Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Đánh giá thực trạng rừng bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hóa học và đề cuất giải pháp phục hồi rừng tại vườn quốc gia chư mom rei tỉnh kon tum

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.36 KB, 93 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ nông nghiệp và PTNT

Trường Đại học lâm nghiệp

Nguyễn Tấn liêm

Đánh giá thực trạng rừng
bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học
và đề xuất giải pháp phục hồi rừng tại
vườn quốc gia chư mom rei -tỉnh Kon tum

Chuyên ngành
MÃ số

:
:

Lâm học
60.62.60

Luận văn thạc sĩ khoa học lâm nghiệp
Người hướng dẫn: GS.TSKH. Nguyễn Ngọc Lung

Hà tây: th¸ng 6/ 2006


Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ nông nghiệp và PTNT



Trường Đại học lâm nghiệp.

Nguyễn Tấn liêm

Đánh giá thực trạng rừng
bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học
và đề xuất giải pháp phục hồi rừng tại
vườn quốc gia chư mom rei -tỉnh Kon tum

Luận văn thạc sĩ khoa học lâm nghiệp

Hà tây: tháng 6/ 2006


Chương 1.
Đặt vấn đề.
Cuộc chiến tranh hoá học mà quân đội Mỹ tiến hành ở Miền Nam
Việt nam trong những năm 1965 1975 của thế kỷ XX được coi là cuộc
chiến tranh vô tiền khoáng hậu, là một sự kiƯn ch­a tõng cã trong lÞch sư
chiÕn tranh thÕ giíi. Trong cuộc chiến tranh này quân đội Mỹ đà phun rải
hơn 72 triệu lít chất diệt cỏ và làm rụng lá cây để phá huỷ gần 2 triệu ha
rừng nội địa, rừng ngập mặn ở khắp miền Nam Việt nam, gây hậu quả vô
cùng nặng nề và lâu dài đối với sức khỏe, đời sống của con người và môi
trường sinh thái Việt nam. Tại hội nghị quốc tế năm 1993 víi chđ ®Ị “ ChÊt
diƯt cá trong chiÕn tranh- tác hại lâu dài với con người và thiên nhiên các
nhà khoa học quốc tế đà khẳng định cuộc chiến tranh hoá học của Mỹ tại
Miền Nam Việt nam là cuộc chiến chống môi sinh lớn nhất trong lịch sử
nhân loại [31].
Kon tum là một tỉnh miền núi biên giới nằm ở cực bắc Tây nguyên

Việt nam. Trong thời gian chiÕn tranh chèng Mü cøu n­íc, Kon tum lµ mét
trong những địa bàn trọng điểm đầu tiên ở miền Nam Việt nam mà quân
đội Mỹ chọn thử nghiệm và triển khai chiến tranh hoá học. Tại nơi đây,
quân đội Mỹ ®· thùc hiƯn 374 phi vơ r¶i 954.459 gallons chÊt diệt cỏ và
làm rụng lá cây với nồng độ cao xuống 2 huyện Ngọc hồi và Sa thầy đà làm
cho gần 130.000 ha rừng tự nhiên, chiếm gần 50% diện tích của cả 2 huyện
bị phá hoại nghiêm trọng. Đặc biệt trên những vùng trọng điểm, do bị phun
rải chất độc hoá học nồng độ cao từ trên tán cây xuống với phương thức càn
đi quét lại nhiều lần nên tán rừng đà bị trụi lá hoàn toàn, cây rừng bị chết,
làm cho cấu trúc hệ sinh thái rừng bị phá vỡ, gây mất cân bằng sinh thái,
dẫn đến nhiều tác hại môi trường khác, ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến
đời sống và sức khỏe của người dân trong vïng.


2

Muốn khắc phục hậu quả sinh thái của cuộc chiến tranh hoá học để
lại, biện pháp cần thiết và có hiệu quả nhất là phục hồi vốn rừng tự nhiên đÃ
bị phá hoại. Tuy nhiên, việc lựa chọn con đường nào để phục hồi hệ sinh
thái rừng này nhanh chóng và có hiệu quả là vấn đề không hề đơn giản.
Thực tế cho thấy: mặc dù đà qua gần 40 năm nhưng trên một số vùng bị ảnh
hưởng bởi chiến tranh hoá học rừng vẫn không thể tự phục hồi được, hoặc
rừng phục hồi vẫn không đảm bảo các chức năng sản xuất và phòng hộ môi
trường. Điều đó cho chóng ta thÊy r»ng: viƯc phơc håi hoµn toµn hƯ sinh
thái rừng đà bị phá huỷ không thể hoàn toàn dựa vào con đường tái sinh tự
nhiên mà cần phải có tác động của con người bằng hệ thống các giải pháp
kinh tế - kỷ thuật phù hợp.
Khoa học ngày nay ®· chøng minh r»ng mn ®Ị ra mét hƯ thống
các giải pháp đúng đắn để tác động vào một đối tượng rừng nào đó cần phải
có sự hiểu biết đầy đủ về thực trạng, bản chất các quy luật sống, điều kiện

hình thành và cấu trúc của hệ sinh thái rừng đó, đặt trong một tổng thể các
điều kiện kinh tế xà hội và trình độ kỷ thuật công nghệ nhất định. Đây là
hướng tiếp cận đúng đắn trong nỗ lực tìm kiếm những giải pháp khôi phục
những hệ sinh thái rừng đà bị suy thoái, trong đó có hệ sinh thái rừng sau
khi bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học. Vì vậy, trong điều kiện cho phép
thực hiện Luận văn tốt nghiệp Cao học, chúng tôi đà lựa chọn đề tài:
Đánh giá thực trạng rừng bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoá học
và đề xuất giải pháp phục hồi rừng tại Vườn quốc gia Chư Mom Rei tỉnh Kon tum.
Theo chúng tôi, thực hiện đề tài này có ý nghĩa khoa học và thực tiễn
nhất định, có thể góp phần vào việc tìm kiếm những giải pháp phục hồi
rừng có hiệu quả tại Vườn quốc gia Chư Mom Rei- một trong những vùng
bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh hoá học và trên địa bàn tØnh Kon tum
trong thêi gian ®Õn.


3

Chương 2
Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
2.1. Lược sử về cuộc chiến tranh hoá học của Mỹ tiến hành tại
Miền nam Việt nam và trên địa bàn tỉnh Kon tum.
2.1.1.Mục đích và quá trình triển khai cuộc chiến tranh hóa học:
Theo tài liệu của Lê Cao Đài (1999) [4] cho biÕt: Ngµy 11/5/1961,
sau khi nhËm chøc, Tỉng thèng Mü Kennedy ®· häp Héi ®ång An ninh
quèc gia Hoa kú và ra tuyên bố Để ngăn chặn Cộng sản xâm lược Nam
Việt nam, quyết định dùng chất diệt cỏ,... và các kỷ thuật tân kỳ khác để
kiểm soát các ®­êng bé, ®­êng thđy däc biªn giíi ViƯt nam”. Sau ®ã, kÕ
ho¹ch sư dơng chÊt khai quang ë chiÕn tr­êng Nam Việt nam được Tổng
thống Mỹ Kennedy chính thức chuẩn y vµo ngµy 30/11/1961 vµ triĨn khai
d­íi mËt danh lµ Chiến dịch Ranch Hand. Trên thực tế thì cuộc chiến

tranh hóa học này đà được quân đội Mỹ tiến hành ở miền Nam Việt nam từ
đầu tháng 8/1961 và tỉnh Kon tum được chọn là địa bàn thí điểm đầu tiên.
Được sự thống nhất, ủng hộ của chính quyền Ngô Đình Diệm, sau buổi họp
tại thị xà Kon tum vào ngày 3/8/1961, Phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ tại
Miền nam Việt nam (MAAG) đà quyết định chọn quận Đăk tô thuộc tỉnh
Kon tum làm nơi thí điểm đầu tiên cho việc rải chất độc hóa học. Ngày
10/8/1961 chuyến bay đầu tiên đà rải chất độc hóa học Dinoxol dọc theo
theo đường quốc lộ số 14, phía bắc thị xà Kon tum để phá hủy nương rẫy và
hoa màu. Ngay ngày hôm sau, 11/8/1961, chuyến bay tiếp theo rải chất
Trinoxol lên khu vực đường Kon tum để phá hủy khoai lang, sắn, chuối và
cỏ tranh. Sau 2 giờ các loại cây bị phun rải đà héo và chết. Cuộc thử nghiệm
này được đánh giá là thành công mỹ mÃn. Sau đó, hai loại chất độc hóa học
Dinoxol và Trinoxol được tiếp tục phun rải ở Kon tum, Bình phước, Biên
hòa và nhiều nơi khác ở Miền nam Việt nam.


