Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tap tinh di cu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 15 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Họ và Tên: Lê Quốc Vẹn
Sinh ngày: 19/10/1985


BÀI THU HOẠCH


Chuyên đề: TẬP TÍNH HỌC ĐỘNG VẬT
TẬP TÍNH DI CƯ CỦA ĐỘNG VẬT
1<b>. Di cư là gì?</b>


Di cư là sự chuyển của động vật từ nơi này đến nơi khác.


<b>2. Nguyên nhân di cư.</b>


Di cư là những chiếc đồng hồ tích tắc: mỗi ngày, vơ số động vật phải
di chuyển hoặc phải chết, bị đào thải bởi sự thay đổi mùa, thay đổi thời tiết,
vì thế chúng phải chạy đua để đến được nơi an toàn trước khi quá muộn.


Di cư giúp chúng có được thức ăn, duy trì được nịi giống hoặc đơn
giản chỉ là để sống sót. Từ sự thay đổi chưa từng thấy của những tảng băng
Bắc cực cho đến các hồ muối của Botswana, hàng nghìn tỷ sinh vật buộc
phải hành trình- vì sự tồn tại của chúng cũng như bảo vệ giống nịi. Đối với
các lồi động vật khác nhau, từ hải mã đến cá mập voi, từ ngựa vằn tới đười
ươi, hay rất nhỏ như các sinh vật phù du- mỗi ngày là một cuộc chạy đua với
thời gian.


Hoạt động di cư của các loài động vật thường xảy ra theo mùa, được
thực hiện đều đặn từ thế hệ này sang thế hệ khác để sinh sản duy trì nịi
giống, tìm kiếm thức ăn...<b> </b>Những biến đổi khí hậu là một lý do khiến các
loài động vật ngày càng phải di cư nhiều hơn.


<b>3. Các hình thức di cư.</b>


<b>3.1. Di cư quay trở lại.</b>


Cá thể di chuyển theo hai chiều đi và về. Tùy loài mà khoảng cách di
cư có thể dài hay ngắn:


Di cư với khoảng cách ngắn: Ví dụ như Động vật phù du di chuyển
lên tầng mặt vào lúc sáng sớm để đón ánh nắng mặt trời vào ban ngày, đến
ban đêm di chuyển xuống tầng đáy.


Di cư với khoảng cách rất xa: Chim có thể di cư hàng chục nghìn km
từ Cực Bắc xuống Cực Nam bán cầu để tránh mùa đông lạnh giá và tìm
kiếm thức ăn, đến màu xn khí hậu ấm áp lại quay về phương Bắc.


<b>3.2. Tái di cư:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

quay về nơi mà cha mẹ chúng đã sinh ra chúng để đẻ trứng tiếp tục một
vòng đời mới.


<b>3.3. Di cư tìm nơi ở mới.</b>


Động vật di cư theo một chiều và khơng quay lại nơi ở củ.
Ví dụ: Kiến vàng di chuyển từ cây này sang cây khác để làm tổ.


<b>4. Các loài động vật khác nhau có tập tính di cư khác nhau.</b>
<b>4.1. Cơn trùng di cư.</b>


Châu chấu sa mạc- nỗi kinh hồng của
nơng dân châu Phi


Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp


LHQ (FAO) cho biết nạn châu chấu sa mạc
bùng phát ở Ê-ri-tơ-ri-a, Xu-đăng và Xô-ma-li
đã lan sang Y-ê-men và phát triển trên một
diện tích khoảng 31.000 km2. Đây là nạn châu
chấu lớn nhất ở Y-ê-men trong 15 năm trở lại
đây.


