Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.87 KB, 23 trang )

THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ

1. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
QUỐC TẾ
1.1

Khái niệm và phân loại

Theo cách phân loại cơ bản thì thị trường trái phiếu quốc tế gồm có thị trường trái phiếu
nước ngoài (Foreign bond market), thị trường trái phiếu Châu Âu (Eurobond Market).
Nói đơn giản, thị trường trái phiếu quốc tế là nơi mà các chủ thể phát hành và chủ thể đầu
tư đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Khi một trái phiếu do người không cư trú phát hành
vào một quốc gia mà được định giá bằng bản tệ của quốc gia đó thì trái phiếu đó gọi là
trái phiếu nước ngoài và tạo nên thị trường trái phiếu nước ngồi. Khi một trái phiếu
được do người khơng cư trú phát hành vào một quốc gia mà được định giá bằng đồng tiền
khơng phải nội tệ quốc gia đó thì gọi là trái phiếu Châu Âu và tạo ra thị trường trái phiếu
Châu Âu. Global bond là loại trái phiếu được phát hành đồng thời ở nhiều quốc gia khác
nhau, được định giá bằng nhiều loại tiền tệ, là nội tệ của các quốc gia được phát hành. Do
đó, có tài liệu phân loại Euro Bond là một phần của Global bond.
1.1.1

Thị trường trái phiếu châu Âu (Euro-bonds)

Thị trường trái phiếu Châu Âu là thị trường mua bán trái phiếu do người khơng cư trú
(cơng ty, ngân hàng, chính phủ và các tổ chức quốc tế) phát hành nằm ngoài nước phát
hành đồng tiền được ghi trên trái phiếu.
Trái phiếu Châu Âu (Euro-bonds) được bán ở các quốc gia khác hơn là quốc gia hơn là
quốc gia mà đồng tiền của nó được sử dụng để đo giá trị trái phiếu. Mặc dù trung tâm thị
trường trái phiếu Châu Âu là ở Châu Âu, nhưng nó khơng có ranh giới quốc gia. Chẳng
hạn, một công ty Pháp phát hành trái phiếu tính bằng đồng bảng Anh ở Thụy Sỹ,
Luxembourg và Frankfurt đều gọi là trái phiếu Châu Âu. Trái phiếu Châu Âu được bán


cùng một lúc ở nhiều nước khác nhau, nó đã trở nên một loại trái phiếu bao trùm để huy
động vốn đồng thời từ các nền kinh tế thế giới.
Thông thường trái phiếu Châu Âu được bán cùng một lúc ở nhiều trung tâm tài chính
thơng qua các nhóm ngân hàng bảo lãnh đa quốc gia và được tổ chức đầu tư quốc tế mua.
Các tổ chức này có tầm hoạt động vượt ra khỏi biên giới của các quốc gia phát hành.
Khác với trái phiếu nước ngồi, việc phát hành tr phiếu Châu Âu cho phép chọn lựa
loại đồng tiền nhờ đó người chủ nợ có thể u cầu để được hồn trả bằng một trong
những loại đồng tiền khác nhau và như vậy giảm được rủi ro về trao đổi ngoại tệ hàm
chứa trong loại trái phiếu nước ngoài được phát hành bằng một đồng tiền duy nhất. Tuy
nhiên trên thực tế, lãi vay lẫn nợ gốc vẫn thường được thanh toán bằng đồng dollar Mỹ
(USD).


1.1.2

Thị trường trái phiếu nước ngoài (Foreign bond)

Là thị trường mua bán trái phiếu do người khơng cư trú (chính phủ, các cơng ty nước
ngồi) phát hành tại một nước ghi bằng đồng tiền nước đó để thu hút vốn từ các nhà đầu
tư nội địa. Ví dụ: Cơng ty BP (Anh) phát hành trái phiếu bằng đồng Yên ở Sở giao dịch
chứng khốn Tokyo, hay như Chính phủ Trung Quốc đã có 2 đợt phát hành trái phiếu
Chính phủ trên thị trường chứng khoán New York vào năm 1994 với tổng mức phát hành
hơn 1 tỷ USD, hoặc giả như là trường hợp Đan Mạch quyết định phát hành trái phiếu
bằng đồng Sterling ở thị trường chứng khoán Luân Đôn. Tất cả các loại trái phiếu trên là
trái phiếu nước ngồi.
Có mười lăm thị trường trái phiếu nước ngồi trên thế giới (xem phụ lục), ví dụ như Thị
trường trái phiếu Yankee của Mỹ, Samurai của Nhật, Bulldog của United Kingdom. Đó là
trái phiếu trên các thị trường trái phiếu cơng khai của các quốc gia kể trên. Ngồi ra, cịn
có các thị trường khơng cơng khai, nơi mà nhà phát hành trái phiếu không cần phải đăng
ký với sở giao dịch và có thể được bán trực tiếp cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, thị trường này

có quy mô nhỏ và số lượng các nhà đầu tư tham gia cũng ít hơn.
1.2
1.2.1

Đặc điểm
Thị trường Trái phiếu Châu Âu

Ích lợi chính của thị trường trái phiếu Châu Âu là tương đối ít bị điều chỉnh, thu nhập từ
thị trường này phần lớn không phải chịu thuế và việc phát hành chứng khốn mang tính
linh hoạt hơn so với thị trường nội địa.
Về loại đồng tiền thanh toán, doanh số phát hành trái phiếu Châu Âu bằng dollar là lớn
nhất (trong năm 1996, trái phiếu châu Âu ghi bằng USD chiếm 43,78% trên tổng số phát
hành), tiếp theo là Bảng Anh, Mác Đức, Yên Nhật, và đơn vị tiền tệ của Châu Âu ECU
(European Currency Unit).
Hầu hết các Eurobond được phát hành bởi những tổ chức có hệ số tín nhiệm cao, ví dụ hệ
số AAA và AA chiếm tới gần 80% tổng số các đợt phát hành. Những nhà phát hành
Eurobond tích cực nhất là các chính phủ, các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới,
Ngân hàng đầu tư Châu Âu và các công ty đa quốc gia. Một số nhà phát hành Eurobond
ghi bằng đồng tiền khơng được sử dụng vào mục đích cuối cùng, mà họ chuyển đổi sang
đồng tiền cần thiết khác thông qua nghiệp vụ Swap. Mức lãi suất của Eurobond phụ
thuộc vào: điều kiện thị trường và hệ số tín nhiệm của nhà phát hành.
1.2.2

Thị trường trái phiếu nước ngoài

Đặc điểm của loại trái phiếu nước ngồi là nó được thanh tốn bằng đồng tiền của nước
nơi nó được phát hành. Tuy nhiên, cũng có những nước mà trái phiếu có thể được phát
hành bằng đồng tiền khác. Trong trường hợp này, tên của trái phiếu nước ngoài sẽ khác.
Chẳng hạn, ở Nhật, trái phiếu phát hành bằng Yen tên là Samurai, phát hành bằng USD
tên là Shogun.