4

Mục đích của cuộc chiến tranh hoá học của quân đội Mỹ là: Làm trụi
lá và gây chết cây rừng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quan sát, phát
hiện nơi trú quân, tiếp vận của quân đội ta; Phá hoại mùa màng để cắt
nguồn lương thực của quân du kích, buộc người dân địa phương phải rời
chổ ở của họ tới những vùng chính quyền Sài gòn có thể kiểm soát được và
khai quang các vị trí xây dựng căn cứ quân sự.
Thời gian diễn ra cuộc chiến tranh hoá học bắt đầu từ năm 1961 đến
năm 1975 và được chia thành 3 giai đoạn:
- Từ năm 1961 đến năm 1964. Thử nghiệm và tiến hành phun rải chất
độc hoá học trên quy mô nhỏ.
-Từ năm 1965 đến năm 1971. Giai đoạn cao điểm và kết thúc việc
phun rải chất độc hoá học của Không lực Hoa kỳ.

- Từ năm 1972 đến năm 1975. Quân đội của chính quyền Sài gòn tiếp
tục kéo dài phun rải chất độc hoá học do Mỹ để lại.
2.1.2. Các loại chất hoá học dùng trong chiến tranh hoá học tại
miền nam Việt nam và Kon tum.
Theo tài liệu của các nhà khoa học Mỹ công bố thì trong thời gian
chiến tranh, quân ®éi Mü ®· sư dơng rÊt nhiỊu ho¸ chÊt phơc vụ cho những
mục tiêu, đối tượng phá hoại khác nhau ë miỊn nam ViƯt nam, trong ®ã cã
tØnh Kon tum. Có thể phân chia thành 4 nhóm chính sau đây:
- Các chất diệt cỏ, làm rụng lá cây( thường được gọi tên chung là
chất khai quang) và các tạp chất của nó.
- Các chất diệt côn trùng và diệt muỗi: Bao gồm chủ yếu là chất
Malathion( Phốt pho hữu cơ) và DDT.
- Chất kích thích CS.
- Các hoá chất khác: Bao gồm các vũ khí gây cháy khác như các loại
bom, pháo, bom Napan, phốt pho trắng. Đây là những hoá chất gây cháy
rừng trên diện tích sau khi bị rải chất diệt cỏ và làm rụng lá cây.


5

Trong 4 nhóm hoá chất trên thì các chất diệt cỏ và làm rụng lá cây
cùng các tạp chất của nó được sử dụng chủ yếu để phun rải trên thảm thực
vật rừng và là những loại hóa chất được dïng nhiÒu nhÊt trong cuéc chiÕn
tranh hãa häc ë miÒn Nam Việt nam. Những hoá chất phổ biến này được
gọi tên bằng các mật danh dễ nhận biết qua ký hiệu màu sắc trên thùng
chứa như: Chất trắng, chất xanh, chÊt tÝm, chÊt hång, chÊt xanh lôc, chÊt da
cam, chÊt da cam II, trong đó nguy hiểm nhất là chất da cam vì nó có chứa
một loại tạp chất rất độc và bền vững được gọi tên là Dioxin- một hợp chất
được xem là hoá chất độc nhất trong các loại hoá chất mà con người tổng
hợp ra được cho đến nay. Chất da cam thường được phun rải trên thảm thực

vật rừng kết hợp với chất trắng và chất xanh. Do vậy, trong giới hạn của đề
tài cũng chỉ giới thiệu tóm tắt một số đặc điểm, tính năng của 3 loại hóa
chất này và gọi tên chung là chất độc hoá học:
+ Chất trắng: là dung dịch màu nâu đen, hòa tan trong nước, không
hòa tan trong dầu, dầu Diesel hoặc dung môi hữu cơ. Đây là hỗn hợp 1: 4
của 2 chất Pichloram và 2,4 D ( 2,4 Dichloro phenoxy acetic acid ). Khi rải
không pha loÃng, với lượng 28,06 lít/ha. Chất này có tác dụng thấm vào tế
bào lá và làm rụng lá cây.
+ Chất xanh là một dung dịch màu vàng nhạt, hòa tan trong nước,
không hòa tan trong dung môi hữu cơ, dầu và dầu Diesel. Đây là hỗn hợp
của acid cacodylic và natricocadylat. Khi rải không pha loÃng, với lượng
28,06 lít/ ha. Chất xanh tác động lên cây làm rút nước của lá gây héo khô lá
cây. Khi thấm qua màng tế bào vào cây, nó hoà tan trong nước và có thể
thấm xuông tận rễ làm cho cây chết. Do vậy chất xanh được sử dụng để
khai quang rừng già vừa phá hoại màu màng, nhất là lúa.
+ Chất da cam là dung dịch màu hồng nâu, hòa tan trong dầu, dầu
Diesel và các dung môi hữu cơ, không hòa tan trong nước. Đây là hỗn hợp
50: 50 của hai chất n-butyl este 2,4 D vµ 2,4,5 T (2,4,5 Trichloro phenoxy


6

acetic acid ). Khi rải không pha loÃng, với lượng trung bình 28,06 lít/ha,
trong đó chứa khoảng 107 mg Dioxin. ChÊt da cam II t­¬ng tù nh­ chÊt da
cam, chØ kh¸c ë chỉ thay thÕ n-butyl este 2,4,5 T b»ng iso-octyl este 2,4,5
T. ChÊt da cam dƠ thÊm qua mµng tế bào làm rụng lá cây, do vậy nó được
sử dụng chủ yếu để khai quang rừng già và phá hoại mùa màng.
2.1.3. Số lượng hoá chất, phương tiện phun rải, cách thức và thời
điểm sử dụng các chất diệt cỏ và làm rụng lá cây .
2.1.3.1. Số lượng hóa chất: Theo số liệu thống kê của Lê Cao Đài [4]

thì tổng cộng chất diệt cỏ và làm rụng lá cây quân đội Mỹ sử dụng trong
chiến tranh Việt nam là 72.354.000 lít, trong đó có 44.338.000 lít chất da
cam; 19.835.000 lít chất trắng và 8.182 chất xanh, trên diện tích là 1,7 triệu
ha.Tuy nhiên, theo tính toán của Viện điều tra quy hoạch rừng thì tổng diện
tích rừng bị rải là 3,1 triệu ha, trong đó rừng nội địa bị rải là 2,95 triệu ha,
còn lại 150.000 ha là diện tích rừng ngập mặn. Riêng trên địa bàn tỉnh Kon
tum, vùng bị rải chủ yếu ở 2 huyện Sa thầy và Ngọc hồi, các tài liệu cho
biết quân đội Mỹ đà tiến hành 374 phi vụ rải 954.459 gallons tức khoảng
4,3 triệu lít hoá chất gồm chất da cam, chất trắng và chất xanh trên diện tích
129.000 ha. Trên bản đồ các băng phun rải cho thấy VQG Chư Mom Rei
hiện nay nằm trong vùng bị ảnh hưởng nặng nề, tức là thuộc lưu vực sông
Sê san, trên một dải kéo dài từ khu vực ngà ba biên giới Việt nam- LàoCampuchia, xuống tận phía nam, qua phía đông bắc huyện Sa thầy .
2.1.3.2. Phương tiện phun rải: Tuỳ theo mục tiêu cụ thể mà quân đội
Mỹ sử dụng những loại phương tiện phun rải khác nhau cho phù hợp như
máy bay có cánh cố định, máy bay trực thăng, máy phun trên xe cơ giới,
máy phun cầm tay. Đối với các khu vực rộng lớn (tối thiểu dài 5000m, rộng
1000 m) cần mở hành lang hoặc khai quang rừng rậm thì phương tiện được
sử dụng chính là máy bay có cánh cố định loại C-123 có gắn hệ thống rải
loại Honglass MC1. Hệ thống này có thể rải 240 gallons/ phót, khi m¸y


