồn 4 (Qn khu Trị Thiên) tấn công tiêu diệt
với sự chi viện của trung đoàn pháo binh 223 của quân khu. Ngày 13 tháng 3, tướng Lâm
Quang Thi điều liên đoàn 15 biệt động quân, tiểu đoàn 2 (trung đoàn 54), các chi đoàn
thiết giáp 27 và 37 mở cuộc phản kích và chia đơi điểm cao 224 với đối phương sau 7
ngày giao chiến. Trong một tuần đẫm máu tại điểm cao 224, cả hai bên đã bắn vào đây
hơn 8.000 phát đại bác. QLVNCH cũng sử dụng hơn 60 phi vụ oanh tạc nhằm cản bước
tiến của Quân đoàn 2 QĐNDVN.[19]


Trong khi chiến sự tại địa bàn Quân khu I đang diễn tiến với mức độ ác liệt gia tăng thì
ngày 13 tháng 3 năm 1975, trung tướng Ngô Quang Trưởng được triệu tập về họp tại Sài
Gịn. Trong cuộc họp cùng ngày, Ngơ Quang Trưởng khơng thể tin ở tai mình khi nghe


một mệnh lệnh đột ngột từ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu bỏ lại phần lớn Quân
khu I, rút về phòng thủ vùng duyên hải miền Trung. Riêng sư đoàn dù phải được rút ngay
về bảo vệ Biệt khu Thủ đô. Tướng Trưởng cố sức chứng minh rằng Qn đồn I có thể
giữ vững địa bàn qn khu; rằng với 2 sư đoàn dù và thủy quân lục chiến chưa sử dụng
đến, qn đồn có thể tổ chức lấy lại những địa bàn đã mất. Nhưng mọi sự thuyết phục
của tướng Trưởng đều vô hiệu. Giống như trường hợp chỉ thị cho tướng Phú rút quân
khỏi Tây Nguyên, tổng thống Thiệu một lần nữa coi quyết định của mình là tối hậu.
Trở lại Quân đồn I vào chiều hơm đó, tướng Trưởng vẫn chưa dám phổ biến ngay quyết
định của Thiệu. Một mặt ông muốn chứng minh cho Thiệu thấy là mình đúng do cịn có
thời gian và binh lực chưa bị nhiều tổn thất; mặt khác, ông cũng không muốn gây hoang
mang cho cấp dưới khi chiến cuộc còn chưa ngã ngũ.[20][21]<sub> Nhận thấy mặt Nam của Quân </sub>


khu cũng bị đe doạ, Ngô Quang Trưởng cũng điều chỉnh lại kế hoạch phịng thủ theo mơ
hình một gốc hai cành; lấy Đà Nẵng làm trung tâm phòng ngự (gốc), cánh Bắc là Trị
Thiên, cánh Nam là Quảng Nam, Quảng Ngãi. Do phải trả sư đoàn dù về Sài Gịn, ơng ra
lệnh rút lữ đồn 369 thủy qn lục chiến vào Quảng Nam thay thế lữ dù 3, điều lữ đoàn
258 thủy quân lục chiến về đèo Phú Gia (Bắc Hải Vân) thay thế lữ dù 2. Việc này làm
cho trung tá Đỗ Kỷ, tiểu khu trưởng Quảng Trị lập tức kháng nghị vì việc rút 2 lữ đồn
này cũng có nghĩa là rút kèm theo 2 tiểu đoàn pháo binh và 1 chi đoàn thiết giáp tăng
phái. Tướng Trưởng chỉ cịn có thể giải thích rằng đây là lệnh của tổng thống và chấp
thuận tăng cường cho hướng Quảng Trị liên đoàn biệt động quân 14 lấy từ Đà Nẵng.[22][23]


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

thủ khu vực Động Tranh, Bình Điền. Ngày 17 tháng 3, xuất phát từ phán đoán QLVNCH
sẽ co cụm về phòng thủ các thành phố Huế, Đà Nẵng, Bộ Tổng tham mưu QĐNDVN đã
phát điện khẩn yêu cầu Bộ Tư lệnh mặt trận Trị Thiên nhanh chóng cắt đường số 1 ở bắc
Huế, vơ hiệu hóa sân bay Phú Bài, cô lập Huế với Đà Nẵng về đường khơng; Qn đồn
2 phải đánh chiếm ngay quận lỵ Phú Lộc, cắt đường số 1 ở Nam Huế, cô lập Huế với Đà
Nẵng trên bộ. Chấp hành lệnh này, Bộ tư lệnh mặt trận Trị Thiên vạch kế hoạch tấn công
trên hướng Bắc Quảng Trị. Mũi chủ yếu từ Thanh Hội theo đường số 68 và từ Tích
Tường, Như Lệ theo đường số 1 đánh vào. Mũi vu hồi từ hướng Tây đánh thẳng ra An


Lỗ. Mũi vu hồi phía Nam đánh ra đường số 1 tại Lương Điền, Đá Bạc, vòng qua các
điểm cao 224 và 303. Cánh bắc của Quân đoàn 2 (sư đồn 324) hướng địn tấn cơng
chính vào quận lỵ Phú Lộc và đèo Phú Gia. [24]<sub> Ngày 18 tháng 3, các đơn vị thuộc Quân </sub>


khu Trị Thiên đồng loạt tấn công. Ở cánh Bắc, tỉnh Quảng Trị bị QĐNDVN đánh chiếm
toàn bộ lúc 18 giờ 30 phút ngày 19 tháng 3. Trung tá Đỗ Kỷ dẫn một bộ phận biệt động
quân còn lại rút về Huế và bị truy kích dọc theo đường số 1 đến An Lỗ.