Dịch châu chấu châu Phi, còn gọi là châu chấu sa mạc, là một trong
những mối đe dọa lớn đối với ngành nông nghiệp của nhiều nước ở châu lục
đen. Điều kiện thời tiết nhiều mưa và gió rất thuận lợi cho châu chấu sinh
sơi, phát triển với tốc độ kinh hồng. Khi phát triển thành dịch, những đàn
châu chấu có thể có qui mô lớn, với mật độ dày đặc từ 40 triệu - 80 triệu
con/km2, trải dài trên diện tích hàng trăm kilơmét vng và có sức tàn phá
khủng khiếp. Theo các nhà chuyên môn, châu chấu sa mạc rất phàm ăn. Một
đàn châu chấu cỡ nhỏ mỗi ngày cũng có thể ăn hết số lương thực tương
đương khẩu phần ăn của 2.500 người và chúng có khả năng “xóa sổ” một
cánh đồng trồng cây lương thực chỉ trong vòng vài phút. Chúng ăn hầu hết
các loại cây lương thực, đặc biệt là cỏ - nguồn thức ăn chủ yếu cho cừu và
lạc đà ở châu Phi. Châu chấu di chuyển theo chiều gió và có thể di chuyển từ
5 - 130 km /ngày. Theo số liệu của FAO, đã có những đàn châu chấu di cư
từ Tây Bắc châu Phi đến nước Anh hồi năm 1954 và từ Tây Phi đến vùng
Ca-ri-bê, vượt qua 5.000 km trong 10 ngày hồi năm 1988.


Tại Ghi-nê Bít-xao, châu chấu sa mạc hiện đang là mối đe dọa của vụ
điều mà gần 2/3 nông dân của nước này canh tác. Do trời mưa mang lại
nguồn thức ăn dồi dào nên trong những tháng gần đây, các đàn châu chấu
non cũng đã xuất hiện tại khu vực Si-lin ở bờ biển Tây Bắc Xơ-ma-li, gần
Gi-bu-ti. Chúng có nguy cơ lan khắp châu Phi. FAO dự báo rằng dịch châu
chấu có thể hoành hành tại vùng bờ biển Đỏ (giữa biên giới Xu-đăng và
Ê-ri-tơ-ri-a) và vùng duyên hải vịnh A-đen trong mùa đông năm nay.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Các đợt dịch châu chấu gần đây gây hậu quả nặng nề. Chúng tàn phá
mùa màng, là một trong những nguyên nhân chính khiến nhiều quốc gia lâm
vào cảnh thiếu lương thực.


Để kiểm soát dịch châu chấu, FAO và các cơ quan quốc tế đã cung
cấp cho các nước châu Phi những trang, thiết bị hiện đại như: vệ tinh, thuốc
trừ sâu, trực thăng... Tuy phun thuốc trừ sâu có thể kiểm sốt được châu
chấu nhưng lại làm ô nhiễm môi trường. Phá hủy các ổ trứng châu chấu trên
mặt đất cũng là một cách kiểm sốt lồi cơn trùng này. Mỗi ổ trứng chứa tới
120 quả và sau 15 ngày chúng sẽ nở thành châu chấu.


Ngay từ vài tháng trước, khi có lời cảnh báo của FAO về nguy cơ
châu chấu, Bộ Nơng nghiệp Y-ê-men đã có kế hoạch khẩn cấp, kể cả việc
phun thuốc trừ sâu ở các vùng bị ảnh hưởng. Ê-ri-tơ-ri-a và Xu-đăng cũng
xúc tiến các hoạt động kiểm soát trên mặt đất cùng các biện pháp giám sát
bằng máy bay nhằm tìm cách giảm qui mơ của các đàn châu chấu di cư. Tuy
nhiên, người ta cho rằng một trong những nguyên nhân khiến cho chiến dịch
chống châu chấu hiện nay chưa đạt hiệu quả vì nơng dân sợ việc phun thuốc
diệt châu chấu sẽ diệt luôn cả đàn ong nuôi.


<b>4.2. Cá di cư:</b>


Hiện tượng cá dời chỗ ở từ vùng này sang vùng khác, do điều kiện
sinh thái thay đổi hoặc do chu trình phát triển sinh học. DCCC có thể đều
đặn (theo mùa, ngày đêm, vv.) hoặc bất thường (do khô hạn hay ngập lụt).
Di cư để đẻ, kiếm mồi hoặc trú đông là di cư đều đặn, theo những tuyến
đường nhất định. Đến mùa đẻ, nhiều loài cá sống ở biển (vd. cá trích, cá
cháy) di cư vào sơng, bơi ngược dịng để đẻ; có lồi cá nước ngọt (cá chình
sơng) thường sống ở hồ lại ra bãi biển đẻ (di cư xuôi dịng). Ở biển, nhiều