7

bay ở độ cao 150 foots ( khoảng 50 m), với tốc độ bay là 130 dặm/ giờ
(khoảng 210 km/ h) cã thĨ t¹o ra mét vƯt réng 260 ± 20 foots (khoảng 80m)
và trong thời gian rải khoảng 3,5 - 4 phút vừa đủ để rải 950 gallons hoá
chất trên một vệt dài khoảng 8,7 dặm ( khoảng 14 km).
2.1.3.3. Cách thức sử dụng hóa chất: Do tính năng tác dụng của từng
loại hoá chất khác nhau, tính mẫn cảm của từng loài cây rừng đối với các
hoá chất cũng khác nhau, điều kiện thời tiết khí hậu biến đổi theo từng

vùng, từng thời điểm, yêu cầu và mục đích phun rải trên từng đối tượng có
khác nhau cho nên quân đội Mỹ phải nghiên cứu lựa chọn cách thức sử
dụng loại hoá chất, nồng độ, số lần phun rải và thời điểm phun rải hết sức
cẩn thận, chính xác, để có thể đạt mức độ phá hủy mạnh nhất. Đối với rừng
gỗ và tre nứa, theo tài liệu của các nhà khoa học cho biết: do chất da cam và
chất trắng có tác dụng làm rụng lá cây mạnh hơn là làm chết cây, cho nên
để làm chết cây hoàn toàn cần phải kết hợp sử dụng chất xanh; mặt khác
nếu chỉ phun rải 1 lần thì số cây chết chỉ chiếm khoảng 10% số cây rừng,
nếu phun rải 2 lần thì số cây chết chiếm khoảng 25% số cây rừng, chủ yếu
là các cây ở tầng nhô và tầng sinh thái, nhưng nếu phun rải từ 3 lần trở lên
thì số cây chết lên đến 70%-90% số cây rừng. Do vậy, để đạt mức độ hủy
hoại cao nhất, khi điều kiện có thể, quân đội Mỹ sử dụng cả 3 loại hóa chất
là chất cam, chất trắng và chất xanh để phun rải và phun rải 2 đến 3 lần rải
trở lên theo trình tự quy định:
+ Lần thứ nhất: Dùng chất da cam hay chất trắng để làm rụng lá cây.
+ Lần thứ hai : Vẫn dùng 2 loại chất da cam và chất trắng để tiếp tục
làm rụng trụi lá, trụi cành trên thân cây.
+ Lần thứ ba: Dùng chất xanh để thuốc thấm đến rễ, làm cho cây
chết hoàn toàn.
Thời gian từ lần 2 cách lần 1 là khi thấy lá rụng, lần 3 cách lần 2 là
khi thấy đà có kết quả đối với thân và cành cây. Ngoài ra, để hủy diệt hoµn


8

toàn thảm thực vật rừng, sau khi cây rừng đà chết khô, quân đội Mỹ còn
dùng hóa chất gây cháy như bom napan, bom xăng để đốt cháy thân lá cây
gỗ, biến một khu vực rừng rậm rạp thành nơi trống địa.
2.1.3.4. Thời điểm phun rải hóa chất: Theo tài liệu huấn luyện của
quân đội Mỹ thì thời gian tốt nhất để diệt cây là vào thời kỳ sinh trưởng của

cây, khoảng 3 đến 4 tuần lễ sau khi mọc lá non. Mùa phun rải tốt nhất là
vào mùa mưa tức là thời kỳ cây sinh trưởng mạnh, sang đến mùa khô cây đÃ
chết thì có thể dùng bom napan ®Ĩ ®èt trơi. Trong ngµy, thêi ®iĨm phun
thc tèt nhÊt vào sáng sớm, tốt nhất là phun xong trước 8 giờ sáng, trời
không mưa, nhiệt độ không khí thấp làm hóa chất ít bị bay hơi, tốc độ gió
không quá 8 dặm/ giờ, hoá chất sẽ ít bị phân tán theo chiều gió. Tuy nhiên
đôi khi cũng có thể rải vào lúc trưa, chiều và những đêm trăng sáng.
Thảo luận: Qua những tài liệu đà được trích lược trên đây cho thÊy
r»ng: Cuéc chiÕn tranh hãa häc nµy n»m trong một chủ trương chiến lược
về Chiến tranh Việt nam của Chính phủ Mỹ, được sự đồng tình ủng hộ của
Chính quyền Sài gòn cho nên quân đội Mỹ đà nghiên cứu, triển khai thực
hiện rất triệt để với quy mô lớn trong thời gian dài, bất chấp sự phản đối
mạnh mẽ của các nhà khoa học có lương tri trên thế giới và ngay cả các nhà
khoa học Mỹ thời bấy giờ. Chính vì vậy, mức độ tàn phá của nó rất tàn
khốc, hậu quả của nó để lại cho con người và môi trường thiên nhiên Việt
nam rất to lớn và lâu dài, trong đó thảm thực vật rừng nội địa và rừng ngập
mặn là những đối tượng bị hủy hoại nặng nề nhất, gây nên thảm họa sinh
thái khôn lường. Đúng như nhận định của Hoàng Hòe (1983)[31]: Việc sử
dụng chất diệt cỏ và rụng lá cây đà đựợc nghiên cứu kỹ trên cơ sở đặc điểm
sinh thái của rừng nhiệt đới nhằm hủy diệt tận gốc tài nguyên và môi trường
Việt nam.


9

2.2. Lược sử nghiên cứu về cấu trúc rừng, tái sinh rừng tự nhiên
nhiệt đới và các biện pháp xử lý lâm sinh cho rừng thứ sinh nghèo.
2.2.1. Trên thế giíi.
2.2.1.1. Nghiªn cøu vỊ cÊu tróc rõng tù nhiªn nhiƯt đới.
Từ những năm đầu của thế kỷ XX nhiều nhà khoa học đà quan tâm

nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên trên cả 2 phương diện: cấu trúc sinh
thái và cấu trúc hình thái. Về phương pháp nghiên cứu có 2 hướng : Nghiên
cứu định tính, mô tả và nghiên cứu định lượng trên cở sở ứng dụng toán
thống kê và tin học. Mục tiêu của các nghiên cứu này đều cố gắng tìm ra
cấu trúc mẫu để ứng dụng xây dựng những khu rừng có thể mang lại hiệu
quả cao nhất về kinh tế, xà hội và môi trường, có tính ổn định cao. Những
công trình nghiên cứu của các tác giả tiêu biểu có thể kể đến là:
- Nghiên cứu về cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng: Đại diện là
Baur.G.N.(1964) nghiên cứu về cơ sở sinh thái của kinh doanh rừng mưa;
Odum.F.P. nghiên cứu về cơ sở sinh thái học; Richard.P.W. (1952) nghiên
cứu cấu trúc tổ thành rừng mưa nhiệt đới và phân biệt thành 2 loại: Rừng
mưa đơn ưu có tổ thành loài cây đơn giản và rừng mưa hỗn hợp có tổ thành
loài cây phức tạp. Tuy những nghiên cứu này còn định tính, nặng về mô tả
nhưng rất có giá trị , đà đặt nền móng cho những nghiên cứu sau này.
- Nghiên cứu về hình thái cấu trúc rừng:
+ Đại diện cho những nhà khoa học nghiên cứu hình thái cấu trúc
rừng theo hướng định tính là Richard.P.W.(1939); Catinot(1965);
Rollet(1971); Plaudy.J.(1987). Các tác giả này đà biểu diễn hình thái cấu
trúc rừng trong không gian bằng các phẫu đồ ngang và đứng. Các phẫu đồ
này đà đưa ra những hình ảnh khái quát về phân bố cây rừng trên mặt đất và
cấu trúc tầng thứ, phân bố số cây theo chiều thẳng đứng nhằm giúp các nhà
lâm học có những nhận xét và đề xuất các biện pháp ứng dụng thực tế. Về
cấu trúc tầng thứ, Richard.P.W.(1939) đà phân rừng ở Nigeria thành 5 tầng