Thị trường trái phiếu nước ngoài lớn nhất là thị trường trái phiếu Mỹ và Nhật Bản. Thị
trường trái phiếu Mỹ rất đa dạng. Thị trường Yankee là thịt trường công khai, cung cấp
vốn trung và dài hạn cho nhà đầu tư ngoài nước. Thị trường trái phiếu Nhật Bản cũng
gồm thị trường công khai là thị trường Samurai. Các nhà phát hành trên thị trường này có
điều kiện tiên quyết là phải được xếp tín nhiệm từ BBB trở lên. Các trái phiếu Samurai
chủ yếu được các nghiệp đoàn và các cơng ty Nhật Bản bảo lãnh. Cịn trên thị trường
không công khai của Nhật, các nhà phát hành không cần phải tuyên bố bất kỳ một tài liệu
nào theo luật giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên số lượng trái phiếu này ít và cũng ít nhà
đầu tư.
Trong đó, thị trường lớn nhất là Nhật và Mỹ[1], sau đó là Châu Âu và thứ ba là thị
trường Kangaroo của Úc. Phần còn lại gồm các thị trường nhỏ hơn và gần đây như PRC
(Panda bonds) và Taipei, China (Formosa bonds). Hai trái phiếu Panda đaa62u tiên được
phát hành tháng 10 năm bởi cơng ty tài chính quốc tế (the International Finance
Corporation) và the ADB (CNY1.1 billion of 10-year bonds at a 3.4% yield and CNY1
billion of 10-year bonds at a 3.34% yield).
Trái phiếu có kỳ hạn dài nhất được phát hành ở UK (trái phiếu Bulldog) kỳ hạn 13.1 năm,
và ở EU kỳ hạn là 12.7. Trái phiếu có kỳ hạn ngắn nhất được phát hành Switzerland: 1.7
năm Hy Lạp 2.9 năm.
Người phát hành quan trọng nhất trên thị trường này là Ngân Hàng Thế Giới dành cho
chương trình International Bank for Reconstruction and Development (IBRD) chiếm
15.1%, sau đó là Ngân Hàng Thụy Sỹ-The United Bank of Switzerland (UBS), 9.7% và
Ngân Hàng Châu Âu(the European Bank), dành cho chương trình Reconstruction and
Development (EBRD)-3.3%. Trong đó, UBS thường phát hành trái phiếu với kỳ hạn ngắn
nhất, trung bình là 1,5 năm, World Bank EBRD phát hành trái phiếu với kỳ hạn dài hơn,
trung bình từ 6.3 đến 9.9 năm.
Từ năm 1928 đến hết năm 2009 có tổng cộng 3132 đợt phát hành trái phiếu nước ngoài
trên thế giới. Trong số đó 88.2% là có lãi suất cố định. Chỉ có một số ít là có kèm quyền
chọn 8.2% là có thể mua lại; 16.4% trái phiếu chuyển đổi, 5.2% trái phiếu lưỡng tệ.

58.7% là trái phiếu vô danh. Tuy nhiên, đến 36.8% trái phiếu được niêm yết trên các sàn
giao dịch chứng khoán của quốc gia được phát hành hay nói cách khác là phải được đăng
ký. Trong đó 14.9% được phát hành ở Australia-nước cấm chứng khốn vơ danh.
Mặt khác, chỉ có 8.5% trái phiếu có bảo đảm, 1.3% có thế chấp tài sản, cịn lại đều khơng
được bảo đảm.
Nếu phân theo chủ thể phát hành, thị trường trái phiếu nước ngồi gồm ba nhóm, trái
phiếu cơng ty, chiếm 51,1%, trái phiếu của các tổ chức quốc tế, chiếm 28.8%, trái phiếu
chính phủ chiếm 20.1%. Trong đó, trái phiếu của các tổ chức quốc tế có kỳ hạn trung
bình dài nhất 7 năm, sau đó là trái phiếu chính phủ trung bình 6.6 năm, trái phiếu cơng ty
có kỳ hạn trung bình là 4.9 năm. Kỳ hạn cũng tương ứng với mức điểm tín dụng của từng
chủ thể phát hành các tổ chức quốc tế là AAA, của chính phủ là AA, của công ty là A.


Đa số các trái phiếu đạt điểm AAA được phát hành ở Nhật và thị trường trái phiếu Châu
Âu-76.2%, sau đó là Australia-7.5%.
1.2.3 Đặc điểm so sánh giữa thị trường trái phiếu nước ngoài và thị trường trái phiếu
Châu Âu
Ở Mỹ, các đợt phát hành trái phiếu Yankee phải tuân thủ các quy tắc của Ủy ban giao
dịch chứng khoán SEC (Securities and Exchange Commission). Mục đích chính của SEC
là bảo vệ nhà đầu tư. Theo SEC, mỗi trái phiếu được phát hành phải bao gồm một bản
cáo bạch về tình hình tài chính của cơng ty phát hành, và tất cả các chi tiết liên quan để
đánh giá đúng mức độ rủi ro của trái phiếu. Những bản cáo bạch như vậy tốn rất nhiều
chi phí. Đồng thời cơng ty cũng phải cơng bố báo cáo tài chính hằng q ra cơng chúng.
Những báo cáo tài chính này phải đúng chuẩn kế toán của Mỹ (GAAP). Đối với các cơng
ty ngồi nước Mỹ thì việc điều chỉnh các báo cáo tài chính sang chuẩn của Mỹ cũng tốn
rất nhiều chi phí. Ở nước nào cũng có một cơ quan hay tổ chức tương tự SEC. Cơ quan
này có thể trực thuộc Bộ Tài Chính hoặc là một cơ quan độc lập như SEC.Tuy nhiên,
cũng có những nước khơng địi hỏi phải chuẩn bị báo cáo tài chính theo tiêu chuẩn của
nước mình. Ví dụ điển hình là Thụy Sỹ, nước có thị trường tài chính phát triển mạnh nhất
năm 1991 do khơng địi hỏi các nhà phát hành nước ngồi phải cung cấp báo cáo tài

chính theo chuẩn nước mình khi phát hành trái phiếu ở Thụy Sĩ.
Việc phát hành trái phiếu ở thị trường trái phiếu Châu Âu ít khắt khe hơn. Điểm khác biệt
lớn nhất giữa trái phiếu nước ngoài và trái phiếu Châu Âu là trái phiếu Châu Âu không
được bán rộng rãi cho công chúng. Trái phiếu Châu Âu thường được chào bán bởi các tổ
chức bảo lãnh (Underwriters) cho các nhà tư vấn đầu tư chuyên nghiệp. Những nhà tư
vấn đầu tư chuyên nghiệp này có thể mua trái phiếu cho tài khoản của một tổ chức hoặc
cho cá nhân. Do đó, các luật lệ khi phát hành hay khi mua bán trái phiếu Châu Âu trên thị
trường thứ cấp chỉ ở mức tối thiểu. Các yêu cầu về công bố thống tin tùy thuộc vào từng
thị trường mỗi nước. Các nhà phát hành có mức tín nhiệm cao như Exxon, Nissan Motor,
Nestlé khơng cần phải cáo bạch thơng tin gì nhiều. Các nhà phát hành dưới chuẩn cũng
được phép tham gia vào thị trường này theo một quy trình cáo bạch thơng tin của thị
trường.
Việc phát hành trên các thị trường trái phiếu nước ngồi ln địi hỏi người phát hành cần
được xếp hạng tín nhiệm. Cịn phát hành trái phiếu Châu Âu khơng địi hỏi xếp hạng tín
nhiệm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những nhà phát hành nào được xếp hạng tín nhiệm sẽ
dễ phát hành trái phiếu với kỳ hạn dài hơn. Do đó, xu hướng hiện nay là các nhà phát
hành được xếp hạng tín nhiệm.
Các trái phiếu Châu Âu ít khi được niêm yết trên sở giao dịch ở Mỹ, nhưng ở London và
Luxembourg thì bắt buộc phải được niêm yết. Nhiều định chế chỉ được mua trái phiếu
được niêm yết mà thôi. Tuy nhiên, đa phần các giao dịch đều được thực hiện qua thị
trường phi tập trung, yết giá trên sở giao dịch chỉ dùng để thơng báo giá đóng cửa.
Trên vị thế của nhà phát hành, thị trường trái phiếu nước ngoài của Mỹ rộng và sâu, nên
có thể đáp ứng các đợt phát hành trái phiếu với khối lượng lớn và kỳ hạn dài. Tuy nhiên,


thị trường Mỹ lại rất quan trọng việc xếp hạng tín dụng và cơng bố thơng tin cho cơng
chúng. Thị trường trái phiếu Châu Âu thì có tốc độ phát hành trái phiếu nhanh hơn rất
nhiều do khơng có nhiều thủ tục phiền hà. Chi phí dành cho các nhà bảo lãnh phát hành
khá lớn, nhưng bù lại, chi phí lãi thấp hơn.
Trên vị thế của nhà đầu tư, độ sâu và rộng của thị trường trái phiếu Mỹ cũng rất hấp dẫn.