lồi cá di cư vào bờ để đẻ, số khác (ít hơn) lại tìm đến vực sâu. Ở sông, cá
nước ngọt di cư từ hạ lưu lên phía nguồn hoặc ngược lại. Có lồi cá di cư rất
xa đến hàng nghìn kilơmét (cá chình). Trong quá trình DCCC, cá định
hướng theo dòng chảy, theo Mặt Trời hoặc theo từ trường, theo mùi vị và
thành phần hoá học của nước; cá di cư thường sống theo đàn, để chống kẻ
thù và giúp nhau định hướng. Nghiên cứu DCCC theo phương pháp đánh
dấu có vai trị quan trọng trong dự báo cá.


. Có rất nhiều loại <b>cá thực hiện việc di cư</b> theo một cơ bản đều đặn.
Chu kỳ thời gian di cư của nhiều loại cá khác nhau thì khác nhau, từ trong
ngày đến trong năm. Những đoạn đường di cư của các loại cá khác nhau thì
cũng khác nhau, từ vài trăm mét đến hàng ngàn kilơmét. Mục đích cá di cư
thường có liên quan đến hoặc là đi tìm thức ăn hoặc là sinh sản. Tuy nhiên
có những trường hợp lý do di cư của cá vẫn chưa được biết đến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

1. <b>Diadromous</b>: cá di chuyển giữa nước ngọt và nước mặn. (tiếng Hy
<i>Lạp: 'Dia' có nghĩa là "giữa")</i> Có ba loại cá diadromous:


o <b>anadromous</b> là loại cá sống phần lớn ở biển, sinh sản trong


vùng nước ngọt (tiếng Hy lạp: 'Ana' có nghĩa là "lên trên")


o <b>catadromous</b> là loại cá sống trong nước ngọt, sinh sản trong


biển (tiếng Hy Lạp: 'Cata' có nghĩa là "xuống dưới")


o <b>amphidromous</b> là loại cá di chuyển giữa nước ngọt và nước


mặn trong một phần vòng đời của chúng, nhưng không phải để
sinh sản (tiếng Hy Lạp: 'Amphi' có nghĩa là "cả hai")



2. <b>potamodromous</b> là loại cá chỉ di cư trong nước ngọt. (tiếng Hy Lạp:
<i>'Potamos' có nghĩa là "sông")</i>


3. <b>oceanodromous</b> là loại cá chỉ di cư trong vùng nước mặn. (tiếng Hy
<i>Lạp: 'Oceanos' có nghĩa là "đại dương") </i>


Một trong các loại cá sống ở nước mặn và sinh sản ở nước ngọt nổi
tiếng nhất là cá hồi Thái Bình Dương. Chúng đẻ trứng trong các dịng suối
nước ngọt nhỏ, đi xuống biển và sống ở đó vài năm, rồi quay về chính các
con suối mà chúng được sinh ra để đẻ trứng và chết ngay sau đó. Cá hồi có
khả năng lội hàng trăm kilơmét lên thượng nguồn, và người ta phải xây các
thang cá trong các đập nước để cho cá hồi vượt qua đập. Các thí dụ khác về
cá sống nước mặn và sinh sản ở nước ngọt là sea trout, three-spined
stickleback, và shad.


Loại cá sống nước ngọt và sinh sản ở nước mặn đáng chú ý nhất là
lươn nước ngọt thuộc chi Anguilla. Khi còn là ấu trùng chúng trôi trong biển
cả, đôi khi hàng tháng hoặc hàng năm, trước khi di chuyển hàng ngàn cây số
trở về các dòng suối gốc của chúng.


<b>Di cư thẳng đứng trong ngày</b> là một hình thức thường thấy. Nhiều
loại sinh vật biển di chuyển lên mặt biển vào ban đêm để tìm thức ăn, sau đó
quay trở xuống đáy biển trong thời gian ban ngày.


Một số loài cá biển như tuna di cư từ bắc đến nam và ngược lại hàng năm
theo sau sự biến đổi nhiệt độ trong đại dương. Điều này rất quan trọng đối
với việc đánh bắt cá.


Việc di cư của cá nước ngọt thường ngắn hơn, thường thường là từ hồ


đến suối hay ngược lại.


