Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.39 KB, 8 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>TRUNG QUỐC: CUỘC NỘI CHIẾN CÁCH MẠNG LẦN THỨ BA VÀ THẮNG</b>
<b>LỢI CỦA CUỘC CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ</b>
<i><b>a, Đấu tranh vì hồ bình dân chủ.</b></i>
Sau khi cuộc kháng chiến chống Nhật kết thúc thắng lợi, tình hình
Trung Quốc có những thay đổi quan trọng. Trong thời gian kháng chiến, quân
Tưởng theo đuổi chính sách sách tiêu cực chống Nhật, tích cực chống cộng để
ngồi chờ thời cơ. Sau khi phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng, lợi dụng danh
nghĩa Đồng minh, quân Tưởng liền gấp rút vận chuyển quân lính từ vùng hậu
phương Tây Nam đến bao vây các khu giải phóng, tìm cách ngăn cản quân
giải phóng tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật, thậm chí chúng cịn vơ lý hạ lệnh
qn giải phóng “phải đóng nguyên tại chỗ chờ lệnh”. Đồng thời quân Tưởng
còn cho phép quân Nhật, ngụy quân ngụy quyền được “duy trì trật tự an ninh
ở địa phương”... ở nhiều nơi, những tên Hán gian và quân đội tay sai của phát
xít Nhật trước kia nay trở lại thành quan, quân của Tưởng.
tất cả các xí nghiệp, hầm mỏ, nhà máy, giao thơng vận tải; cho hàng hoá Mĩ
độc chiếm thị trường Trung Quốc; cho phép Mĩ xây dựng các căn cứ quân sự
ở Trung Quốc.... Về phía Mĩ, lo sợ trước ảnh hưởng của Liên Xơ nên đã tìm
cách giúp đỡ Tưởng về mọi mặt để phát động nội chiến chống Đảng Cộng sản
Trung Quốc.
Phía Đảng Cộng sản Trung Quốc: Sau cuộc kháng chiến chống Nhật,
cục diện đã có những thay đổi quan trọng. Lực lượng quân đội chủ lực phát
triển lên tới 120 vạn người, dân quân 200 vạn người, vùng giải phóng bao
gồm 19 khu căn cứ (chiếm gần 1/4 đất đai và 1/3 dân số tồn quốc), trong đó
Ngày 10-1-1946 Hội nghị hiệp thương chính trị được tiến hành ở Trùng
Khánh, bao gồm các đại biểu Đảng Cộng sản, Quốc Dân Đảng, Đảng Đồng
minh dân chủ, Đảng Thanh niên và các nhân sỹ khơng đảng phái. Tiến trình
Hội nghị diễn ra rất gay gắt giữa 3 lực lượng và 3 đường lối chính trị khác
nhau, tuy nhiên nhờ sự nỗ lực của Đảng Cộng sản và áp lực đấu tranh của
nhân dân, Hội nghị đã thông qua 5 Nghị quyết về Tổ chức Chính phủ, Quốc
hội, Cương lĩnh hồ bình xây dựng đất nước, Dự thảo hiến pháp và vấn đề
quân sự. Nghị quyết về Tổ chức chính phủ quy định: chấm dứt tình trạng một
đảng; Nghị quyết về cương lĩnh hồ bình xây dựng đất nước quy định: phải
dùng phương pháp chính trị để giải quyết các tranh chấp chính trị nhằm đảm
bảo sự phát triển hồ bình của đất nước; Nghị quyết về vấn đề quân sự quy
định phải dựa vào chế độ dân chủ, cải cách chế độ quân sự và tổ chức lại quân
đội, thực hiện sự phân lập giữa quân đội và đảng phái, sự phân trị giữa quân
đội và nhân dân; Nghị quyết về vấn đề Quốc hội quy định: tăng thêm 700 đại
biểu Quốc hội khoá I để chế định hiến pháp; Nghị quyết về dự thảo hiến pháp
quy định: Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất.