Nhưng các trái phiếu phát hành ở đây phải được đăng ký, tức nhà đầu tư nắm trái phiếu
định danh và phải trả thuế thu nhập. Trong khi đó, trái phiếu Châu Âu là trái phiếu vơ
danh, và khơng bị đánh thuế thu nhập.
Nói chung, so với thị trường trái phiếu Mỹ thì thị trường trái phiếu châu Âu kém thanh
khoản hơn và có ít thơng tin về người phát hành. Tuy nhiên thị trường trái phiếu Châu Âu
có tốc độ phát hành nhanh hơn và giá cả cạnh tranh hơn, khơng bị quản lí bởi cơ quan
nào và không cần nộp thuế thu nhập.
Tuy nhiên, để tăng sức cạnh tranh của thị trường trái phiếu nước ngoài so với thị trường
trái phiếu châu Âu, Mỹ đã ban hành các chính sách như “Self registration” năm 1982,
cùng với luật 415. Luật này giúp làm giảm các chi phí phát hành trái phiếu ra cơng
chúng. Sau đó, tháng 7 năm 1984, Mỹ thay đổi luật, miễn thuế thu nhập từ lợi tức cho các
nhà đầu tư nước ngoài. Từ đó, thị trường trái phiếu cơng ty dành cho nhà đầu tư nước
ngoài trở nên hấp dẫn hơn. Quan trọng nhất là luật 144A, ban hành vào tháng 4 năm
1990, và tạo ra thị trường luật 144a. Các nhà phát hành có thể bán chứng khốn cho một
hay nhiều các định chế đầu tư đủ tiêu chuẩn (qualified institutional buyers-QIB). Chứng
khốn này khơng cần phải đăng ký hay niêm yết, nên không cần tuân thủ các quy tắc của
SEC về chuẩn mực kế tốn, cơng bố thơng tin. Sau khi luật này được ban hành, thị trường
trái phiếu nước ngoài của Mỹ tăng trưởng nhanh chóng. Năm 1993 có tổng khối lượng
phát hành là US$ 91, tăng lên US$ 300b, năm 1998.
2. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
2.1 Thị trường trái phiếu nước ngoài
Trái phiếu nước ngoài lần đầu tiên được phát hành bởi công ty Majzen (xem phụ lục bảng
3) vào thị trường EU năm 1928. Có 5 trái phiếu được phát hành từ năm 1928 đến 1952.
Sau đó, năm 1971, cộng hòa Ireland đã phát hành một trái phiếu nước ngồi bằng đồng
Bảng Anh vào thị trường UK. Sau đó, cũng năm 1971, The World Bank, ADB và các
quốc gia khác phát hành một loạt trái phiếu định giá bằng đồng Yen vào thị trường Nhật
(trái phiếu Samurai). Từ 1976, trái phiếu nước ngoài được phát hành thường xuyên hơn
và ngày càng tăng nhanh. Tuy năm 2007-2008, thế giới trải qua cuộc khủng hoảng tài
chính, nhưng số lượng trái phiếu trong giai đoạn 2006-2010 vẫn gia tăng so với giai đoạn
2001-2005: 1193 tính đến 6/2009 so với 827 trái phiếu.

2.2 Thị trường trái phiếu Châu Âu
Nói đến sự phát triển mạnh của thị trường trái phiếu Châu Âu, thường có hai nguyên
nhân lớn được kể đến: IET, VFCR.


IET Interest Equalization Tax: Đạo luật thuế đánh trên tiền lãi thu được từ việc nắm giữ
cổ phiếu và trái phiếu nước ngoài phát hành vào nước Mỹ. Do tổng thống John F
Kendedy ban hành vào ngày 18/7/1963, nhằm ngăn chặn dịng vốn đầu tư ra nước ngồi
của nhà đầu tư Mỹ, giúp làm giảm thâm hụt cán cân thanh toán của Mỹ. Thuế suất khác
nhau tùy vào kỳ hạn, từ 2.75% cho trái phiếu kỳ hạn 3 năm đến 15% cho trái phiếu hoặc
chứng khốn có kỳ hạn trên 28,5 năm. Sau đó đạo luật cịn được mở rộng thêm cho các
kỳ hạn ngắn. IET có ảnh hưởng rất lớn, gần như làm đóng cửa thị trường trái phiếu quốc
tế Yankee của Mỹ và thúc đẩy các công ty nước ngoài phát hành trái phiếu được định giá
bằng USD ra thị trường ngoài nước Mỹ, cụ thể là thị trường London và Luxembourg.
Tuy nhiên đạo luật trên vẫn không thể cải thiện được cán cân thanh toán của Mỹ. Tháng
1/1965, tổng thống Lyndon Johnson áp đặt một, tạm dịch là, Chương trình hạn chế tín
dụng nước ngồi tự nguyện (Voluntary Foreign Credit Restraint or VFCR). Chương trình
nhằm hạn chế sự đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các công ty Mỹ theo một mức giới
hạn tự nguyện của cơng ty. Nếu cơng ty nào có đóng góp tích cực vào cán cân thanh toán
của Mỹ (như tăng xuất khẩu hoặc chi trả cổ tức vào trong nước) sẽ được hưởng một số
quyền được phép đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên, đầu năm 1968, VFCR được ban hành
lại dưới tên OFDI-Office of Foreign Direct Investment, và trở nên bắt buộc chứ khơng
cịn tự nguyện nữa và đã cải thiện được cán cân thanh toán của Mỹ.
Khi hai đạo luật trên được bãi bỏ vào năm đầu1974, cuối năm 1974, trái phiếu Eurodollar
trên thị trường trái phiếu quốc tế giảm đi 4 lần, từ US$M 3908 xuống còn US$M 996.
Tưởng chừng như các hoạt động vay vốn từ nước ngoài lại quay trở về New York. Tuy
nhiên, những năm sau đó, trái phiếu nước ngồi và trái phiếu Eurodollar tăng trưởng với
tốc độ gần bằng nhau, mỗi loại chiếm khoảng 50%. Từ 1981 thì trái phiếu Eurodollar
tăng vượt trái phiếu nước ngoài. Từ 1985. trái phiếu Eurodollar chiếm 80%. Dần dần, trái
piếu Châu Âu không chỉ phát hành bằng USD mà cả những đồng tiền khác và kết hợp với

hợp đồng hoán đổi tiền tệ. Năm 1999, khoảng 95% trái phiếu Euro được phát hành bằng
USD, Euro và GBP. Đồng thời, kỳ hạn trái phiếu cũng đa dạng hơn. Kỳ hạn phổ biến là
từ 5 đến 7 năm, sau đó là từ 10 đến 20 năm, và cũng có thể hơn. Khối lượng phát hành
cũng tăng lên, trên 100 triệu USD năm 1986, tăng lên khoảng 6 tỷ USD mỗi năm kể từ
1990, đạt 60 tỷ năm 1998.
3. CÁC CÔNG CỤ TRÊN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ
3.1
3.1.1

Phân loại trái phiếu
Trái phiếu có lãi suất thả nổi - Floating rate note

Trái phiếu này khác với các trái phiếu thông thường bởi vì nó khơng chào giá cả cố định.
Đặc tính của nó là việc hứa hẹn sẽ trả cho nhà đầu tư một khoản tiền lời thay đổi cùng với
lãi suất chuẩn. Lãi suất thay đổi theo từng kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng trong thời hạn của trái
phiếu. Lãi suất thường được dựa trên một lãi suất tham khảo nào đó, thơng thường là
LIBOR (London Inter Bank Offered Rate) đối với trái phiếu định giá bằng USD và
EURIBOR đối với trái phiếu định giá bằng Euro, kỳ hạn 3 tháng và 6 tháng. Ví dụ như
một loại trái phiếu có tỷ giá ấn định là 1/2% cao hơn LIBOR.