Đang ở Sài Gòn xin phê chuẩn kế hoạch phịng thủ mới, tướng Ngơ Quang Trưởng vội
bay ra vùng I và gấp rút tổ chức lại tuyến phịng thủ ở cánh Bắc của Qn đồn I. Tại
tuyến Mỹ Chánh - Thanh Hương - Kế Môn - Vân Trình có lữ đồn 147 thủy qn lục
chiến; các tiểu đoàn 77, 121, 126 biệt động quân; liên đoàn bảo an 913 và thiết đoàn 17.
Lữ đoàn 480 thủy quân lục chiến được điều từ Đà Nẵng ra Tây Bắc Huế để triển khai từ
Sịa đến Lương Điền. Sư đoàn 1 bộ binh, liên đoàn 15 biệt động qn và thiết đồn 7 bố
trí thành vịng cung từ Núi Gió, Hịn Vượn qua Bình Điền đến Mỏ Tàu ơm lấy phía Tây
và Tây Nam Huế. Lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến và liên đoàn bảo an 914 giữ đường số
1 nối Huế với Đà Nẵng ở Phú Lộc.[25]<sub> Thiết đoàn 20 giữ sân bay Phú Bài. Tổng số binh </sub>


lực có 27.500 quân chủ lực, 19.000 quân bảo an và 36.000 quân phịng vệ dân sự.[26]


<b>[sửa] Tấn cơng thành phố Huế</b>


Trong khi tướng Ngô Quang Trưởng đang ở Huế để thị sát và đốc thúc cấp dưới thực
hiện kế hoạch phòng thủ co cụm thì ngay trong ngày 20 tháng 3, Bộ Tư lệnh mặt trận Trị
Thiên đã hoàn thành bản kế hoạch tấn công thành phố Huế với phương châm khơng cho
QLVNCH co cụm phịng ngự trong nội đô. Lúc 14 giờ 30 phút ngày 20 tháng 3, tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu điện cho Quân đoàn I: <i>"Vì eo hẹp phương tiện và khơng qn, </i>
<i>hải qn nên chỉ cho phép yểm trợ một enclave (vùng đất bị bao vây), vậy mener (dẫn </i>
<i>dắt) tuyến trì hỗn chiến về Hải Vân nếu điều kiện cho phép"</i>.[27]<sub> 5 giờ 40 phút sáng ngày </sub>



21 tháng 3, sư đoàn 325 (thiếu) tấn công và tràn ngập các điểm cao 310, 312, 329, 494,
520, 560, đồi Yên Ngựa và dải đồi Kim Sắc. Sư đoàn 324 đánh chiếm các điểm cao 224,
303 và Núi Bơng. Tuyến phịng ngự phía Tây đường số 1 từ Lương Điền đến Phú Lộc
của QLVNCH bị đánh sập.


Từ đêm 21 đến 10 giờ 30 phút ngày 22 tháng 3, trung đoàn 18 (sư đoàn 325) đã cắt đứt
đường số 1 trên địa đoạn dài 4 km từ Ràng Bò đến Bạch Thạch. Cầu Thừa Lưu bị đơn vị
đặc công nước K5 đánh sập. Hàng nghìn xe quân sự và dân sự các loại đang trên đường
từ Huế vào Đà Nẵng phải quay lại.[28]<sub> Ngày 21 tháng 3, căn cứ Truồi bị tấn công. Thiết </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Bài. Ngày 22 tháng 3, đến lượt phịng tuyến sơng Mỹ Chánh bị vỡ. Toàn bộ cánh bắc của
Quân đoàn I QLVNCH bị hợp vây từ ba phía.


Nhận thấy tình hình ở Huế đã chuyển từ mức "xấu" sang mức "tồi tệ", đêm 22 tháng 3, tư
lệnh Ngô Quang Trưởng chấp thuận cho chuẩn tướng Lâm Quang Thi rút quân về Đà
Nẵng. Con đường rút duy nhất còn lại là ra biển qua các cửa Thuận An và Tư Hiền, từ đó
lên các tàu của hải đồn 106 hoặc men theo bờ biển qua Thừa Lưu, Lăng Cô dưới chân
đèo Hải Vân để vào Đà Nẵng.[29]


Sáng 23 tháng 3, sư đoàn 324 QĐNDVN vu hồi qua điểm cao 303 và Mỏ Tàu, đánh
thẳng ra ven biển Bắc Phú Lộc, sư đoàn 325, đánh chiếm Mũi Né, Phước Tượng, bịt chặt
cửa Tư Hiền. Ở phía Bắc, các trung đoàn 4, 46, và 271 của Quân khu Trị Thiên bám theo
sát gót cánh qn của lữ đồn 147 thủy quân lục chiến, liên đoàn 14 biệt động quân, trung
đoàn 5 (sư đoàn 1) và thiết đoàn 17 đang lao nhanh ra cửa Thuận An. Ngày 24 tháng 3,
các tiểu đoàn 3 và 812 của tỉnh đội Quảng Trị được tăng cường 1 đại đội xe tăng và 1 đại
đội pháo binh tấn công xuyên qua các chốt Sông Bồ, Phổ Trạch, Lương Mai, Bao Vinh,
Xuân Viên, Thanh Hương do 2 tiểu đoàn bảo an QLVNCH chặn giữ, truy kích cánh qn
này đến Phong Hồ, Phong Bình, Sịa và đánh chiếm quận lỵ Hương Điền và ngã ba Sình,
khóa chặt cửa Thuận An. Trên hướng chính diện, lúc 16 giờ 30 ngày 23 tháng 3, trung
đoàn 101 (sư đoàn 325) đánh chiếm Lương Điền, áp sát sân bay Phú Bài, mở cánh cửa


vào Huế từ phía Nam. Trung đồn 46 (Qn khu Trị Thiên) phá vỡ phịng tuyến sơng Bồ,
đánh chiếm quận lỵ Quảng Điền, Quảng Lợi, Hương Cần, cầu Thanh Hà, cầu An Hồ,
mở cửa vào Huế từ phía Tây Bắc. [30]


Trong các ngày 24 và 25 tháng 3, các trung đoàn 3 (sư đoàn 324) và 101 (sư đoàn 325)
vượt qua Truồi, Nông đánh chiếm sân bay Phú Bài, quận lỵ Hương Thuỷ, theo đường số
1 tấn công vào Huế, phát triển đến An Cựu. Các trung đoàn 1 (sư đoàn 324), 4 và 271
(tỉnh đội Quảng Trị) có xe tăng và pháo binh yểm hộ đánh tan bộ phận cịn lại của lữ
đồn 147 thủy quân lục chiến và liên đoàn 15 biệt động quân QLVNCH chưa kịp rút lên
tàu tại Hương Thuỷ, Lương Thiện, Kệ Sung, Cự Lại.