<b>4.2.1. Tập tính cư của cá hồi đỏ.</b>


Nhiều loại cá hồi sống phần nhiều thời gian ngoài biển nhưng lại sinh
sản trong vùng nước ngọt. Chúng di cư những đoạn đường xa để lên các con
sông hay suối để sinh sản.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

khoảng 1 năm, những con cá nhỏ nở ra từ trứng sẽ di cư ra biển và sống ở đó
khoảng 3 năm rồi quay trở lại chính nơi chúng được sinh ra.


Loài cá hồi khi di chuyển định hướng bằng mùi. Mỗi con cá nhớ đều
nhớ mùi của dịng sơng nơi nó sinh ra. Khi di chuyển qua đại dương trở về
con sơng sinh sản, con cá sẽ tìm thấy đường của nó một cách hồn tồn bản
năng vì mùi vị thân quen càng gần càng trở nên rõ rệt.


Khi vào lại vùng nước ngọt, cá hồi sẽ không ăn và chuyển sang màu đỏ
sáng.


Cá hồi có khả năng bơi ngược sơng, vượt qua các dịng nước chảy xiết
trong hành trình dài gần 500km từ biển tới sơng Adams. Sau khi đã trở về
nhà, chúng đẻ trứng rồi cuối cùng kiệt sức và chết. Trứng sau đó nở ra con
non và con non lại hành trình ra biển.


Hàng triệu cá hồi đỏ di cư tạo nên một cảnh tượng ngoạn mục.
<b>4.2.2. Tập tính di cư của cá chình.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>13-30 o<sub>C, thích hợp nhất là từ 25-27</sub>o<sub>C. Cá chình ưa bóng tối và sợ ánh</sub></b>
<b>sáng nên ban ngày chúng thường tìm những nơi có ánh sáng yếu như</b>
<b>các đám chà, hang, đám bèo để chui rúc, tối chúng mới bò ra kiếm mồi</b>


<b>và di chuyển đi nơi khác. Hàm lượng ơ xy hịa tan thích hợp cho cá sinh</b>
<b>trưởng từ 2-12 mg/lít, trên lượng</b> <b>này cá dễ bị bệnh bọt khí.</b>
<b>Cá chình là lồi cá di cư, đến mùa sinh sản cá mẹ di chuyển từ những</b>
<b>vùng nước ngọt, cửa sơng ra biển và tìm chỗ thích hợp để đẻ trứng</b>
<b>(chính vì đặc điểm này mà việc cho cá chình sinh sản nhân tạo rất khó).</b>
<b>Cá con sau khi nở trơi dạt vào bờ biển, cửa sông, vùng nước ngọt kiếm</b>
<b>mồi và lớn lên. Khi trưởng thành cá lại di cư ra biển sâu đẻ trứng. Cá</b>
<b>con mới lớn có hình lá liễu, trải qua nhiều quá trình biến thái trở thành</b>
<b>cá chình hương màu trắng và sau đó chuyển dần sang màu nâu đen. </b>
4.3. Bò sát.


<b>Rùa xanh</b>


Bản năng làm mẹ thúc đẩy những con rùa xanh cái
bơi trở lại nơi đã ra đời để bắt đầu <b>gia đình</b> của chính
mình. Những cơ rùa bụng mang dạ chửa lặn lội bơi
hơn 1000 dặm từ bãi kiếm ăn ven biển ở <b>Brazil</b> ra đến
giữa vùng Nam Đại Tây Dương, tới đảo Ascension.
Trên bãi cát này, những bà mẹ tương lai đào tổ và đẻ
trứng trước khi lộn trở về nhà.


<b>4.4.Chim di cư.</b>


Chim di cư có nhiều mục đích, có lồi di cư để tránh rét, cũng có lồi
di cư để tìm thức ăn hoặc chúng nhận thấy sự nguy hiểm ở nơi chúng đang
sinh sống. Đặc biệt, vào mùa thu ngỗng trời bay về phương Nam, chúng
thường bay theo hình chữ "V". Bằng việc cả đàn chim bay thành hình chữ
"V" giúp nhau cản gió và đỡ tốn sức, tiết kiệm được 71% sức lực so với khi


chúng bay từng con một.