Thực tế với người vay có tiếng tăm đặc biệt tốt có thể phát hành những trái phiếu có tỷ
giá bằng hoặc thấp hơn LIBOR. Ngồi ra người ta cịn lấy căn cứ là mức lãi suất của trái
phiếu Kho bạc Mỹ làm chuẩn cho tỷ giá phát hành một số loại trái phiếu khác. Không
giống như các loại trái phiếu có lãi suất ổn định (straight bond) giá cả thường thay đổi
theo lãi suất, giá cả của loại trái phiếu có tỷ giá thả nổi khơng thay đổi theo lãi suất. Vì
vậy loại trái phiếu này đặc biệt hấp dẫn đối với các tổ chức tiền tệ khơng thích rủi ro, các
ngân hàng là khách hàng chính của loại trái phiếu này.
Loại trái phiếu này có tiền lãi được nhận hằng năm hoặc quý, bằng loại tiền tệ ghi trên
trái phiếu.

Ví dụ vế tính lãi suất thả nổi:
Một trái phiếu có lãi suất thả nổi như sau: bằng lãi suất LIBOR 6 tháng cộng với 50 điểm
cơ bản, với trần là 7%, sàn là 5% thì lãi suất được thay đổi mỗi 6 tháng như sau:

3.1.2

Ngày đổi LS

LIBOR

Coupon Rate

Jan-02

5.5%

6%

Jul-02

5.8%

6.3%

Jan-03

6.3%

6.8%


Jul-03

6.8%

7%

Jan-04

7.3%

7%

Jul-04

3.7%

5%

Jan-05

2.5%

5%

Trái phiếu có lãi suất cố định - Straight fixed-rate

Là trái phiếu có lãi suất cố định và khơng thay đổi trong thời hạn của trái phiếu. Loại trái
phiếu này thường hưởng lãi hằng năm, bằng loại tiền tệ ghi trên trái phiếu.
Loại này còn được gọi là trái phiếu “plain vanilla”, lãi suất và ngày đáo hạn cố định và
không có quyền chọn nào kèm theo.

Cách tính giá trái phiếu:


3.1.3

Trái phiếu chuyển đổi - Convertible bond

Trái phiếu chuyển đổi là một loại trái phiếu có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu công
ty theo một tỉ lệ công bố trước và vào một khoảng thời gian xác định trước. Thông
thường bao giờ người phát hành trái phiếu chuyển đổi cũng dành cho người mua quyền
quyết định có chuyển đổi sang cổ phiếu hay không. Người nắm giữ trái phiếu chuyển đổi
có quyền khơng chuyển sang cổ phiếu nếu tại thời điểm chuyển đổi, công ty làm ăn
không tốt. Trái phiếu chuyển đổi có thể được coi là sự kết hợp giữa một trái phiếu thường
và một quyền chọn mua cổ phiếu. Thơng thường, trái phiếu loại này có tỉ suất trái tức
tương đối thấp so với các loại trái phiếu khác, song bù lại, nó hứa hẹn đem lại cho nhà
đầu tư lợi nhuận lớn hơn từ khả năng mua được cổ phiếu với mức giá ưu đãi trong tương
lai. Quyền chọn mua cổ phiếu chính là giá trị gia tăng của loại trái phiếu này, khiến nó trở
thành một mặt hàng rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Nhiều khi, công ty chưa phát
hành cổ phiếu, nhưng trái phiếu chuyển đổi của nó đã trở thành một mặt hàng được giới
đầu tư săn lùng gắt gao, đặc biệt là trong trường hợp các "bluechip" tương lai. Từ góc độ
của cơng ty phát hành, lợi ích chủ yếu của việc huy động vốn từ trái phiếu chuyển đổi là
việc giảm được lãi suất cho vay.
Ngoài ra trái phiếu chuyển đổi cịn có một loại chứng khốn gần tương tự với nó, đó là
trái phiếu hốn đổi (exchangeable bond). Hai loại này khá giống nhau, chỉ khác ở chỗ
loại cổ phiếu mà trái phiếu hoán đổi nhận được là cổ phiếu của công ty khác.Phát hành
trái phiếu chuyển đổi là một cách giúp công ty tránh việc nhà đầu tư nhìn nhận các hành
động của mình theo chiều hướng tiêu cực.
Ví dụ, một cơng ty đã niêm yết, chọn cách tăng vốn thông qua việc phát hành thêm cổ
phiếu.Thị trường thường nhìn nhận việc này như một tín hiệu cho thấy giá cổ phiếu của
công ty đang được định giá quá cao. Để tránh ấn tượng xấu này, công ty sẽ phát hành trái

phiếu chuyển đổi mà những người nắm giữ có thể chuyển sang cổ phiếu nếu cơng ty làm
ăn tốt.
3.1.4

Trái phiếu khơng tính lãi - Zero-coupon bond

Trái phiếu Zero-coupon là trái phiếu không trả lãi định kỳ. Trái phiếu này được bán với
giá chiết khấu so với mệnh giá.

Ở Mỹ, các nhà đầu tư vào trái phiếu này phải đóng thuế trên thu nhập từ trái
phiếu này, cịn ơ Nhật thì loại này được miễn thuế.
Cách tính giá:


3.1.5

Trái phiếu lưỡng tệ- trái phiếu tiền kép - Dual currency bond

Những trái phiếu được gọi là trái phiếu tiền kép khi giá vốn của trái phiếu là một loại tiền
tệ, trong khi trái phiếu được thanh toán bằng một loại tiền tệ khác. Trái phiếu này thường
được nhận lãi hằng năm và nhận vốn gốc bằng một loại tiền tệ khác với loại tiền tệ mà
nhà đầu tư mua nó. Ví dụ: Một cơng ty muốn vay bằng US dollar để sử dụng cho một
mục đích nào đó bằng cách phát hành trái phiếu có giá vốn US dollar, nhưng với số Franc
Thụy Sỹ thu nhập của công ty sẽ thanh toán cho trái chủ bằng Franc Thụy Sỹ khi đáo
hạn.
Trong trường hợp này, nhà đầu tư phải xử lý một cách có hiệu quả các mức độ rủi ro tiền
tệ dựa trên hoạt động của tỷ giá hối đối.
Loại trái phiếu này là một sự lựa chọn thích hợp với các công ty đa quốc gia.Các công ty
Nhật là những nhà phát hành lớn loại trái phiếu này bằng Yen và sau đó trả vốn gốc bằng
USD.

3.1.6

Trái phiếu tiền tệ đa quốc gia - trái phiếu đa tệ

Tình trạng bất ổn ngày càng tăng của tỷ giá hối đoái tiền tệ từ thập kỉ 70 đã thúc đẩy
mạnh mẽ sự phát triển của nhiều cách đầu tư tự bảo hiểm. Với cố gắng làm giảm tới mức
tối thiểu ảnh hưởng do những biến động tiền tệ này, một số trái phiếu đã được phát hành
với tính chất đa tiền tệ. Đây là loại trái phiếu được định danh bằng một nhóm tiền tệ như
SDR hay EUR, hay bằng nhiều đồng tiền khác nhau cho một đợt phát hành.
Trái phiếu ECU đã trở nên thành công nhất trong số những trái phiếu đa tiền tệ được phát
hành. Thuận lợi của các trái phiếu này là người phát hành có thể tính giá trị trái phiếu
bằng nhiều loại tiền tệ. Do đó chúng có khả năng giảm rủi ro tiền tệ hơn so với trái phiếu
chỉ được tính bằng một loại tiền tệ. Với một cơng ty có nhiều nguồn thu nhập được tính
bằng nhiều nguồn tiền tệ khác nhau có thể dễ dàng giữ các trái phiếu đa tiền tệ như trái
phiếu ECU chẳng hạn.
3.1.7