<i><b>b. Cuộc nội chiến cách mạng lần thứ ba và sự sụp đổ của tập đoàn Tưởng</b></i>
Với âm mưu tiến hành nội chiến, tháng 3-1946, Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương Quốc Dân Đảng đã tuyên bố khơng cơng nhận kết quả của
Hội nghị hiệp thương chính trị (1-1946). Ngày 20-7-1946, Tưởng Giới Thạch
phát động cuộc tấn công quân sự với quy mô lớn vào hầu hết các khu giải
phóng do Đảng Cộng sản kiểm sốt. Cuộc nội chiến lần thứ ba bùng nổ.
Tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã huy động 80% binh lực của tồn bộ
qn chính quy (113 lữ đồn, khoảng 1 triệu 60 vạn qn) tấn cơng vào các
căn cứ cách mạng. Về so sánh lực lượng, quân Tưởng chiếm ưu thế về quân
sự và kinh tế. Quân Tưởng có 4 triệu 30 vạn quân, gấp 3,5 lần Hồng quân
Trung Quốc, Chính phủ Quốc Dân Đảng nắm trong tay toàn bộ các thành phố
lớn, hầu hết mạch máu giao thông và tài nguyên đất nước. Đặc biệt, quân
Tưởng còn nhận được sự giúp đỡ về mọi mặt của Mĩ. Dựa vào ưu thế này
quân Tưởng tuyên bố sẽ đánh bại Hồng quân trong vòng 3 - 6 tháng. Tuy
nhiên thực tế đã không diễn ra như Tưởng Giới Thạch mong muốn. Cuộc nội
chiến kéo dài gần 4 năm, trải qua hai giai đoạn chủ yếu sau:
Giai đoạn thứ nhất: từ tháng 7-1946 đến tháng 6-1947:
Từ tháng 3 - 1947, do bị tiêu diệt một lực lượng khá lớn và mặt trận dàn
trải, binh lực phân tán, quân Tưởng chuyển sang tấn công trọng điểm, chúng
nhằm vào vùng Sơn Đông và Thiểm Bắc, tức là hai cánh phía đơng và phía
tây khu căn cứ, làm trọng điểm tấn công. Tuy nhiên kế hoạch của quân Tưởng
tiếp tục bị thất bại. Tính đến tháng 6 - 1947, quân Tưởng bị tiêu diệt
1.120.000 tên, buộc Tưởng Giới Thạch phải chuyển từ chiến lược tấn cơng
sang chiến lược phịng ngự.
Cũng trong thời gian này tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã liên tiếp ký
với Mĩ hàng loạt hiệp ước: Hiệp ước thông thương hàng hải thân thiện Trung
- Mĩ, Hiệp ước hàng khơng Trung - Mĩ, Hiệp ước bí mật về căn cứ hải quân
Thanh Đảo, Hiệp ước bí mật về việc quân Mĩ đóng ở Trung Quốc, Hiệp định
nông nghiệp Trung - Mĩ... Với các hiệp ước này, các vùng do Tưởng Giới
Thạch kiểm soát đã rơi vào địa vị “một thuộc địa kiểu mới” của Mĩ. Mặt khác,
các hiệp ước đã làm cho nhân dân thấy rõ các chính sách phản động của tập
đồn Tưởng. Phong trào đấu tranh của công nhân, học sinh, sinh viên cũng
như của nông dân diễn ra ngày càng sôi nổi, lan rộng khắp các địa phương.
Chính quyền Tưởng càng trở nên bị cơ lập. Trong lúc đó Hồng qn Trung
Quốc đã phát triển lực lượng chủ lực lên tới 2 triệu người.
Giai đoạn thứ hai: từ tháng 6 - 1947 đến tháng 10 - 1949. Đây là giai
đoạn quân cách mạng phản công giành những thắng lợi quyết định.
kiểm sốt. Từ nửa cuối năm 1948 qn giải phóng đã liên tiếp mở các chiến
dịch có tính chất quyết định đối vơí kết quả của cuộc nội chiến:
Chiến dịch Tế Nam (từ 16 - 9 đến 24 - 9- 1948) tiêu diệt 10 vạn quân
Tưởng, mở đầu việc giải phóng nhiều thành phố lớn.