<b>* Chim di cư ngủ hàng trăm giấc mỗi ngày</b>


Để bù đắp cho sự thiếu hụt giấc ngủ trong những chuyến bay trường
kỳ, mỗi ngày những con chim di cư chợp mắt hàng trăm lần, mỗi lần chỉ kéo
dài vài giây.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

ban đêm và mỗi lần bay kéo dài vài tiếng, vì vậy chúng có rất ít thời gian để
ngủ.


Để tìm hiểu những con chim vượt qua giai đoạn
mệt nhọc này như thế nào, các nhà khoa học đã
quan sát bầy chim hét trong cả năm và ghi lại
thời điểm cũng như khoảng thời gian chúng
ngủ. Họ tìm thấy trong mùa thu và xuân, khi bầy
chim di cư, chúng hốn đổi mơ hình ngủ thơng
thường của mình, tức là thức vào ban đêm và
nghỉ ngơi vào ban ngày. Nhưng thay vì ngủ liền
một mạch, chúng lại chia thành nhiều đợt chợp
mắt trong ngày, trung bình mỗi lần chỉ kéo dài 9
giây.


Chim hét Swanson. Ảnh: schmoker.


Bầy chim hét cũng kết hợp 2 hình thức ngủ trong mỗi lần nhắm mắt.
Một hình thức gọi là sự nhắm mắt đơn phương (UEC), tức là con chim nhắm
một bên mắt và nghỉ một bên não, trong khi con mắt kia và bán cầu não còn
lại vẫn mở và hoạt động, giúp chúng đề phòng các mối nguy.


Đôi khi bầy chim lại chuyển sang cách ngủ thứ hai gọi là sự gà gật. Hình


thức này bao gồm nhắm hờ cả hai mắt nhưng vẫn đủ để xử lý hình ảnh xung
quanh.


Bằng cách chuyển đổi luân phiên giữa 2 kiểu ngủ, bầy chim hét có thể
được nghỉ ngơi chút ít trong khi vẫn giảm thiểu nguy cơ bị ăn thịt.


Trong khi con người phải dựa vào những cột mốc hay mặt trời để xác
định hướng đi thì rất nhiều lồi chim đặc biệt là những lồi di cư có thể sử
dụng từ trường của Trái đất để xác định hướng trong những chuyến di cư
dài. Cho tới nay các nhà khoa học vẫn chưa thể biết được những loài chim di
cư nhận biết từ trường Trái đất như thế nào nhưng một nghiên cứu gần đây
cho rằng lồi chim có một giác quan đặc biệt giúp chúng “nhìn thấy” những
đường từ trường của Trái đất như những vệt ánh sáng hay màu sắc. Điều này
giúp chúng định hướng được trong khi bay.


<b>* Chim di cư và biến đổi khí hậu</b>


<b>Thủ phạm chính là hiện tượng ấm lên toàn cầu. Các nhà khoa học</b>
<b>châu Âu khẳng định rằng trái đất ấm lênkhiến cho một số loài chim di</b>
<b>cư đường dài bị tác động rất xấu. Cịn có kẻ được lợi lại cũng là một số</b>
<b>loài chim di cư, nhưng chỉ trên một đoạn đường ngắn.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

đó, có một số lồi di cư mang tính tương đối. Chúng chỉ chuyển từ vùng này
sang vùng khác với khoảng cách không quá xa.


Các chuyên gia thuộc Viện nghiên cứu điểu cầm Thuỵ Sĩ (SOI) đang
cố gắng tìm hiểu mối quan hệ qua-lại phức tạp giữa các loài chim di cư qua
dãy núi An-pơ. Qua hàng thập kỷ nghiên cứu, họ nhận thấy có sự tăng lên về
nhiệt độ vào mùa xuân tại một số vùng ôn đới của châu Âu. Chính yếu tố
này đã tác động khơng nhỏ tới đời sống của các loài chim di cư.



Để khẳng định lại những nhận xét của mình, các nhà điểu cầm học đã
theo dõi quá trình di cư của một số lồi điển hình. Trong khoảng thời gian từ
năm 1958 đến 1999, đã có hàng trăm nghìn cá thể chim di cư thuộc 64 loài
khác nhau qua một con đường tắt cắt ngang qua dãy núi An-pơ, thay vì phải
vượt qua đỉnh núi cao ngất.