Từ trưa đến chiều 25 tháng 3, hầu hết các mục tiêu quan trọng trong thành phố Huế như
căn cứ Mang Cá, Sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn I, Trại Trần Cao Vân, nhà lao Thừa
Phủ, Đại Nội... bị QĐNDVN đánh chiếm. QLVNCH tại Huế vỡ trận. Số quân nhân
không kịp rút vào Đà Nẵng bị bắt và ra trình diện lên đến 58.722 người; trong đó có: một
đại tá, 18 trung tá, 81 thiếu tá, 3.681 sĩ quan cấp uý. Khoảng 14.000 viên chức và nhân
viên dân sự cũng đã ra trình diện. Một số lớn phương tiện chiến tranh trong đó có 140 xe
tăng, xe bọc thép, hơn 800 xe quân sự khác và khoảng một vạn tấn đạn đã rơi vào tay
QĐNDVN. [31]


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Chiến dịch Nam - Ngãi</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

đoàn I QLVNCH tại Huế và Đà Nẵng. Tham gia chiến dịch có sư đồn 2 (chủ lực khu 5),
trung đoàn 141 (sư đoàn 3 Sao Vàng), lữ đoàn bộ binh 52 độc lập, các trung đoàn pháo
binh 368 và 572, các trung đoàn địa phương 94 và 96, các tiểu đoàn địa phương 70 và 72.
Hướng tấn công chủ yếu là vùng Tây Nam Quảng Nam và Tây Bắc Quảng Ngãi trên
tuyến Tiên Phước - Tam Kỳ - Núi Thành và Trà Bồng - Bình Sơn. Đây là tuyến phịng
thủ yếu nhất của QLVNCH tại Nam Quân khu I, xa trung tâm Đà Nẵng, bị chia cắt bởi
nhiều sơng ngịi. QLVNCH phải rải quân ra 77 diểm chốt. Địa bàn Nam Quân khu I được
giao cho tướng Trần Văn Nhựt, tư lệnh sư đoàn 2 bộ binh chỉ huy với lực lượng tương


đối mỏng so với hai địa bàn cịn lại của Qn khu I. Tất cả chỉ có sư đoàn 2 bộ binh, liên
đoàn 12 biệt động quân, liên đoàn 916 bảo an, thiết đoàn 11, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 hải
đội tuần duyên và 1 giang đội.[32]


4 giờ 30 phút ngày 10 tháng 3, tiểu đồn 5 (trung đồn 38) tấn cơng đánh chiếm các chốt
Núi Vú, Núi Ngọc, Dương Côn, Suối Đá, Núi Vỹ; trung đoàn 36 tiêu diệt các chốt Trung
Liên, Đồi Đá, Đồi Không tên, Hố Bạch và điểm cao 215; trung đoàn Ba Gia chiếm giữ
các điểm cao 269 và 310, hình thành trận địa đánh chặn phản kích từ hướng Tuần Dưỡng;
Lữ đồn 52 đánh chiếm các cứ điểm Gị Hàn, Phước Tiên, Dương Ơng Lựu, Dương Huê,
Núi Mỹ, Hòn Nhọn, Cửa Rừng, Đèo Liêu và đồi Đất Đỏ. 23 chốt quan trọng của biệt
động quân QLVNCH bị tràn ngập sau 4 giờ giao chiến. 9 giờ sáng ngày 10 tháng 3, trung
đoàn pháo binh 368 kéo 12 khẩu pháo 85mm, 105 mm và 122mm lên Núi Vú và Hàn
Thơn hạ nịng bắn thẳng vào cứ điểm 211 và quận lỵ Tiên Phước, yểm hộ cho trung đồn
31 tấn cơng hai vị trí này. Sau hai cuộc phản kích lấp cửa mở không thành công, lúc 13
giờ 30 phút, QLVNCH tại quận lỵ Phước Lâm tan chạy. Viên quận trưởng quận lỵ Tiên
Phước điện về Chu Lai xin chi viện nhưng chỉ có hai chiếc A-37 ném bom yểm hộ,
khơng cản được đội hình tiến qn của sư đồn 2 chủ lực khu 5. 16 giờ cùng ngày, quận
lỵ Tiên Phước bị đánh chiếm.[33]


Mất Tiên Phước và Phước Lâm, liên đoàn bảo an 916 QLVNCH phải rút lui khỏi căn cứ
211. Tiểu khu quân sự Tam Kỳ trực tiếp bị uy hiếp. Ngày 11 tháng 3, tướng Ngô Quang
Trưởng lệnh cho chuẩn tướng Trần Văn Nhựt điều động sư đoàn 2 (thiếu), liên đoàn 12
biệt động quân, 1 tiểu đoàn bảo an và chi đoàn 1 (thiết đồn 11) phản kích từ Tuần
Dưỡng ra Cẩm Khê và Dương Cơn; đưa trung đồn 5 (sư đoàn 2), 2 tiểu đoàn bảo an và
chi đoàn 4 (thiết đoàn 11) đánh lên Dương Leo, Núi Thám. Trung đoàn 2 (sư đoàn 3) từ
Đà Nẵng và trung đoàn 4 từ Chu Lai được tăng phái cho chuẩn tướng Nhựt để giữ Tam
Kỳ. Trong các ngày 14 và 15 tháng 3, các tiểu đoàn 70 và 72 (tỉnh đội Quảng Nam) tấn
cơng phía Tây Thăng Bình, buộc trung đồn 2 (sư đồn 3 QLVNCH) đang chuyển quân
vào Tam Kỳ phải quay lại đối phó.



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Nhận thấy tuyến phịng thủ của sư đồn 2 và liên đoàn 12 biệt động quân bị kéo dài từ
Quảng Ngãi đến Hội An, trong đó, địa đoạn trọng yếu trước mặt Tam Kỳ chỉ có trung
đoàn 5 và một tiểu đoàn của trung đoàn 4, sư đồn 2 (QLVNCH) đóng giữ; Bộ tư lệnh
Qn khu 5 quyết định tấn công vào đây. 5 giờ 30 phút sáng 21 tháng 3, sư đoàn 2 Quân
khu 5 tấn cơng tuyến phịng thủ Suối Đá. Đến 12 giờ, tuyến phòng thủ che chở cho Tam
Kỳ bị vỡ một mảng lớn, chuẩn tướng Trần Văn Nhựt vội điều trung đoàn 4 từ Quảng
Ngãi ra lấp lỗ hổng, làm suy yếu cánh quân phòng thủ Quảng Ngãi. Bộ tư lệnh Quân khu
5 ngay lập tức điều lữ đoàn 52 vào phối hợp với trung đoàn 94 tấn công Quảng Ngãi. 7
giờ sáng ngày 24 tháng 3, cả Tam Kỳ và Quảng Ngãi cùng lúc bị tấn cơng.