10

và phương pháp vẽ biểu đồ ngang và dọc của ông đà được các nhà khoa học
sau này áp dụng và có sự cải tiến để mô tả hình thái cấu trúc rừng.
+ Các nhà khoa học nghiên cứu hình thái cấu trúc rừng theo hướng

định lượng thì biễu diễn hình thái cấu trúc lâm phần bằng cách sử dụng các
hàm toán học mô tả các quy luật kết cấu lâm phần và quy luật tương quan
của các nhân tố cấu thành lâm phần.
Trong những quy luật kết cấu lâm phần thì quy luật phân bố số cây
theo đường kính (N-D) và quy luật phân bố số cây theo chiều cao (N-H) là
những quy luật kết cấu cơ bản được quan tâm nhiều nhất. Để mô tả quy luật
phân bố N-D, Mayer(1934) đà dùng hàm phân bố giảm liên tục;
Balley(1931) sử dụng hàm Weibull; Shiffel(1934) đà tính cộng dồn phần
trăm số cây; Prôdan.M và Patascase(1964), Bill và Kem.K.A. biễu diễn
bằng phương trình logarit; DiatchencoZ.N. sử dụng phân bố Gamma biểu
thị phân bố số cây theo đường kính lâm phần thông ôn đới ; Loesch dùng
hàm Beta để nắn phân bố thực nghiệm. Đối với quy luật phân bố N-H nhiều
tác giả cũng đà dùng các hàm toán học để mô tả.
Trong những quy luật tương quan giữa các nhân tố cấu trúc, các tác
giả quan tâm nhiều nhất tương quan giữa chiều cao với đường kính 1,3m
(H-D1.3); tương quan giữa đường kính tán với đường kính 1,3 (Dtán-D1,3);
tương quan giữa các đại lượng tính toán thể tích và thể tích với các đại
lượng tổ thành nó như D1,3, H , F. Đối với tương quan H-D nhiều tác giả đÃ
dùng phương pháp giải thích toán học để tìm phương trình tương quan thích
hợp, tiêu biểu là các tác giả Naslund( 1929), KrenK ( 1946), Mayer ( 1952).
2.2.1.2. Nghiªn cøu vỊ tái sinh rừng nhiệt đới: Nghiên cứu về tái sinh
rừng đà được tiến hành từ hàng trăm năm trước, tuy nhiên nghiên cứu về tái
sinh rừng nhiệt đới thì chỉ bắt đầu từ những năm 30 của thế kỷ XX. Các
công trình nghiên cứu tái sinh rừng nhiệt đới đà tập trung vào việc khám
phá các đặc điểm và quy luật tái sinh rừng tự nhiên nhiệt đới, sự ảnh h­ëng


11

cúa các nhân tố sinh thái đến tái sinh rừng làm cơ sở để sản xuất các biện

pháp xúc tiến tái sinh tự nhiên.
Nghiên cứu về đặc điểm tái sinh rừng nhiệt đới, Van Steenis. J.
(1956) đà nêu lên hai đặc điểm tái sinh phổ biến đó là tái sinh phân tán, liên
tục dưới tán rừng của các loài cây chịu bóng và tái sinh vệt của các loài cây
tiên phong ưa sáng, mọc nhanh để hàn gắn những lỗ trống trong tán rừng do
những cây già tự đổ hoặc do cây bị gió bÃo làm đổ gÃy trong một thời gian,
sau đó bị những cây con tái sinh của những loài cây sống ở tầng trên thuộc
xà hợp cũ vượt lên và thay thế. Ngoài ra khi nghiên cứu rừng nhiệt đới ở
châu Phi, Obrevin.A. (1938) đà đưa ra lý luận bức khảm tái sinh hay còn
gọi là lý luận tuần hoàn tái sinh, theo đó thì thành phần ưu hợp trong rừng
mưa hỗn hợp nhiều loài đều không cố định trong không gian và thời gian và
không có loài nào đạt thế cân bằng sinh thái với hoàn cảnh một cách vĩnh
viễn và ổn định. Tại một địa điểm và trong một thời gian nhất định, xà hợp
của các loài ưu thế sẽ được thay thế không phải bằng một xà hợp có thành
phần nguyên như thế mà bằng một xà hợp khác. Theo tác giả thì hiện tượng
này là kết quả thuần tuý ngẫu nhiên không thể phán đoán được vì còn phụ
thuộc vào quá nhiều nguyên nhân phức tạp nhưng cũng cho đó là một hiện
tượng tuần hoàn, nói lên tính quy luật của nó. Đáng chú ý là những kết quả
quan sát của Davis.T.A.W và Richards.P.W. (1933); Beard (1946); Schuntz
(1960); Rollet(1969) ë rõng nhiƯt ®íi Nam Mỹ lại cho thấy tất cả những
loài cây có nhiều trong cấp thể tích lớn thì đồng thời cũng có nhiều trong
cấp thể tích nhỏ, tuy độ nhiều tương đối của các loài cây có trong cấp thể
tích nhỏ có khá so với các tầng cao hơn. Như vậy ở đây xuất hiện hiện
tượng tái sinh tại chổ và liên tục của các loài cây và tổ thành loài cây có khả
năng giữ nguyên không đổi trong một thời gian dài.
Nghiên cứu về các nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến tái sinh rừng
nhiệt đới cũng được nhiều nhà khoa học quan tâm, đáng chú ý là các công


12


trình nghiên cứu của: G.Baur (1962), trong đó đà chỉ ra rằng: sự thiếu hụt
ánh sáng ảnh hưởng chủ yếu đến sinh trưởng và phát triển của cây con;
Ghent. A.W.(1969) lại cho rằng thảm mục, chế độ thuỷ nhiệt và tầng đất
mặt đều có quan hệ với tái sinh rừng ở mức độ khác nhau; Andel.S . (1981)
khi nghiên cứu ảnh hưởng của cấu trúc quần thụ đến tái sinh đà chứng minh
độ đầy tối ưu cho sự phát triển bình thường của cây gỗ là 0,6-0,7. Độ khép
tán của quần thụ có quan hệ với mật độ và sức sống của cây con; Nghiên
cứu của Bannikov (1967) và Vipper ( 1973) cho thấy rằng cỏ và cây bụi,
qua thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng của
tầng đất mặt đà ảnh hưởng xấu đến cây tái sinh của các loài cây gỗ đặc biệt
là ở những lâm phần thưa, rừng đà qua khai thác thì thảm cỏ có điều kiện
phát sinh mạnh mẽ, là nhân tố gây trở ngại rất lớn đến tái sinh rừng.
2.2.1.3. Nghiên cứu về các biện pháp xử lý lâm sinh cho rừng thứ
sinh nghèo. Có nhiều nghiên cứu áp dụng các biện pháp xử lý lâm sinh cho
rừng thứ sinh nghÌo kiƯt nh­ : Kü tht lµm giµu b»ng phương pháp trồng
cây theo rạch do Aubreville ( 1937) đề xuất áp dụng ở Châu Phi; Nghiên
cứu cơ sở sinh th¸i häc cđa c¸c biƯn ph¸p xư lý rõng m­a của George Baur
(1962); Phương pháp trồng theo rạch cải tiến của Catinot (1965); Phương
pháp trồng theo đám nhỏ trên rạch của Anderson; Phương pháp Caimital do
Finot ( 1969) đề xuất làm giàu rừng bằng cách mở rạch bằng cơ giới ( máy
ủi) đề xuất tái sinh tự nhiên hoặc kỹ thuật cải tạo rừng theo phương pháp
limba được áp dụng ở Công gô Brazaville; Phương pháp Okoume ở Gabon;
Phương pháp Taungya ở Myanmar; Phương pháp Sylvo bananer ở Zaie.
2.2.2. ở ViƯt nam:
2.2.2.1 Nghiªn cøu vỊ cÊu tróc rõng :
Nghiªn cøu về cấu trúc rừng ở Việt nam được bắt đầu từ giữa những
năm 1970 của thế kỷ XX. Tuy ra đời muộn hơn so với các nước khác
nhưng hầu hết các nhà khoa học Việt nam đều tập trung nghiên cøu cÊu