Trái phiếu toàn cầu - Global Bond

Xuất hiện vào cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20. Là loại trái phiếu được định danh bằng một
loại trái phiếu tự do chuyển đổi (thường là USD) và được bán trên phạm vi toàn cầu kể cả
nước có đồng tiền ghi trên trái phiếu. Đây là loại trái phiếu được ưa thích nhất trên thị
trường trái phiếu quốc tế hiện nay.
Bảng 2: Tóm tắt đặc điểm các loại trái phiếu
INSTRUMENT

INTEREST FREQUENCY

COUPON TYPE


CURRENCY PAYOFF

Straight fixed-rate

annual

Fixed

Currency of issue

Floating rate note

annual or quarterly

Variable

Currency of issue


3.2

Convertible bond

annual

Fixed

Currency of issue or
convertible


Straight fixed-rate with
equity warrants

annual

Fixed

Currency of issue plus shares

Zero-coupon bond

none

Zero

Currency of issue

Dual-currency bond

annual

Fixed

Dual Currency

Composite currency bond

annual

Fixed


Composite currency

Rủi ro của trái phiếu

Rủi ro tín nhiệm hay rủi ro vỡ nợ - Credit risk or default risk
Là rủi ro mà người đi vay khơng thể hoặc khơng sẵn lịng trả vốn gốc và tiền lãi khi đến
hạn thanh toán.
Rủi ro lãi suất - Interest rate risk
Là rủi ro mà lãi suất thị trường tăng lên, làm giảm giá trị của trái phiếu. thơng thường,
trái phiếu có kỳ hạn càng dài thì rủi ro lãi suất càng cao.
Rủi ro lạm phát - Inflation risk
Rủi ro lạm phát liên quan đến rủi ro lãi suất, đặc biệt là đối với những nhà đầu tư mua để
nắm giữ chứ không bán. Do giá trị của trái phiếu sẽ giảm đi khi lạm phát tăng, do lãi suất
sẽ tăng. Trái phiếu có lãi suất thả nổi có ít rủi ro này hơn.
Rủi ro thanh khoản - Liquidity risk or marketability risk
Rủi ro này tùy thuộc vào việc nhà đầu tư có dễ dàng bán trái phiếu tại hoặc gần giá trị
thực của nó hay không. Chênh lệch giữa giá chào mua và chào bán là chỉ số của rủi ro
thanh khoản.
Rủi ro quốc gia - Country risk
Là rủi ro mà một quốc gia khơng thể thực hiện các cam kết tài chính của mình. Cụ thể là
vỡ nợ do các lí do chính trị hoặc kinh tế vĩ mô. Rủi ro quốc gia cịn bao gồm việc một
quốc gia thay đổi chính sách về tỷ giá hoặc chính sách ln chuyển dịng vốn vào ra quốc
gia đó.
Rủi ro tiền tệ hay rủi ro tỷ giá - Currency risk or foreign exchange risk
Là rủi ro liên quan đến sự thay đổi giá trị của đồng tiền mà trái phiếu được định giá.


3.3


Lợi nhuận của trái phiếu

Các nhân tố ảnh hưởng mức lợi tức của trái phiếu
Yếu tố quan trọng nhất của bất kỳ loại trái phiếu nào chính là mức lãi được ấn định, và
đây cũng chính là điều hấp dẫn các nhà đầu tư. Trái phiếu quốc tế cũng có nhiều mức lãi
khác nhau và cũng khơng ngồi quy luật: trái phiếu càng hàm chứa nhiều rủi ro thì càng
phải yêu cầu mức lãi cao hơn. Sau đây là một số yếu ảnh hưởng đến lợi tức trái phiếu:
Địa vị của người phát hành - Issuer type: Đối với các con nợ nổi tiếng và
có uy tín thì bao giờ cũng được các nhà đầu tư đánh giá cao về mức độ tín nhiệm, như
Ngân hàng thế giới hay Ngân hàng đầu tư Châu Âu, do đó các trái phiếu của họ có thể đặt
mức lãi là thấp nhất.

Thời hạn thanh toán của trái phiếu: Thời hạn thanh toán càng dài càng
phải được yêu cầu với mức lãi cao hơn.
Quy mô phát hành: Lượng trái phiếu phát hành với quy mơ càng lớn thì
càng có khả năng mua bán giao dịch cao. Quy mơ phát hành lớn có thể thúc đẩy khả năng
chuyển đổi thành tiền mặt của trái phiếu trong thị trường thứ cấp, vì vậy mức lợi tức có
thể thấp hơn với quy mơ phát hành càng lớn.
Sự ổn định của tiền tệ: Sự ổn định của tiền tệ được tác động bởi các yếu tố
chính trị, những khó khăn trong cán cân thanh tốn, lạm phát… Sự bất ổn của đồng tiền
thanh toán trái phiếu sẽ buộc phải tăng lợi tức cho những nhà đầu tư tiềm năng.


Quan hệ cung cầu: Loại trái phiếu mà cung lớn hơn cầu, thị trường của nó
rất khó khăn để mà tiêu thụ thêm trừ phi phải đặt một mức lãi đủ cao để hấp dẫn các nhà
đầu tư tiêu thụ.
4. THÀNH PHẦN THAM GIA VÀ CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU QUỐC
TẾ
4.1 Thành phần tham gia
4.1.1


Nhà phát hành trái phiếu

Chính phủ và các cơ quan chức năng được uỷ quyền: phát hành trái phiếu
quốc tế để tạo vốn cho quốc gia.
Thị trường vốn ngày nay khơng cịn bị đóng khung trong phạm vi quốc gia mà sự phát
triển mạnh mẽ của nó với xu hướng tồn cầu hố, đã mở ra nhiều triển vọng cho các
Chính phủ huy động vốn trên bình diện quốc tế. Một trong các hình thức huy động vốn
trên thị trường vốn quốc tế phổ biến hiện nay được nhiều Chính phủ lựa chọn là phát
hành trái phiếu quốc tế. Đó là hình thức Chính phủ phát hành các chứng từ vay nợ (được
gọi là trái phiếu quốc tế) ra thị trường vốn quốc tế, đây là hình thức vay vốn trực tiếp từ
các nhà đầu tư quốc tế không phải qua các tổ chức trung gian như vay ngân hàng.
Chính quyền các địa phương hay các tiểu bang: Mục đích phát hành trái
phiếu quốc tế của các tổ chức này là nhằm gây quỹ, tạo vốn tài trợ cho việc xây dựng
những dự án chung có sinh lợi như là hệ thống giao thơng, trường học và những dịch vụ
công cộng.
Theo thống kê của Standard and Poors’ năm 2009, trái phiếu chính phủ quốc tế của Mỹ
chiếm 20%, còn lại là của các quốc gia mới nổi và các nước phát triển khác. Các nước
phát triển thường được xếp hạng tín nhiệm AAA cịn các nước mới nổi thường được xếp
hạng tín nhiệm là BBB. Các quốc gia mới nổi chỉ chiếm 5% số trái phiếu chính phủ quốc
tế.
The World Bank, IMF, Ngân hàng trung ương các nước
Các Ngân hàng thương mại
Các công ty lớn
4.1.2

Các tổ chức đầu tư quốc tế

Các tổ chức đầu tư quốc tế thường gồm:
Quỹ hưu trí - Pension Funds



Các công ty bảo hiểm
Các ngân hàng
Các quỹ Hỗ tương
Các nhà đầu tư chiến lược
Quỹ phòng vệ
Các định chế đầu tư khác
4.2

Cơ cấu các bên tham gia

Một đợt phát hành trái phiếu sẽ có các thành phần tham gia sau: Issuer, Lead and CoManager, Underwriter, Sellers, Trustees, Paying Agents.