Chiến dịch Liên - Thẩm (từ 12 - 9 đến 15 -10- 1948), diễn ra ở vùng
Liên Ninh, Thẩm Dương và Trường Xuân nhằm cắt đứt đường rút lui của
Tưởng về miền Đông Bắc và Hoa Trung.
Chiến dịch Hoài - Hải (từ 7-1-1948 đến 10-1-1949). Chiến dịch này
diễn ra ở khoảng giữa sơng Hồi và biển (vùng Hải Châu, Thượng Khưu,
Chiến dịch Bình Tân (từ 5-12-1948 đến 22-1-1949) diễn ra ở Bắc Bình,
Thiên Tân dồn 25 vạn quân Tưởng do Tướng Phó Tác Nghĩa chỉ huy vào thế
bị bao vây ở Bắc Kinh phải hạ khí giới ra hàng.
Sau 4 tháng 19 ngày liên tục mở các chiến dịch giải phóng đã tiêu diệt
144 sư đồn chính quy, 29 sư đồn khơng chính quy, gồm hơn 1.540.000
quân tinh nhuệ của Tưởng Giới Thạch. Quân cách mạng đã kiểm sốt cả vùng
Đơng Bắc, các khu vực phía Bắc, trung và hạ lưu sơng Dương Tử, giải phóng
200 triệu dân, nắm giữ các cơ sở cơng nghiệp chiến tranh ở các tỉnh Đông Bắc
Trung Quốc. Lực lượng quân giải phóng đã tăng lên 3 triệu người (gấp 3 lần
quân Tưởng).... Mọi điều kiện để giành thắng lợi quyết định đã sẵn sàng.
Ngày 21-4-1949, qn giải phóng mở cuộc tấn cơng vượt sông Trường
Giang. Ngày 23-4, trung tâm thống trị của tập đồn Tưởng Giới Thạch (Nam
kinh) đã được giải phóng. Nền thống trị của Quốc Dân Đảng bị sụp đổ. Đến
cuối năm 1949 toàn bộ lục địa Trung Quốc được giải phóng (trừ Tây Tạng),
quân Tưởng tháo chạy ra Đài Loan, núp dưới sự bảo trợ của Mĩ.
Trên cơ sở những thắng lợi quân sự, ngày 21-9-1949 Hội nghị hiệp
thương chính trị nhân dân đã khai mạc ở Bắc Kinh, với sự tham dự của 636
đại biểu của các đảng phái, tổ chức: Uỷ ban cách mạng Quốc Dân Đảng ,
Đồng minh Dân chủ, Hội Dân chủ kiến quốc, Đảng Dân chủ cơng nơng,
Đảng Trí nơng, Đảng Cộng sản... trong đó Đảng Cộng sản giữ vai trị lãnh
đạo. Hội nghị đã thông qua Hiến pháp tạm thời của nước Cộng hồ nhân dân
Trung Hoa, trong đó quy định: “Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là Nhà
nước dân chủ mới, tức là dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo,
Ngày 1-10-1949, trong cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại Bắc Kinh,
Mao Trạch Đơng trịnh trọng tun bố thành lập nước Cộng hồ nhân dân
Trung Hoa. Trong lời Tuyên bố của Chính phủ nêu rõ Chính phủ nhân
dân Trung ương Trung Quốc là “Chính phủ hợp pháp duy nhất thay mặt cho
toàn thể nhân dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa...”. Cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ ở Trung Quốc hoàn toàn thắng lợi.
mạng Trung Quốc đã giáng một đòn mạnh vào chủ nghĩa đế quốc, đánh đổ
một bộ phận quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chúng, góp phần cổ vũ
cho phong trào giải phóng dân tộc tồn thế giới và tăng cường sức mạnh của
hệ thống xã hội chủ nghĩa.