Trên hướng Tam Kỳ, trung đồn 4 và phần cịn lại của trung đồn 5 (sư đồn 2


QLVNCH) tan vỡ sau hơn hai giờ giao chiến. Ở hướng thứ yếu tại Cẩm Khe, Khánh Thọ
và Đức Tân, hai tiểu đoàn 37 và 39 của liên đoàn 12 biệt động tan chạy. 10 giờ sáng 24
tháng 3, sư đoàn 2 Quân khu 5 tung trung đoàn Ba Gia từ đội dự bị vào trận phối hợp với
trung đoàn 31 đánh chiếm thị xã Tam Kỳ chỉ trong một giờ.[35]<sub> Cũng vào 7 giờ 30 phút </sub>


sáng 24 tháng 3, lữ đoàn 52 cùng 2 tiểu đồn đặc cơng có xe tăng, xe bọc thép của trung
đồn 574 đi cùng nổ súng tấn cơng thị xã Quảng Ngãi. Đến 14 giờ chiều, số quân còn lại
của trung đoàn 6 (thiếu), liên đoàn biệt động qn 12 (thiếu) và thiết đồn 4 khơng chống
cự nổi phải rút về Chu Lai và bị rơi vào ổ phục kích của trung đồn 94 tại đoạn đường số
1 dài 15 km từ cầu Nước Mặn đến Dốc Trạm (Sơn Tịnh). Toàn bộ hơn 4.000 quân của
trung đoàn 6 (sư đoàn 2 QLVNCH), liên đoàn biệt động quân 12 và thiết đoàn 4 hoàn
toàn tan rã, số bị chết chỉ khoảng 600, số bị bắt lên đến 3.500. Một nhóm nhỏ chạy được
về Chu Lai cùng với bộ tư lênh sư đồn 2 trốn thốt ra tàu biển. 23 giờ 30 phút cùng
ngày, lữ đoàn 52 đánh chiếm thị xã Quảng Ngãi.[36]


Chiến dịch Nam Ngãi kết thúc sau hai tuần giao chiến chóng vánh. Sự kiện Quảng Nam,
Quảng Ngãi bị QĐNDVN đánh chiếm đã bổ đơi tồn bộ chiến trường miền Nam Việt
Nam. Chỉ trong hai ngày 24 và 25 tháng 3, hai hướng phòng thủ chiến lược của



QLVNCH tại Trị Thiên Huế (phía Bắc) và Quảng Nam, Quảng Ngãi (Phía Nam) bị tan
vỡ. Đà Nẵng giờ đây trơ trọi như một ốc đảo và chỉ còn liên lạc được với các vùng cịn lại
bằng đường biển và đường khơng. Quân đội Nhân dân Việt Nam đã kiểm soát 10 trong
số 44 tỉnh của Việt Nam Cộng hoà, 3 trong số 11 sư đoàn bộ binh của QLVNCH đã
khơng cịn là những lực lượng chiến đấu nữa. Lữ đồn 147 cũng khơng cịn hiện diện như
là một đơn vị trong đội hình sư đồn thủy qn lục chiến. [37]


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Chiến dịch Đà Nẵng</b>



<b>[sửa] Các kế hoạch phòng thủ và tấn công</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

đặt tại Sơn Trà do quân đoàn 3 dã chiến (3rdMAF) của Hoa Kỳ quản lý trước đây và bàn
giao lại cho QLVNCH sau Hiệp định Paris.[38]


Sau khi mất Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng Ngãi, tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu gửi cho các tư lệnh quân khu bức công điện số 015/TT/CĐ ngày 25 tháng 3
năm 1975, trong đó yêu cầu: "Tất cả những tỉnh, những phần đất còn lại của Việt Nam
Cộng hồ hiện cịn đến ngày 25-3-1975 phải được tử thủ và bảo vệ đến cùng... chỉ huy
các cấp phải vận dụng mọi sáng kiến và phương tiện để phản công".[39]<sub> Thực hiện lệnh </sub>


này, ngày 26 tháng 3, trung tướng Ngô Quang Trưởng cố gắng thu gom các đơn vị còn lại
với tổng số quân trên dưới 75.000 người về phòng thủ thành hai tuyến quanh Đà Nẵng.


 <i>Tuyến ngoại vi:</i> Lữ đoàn 0946641323 thủy quân lục chiến (thiếu) và Liên đoàn


bảo an 914 giữ Hải Vân từ Phước Tường đến Liên Chiểu. Lữ đoàn 369 thủy quân
lục chiến và trung đoàn 57 (sư đoàn 3) giữ Đại Lộc và Đồng Lâm. Lực lượng cịn
lại của lữ đồn 147 thủy qn lục chiến (khoảng 1 tiểu đoàn) và Bộ tư lệnh sư
đoàn thủy quân lục chiến giữ sân bay Nước Mặn. Trung đoàn 56 (sư đoàn bộ binh


3) giữ Vĩnh Điện. Trung đoàn 2 (sư đoàn 3) ở Ninh Quế. Liên đoàn 15 biệt động
quân giữ Bà Rén.


 <i>Tuyến tử thủ</i>: Liên đồn 912 bảo an, các đơn vị cịn lại của các thiết đồn 11 và 20


phịng thủ địa đoạn Phước Tường - Hịa Mỹ. Ba tiểu đồn cịn lại của sư đoàn 1,
sư đoàn 2 bộ binh và liên đoàn 12 biệt động quân và 3.000 tân binh của trại huấn
luyện Hòa Cầm phòng thủ khu vực từ căn cứ Hòa Cầm đến căn cứ Nước Mặn.
Các tiểu đoàn bảo an độc lập làm dự bị cơ động trong nội đơ.