[2]Issuer (or borrower)-nhà phát hành, những người cần vay vốn thông qua phát hành
trái phiếu. Người phát hành có thể là một ngân hàng, một công ty, một tồ chức quốc tế
hay chính phủ. Các chủ thể phát hành này cần đến một Ngân hàng để nhờ ngân hàng phát
hành trái phiếu cho mình. Ngân hàng này được gọi là ngân hàng chủ trì-lead bank, hay
nhà quản lí bao tiêu-Lead manager. Ngân hàng này có thể mời thêm các ngân hàng khác
và tạo thành managing group để cùng nhau thỏa thuận và thực hiện việc phát hành trái
phiếu. Managing group này sau đó bán trái phiếu cho các nhà bảo lãnh-underwriter hoặc
bán trực tiếp cho nhóm mua-selling group. Managing group, underwriter và seller được
gọi chung là syndicate-nhóm bao tiêu hay nhóm cho vay. Khi nhóm này bán trái phiếu


cho các nhà đầu tư là khách hàng của họ, thì đây là thị trường sơ cấp. Khi các nhà đầu tư
mua bán qua lại với nhau thì đó là thị trường thứ cấp.
Sau khi trái phiếu được bán đi, một ngân hàng làm đóng vai trị là principal paying agent
có nhiệm vụ thu lãi và gốc từ nhà phát hành rồi trả cho nhà đầu tư. Những principal
paying agent này cũng thường đóng vai trị là fiscal agent-là người đại diện cho nhà phát

hành. Tuy nhiên, nếu paying agent đóng vai trị là trustee-đại diện của nhà đầu tư, thì
phải có một ngân hàng khác đóng vai trị là fiscal agent, do nhà phát hành chỉ định.
Các chủ thể tham gia trong thị trường được tổ chức bởi Hiệp hội thị trường thứ cấp quốc
tế (the International Primary Market Association-IPMA) ở London và Hiệp Hội thị
trường chứng khoán quốc tế (International Security Market Association-ISMA) ở Zurich.
Phí quản lý và bảo lãnh
Phí quản lý và bảo lãnh cho các đợt phát hành trái phiếu quốc tế có thể thay đổi tuỳ theo
kỳ hạn thanh tốn trái phiếu - lệ phí cao hơn đối với trái phiếu dại hạn hơn và cũng tuỳ
thuộc vào tiếng tăm của công ty huy động vốn cũng như địa vị của nước chủ nhà. Thông
thường, các lệ phí này dựa vào tỷ lệ phần trăm số vốn phát hành và thanh toán chiết khấu
giá.

Rủi ro bảo lãnh
Hoạt động bảo lãnh phát hành cũng có rủi ro. Đó là rủi ro khi giá bán trái phiếu cho nhà
đầu tư không bằng giá mà nhà bảo lãnh phát hành cam kết bán với nhà phát hành. Ví dụ,
nếu người quản lí cam kết phát hành trái phiếu với giá 100 USD, nhưng nhà đầu tư trên
thị trường chỉ đồng ý mua với giá 98 USD thì nhà bảo lãnh phát hành phải bù phần chênh
lệch đó. Các lí do dẫn đến hiện tượng trên có thể là do một sự tăng lên đột ngột của lãi
suất, sự giảm tín nhiệm đột ngột của nhà phát hành, hoặc do nhà đầu tư đột nhiên thích
trái phiếu định giá bằng EUR hơn USD.
Do đó, nhà bảo lãnh phát hành cần phải hiểu rõ về cả bên cung và bên cầu. Họ phải có đủ
năng lực tài chính để ứng phó khi rủi ro bảo lãnh xảy ra. Đồng thời, họ phải có các mối
quan hệ rộng rãi với các nhà đầu tư để có thể phát hành trái phiếu thật nhanh, trước khi
thị trường thay đổi.


Thị trường Gray
Có một sự bất đối xứng giữa nhà quản lí và nhóm bán. Nhà quản lí hấu như có mọi quyền
lực để áp đặt mọi quy tắc lên nhóm bao tiêu(sydicate). Do đó, họ có động lực nhận thật
nhiều đợt bảo lãnh phát hành để tăng doanh số của mình. Họ áp dụng các điều khoản dễ

dàng hơn cho nhà phát hành. Theo đó thì giá bán cũng phải tăng lên và lợi suất giảm. Do
đó, họ phải bán trái phiếu với giá cao (overpriced). Những nhà quản lí này tin rằng họ có
thể lập một nhóm bán hàng để bán với giá cao, vì các cơng ty chứng khốn hoặc các ngân
hàng đầu tư rất sẵn lịng tham gia vào nhóm bao tiêu. Tuy nhiên, nếu thị trường đánh giá
không tốt về trái phiếu do họ bảo lãnh phát hành, họ sẽ không thể bán hết trái phiếu và
phải chịu thiệt hại. Hiện tượng này được gọi là “excessive competition”.
Từ năm 1970, các chủ thể tham gia trong thị trờng phát triển một phương pháp để giải
quyết tình trạng trên. Để tránh việc khơng thể bán trái phiếu ngang mệnh giá trên thị
trường thứ cấp, họ bán kỳ hạn trái phiếu. Nghĩa là những người bán sẽ bán trái phiếu
ngay lập tức khi nhận được thông báo về việc bán trái phiếu đó, với giá 98-99% mệnh giá
để nhà đầu tư không biết là trái phiếu đã được định giá cao hơn giá trị thực.
4.3
4.3.1

Cơ cấu thị trường trái phiếu quốc tế
Thị trường sơ cấp

Cũng như các thị trường nội địa, bộ phận thị trường sơ cấp của thị trường trái phiếu quốc
tế cũng là thị trường xử lý việc phát hành các trái phiếu mới.
Trên thị trường này có sự tham gia mà các nhà phát hành nổi tiếng thế giới như ngân
hàng Crédit Suisse, ngân hàng First Boston, ngân hàng Deutche hay công ty chứng khoán
Nomura.
4.3.2

Thị trường thứ cấp

Thị trường thứ cấp là bộ phận quan trọng trong hoạt động có hiệu quả của thị trường sơ
cấp bởi vì đó là phương tiện đảm bảm việc chuyển đổi thành tiền mặt cho chủ trái phiếu.
Hiển nhiên là thị trường sơ cấp sẽ hoạt động kém hiệu quả vì khơng hấp dẫn lắm đối với
các nhà đầu tư tiềm năng khi có ít hoặc khơng có triển vọng chuyển đổi sang tiền mặt sau

đợt phát hành mới. Ngoài ra, sự tồn tại của thị trường thứ cấp cũng cho phép định giá
những trái phiếu mới căn cứ vào mức lãi có được từ những đợt phát hành lớn.
Thị trường thứ cấp của thị trường trái phiếu Châu Âu là loại thị trường phi tập trung việc buôn bán các loại trái phiếu quốc tế hay Châu Âu được tiến hành bởi Hiệp hội các
nhà kinh doanh trái phiếu quốc tế (AIBD - Association of International Business Dealers)
thơng qua điện thoại và xác nhận qua điện tín. AIBD được thành lập vào cuối những năm
1960 và có trên 900 thành viên của khoảng 40 nước. AIBD đã góp phần quan trọng vào
việc tạo ra thị trường và phân phối sản phẩm của thị trường trái phiếu quốc tế và thị
trường trái phiếu Châu Âu. AIBD đã đóng nhiều vai trị bao gồm cả cung cấp nguồn
thơng tin về những đợt phát hành lớn và cố gắng điều chỉnh các hoạt động trên thị trường