13

trúc rừng theo phương pháp định lượng, rất ít công trình nghiên cứu theo
phương pháp định tính. Tiêu biểu cho các công trình nghiên cứu về cấu trúc
rừng là của §ång Sü HiỊn ( 1974 ) ®· dïng hä ®­êng cong Pearson để biểu
diễn phân bố N-D ở rừng tự nhiên; Nguyễn Hải Tuất ( 1975, 1982, 1990) đÃ
ứng dụng phân bố khoảng cách và quá trình Poisson để nghiên cứu cấu trúc
quần thể rừng; Trương Hồ Tố ( 1985) dùng họ đường cong Pearson nghiên
cứu cấu trúc rừng thông; Nguyễn Ngọc Lung ( 1987) xây dựng cấu trúc mật
độ bằng hàm hồi quy; Nguyễn Văn Trương ( 1973-1986 ) đưa ra phương
pháp thống kê cây đứng mô tả quy luật cấu trúc rừng gỗ hỗn loại; Trần Văn
Con ( 1991 ) ứng dụng mô phỏng toán để nghiên cứu đặc trưng cấu trúc và
động thái của hệ sinh thái rừng khộp -Tây nguyên; Lê Minh Trung ( 1991)
nghiên cứu cấu trúc rừng phục vụ công tác nuôi dưỡng; Bảo Huy (1993)
nghiên cứu cấu trúc rừng nữa rụng lá và rụng lá ưu thế bằng lăng ở Tây
nguyên; Lê Sáu ( 1996 ), Đào Công Khanh (1996) nghiên cứu cấu trúc rừng
lá rộng thường xanh...Kết quả của những nghiên cứu trên là đà lựa chọn các
hàm toán học phù hợp nhất để mô phỏng quy luật cấu trúc rừng như : phân
bố số cây theo cấp đường kính (N/D) mô phỏng bằng hàm khoảng cách,
hàm Weibull, phân bố số cây theo cấp chiều cao (N/H) có dạng một
đỉnh, nhiều đỉnh phụ hình răng cưa và mô tả thích hợp bằng hàm Weibull,
tương quan giữa đường kính và chiều cao( D/H) biểu diễn bằng các phương
trình đường thẳng, phương trình logarit, hàm mũ, từ đó đề xuất xây dựng
mô hình cấu trúc mẫu làm cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp lâm sinh
phù hợp với từng đối tượng rừng và mục tiêu kinh doanh cụ thể.
Về mô tả cấu trúc tầng thứ của rừng theo theo phương pháp định tính
Thái Văn Trừng ( 1978 ) đà phân chia rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt
đới ở Việt nam thành 5 tầng khác nhau và biểu diễn chúng bằng các phẫu
đồ ngang và thẳng đứng theo phương pháp của Richard P.W đà được cải

tiến cho phù hợp.


14

2.2.2.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng: ở Việt nam nghiên cứu về tái
sinh rừng bắt đầu từ những năm 1960 của thế kỷ XX. Một số tác giả có
những công trình nổi bật phải kể đến là: Thái Văn Trừng( 1963,1978,1998 )
khi nghiên cứu về thảm thực vật rừng Việt nam đà khẳng định: Trong quá
trình tái sinh tự nhiên của các xà hợp tự nhiên nguyên sinh hay thứ sinh, có
2 cách tái sinh : thứ nhất là cách tái sinh liên tục dưới tán kín rậm, của
những loại cây chịu bóng, sự tái sinh này thường thưa thớt và yếu ớt vì thiếu
ánh sáng, thứ hai là cách tái sinh theo vệt để hàn gắn những lỗ trống trong
tán rừng do cây già đổ rụi hay gió bÃo làm đổ gÃy của những cây tiên
phong ưa sáng mọc nhanh mà tác giả phân biệt thành 2 loại là: cây tiên
phong tạm thời có tuổi thọ ngắn tự tiêu vong sau khi hoàn thành nhiệm
vụ hoặc sẽ bị tiêu diệt bởi tán kín rậm của các loài cây định vị mọc sau và
cây tiên phong định cư có tuổi thọ dài, có thể tồn tại trong thành phần của
các xà hợp đà tái sinh tự nhiên. Trong nhóm nhân tố sinh thái khí hậu - thuỷ
văn thì ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế và điều khiển quá trình tái
sinh tự nhiên của các xà hợp trong thảm thực vật rừng; Vũ Đình Huề (1975)
khi nghiên cứu tái sinh rừng miền Bắc Việt nam đà rút ra kết luận là tái sinh
rừng miền Bắc Việt nam có đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới và nhận
thấy trong rừng nguyên sinh tổ thành cây tái sinh tương tự như tầng cây gỗ,
ở rừng thứ sinh tồn tại nhiều cây gỗ mềm kém giá trị, hiện tượng tái sinh
theo đám tạo phân bố số cây không đều trên mặt đất. Từ kết quả nghiên
cứu, tác giả đà xây dựng tiêu chuẩn đánh giá tái sinh tự nhiên áp dụng cho
các đối tượng rừng lá rộng ở miền Bắc Việt nam; Phùng Ngọc Lan (1984)
[13] khi nghiên cứu về bảo đảm tái sinh trong khai thác rừng cho biết : Do
cây mạ có tính chịu bóng cho nên một số lượng lớn cây tái sinh phân bố

chủ yếu ở cấp chiều cao thấp, trừ một số loài cây ưa sáng cực đoan, tổ thành
loài tái sinh dưới tán rừng ít nhiều gần giống tổ thành tầng cây cao của quần
thể. Đồng thời tác giả cũng nêu rõ khai thác có ảnh hưởng rất quyết định


15

đến tái sinh rừng và đề xuất biện pháp kỷ thuật đảm bảo tái sinh rừng phục
vụ cho các luân kỳ khai thác tiếp theo; Nguyễn Ngọc Lung, Đỗ Đình Sâm
[18] khi nghiên cứu những cơ sở để xây dựng quy phạm khai thác gỗ, đề
cập đến vấn đề tái sinh rừng đà nêu: Quy luật thay đổi và phân hoá của cây
tái sinh rất mạnh. Trong điều chế và khai thác rừng cho phép lấy tái sinh tự
nhiên, con người chỉ hỗ trợ hoặc làm lấy khi nào khả năng tái sinh tự nhiên
kém hoặc cần đưa những loài cây mới vào. Nguyễn Hồng Quân (1984)
khi nghiên cứu kết hợp chặc chẽ khai thác với tái sinh nuôi dưỡng rừng đÃ
chỉ rõ, để đáp ứng yêu cầu khai thác bảo đảm tái sinh và nuôi dưỡng rừng,
đối với rừng không đồng tuổi cần thực hiện cả 4 nội dung chủ yếu là: Thu
hoạch cây thành thục, chặt tái sinh, chặt nuôi dưỡng và chuẩn hoá cấu trúc
rừng về trạng thái mong muốn, từ đó đưa ra biện pháp khắc phục tình trạng
khai thác hiện thời (chỉ nặng về thu hoạch cây thành thục) để khai thác đảm
bảo tái sinh và nuôi dưỡng rừng; Vũ Tiến Hinh (1991) khi nghiên cứu đặc
điểm tái sinh của rừng tự nhiên với đối tượng rừng Sau sau phục hồi và rừng
tự nhiên thứ sinh hỗn giao đà nhận thấy: nhìn chung toàn lâm phần tự nhiên
cây rừng tái sinh liên tục và càng ở tuổi nhỏ số cây càng tăng, đồng thời
còn cho biết hệ số tổ thành tính theo phần trăm (%) số cây của tầng cây tái
sinh và tầng cây cao có sự liên hệ chặc chẽ và chúng có quan hệ theo dạng
đường thẳng với hệ số tương quan từ 0,9 trở lên. Từ đó tác giả đà rút ra
nhận xét là lâm phần rừng tự nhiên thứ sinh nói chung và mỗi loài cây nói
riêng đều có đặc điểm tái sinh liên tục và càng về giai đoạn sau số cây càng
tăng. Vận dụng kết quả nghiên cứu này vào thực tế sản xuất kinh doanh và