Tướng Trưởng vẫn cịn trong tay 12 tiểu đồn pháo binh các loại (trong đó có 4 tiểu đồn
được tái trang bị) và sư đồn 1 khơng qn bố trí tại các sân bay Đà Nẵng và Nước Mặn
là những đơn vị hầu như chưa bị tổn thất để yểm hộ cho các tuyến phòng thủ.[40]


Ngay từ khi các chiến dịch Trị Thiên 1975 và Nam-Ngãi chưa kết thúc, Quân ủy trung
ương QĐNDVN đã thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch Đà Nẵng và cử trung tướng Lê
Trọng Tấn, Phó tổng tham mưu trưởng QĐNDVN từ Hà Nội vào để chỉ huy chiến dịch
này. Ngày 25 tháng 3, Bộ tư lệnh chiến dịch Đà Nãng đã có ngay kế hoạch tác chiến tấn
công thành phố từ bốn hướng:


 <i>Hướng Bắc</i>: sử dụng sư đoàn 325 (thiếu trung đoàn 95), 1 tiểu đoàn xe tăng, 1


tiểu đoàn pháo binh đánh dọc theo đường số 1, chiếm sở chỉ huy qn đồn I, sư
đồn 1 khơng qn QLVNCH tại sân bay Đà Nẵng và phát triển đến bán đảo Sơn
Trà.


 <i>Hướng Tây Bắc</i>: sử dụng trung đoàn 9 bộ binh (sư đoàn 304), 1 tiểu đoàn xe tăng,


1 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn cao xạ theo trục đường 14B đánh chiếm Sở chỉ
huy sư đoàn 3 QLVNCH ở Phước Tường, phát triển đến sân bay Đà Nẵng.



 <i>Hướng Nam và Đơng Nam</i>: dùng sư đồn 2 (Quân khu 5), trung đoàn bộ binh 36,


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

 <i>Hướng Tây Nam</i>: Quân đoàn 2 điều động sư đồn 304 (thiếu trung đồn 9) tấn


cơng các vị trí của lữ đồn 369 thủy qn lục chiến trên tuyến Thựợng Đức - Ái
Nghĩa - Hiếu Đức, phát triển đến sân bay nước mặn; chia một cánh qn (trung
đồn 24) đánh vào căn cứ Hịa Cầm, phát triển đến Tịa thị chính Đà Nẵng.[41]


Kế hoạch cũng dự kiến ba phương án tác chiến tùy theo mức độ đối phó của QLVNCH
và tốc độ tiếp cận chiến trường của các đơn vị QĐNDVN:


 Nếu QLVNCH tan rã và rút chạy trước khi chủ lực QĐNDVN tiếp cận chiến


trường thì dùng lực lượng vũ trang địa phương kết hợp với dân chúng nổi dậy
đánh chiếm thành phố.


 Nếu chủ lực QĐNDVN đến kịp thì lực lượng vũ trang địa phương có nhiệm vụ


bóc vỏ vịng ngồi, tạo cửa mở cho chủ lực tấn cơng.


 Nếu QLVNCH co cụm tử thủ thì thực hiện chiến thuật trong đánh ra, ngồi đánh


vào.[42]


<b>[sửa] Tấn cơng và tan chạy</b>


Trước khi kế hoạch tấn công Đà Nẵng của Bộ tư lệnh chiến dịch ra đời, ngày 24 tháng 3,
sư đoàn 325 (Quân đoàn 2 QĐNDVN) đã tấn cơng lữ đồn 258 thủy qn lục chiến và
liên đoàn bảo an 914 QLVNCH tại Bắc Hải Vân, đánh chiếm đèo Phước Tượng, các cứ


điểm Nước Ngọt, Thổ Sơn và ga Thừa Lưu. Trận dịa pháo binh của QLVNCH tại Phước
Tượng rơi vào tay QĐNDVN và được sử dụng ngay cho trận đánh tiếp theo. Ngày 27
tháng 3, đến lượt các cứ điểm Phú Gia, Hải Vân bị tấn công. Sau 5 giờ chống cự với sự
yểm hộ của các máy bay A-37 từ sân bay Đà Nẵng và pháo binh từ trận địa Lăng Cơ, liên
đồn 258 thủy qn lục chiến và liên đoàn bảo an 914 tan vỡ phần lớn quân số. Sư đoàn
325 thừa thắng đánh thốc qua các Sơ Hải, Loan Lý, An Bảo và Lăng Cô. Hơn 30 khẩu
pháo các cỡ của các trung đoàn pháo binh 84 và 164 QĐNDVN được triển khai cấp tốc
tại các trận địa Sơn Thạch, Sơn Khánh, đèo Mũi Trâu đã bắn trực chỉ vào các căn cứ của
QLVNCH tại thành phố Đà Nẵng từ 5 giờ 30 phút sáng ngày 28 tháng 3.[43][44]


Trên hướng Tây Nam, khi phát hiện sư đoàn 304 QĐNDVN tiến hành trinh sát chiến đấu,
lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến bỏ núi Sơn Gà về giữ tuyến trong. Ngày 28 tháng 3,
trung đoàn 66 (sư đoàn 304) đánh chiếm quận lỵ Ái Nghĩa và sân bay Nước Mặn, trung
đoàn 24 cũng của sư đồn này tấn cơng căn cứ Hịa Cầm và Tịa thị chính thành phố. Lữ
đồn 369 thủy quân lục chiến phải lùi về An Đông, Mỹ Khê và bị sư đoàn 2 (Quân khu 5)
hợp vây.[45]<sub>. Hơn 3.000 tân binh QLVNCH tại trại Hòa Cầm nổi loạn, bắn giết các sĩ quan</sub>


chỉ huy, phá doanh trại, ra hàng QĐNDVN hoặc bỏ chạy về quê quán.[46]<sub> 6 giờ 30 phút </sub>


sáng ngày 29 tháng 3, các cụm chốt trên đỉnh đèo Hải Vân của QLVNCH bị tràn ngập.
Các đơn vị thuộc sư đoàn 325 QĐNDVN tràn xuống đánh chiếm kho xăng Liên Chiểu,
cầu Nam Ô, cầu Trịnh Minh Thế, mở đường cho xe tăng tiến ra bán đảo Sơn Trà và quân
cảng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

tăng cường 1 tiểu đoàn xe tăng và 1 tiểu đoàn pháo binh đã đánh chiếm khu vực Bà Rén
lúc 9 giờ sáng ngày 28 tháng 3. Tướng Ngô Quang Trưởng lệnh cho tướng Khánh (tư
lệnh sư đoàn 1 không quân) dùng 4 phi đội A-37 đánh sập cầu Bà Rén và cầu Câu Lâu
nhưng không cản được sư đồn 2 QĐNDVN vượt sơng bằng xuồng, ghe, bè, mảng. Hồi 5
giờ 55 phút sáng 29 tháng 3, Vĩnh Điện, cứ điểm phịng thủ vịng ngồi cuối cùng của
QLVNCH tại phía Nam Đà Nẵng bị QĐNDVN đánh chiếm.[47]<sub> 12 giờ sáng ngày 29 tháng</sub>