bằng cách cải tiến luật lệ và thủ tục làm cho hoạt động trên thị trường được trơi chảy. Vì
vậy những vấn đề như tập quán kinh doanh, kỹ thuật tính tốn tiền lãi tích luỹ, định giá trị
trái phiếu hay thanh toán… đều nằm trong quy chế của AIBD.
Về cơ chế kinh doanh, việc báo giá trái phiếu theo giá bán và giá mua tạo ra một khoản
chênh lệch giá nhất định. Phạm vi chênh lệch này tuỳ thuộc vào mức độ khả năng thanh
toán tiền mặt của một đợt phát hành nhất định cũng như tình trạng tài chính của nhà
bn. Kinh doanh thường được thực hiện với một lô tối thiểu là 10 trái phiếu, mỗi lô
thường có giá trị $10.000.
Trên thị trường thứ cấp các nhà kinh doanh kiếm lợi trên trái phiếu qua 2 cách:
Chênh lệch giá mua và giá bán trái phiếu: Chênh lệch này cũng thay đổi
theo tính chất trái phiếu. Thường mức độ dao động giá đối với loại trái phiếu có lãi suất
cố định là rộng hơn so với trái phiếu có lãi suất thả nổi. Mức lợi nhuận do chênh lệch giá
cịn cao hơn đối với loại trái phiếu có khả năng thanh tốn tiền mặt thấp. Nói chung, các
chênh lệch vào khoảng 0,5% giữa giá mua và giá bán đối với trái phiếu có khả năng
thanh tốn tiền mặt và có thể tăng đến 1% - 2% đối với những trái phiếu kém tích cực
hơn.
Thời cơ: Các nhà bn chứng khốn ln chờ đợi thời cơ trên thị trường
chứng khoán để mua và bán chứng khoán đúng lúc. Khi nhà buôn trái phiếu quốc tế
quyết định mua một số lượng lớn một loại trái phiếu là lúc ông ta dự đoán rằng người ta

sẽ rất cần đến loại trái phiếu này và hy vọng giá trái phiếu sẽ tăng cao hơn nhiều. Nhưng
cũng không loại trừ những bất lợi xảy ra sẽ làm hỏng thời cơ, như việc một cơng ty phát
hành trái phiếu bị đánh giá lại thì trái phiếu đó có nguy cơ xuống giá.
5. QUY TRÌNH THAM GIA VÀO THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ
5.1 Tầm quan trọng của việc xếp hạng tín nhiệm


Phân khúc thị trường: trái phiếu đạt điểm đầu tư và trái phiếu có lợi suất cao-Investment
Grade and High Yield Bonds
Trái phiếu đạt điểm đầu tư-Investment grade bonds là trái phiếu xếp 1 trong 4 hạng đầu
tiên bởi một tổ chức xếp hạng tín nhiệm có uy tín-thường là tổ chức tín nhiệm Moody’s,
Standard & Poor’s, Fitch. Những trái phiếu này thường được phát hành bởi các tập đoàn
lớn rất uy tín.
Trái phiếu có lợi suất cao-High yield bonds, hay còn gọi là junk bonds, là các trái phiếu
xếp hạng sau investment grade. Những trái phiếu này thường được phát hành bởi các
công ty mới thành lập, hoặc những công ty có điểm tín nhiệm bị giảm. Trái phiếu có lợi
suất cao thường có kỳ hạn ngắn hơn trái phiếu có điểm đầu tư, thường khơng q 10 năm.
Lọai trái phiếu này có lợi suất rất cao.
Phân biệt rạch rịi hai loại trái phiếu này rất quan trọng, vì một số tổ chức đầu tư không
bao giờ đầu tư vào trái phiếu không đạt điểm đầu tư.


Thơng thường, điểm tín nhiệm của trái phiếu do một cơng ty nào đó phát hành khơng thể
cao hơn điểm tín nhiệm của chính phủ nước của cơng ty đó. Điều này được gọi là
Sovereign ceiling hay country ceiling. Tuy nhiên những đợt phát hành trái phiếu có tài
sản đảm bảo có thể vượt qua được điểm tín nhiệm trần đó.
5.2

Quy trình phát hành trái phiếu cơng ty trên thị trường trái phiếu quốc tế


Khi một công ty muốn phát hành trái phiếu, họ có thể chọn phát hành trái phiếu trên thị
trường nội địa hoặc thị trường quốc tế. Thị trường nào được lựa chọn tùy thuộc vào việc
công ty được hưởng giá ở đâu tốt hơn.
Để phát hành trái phiếu vào thị trường nước ngoài-trái phiếu nước ngoài, công ty cần
tuân thủ các điều kiện giao dịch chứng khốn ở nước đó, cũng như những điều kiện đối
với nhà phát hành nội địa.
Còn để phát hành trái phiếu Châu Âu thì cơng ty chỉ cần tìm một nhà bảo lãnh phát hành
trên thị trường, thường là các ngân hàng đầu tư hoạt động trên thị trường quốc tế, như
Barclays, City và Deutsche Bank,.. sau khi đã phân tích tình hình tài chính cơng ty và
tình hình thị trường. Cơng ty có thể được tư vấn bởi các ngân hàng đầu tư trong lĩnh vực
này.
Đứng từ góc độ một giám đốc tài chính của một cơng ty, khi quyết định phát hành trái
phiếu ra nước ngồi, cần thơng qua các bước sau:
Bước 1: Phân tích tình hình trước khi phát hành trái phiếu
Phân tích tình hình tài chính của cơng ty
Phân tích tình hình quản lí
Lựa chọn nhà tư vấn
Bước 2: Phân tích thị trường


Phân tích trái phiếu-rủi ro, xếp hạng tín nhiệm (xem phần 3)
Phân tích và lựa chọn thị trường nội địa hay thị trường quốc tế (xem phần
1)
Bước 3: Chuẩn bị giao dịch-các yếu tố cơ bản
Quyết định các yếu tố cơ bản của trái phiếu
Kích cỡ
Kích cỡ của đợt phát hành tùy thuộc vào điều kiện của thị trường. Công ty phát hành và
nhà tư vấn cần tính tốn khả năng hấp thụ của thị trường.Ở thị trường nội địa thì khơng
nên phát hành với khối lượng lớn vì rất khó bán. Ngược lại, nếu phát hành trái phiếu châu
Âu, phát hành với số lượng nhỏ sẽ không đạt được mức chi phí hiệu quả. Vì phí tính trên

phần trăm khối lượng phát hành, với khối lượng nhỏ hơn thì phần trăm tính phí lớn hơn.
Thường khối lượng phát hành trên thị trường này tối thiểu là $75 đến 100 tỷ USD, hoặc
hơn.
Mệnh giá- par value or face amount
Hầu hết các trái phiếu cơng ty Mỹ có mệnh giá là $1000. Những cuộc mua bán riêng(thường là với các trung tâm tài chính hay cơng ty đa quốc gia) thường có mệnh giá lớn
hơn, $1,000,000 với bội số của $100,000.
Kỳ hạn
Ở Mỹ, kỳ hạn của trái phiếu-bond là từ trên10 năm đến 12 năm, còn từ dưới 10 năm là
note-giấy nợ (tạm dịch).
+

Giấy nợ ngắn hạn: kỳ hạn tối đa 5 năm

+

Giấy nợ trung hạn hay trái phiếu trung hạn 5-12 năm

+

Trái phiếu dài hạn kỳ hạn trên 12 năm

Trái phiếu có kỳ hạn 30 năm rất hiếm có ở Mỹ. lần gần đây nhất loại này được phát hành
là tháng 10/2001. tuy nhiên trái phiếu này là một chuẩn quan trọng để xác định lợi suất
trái phiếu mới phát hành.
Quyết định loại trái phiếu
Lãi suất và hình thức trả lãi


Lựa chọn các hình thức trả lãi-xem phần các cơng cụ của thị trường trái phiếu quốc tế. Ở
Mỹ, lãi thường được trả theo kỳ 6 tháng. Còn trái phiếu Châu Âu thì trả lãi hằng năm.

Người phát hành cần nắm rõ luật để làm theo.
Tiền tệ
Việc lựa chọn loại tiền tệ để định giá trái phiếu thường chịu ảnh hưởng bởi thị trường, cơ
cấu vốn và đặc điểm dòng tiền của công ty. Điều này sẽ giúp làm giảm rủi ro tỷ giá cho
công ty. Tuy nhiên, không phải thị trường nào cũng đủ sâu để tiêu thụ trái phiếu định giá
bằng nội tệ.
Xem xét môi trường pháp luật của nơi sắp phát hành (Local Regulatory
and Legal Environment)
Cần nghiên cứu các luật sau ở thị trường sắp phát hành trái phiếu
+

Luật chứng khốn (quy trình đăng ký chào bán trái phiếu,..)