điều tra rừng, tác giả đà đề xuất các loại biện pháp xúc tiến tái sinh tự nhiên
và đề nghị trong điều tra rừng do khó nhận biết tên cây của tầng tái sinh
nên có thể sử dụng quan hệ giữa hệ số tổ thành tầng tái sinh và tầng cây cao
để xác định hệ số tổ thành tầng tái sinh. Nguyễn Duy Chuyên (1985)
nghiên cứu quy luật phân bố cây tái sinh tự nhiên rừng lá rộng thường xanh


16

hỗn loại vùng Quỳ châu, Nghệ an đà rút ra kết luận là trong toàn lâm phần
phân bố lý thuyết của cây tái sinh tự nhiên ở rừng trung bình (III A2) cây tái
sinh tự nhiên có phân bố Poisson, các loại rừng khác cây tái sinh có phân
bố cụm.
2.2.2.3. Nghiên cứu các biện pháp xử lý lâm sinh cho rừng thứ sinh
nghèo. Trong thời kỳ Pháp thuộc, đáng chú ý có thử nghiệm phục hồi rừng
bằng phương pháp trồng rừng trên đất chặt trắng có đốt chà nhánh ở Trảng
bom của Maurand (1935). Vào những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX,
Tổng cục lâm nghiệp đà ban hành Quy trình kỷ thuật tu bổ rừng và đÃ
được áp dụng rộng rÃi trong thời gian dài. Tuy nhiên, quy trình kỷ thuật này
có nhược điểm về kỷ thuật xử lý tầng cây bụi, thảm tươi và thời gian đầu tư
dài nên sau này bị bÃi bõ. Cũng vào thời kỳ này kỷ thuật cải tạo lâm phần
đà được hình thành, hoàn thiện và được đưa vào áp dụng cho đến gần cuối
những năm 1990. Cùng với tu bổ và cải tạo rừng, ý tưởng khoanh núi nuôi
rừng cũng đà xuất hiện, từng bước được hoàn thiện và được áp dụng phổ
biến cho đến ngày nay thông qua Kỷ thuật phục hồi rừng bằng khoanh
nuôi do Bộ lâm nghiƯp cị ban hµnh ( QPN- 14-92) vµ “Kû tht phục hồi
rừng bằng khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung do Bộ
Nông nghiệp &PTNT ban hành (QP-21-98). Đồng thời trong quy phạm 1492 của Bộ lâm nghiệp trước đây ban hành cũng đà quy định các giải pháp
kỷ thuật lâm sinh như nuôi dưỡng rừng, làm giàu rừng, xúc tiến tái sinh tự
nhiên áp dụng cho rừng gỗ và tre nứa. Trong các giải pháp kỹ thuật lâm

sinh, giải pháp khoanh nuôi phục hồi rừng, lợi dụng tái sinh tự nhiên đà và
đang được các nhà khoa học và quản lý quan tâm đánh giá, xem xét về tính
hiệu quả của nó. Theo đánh giá của Nguyễn Ngọc Lung và Lâm Phúc Cố
(1994) [17] thì : Chỉ có bằng con đường khoanh nuôi phục hồi rừng, con
người mới lợi dụng được khả năng to lớn về tái sinh tự nhiên của rừng và
mới tạo được các khu rừng hỗn loài bền vững theo hướng cao đỉnh mµ


17

người ta gọi là rừng đại ngàn ba tầng điển hình của hệ sinh thái rừng nhiệt
đới Việt nam. Năm 2001, sau khi khảo sát các mô hình tái sinh phục hồi
rừng bền vững theo hướng lâm nghiệp xà hội ở 11 tỉnh trung du và miền núi
phía Bắc, tổ chức JICA( Nhật bản) và Cục lâm nghiệp đà có báo cáo kết
luận, trong đó khẳng định là: phục hồi rừng bằng khoanh nuôi là một trong
những giải pháp lâm sinh không thể thiếu được trong xây dựng rừng nhiệt
đới ViƯt nam”[10]. Tuy vËy cịng cã nh÷ng ý kiÕn ch­a hoàn toàn nhất trí
về lựa chọn con đường tái sinh tự nhiên. Theo Trần Ngũ Phương(2000)[21]
cho rằng: Đi theo con đường tái sinh tự nhiên, chúng ta không thể nào đưa
công tác phát triển rừng vào quy hoạch. Đi theo con đường tái sinh tự nhiên,
phải tốn quá nhiều thời gian, ít nhất là gấp hai lần tái sinh nhân tạo. Từ đó
ông khẳng định: Chúng ta có thể kết luận ngay rằng, con đường tái sinh tự
nhiên, không thể là con đường của chúng ta.
Thảo luận. Từ lược sử quá trình nghiên cứu về cấu trúc rừng, tái sinh
rừng và các biện pháp xử lý lâm sinh ¸p dơng cho rõng thø sinh nghÌo cđa
c¸c nhµ khoa học trên thế giới và ở Việt nam được trình bày trên đây cho
thấy công việc nghiên cứu về rừng tự nhiên nhiệt đới được tiến hành tương
đối lâu dài, đối tượng và nội dung nghiên cứu phong phú, đa dạng và
phương pháp nghiên cứu ngày càng hoàn thiện, chính xác, hiện đại, có giá
trị thực tiễn cao. Việc lựa chọn con đường tái sinh tự nhiên hay nhân tạo,

không thể áp đặt mà tuỳ vào điều kiện hoàn cảnh tự nhiên, kinh tế, xà hội
cụ thể, tuỳ trình độ khoa học công nghệ và mục đích kinh doanh lợi dụng
rừng trong từng giai đoạn nhất định để lựa chọn giải pháp kỷ thuật lâm sinh
hợp lý vì kỷ thuật lâm sinh không thể bắt chước tự nhiên một cách thụ
động và cũng không thể làm trái với tự nhiên một cách tuỳ tiện(Phạm
Xuân Hoàn)[10].