3, Sở chỉ huy Quân đồn I QLVNCH bị đánh chiếm. Tướng Ngơ Quang Trưởng và các
chỉ huy cao cấp của QLVNCH tại Quân khu I đã được trực thăng bốc ra tàu HQ-404 từ 9
giờ 30 sáng. 12 giờ 30 phút trưa ngày 29 tháng 3, tất cả các mục tiêu quan trọng như Tịa
thị chính, sân bay Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn, Đài phát thanh, Ty Cảnh sát, Ngân hàng
quốc gia, Trụ sở quân tiếp vụ... đều đã bị QĐNDVN đánh chiếm[48]


Bên phía QLVNCH, việc chỉ huy các đơn vị dưới quyền của tướng Ngô Quang Trưởng
đã hồn tồn khơng thể thực hiện được từ chiều 28 tháng 3. Việc sư đoàn 3 tan chạy lúc 5
giờ chiều ngày 28 tháng 3 đã làm cho sư đoàn TQLC (thiếu) bị hở sườn và bị đánh vu hồi
từ phía sau.[49]<sub> Trước đó, 6.000 qn của sư đồn 2 đã đào ngũ, rã ngũ, khơng cịn kỷ luật </sub>


và tinh thần chiến đấu nữa. Ngay từ ngày 25 tháng 3, cụm trưởng CIA tại Đà Nẵng, ông
Francis đã điện cho cấp trên là ơng Polga ở Sài Gịn đề nghị lập cầu hàng khơng Đà Nẵng
- Sài Gịn để di tản người Mỹ, nhân viên người Việt và được chấp thuận với điều kiện chỉ
sử dụng máy bay dân sự. Cùng với việc điều động các tàu của vùng I và vùng II hải quân
QLVNCH, tướng Smith cũng cho 5 tàu kéo xà lan, 6 tàu khách và 3 tàu hàng ra Đà Nẵng
giúp vào việc di tản.[50]


Nếu việc di tản của người Mỹ và nhân viên người Việt của họ diễn ra tương đối trật tự thì
việc rút qn của các đơn vị QLVNCH cịn sống sót ra các tàu của hải quân QLVNCH lại
xảy ra trong hỗn loạn. Nhà báo Alan Dawson mô tả Đà Nẵng trong ngày 28 tháng 3:


<i>"Binh lính rã ngũ nổi loạn, cố sức thoát ra hoặc vơ vét cái gì có thể kiếm được trong </i>
<i>khối lạc bắn giết và cướp bóc. Các tướng tá thì đang hoạch định các chuyến bay để bí </i>
<i>mật trốn thốt... Suốt đêm, sự huỷ hoại, vơ vét, trộm cướp và hãm hiếp tiếp diễn. Toà nhà</i>
<i>lãnh sự Mỹ, con voi trắng bị lột chỉ còn trơ cái vỏ"</i>.[51]<sub>. Chiều 29 tháng 3, các đơn vị thuộc </sub>


các sư đoàn 2, 304, 324, 325, lữ đoàn thiết giáp 203 lần lượt tiến vào Đà Nẵng và trận tự
được lập lại. Gần 9 vạn sĩ quan, binh lính QLVNCH và nhân viên dân sự của VNCH


không kịp lên tàu biển và máy bay để di tản đã ra trình diện. Chiến dịch Huế-Đà Nẵng kết
thúc.[52]


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Kết quả chiến dịch</b>



<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Hình thái đột biến trên chiến trường miền Nam Việt Nam</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<b>[sửa] Những nhận định trái chiều và phản ứng của Hoa Kỳ</b>


Việc QLVNCH để mất toàn bộ Quân khu I chỉ trong vòng 25 ngày đã làm cho VNCH
mất đứt 50% lãnh thổ của họ, làm rung động cả Washington và Sài Gòn và là màn mở
đầu cho giai đoạn cuối cùng của VNCH. [55]<sub>. Chi nhánh CIA tại Sài Gòn nhận định trong </sub>


báo cáo gửi về Washington ngày 31 tháng 3: <i>"Căn cứ vào sự thiệt hại mới đây về thiết bị </i>
<i>và sự uy hiếp thường xuyên của quân Bắc Việt Nam trên khắp các mặt trận thì qn </i>
<i>chính phủ trong thời gian trước mắt, không thể nào phục hồi lại được. Thật vậy, những </i>
<i>gì gây ra cuộc khủng hoảng này khơng hề thay đổi dù ở Sài Gòn, Hà Nội hay </i>


<i>Washington. Chiến tranh Việt Nam đã hoàn toàn đảo ngược trong mấy tuần lễ. Một thảm</i>
<i>họa quân sự là chắc chắn"</i>.[56]<sub> Tuy nhiên, tướng Freidric Weyand, tham mưu trưởng lục </sub>


qn Mỹ sang Sài Gịn để thị sát và tìm hiểu sự thật tình hình Việt Nam Cộng hịa từ
ngày 30 tháng 3 đến ngày 3 tháng 4 lại có sự đánh giá khác hẳn: <i>"Lực lượng Nam Việt </i>
<i>Nam khơng mất tinh thần, xét theo bất cứ khía cạnh nào. Quân đội Sài Gòn sẽ đứng lên </i>
<i>chiến đấu ở Bắc Nha Trang và họ quyết tâm làm chậm bước tiến của cộng sản. Họ đang </i>
<i>cho thấy mọi việc được thực hiện rất tốt”</i>. Ơng ta cịn cho rằng: <i>"Cộng sản, sau khi chiếm </i>
<i>được những vùng lãnh thổ rộng lớn và những trung tâm dân cư, sẽ phải ngừng bước tiến </i>
<i>để củng cố thành quả và bổ sung lực lượng"</i>.[57]<sub>. Trong khi đó thì đại sứ Hịa Kỳ Graham </sub>