+

Những yêu cầu riêng đối với từng ngành,..

+

Luật doanh nghiệp, các yêu cầu và giới hạn khác

Bước 4: Chuẩn bị giao dịch - các loại giấy tờ cần thiết[3]
Các chứng từ liên quan đến quá trình phát hành
Các chứng từ pháp lí
Báo cáo tài chính
Due Diligence
Bước 5: Marketing và bán trái phiếu
Đăng ký và niêm yết
Marketing
Định giá

Bán riêng hay bán cho công chúng ? (Private or Public Placement)
Công ty phát hành và nhà tư vấn của mình cần đánh giá xem nên bán ra công chúng hay
nên bán riêng cho các QIB(thị trường luật 144A-xem phần 1). Nếu bán cho công chúng


thì cần phải niêm yết, phải tốn chi phí đăng ký.., cịn nếu bán riêng cho QIB) thì khơng
cần niêm yết nhưng tính thanh khoản thấp, đồng thời lợi suất cao hơn.
Chi phí phát hành
Dù chọn niêm yết hay bán cho QIB thì cơng ty đều chịu các khoản phí sau:
+

Các phí về luật pháp

+

Phí kế tốn

+

Phí quản lý

+

Phí trả cho các tổ chức đại diện (Trustee and paying agent fees)

+

Phí tồn trữ ký thác

+


Phí in cáo bạch

+

Phí chấm điểm tín dụng

Quy trình đăng ký
Quy trình đăng ký phụ thuộc vào luật của từng quốc gia. Ở Mỹ, quy trình này gồm 3 giai
đoạn. Trước hết là điển vào bảng đăng ký của SEC. Sau đó, nhà bảo lãnh phát hành phải
Marketing loại trái phiếu cần phát hành thông qua một bảng cáo bạch sơ bộ. SEC sẽ xem
xét bảng đăng ký và yêu cầu sửa đổi một số chỗ. Giai đoạn 3 là SEC tuyên bố đăng ký
thành công, bắt đầu niêm yết và bán trái phiếu.
Các yêu cầu cầu cần có để được niêm yết trên sở giao dịch
+

Chứng từ pháp lý của cơng ty

+

Bản kê khai chính thức

+

Thư báo phát hành

+

Báo cáo tài chính có kiểm tốn trong vài năm gần đây


Marketing
Quá trình Marketing là quá trình thương lượng giữa bên phát hành với các QIB để ban
được trái phiếu do mình phát hành. Nhà quản lí bảo lãnh phát hành phải sắp xếp hàng loạt
các cuộc họp, gọi là Road shows, để ban lãnh đạo công ty trình bày trước các tổ chức đầu
tư, những nhà quản lý tiền, những người mua bán chứng khoán. Ở Mỹ, các cuộc họp này
thường được tổ chức ngay khi nhà phát hành điền vào mẫu đăng ký, nhưng trước khi có


quyết định được phép phát hành. Đây là giai đoạn cơng ty phải đưa ra các bản cáo bạch
của mình. Những cuộc thương lượng này bao gồm những quyết định về:
Khối lượng: Tỷ lệ đăng ký mua trên một nhà đầu tư là chỉ số cho thấy nhà
đầu tư sẽ chấp nhận đợt phát hành như thế nào. Nếu tỷ lệ đăng ký mua thấp thì cần xem
xét chỉnh sửa lại các điều khoản của trái phiếu.
Giá: có bao nhiêu nhà đầu tư sẵn sàng mua trái phiếu? Giá bán đã được
trên các tài liệu đăng ký, nhưng giá thực sự được định vào ngày phát hành, với một mức
bù thêm hoặc chiết khấu vào mệnh giá, các khoản này này sẽ phản ánh tình hình của thị
trường. Tùy thuộc vào kích cỡ và mức độ phức tạp của việc bán trái phiếu và nhà đầu tư
mà nhà bảo lãnh phát hành có thể đến nhiều thành phố, nhiều quốc gia để chào bán với
các nhà đầu tư.
Phát hành
Nhiều luật chứng khốn ở các nước phương Tây và phương đơng địi hỏi các chứng
khốn được bán cho cơng chúng phải được phát hành dưới dạng ghi sổ hoặc phải được
tồn trữ ký thác. Nhà phát hành cần tìm hiểu và nắm rõ các quy định này để thực hiện cho
đúng. Ngày nay, ở Mỹ, chứng khoán thường được phát hành dưới dạng chứng chỉ và
được cất trữ ở Công ty ủy thác tồn trữ ký thác[4].
Bước 6: Những thủ tục sau khi phát hành
Trả nợ
Điều quan trọng nhất sau khi phát hành trái phiếu, nhà phát hành phải trả lãi định kỳ và
trả vốn gốc khi đáo hạn.
Tiếp tục công bố thông tin

Trái phiếu được phát hành ra công chúng được định giá trên thị trường thứ cấp dựa trên
những thơng tin có trên thị trường. Do đó, việc tiếp tục công bố thông tin là rất quan
trọng đối với uy tín của thị trường thứ cấp và để bảo vệ những nhà đầu tư đã mua trái
phiếu ở thị trường sơ cấp. Hầu hết các luật chứng khoán của các nước Đông Âu yêu cầu
nhà phát hành phải tiếp tục công bố thông tin định kỳ đối với các chứng khốn phát hành
ra cơng chúng.
Duy trì điểm tín dụng
Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm sẽ thường xuyên đánh giá lại đểm tín nhiệm hằng năm.
Họ thường thu phí duy trì điểm tín dụng cho việc đó. Thường các hợp đồng trái phiếu yêu
cầu phải thông báo cho người nắm giữ trái phiếu biết nếu có sự thay đổi trong điểm tín
nhiệm của nhà phát hành.


6. HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CỦA VIỆT NAM
6.1

Luật phát hành trái phiếu quốc tế

Ngày 4.6.2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 53/2009/NĐ-CP có hiệu lực từ
30.7.2009 về phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam
(NĐ 53).
Nguyên tắc và điều kiện phát hành
Căn cứ vào điều 6 NĐ 53, trái phiếu quốc tế chỉ phát hành khi có đủ điều kiện:
Theo Nghị định của chính phủ Về việc phát hành trái phiếu quốc tế, trái phiếu quốc tế
bao gồm 3 loại:
Trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu Ngân hàng thương mại quốc doanh (gọi tắt là trái phiếu Ngân
hàng)
Trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước
Trái phiếu Chính phủ do Bộ Tài chính phát hành để vay vốn nước ngoài cho đầu tư phát

triển kinh tế. Trái phiếu Ngân hàng do các Ngân hàng thương mại quốc doanh phát hành
để vay vốn nước ngoài cho mở rộng tín dụng đầu tư của Ngân hàng. Trái phiếu doanh
nghiệp Nhà nước do các doanh nghiệp Nhà nước phát hành, để vay vốn nước ngoài cho
các dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị, công nghệ sản xuất của
doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp Nhà nước, Ngân hàng thương mại quốc doanh muốn phát hành trái
phiếu quốc tế phái đảm bảo các điều kiện sau:
1. Đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo các quy định của pháp luật
về thành lập doanh nghiệp Nhà nước.
2. Hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi liên tiếp trong 3 năm trước khi phát hành trái
phiếu, tình hình tài chính lành mạnh và có triển vọng phát triển, khơng vi phạm pháp luật
và kỷ luật tài chính, có chứng nhận của Cơng ty kiểm tốn độc lập.
3.

Dự án đầu tư có hiệu quả được cấp có thẩm quền phê duyệt.

4.

Phương án phát hành trái phiếu quốc tế được Chính phủ cho phép.



×