18

2.3. Lược sử nghiên cứu về rừng tự nhiên bị ảnh hưởng bởi chiến
tranh hoá học và giải pháp phục håi rõng.
Theo tµi liƯu cđa Vâ Q ( 1983) [31] cho biÕt: Ngay trong thêi kú
cuéc chiÕn tranh ho¸ häc đang diễn ra, mặc dù Bộ quốc phòng Mỹ đà tuyên
bố là các chất diệt cỏ ở Việt nam không gây tác hại về mặt sinh thái (J.S.
Foster), nhưng nhiều nhà khoa học đà nghiên cứu hậu quả của cuộc chiến
tranh này đối với rừng, tài nguyên thiên nhiên, đất, mùa màng và môi
trường Việt nam và đà có những ý kiến trái ngược nhau. Đầu tiên vào năm
1967, Viện nghiên cứu Midwest của Mỹ đà cử nhà khoa học P.H.Tachirley
sang Việt nam để điều tra ảnh hưởng của chất diệt cỏ về mặt sinh thái và
P.H.Tachirley đà cho rằng việc Mỹ sử dụng chất diệt cỏ đà gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đối với hệ thực vật ở Việt nam ( Science,1969). Nhận định
này cũng đà được hai nhà khoa học khác là E.W.Pfeiffer và G.H.Orian xác
nhận ( Science,1970).Tiếp theo, nhiều nhà khoa học khác cũng đà đến Việt
nam để nghiên cứu vấn đề này và đà thống nhất rằng đây là một cuộc chiến
tranh có tính chất huỷ diệt sinh thái. Tuy nhiên vì không có điều kiện
nghiên cứu nhiều ở hiện trường hoặc chưa hiểu rõ điều kiện của thiên nhiên
Việt nam, hoặc không đủ điều kiện để theo dõi lâu dài nên cũng còn một số
ý kiến chưa chính xác hoặc chưa đánh giá được một cách thật đúng đắn về
mức độ nghiêm trọng của vấn đề.

Sau ngày miền Nam được giải phóng, vào tháng 10 năm 1980, Hội
đồng Bộ trưởng( nay là Chính phủ) có quyết định thành lập Uỷ ban quốc
gia Điều tra hậu quả chÊt ho¸ häc dïng trong chiÕn tranh ViƯt nam ( gọi tắt
là Uỷ ban 10-80). Trong nhiều năm sau, Uỷ ban 10-80 đà chủ trì nhiều
công trình nghiên cứu khoa học, hợp tác với các nhà khoa học, các học
viện, viện nghiên cứu, các trường Đại học, bệnh viện trong cả nước và các
nhà khoa học nước ngoài như Mỹ, Pháp, Nhật bản, Canada. Các kết quả
nghiên cứu này đà được trình bày tại 3 cuộc hội thảo khoa học, trong ®ã 2


19

hội thảo quốc tế vào các năm 1983 và 1993, một hội thảo quốc gia vào năm
1986. Trong luận văn này chỉ tóm lược một số kết quả nghiên cứu chủ yếu
của các nhà khoa học trong và ngoài nước đà trình bày tại các hội thảo có
liên quan đến vấn đề ảnh hưởng của chiến tranh hoá học đối với rừng nội
địa ở Việt nam.
Công trình nghiên cứu phải kể đến trước tiên là của nhà khoa học
Westing A.H. trong tác phẩm Chất độc hoá học hậu quả lâu dài cho con
người và sinh thái (1984), trong đó tổng hợp khá đầy đủ về cuộc chiến
tranh hoá học của Mỹ ở Miền nam Việt nam và những hậu quả của nó, có
nhiều tư liệu có giá trị, được nhiều khà khoa học khác sử dụng làm căn cứ
cho các nghiên cứu sau này;
Nghiên cứu về ảnh hưởng cđa chÊt diƯt cá, nhµ khoa häc Paul. W.
Richards (1983) [31] cho biết: thiệt hại do chất diệt cỏ đối với rừng nội địa
ở Việt nam khác với ảnh hưởng thông thường do khai thác gỗ và du canh về
2 mặt: trước hết là phạm vi rộng lớn của vùng bị ảnh hưởng, thứ hai nhân tố
phá hoại chính lại là chất diệt cỏ, mặc dù còn bị phá hoại rộng lớn do hố
bom và mảnh bom. Do đó, vấn đề quan trọng là liệu những tác hại của các
chất diệt cỏ về cơ bản có khác với tác hại do các hình thức đảo lộn khác

không, trong đó hầu hết những cây nổi bật đều bị chết hay thiệt hại nghiêm
trọng. Đánh giá về khả năng phục hồi rừng tác giả cho rằng, trong một số
điều kiện, đặc biệt là về khí hậu có những mùa khô rất rõ nh­ ë MiỊn nam
ViƯt nam diƠn thÕ th­êng ®­a ®Õn sự thiết lập những dải rậm rạp vô dụng
như cỏ tranh hay tre nứa. Nếu những dải này bị đốt chúng có xu hướng ít
nhiều không thay đổi, nhưng nếu chúng được bảo vệ chống những đảo lộn
thì những cây gỗ có thể định cư tập đoàn để sau này rừng có thể tự thiết lập.
Tuy nhiên tác giả cũng cho rằng những chất diệt cỏ được sử dụng rộng rÃi
nhất là 2,4- D và 2,4,5 T không tồn tại lâu dưới đất và chắc chắn là sau 10
năm chúng sẽ không còn ảnh hưởng trực tiếp nghiêm trọng đối víi thùc vËt;


20

Nghiên cứu sự tái sinh rừng thường xanh nhiệt đới bị ảnh hưởng
chiến tranh hoá học, tác giả Peter.S. Ashton (1983) [31] cho biết: Thành
phần và cơ cấu của các loài cây đà thay đổi đáng kể ở các vùng bị rải hoá
chất. Nhiều loài thực vật và động vật đà bị giảm đi rất nhiều về số lượng
hoặc hoàn toàn mất hẳn. Ví dụ như ở trong các khu rừng nhiệt đới hạ du
hầu như tất cả các loài cây và cây con đều đà bị triệt hẳn. Nói chung những
diện tích ở rừng này hiện nay là tiêu biểu cho loại sa van, nơi có những cây
lá cứng mọc trội hơn ở lớp đất bề mặt. Hiện tượng tái sinh tự nhiên của cây
gỗ và các loài cây nhỏ không diễn ra ở đây. Theo tác giả thì hậu quả của
việc sử dụng hoá chất và máy móc phá hoại rừng theo cách được gọi là cày
La mÃ, những vũ khí có hơi ép mạnh, Mỹ đà gây tai hại cho thiên nhiên
Việt nam, phá hoại các nguồn tài nguyên rừng và các giá trị tiềm tàng của
rừng trong nhiều năm còn vượt xa những tổn thất về kinh tế. Giải pháp để
phục hồi cho sản xuất lâm nghiệp là thông qua trồng trọt;
Nghiên cứu vấn đề tự khôi phục rừng tại các vùng ở miền nam Việt
nam chịu tác động huỷ diệt sinh thái, trên cơ sở phân tích các điều kiện địa

hình, khí hậu, thổ nhưỡng, mức độ xói mòn đất trong vùng bị rải chất độc
hoá học và mức độ thảm thực vật rừng bị phá huỷ, đối chiếu với sơ đồ kế
tục trong các hệ sinh thái nhiệt đới ẩm và tương đối ẩm, các tác giả
V.Y.E.Solokov và YU.G.Puzachenko (1983) [31] đà đưa ra dự báo rằng:
trong tất cả các trường hợp, cần phải có đến vài trăm năm thì mới có thể có
được sự khôi phục hoàn toàn các giá trị về sinh thái của rừng mưa nhiệt đới
với các loài có nhiều vẻ khác nhau và khả năng tạo khí hậu của rừng được
phục hồi. Từ đó chúng ta có thể có lý mà nói tới các quy trình không thể
đảo ngược được của môi trường. Có thể đạt được các tiềm năng kinh tế
trước kia của vùng lÃnh thổ trong khoảng từ 40-100 năm tuỳ thuộc vào các
điều kiện để đạt được điều đó miễn là có những đầu tư lớn, cũng trong giai
đoạn này cường độ xói mòn có thể bị triệt tiêu về cơ bản.