Martin lại khơng có mặt ở Sài Gịn để nắm tình hình vì phải về Hoa Kỳ chưa răng. Mọi


việc được giao cho phó đại sứ Lehman nhưng ơng này lại khơng có đủ thẩm quyền giải
quyết.[58]


Những nhận định trái chiều nhau trên đây của hai giới tình báo và quân sự đã gây ra trong
chính giới Hoa Kỳ những ý kiến trái ngược nhau về giải pháp cho tình hình: Trong khi
Kissinger tun bố: <i>"Hoa Kỳ khơng thể có một chính sách không nhất quán. Chúng ta </i>
<i>không thể bỏ những người bạn của chúng ta ở vùng này của thế giới mà không làm cho </i>
<i>nền an ninh của những người bạn khác bị uy hiếp"</i> và đòi bằng được việc bổ sung thêm
300 triệu USD quân viện cho VNCH thì Bộ trưởng quốc phịng Schlesinger lại bí mật
cho giới báo chí biết rằng số quân viện 700 triệu USD cho Sài Gòn hoặc chưa dùng đến,
hoặc đã tiêu phí hết rồi. [59]<sub> Rốt cuộc, đã khơng có một sự can thiệp nào đáng kể ngoài </sub>


việc Bộ chỉ huy Hoa Kỳ ở Tây Thái Bình Dương được lệnh đưa hạm đội tàu sân bay
Okinawa đến vùng biển Nam Việt Nam để chuẩn bị di tản người Mỹ.


<b>[sửa] Hệ quả của chiến dịch: QLVNCH mất cả miền Trung</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

chiến Quy Nhơn - Diêu Trì - Đèo Cả, lần lượt do các trung đoàn 47, 42 và 41 triển khai.


[60]


Tuy nhiên, tướng Phạm Văn Phú và bộ tham mưu của ông ta vẫn không tránh khỏi lối tư
duy cũ mà họ vẫn tuân theo lâu nay là đối phương phải dừng lại để củng cố đã rồi mới có
thể tiếp tục tấn cơng. Khơng ai nghĩ đến việc Quân đội nhân dân Việt Nam đã nhanh
chóng để lại phần đất đã chiếm được cho các lực lượng địa phương quản lý và tung lực
lượng chủ lực hầu như chưa sứt mẻ đáng kể truy đuổi QLVNCH dọc theo bờ biển miền
Trung. Cũng không ai nghĩ đến việc Hà Nội đã trao thêm quyền quyết định cho các tư
lệnh chiến trường để các quyết định này không bị lạc hậu với diễn biến tình hình đồng
thời buộc các đơn vị tiếp liệu, hậu cần của họ phải bằng mọi cách cơ động, đuổi kịp, cung
cấp đầy đủ cho xe tăng, bộ binh trong hành tiến.[61]



Những sai lầm đó đã buộc các đơn vị QLVNCH trên chiến trường phải trả giá. Lúc 5 giờ
15 phút ngày 31 tháng 3, trên đường rút về Phú An - Lai Nghi, trung đoàn 47 (sư đoàn
22) bị trung đoàn 2, sư đoàn 3 Sao Vàng phục kích và truy đuổi. Đến sân bay Phù Cát,
đơn vị này tiếp tục bị trung đoàn 192 (sư đoàn 3 Sao Vàng) cùng với trung đoàn 2 hợp
vây và bị tan rã lúc 12 giờ 30 phút cùng ngày.[62]<sub> Trung đoàn 41 (sư đoàn 22) đang đóng </sub>


từ Núi Một đến Phú Phong bị trung đồn 95 QĐNDVN từ Tây Ngun tập kích xuống.
Ttrên đường rút quân về Phú Xuân, Phú An, trung đoàn này đã bị trung đoàn 141 (sư
đoàn Sao Vàng) phục kích tại nghĩa địa Phật Giáo, bị truy kích suốt đêm 31 tháng 3 và
hầu như tan rã hồn tồn.[63]<sub>. Trung đồn 42 tuy khơng bị cơng kích mạnh nhưng khi về </sub>


đến ga Diêu Trì chỉ còn một nửa quân số. Thị xã Quy Nhơn bị QĐNDVN đánh chiếm
sáng ngày 1 tháng 4. Ngày 2 tháng 4, QĐNDVN đánh chiếm Tuy Hồ. Do khơng nắm
được tình hình, chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, phó tư lệnh Quân đoàn II đã bị bắt làm tù
binh khi vừa dùng trực thăng hạ cánh xuống dinh tỉnh trưởng Tuy Hòa trong một chuyến
thị sát chiến trường.[64]


Sự kiện sư đoàn 22 với hơn 10.000 quân được trang bị tương đối đầy đủ bị tan rã gần hết
trong vịng một ngày khiến tình hình tại Nha Trang cũng hỗn loạn không kém ở Quy
Nhơn và Tuy Hoà. Sáng ngày 1 tháng 4, hơn 3.000 quân của Trung tâm huấn luyện Lam
Sơn bỏ chạy vào thị xã. Thêm vào đó là gần 1.000 quân phạm đã phá trại, kéo nhau đi
lang thang và cướp bóc trên đường phố. Đại tá Thưởng, tư lệnh bộ chỉ huy quân tiếp vụ 5
dẫn một số quân cảnh ra vãn hồi trật tự nhưng cũng bị đám loạn quân bắn chết tại chỗ.
Sau sự kiện này, không một viên chỉ huy nào dám đứng ra vãn hồi trật tự tại Nha Trang
nữa.[65]<sub> Tỉnh trưởng Khánh Hòa, đại tá Lý Bá Phẩm đã bỏ nhiệm sở lên máy bay vào Phan</sub>


Rang sau một cú điện thoại cụt lủn gọi về Sài Gịn: "Tơi đi đây. Tình hình tuyệt vọng
rồi". Chỉ trong một buổi chiều ngày 2 tháng 4, Nha Trang đã rơi vào tay QĐNDVN mà
không có một trận đánh xảy ra.[66]<sub> Sau sự kiện Đà Nẵng sụp đổ mà tổng thống Hoa Kỳ </sub>