21

Bên cạnh các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài nêu
trên, các nhà khoa học Việt nam cũng đà có nhiều nghiên cứu trên thực địa
có giá trị. Lê Trọng Cúc(1983)[31] đà nghiên cứu tác hại lâu dài của chiến
tranh hoá học lên môi trường huyện A Lưới thuộc tỉnh Bình Trị Thiên ( nay
là tỉnh Thừa thiên-Huế) cho biết: Trước khi bị chiến tranh hoá học vïng
thung lịng A l­íi víi chiỊu dµi 30km, réng tõ 2-6 km được bao phủ bởi
một thảm thực vật kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới, giàu thành phần
loài, cấu trúc phức tạp, nhiều tầng, có tính ổn định cao. Sau khi bị rải chất
độc hoá học vào năm 1965, đến thời điểm nghiên cứu năm 1982 thảm thực
vật rừng này đà bị thay thế bằng thảm thực vật cỏ cao và dày đặc, gồm các
loài họ lúa, sống lâu năm, thân cứng, lá sắc, có bộ rễ phát triển mạnh, thân
ngầm khoẻ, sống dai như Chít, Chè vè, Cỏ tranh, Lau, cao đến 3-4m, dày
đặc không thể đi qua được. Thỉnh thoảng trong thảm cỏ còn gặp một ít loài
cây bụi như Sim, Mua. Về tình hình tái sinh cây gỗ, tác giả cho biết: chưa

tìm thấy một mầm cây gỗ nào dưới thảm cỏ này, từ đó cho rằng các quần
xà cỏ này đà trở thành cao đỉnh và có lẽ vĩnh viễn rừng không bao giờ mọc
lại được;
Nghiên cứu hậu quả chiến tranh hoá học đối với rừng ở khu rừng MÃ
Đà thuộc tỉnh Đồng nai, tác giả Hoàng Hoè (1983)[31] cũng cho kết quả
tương tự, đó là khoảng 5.000 ha rừng nhiệt đới giàu, có cấu trúc 5 tầng, tầng
vượt tán và ưu thế sinh thái gồm nhiều loài cây họ Dầu, sau khi bị rải chất
độc hoá học nhiều lần đà trở thành trảng cỏ tranh và cỏ đuôi chồn rộng lớn,
xen vào có một vài cây bụi kém giá trị. Trong băng rải chỉ có một vài loài
có khả năng chịu được chất độc và có khả năng phục hồi nhanh như cây Kơ
nia ( Irvingia malayana), Cám ( Parinari anamense)... Riêng những vùng
đất trịng hc ven khe si cã rõng tre gai mäc xen kẽ với cỏ tranh. Đối
với những vùng xung quanh băng rải cấu trúc rừng cũng bị thay đổi, tầng
ưu thế sinh thái bị phá vỡ, không liên tục, số cây cụt ngọn và sâu bệnh


22

chiếm đến 20-25%. Đánh giá khả năng phục hồi tự nhiên của rừng, tác giả
cho biết khu rừng MÃ đà chỉ còn khoảng 20% tổng diện tích khu rừng còn
có khả năng phục hồi tự nhiên, với số lượng cây tái sinh có trên 1000
cây/ha phân bố nơi xa băng rải, nhưng cũng phải trải qua quá trình diễn thế
hàng trăm năm mới khôi phục lại rừng như cũ. Diện tích còn lại hầu như
mất khả năng phục hồi tự nhiên do tất cả những yếu tố thuận lợi của rừng
nhiệt đới đà bị thay đổi, những khó khăn ngày càng nhiều và muốn phục
hồi đối tượng này trở thành một khu rừng ổn định ở MÃ đà nói riêng, ở
Miền Nam Việt nam nói chung phải lấy biện pháp tái sinh nhân tạo và
trồng lại rừng là chính;
Nghiên cứu phục hồi rừng nội địa sau chiến tranh hoá học ë miỊn
nam ViƯt nam cđa Ngun Quang Hµ vµ Phïng Tửu Bôi ( 1985)[5], với kết

quả điều tra tái sinh ë mét sè vïng Sa thÇy ( Kon tum), M· đà ( Đồng nai),
A Lưới và Bạch mà ( Thừa thiên Huế) đà nhận định rằng: quá trình tái
sinh tự nhiên diễn ra trên vùng bị rải chất độc không dễ dàng như một số
tác giả đà thực nghiệm trong phạm vi hẹp, đồng thời khuyến cáo: có khả
năng lợi dụng tái sinh tự nhiên để phục hồi rừng trong những khu vực còn
hoàn cảnh rừng, có nguồn hạt giống nhưng đòi hỏi thời gian từ 80 đến 100
năm và trồng rừng mới là con đường tích cực nhất để phục hồi lại rừng;
Nghiên cứu về ảnh hưởng của chất độc hoá học lên một số tính chất
hoá học của đất trên nhiều vùng bị rải chất độc hoá học ở miền nam Việt
nam, Hoàng Văn Huây và Nguyễn Xuân Cự (1983) [31] đà rút ra kết luận:
Do thảm thực vật bị chất độc hoá học phá huỷ, xói mòn bề mặt tăng, các
quá trình rửa trôi xảy ra mạnh mẽ làm cho hàm lượng chất hữu cơ, nitơ,
phốt pho tổng số, can xi và magiê trao đổi giảm xuống, nhôm di động và độ
chua tiềm tàng tăng lên, làm cho độ phì nhiêu của đất phân bố ở địa hình
không bằng phẳng, nhất là đất Feralit sản xuất nông lâm nghiệp nói chung
giảm.


23

Đề cập đến những giải pháp phục hồi các hệ sinh thái rừng nhiệt đới
rừng rậm nhiệt đới ẩm sau khi bị ảnh hưởng bởi chất độc hoá học, Thái Văn
Trừng (1998) [24] đà đặt vấn đề: Làm thế nào để huỷ diệt hàng vạn ha trảng
cỏ tranh, cỏ Mỹ ổn định vĩnh viễn, tìm ra cây gì để làm cây tiên phong,
trồng lại những cây gỗ lớn, gỗ quý đà tồn tại trong rừng cũ, với những biện
pháp kỹ thuật là gì? Đây là một bài toán rất khó và tất cả những ý kiến đề
xuất đều là giả thuyết. Tuy vậy, tác giả cũng nêu một số mô hình có triển
vọng như : Mô hình MÃ đà dùng cây Keo lá tràm ( Acacia auriculiformis)
làm cây tiên phong để phục hồi môi trường đất và lấy củi cho dân và
nguyên liệu làm giấy thực sự là một biện pháp rẻ tiền và hữu hiệu để tiêu

diệt trảng cỏ tranh, cỏ Mỹ; Mô hình Bàu cạn trồng xen keo lá tràm với Sao,
Dầu theo băng; Mô hình Tây ninh trồng cây Sao đen và Dầu rái với các cây
nông nghiệp theo mô hình nông lâm kết hợp
Trên địa bàn tỉnh Kon tum, vào năm 1995, Sở khoa học-công nghệ và
môi trường tỉnh Kon tum đà lập dự án Điều tra ảnh hưởng của chất độc
trong chiến tranh tại tỉnh Kon tum, trong đó cũng đề cập đến hậu quả của
chiến tranh hoá học đến tài nguyên rừng trên địa bàn hai huyện Sa thầy và
Ngọc Hồi , tuy nhiên chỉ tiến hành trong phạm vi nhất định.
Tại VQG Chư Mom Rei, trong quá trình xây dựng đánh giá các tiêu
chí và tác động môi trường, trong khuôn khổ Dự án bảo vệ rừng và phát
triển nông thôn, đà tiến hành điều tra, nghiên cứu chuyên đề cấu trúc thảm
thực vật, trong đó có đánh giá quá trình tác động của con người đối với hệ
sinh thái rừng của VQG trong thêi tr­íc vµ trong thêi kú chiÕn tranh chèng
Mü cứu nước, đáng chú ý có sự ảnh hưởng của chất độc hoá học.
Thảo luận: Qua những nghiên cứu về rừng tự nhiên bị ảnh hưởng bởi
chiến tranh hoá học được lược trích trên đây cho thấy cuộc chiến tranh hoá
học này đà sớm được các nhà khoa học trên thế giới và trong nước nhận
thức được hậu quả sinh thái nghiêm trọng của nó đối với tài nguyên và ®êi


×