Gerald Ford gọi đó "là một tấn thảm kịch lớn"; [67]<sub> QLVNCH đã mất hầu hết miền Trung. </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Quân đồn II - Qn khu II (Ninh Thuận, Bình Thuận) vào Quân khu III. Tướng Phú hết
quân, hết đất, lặng lẽ bay vào Sài Gịn để trình diện Bộ tổng tham mưu và sau đó bị quản
thúc vì tội đã để mất cả một quân khu quan trọng vào tay đối phương. [68]


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Thái độ tiền hậu bất nhất của Nguyễn Văn Thiệu</b>



Ngay cả lúc bấy giờ và cho đến hiện nay, giới nghiên cứu chính trị và quân sự Việt Nam
cũng như quốc tế đều đi đến kết luận rằng các thảm họa quân sự tại miền Trung và Tây
Nguyên trong tháng 3 năm 1975 đều có chung một thủ phạm, đó là Nguyễn Văn Thiệu
với những quyết định tồi tệ đến mức nhà báo phái hữu Paul Dreyfrus đã phải đánh giá:
"Thiệu đã tỏ rõ những hạn chế về tầm chiến lược; ngồi ở vị trí cao nhất: tướng - tổng
thống, tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang nhưng ông ta đã hành động như một viên hạ
sĩ quan thiển cận".[69]


Trong thời gian xảy ra những biến cố quân sự quan trọng tại Quân khu I và Quân khu II,
Nguyễn Văn Thiệu đã có đến ba bốn quyết định trái ngược nhau, tiền hậu bất nhất, thay
đổi nhanh như chong chóng trong vịng vài ngày, khơng để cho các tướng dưới quyền có
thì giờ tổ chúc lại việc phịng thủ.[70]<sub> Ngày 14 tháng 3, chính Nguyễn Văn Thiệu đã ra </sub>


lệnh cho Phạm Văn Phú bỏ Tây Nguyên rút về đồng bằng ven biển. Trước đó, ngày 13
tháng 3, cũng đích thân ơng ta đã ra lệnh cho Ngô Quang Trưởng phải bỏ Quân khu I và
trả sư đồn dù về Sài Gịn khiến Ngô Quang Trưởng uất ức, cay đắng và kinh tởm.[71]<sub>. </sub>


Đến ngày 17 tháng 3, sau khi có sự can thiệp của đại tướng Cao Văn Viên, ông ta lại chấp
nhận kế hoạch tử thủ một gốc hai cành của tướng Trưởng. Nhưng ngay ngày hôm sau, 18
tháng 3, ông ta lại lệnh cho các tướng Ngô Quang Trưởng và Lâm Quang Thi phải bỏ
Huế, chỉ phòng thủ một khu vực (Đà Nẵng).[72][73]



Ngày 29 tháng 3, khi tướng Trưởng là một trong những sĩ quan cao cấp cuối cùng của
QLVNCH rút khỏi Đà Nẵng trên tàu HQ-404 thì Nguyễn Văn Thiệu lại ra một mệnh lệnh
qua điện thoại yêu cầu tướng Trưởng quay lại tái chiếm Đà Nẵng khiến ông này phải trả
lời ông Thiệu ngay rằng "bây giờ tôi lấy ai theo chân tôi để tái chiếm Đà Nẵng? Lính
tráng đã phân tán mỗi người một nơi. Cấp chỉ huy thì mạnh ai nấy thốt. Làm sao tơi có
thể làm chuyện đó được?"[74][75]<sub> Những quyết định đó sau này đã làm cho tướng Ngô </sub>


Quang Trưởng phải đi đến kết luận rằng: "Cái lẩm cẩm của trung ương là không cho các
thuộc cấp biết ý định của mình. Nghĩa là tư lệnh các quân, binh chủng, tổng bộ trưởng, tư
lệnh sư đồn. v.v... đều khơng biết gì về lệnh rút qn của Quân đoàn I và Quân đoàn II
cả... Do đó, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa tham mưu và các cấp, khơng có kế hoạch rút
qn đàng hồng, lệnh đột ngột khơng đủ thời gian để xếp đặt".[76]


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Sài Gòn". Còn tướng Lê Nguyên Khang thì giận giữ nói thẳng thừng: "Anh em chúng tơi
khơng có tội tình mẹ gì cả".[77][78]


Tuy nhiên, đằng sau vụ trừng phạt kỳ lạ này là tâm lý sợ bị đảo chính của Nguyễn Văn
Thiệu xuất hiện từ giữa năm 1974. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến ơng
ta ra lệnh rút về Sài Gịn sư đồn dù (vốn là cái nơi trưởng thành của tướng Ngơ Quang
Trưởng) chứ khơng phải sư đồn thủy qn lục chiến.[79]<sub> Cũng vì lý do này, ơng Thiệu đã </sub>


đạo diễn cho Thượng viện Việt Nam Cộng hòa bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ của thủ
tướng Trần Thiện Khiêm để lập chính phủ mới do Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn làm
thủ tướng. Không những thế, ngày 2 tháng 4, ơng ta cịn cho bắt bảy người đã cộng tác
với tướng Nguyễn Cao Kỳ, sáu người được ông ta cho là bày mưu chủ chốt; kể cả


Nguyễn Văn Ngạn vốn là thư ký của ông ta, giờ đang đứng đầu đảng Dân chủ. Trong khi
những thất bại trên chiến trường đang đè nặng lên QLVNCH thì những động thái chính
trị riêng tư và kỳ lạ của Nguyễn Văn Thiệu đã giáng một địn mạnh vào chính thể VNCH


và QLVNCH, làm cho chế độ này và quân đội của nó càng mau chóng đi đến chỗ sụp đổ
và tan rã.[80]<sub> Trong các ngày 2 và 3 tháng 4, Giám đốc CIA William Colby đã viết hai báo</sub>


</div>

<!--links-->
<a href=' />

<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' />

<a href=' /><a href=' />
<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /> Những biện cụ thể để có thể xây dựng du lịch sinh thái tại vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng.29
  • 33
  • 549
  • 0
  • ×