Tiến sĩ Lukas Jenni và Marc Kery thuộc SOI đã nhận thấy có một sự
phức tạp về hành vi của các loài này. Họ tin rằng có một số lồi đã thực sự
bị mất phương hướng khi khí hậu trái đất thay đổi. Điều này khiến chúng có
thể bị chết dọc đường di cư trở về hoặc buộc phải dừng lại ở một vùng khác
với bản năng của chúng mách bảo.


Trong khi đó, có một số loài khác lại ""kiếm"" được lợi lộc từ việc
này. Những lồi chim di cư đường ngắn chỉ mất rất ít thời gian để quay trở
lại quê hương. Thức ăn sẽ nhiều hơn cho chúng và chúng sẽ có ít kẻ thù hơn
trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Đó là khi các lồi di cư đường dài khơng thể
quay trở về đúng như thời gian dự kiến.


Tiến sĩ Jenni nói: ""Có một số loài rõ ràng đã được lợi rất nhiều từ
việc này. Đó có thể là lồi chim bắt ruồi sặc sỡ và một số lồi chim chích
khác. Mùa xn cũng là mùa sinh sản của hầu hết các loài chim, chính vì thế
mà việc thay đổi về khí hậu sẽ khiến cho lồi chim di cư đường dài khơng
kịp quay trở về"".


Ơng khẳng định thêm rằng các lồi di cư đường ngắn đã hưởng lợi từ
việc này. Chúng sẽ có được một mùa xuân dài hơn, nhiều thức ăn hơn và ít
kẻ cạnh tranh hơn. Tiến sĩ Jenni nói thêm: ""Hiện tượng ấm hoá đã tác động
sâu sắc đến cả hệ động vật là loài chim. Chúng đang bị đe doạ nghiêm trọng
và chính đây cũng là nguyên nhân đẩy một số loài này đi dần đến tuyệt


diệt"".


<b>4.5. Thú di cư.</b>


Chủ yếu là các loài động vật ăn cỏ, chúng di chuyển từ cánh đồng cỏ
này sang cánh đồng cỏ khác, hoặc từ vùng thảo nguyên này sang vùng thảo
nguyên khác để tìm kiếm thức ăn và nước uống…


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Đàn linh dương Tiang ở vùng phía nam của công viên
quốc gia Boma. (Ảnh: LiveScience)


Những đàn thú khổng lồ như vậy được cho là đã biến mất sau nhiều
thập kỷ nội chiến trên vùng đất này, và 25 năm qua, chưa từng có cuộc điều
tra nào về sự sống hoang dã ở nơi đây.


Sau khi miền nam Sudan được chính phủ trao quyền tự trị từ năm 2005, các nhà
khoa học mới có thể tiến hành những cuộc điều tra hàng không trên vùng đồng cỏ này về
động vật hoang dã.


Đàn voi trên đầm đầy Sudd. (Ảnh: LiveScience)


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>"Chưa bao giờ tơi nhìn thấy cảnh tượng như vậy, ngay cả ở đồng bằng</i>
<i>nổi tiếng Serengeti (ở Tanzania)"</i>, J. Michael Fay, một nhà bảo tồn của Hiệp hội bảo
tồn thiên nhiên hoang dã, thốt lên.


Cuộc di cư của đàn linh dương tai trắng trên sơng
Kangen, Cơng viên quốc gia Boma. (Ảnh: LiveScience)


<i>"Nó giống như thể mặt đất đang rung chuyển"</i>, Fay nói. Ơng ước tính
cuộc di cư này ít nhất phải đứng hàng thứ 3 trong số các cuộc di cư lớn nhất


của động vật trên cạn, thậm chí có thể là lớn nhất.


<b>5. Những hình ảnh di cư tuyệt đẹp của động vật.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11></div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Sau khi di cư trú đông, những con hải âu lưng đen ở quần đảo Falkland tập trung lại thành đàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Những chú chim cánh cụt Gentoo cùng nhau lặn xuống nước ở vùng biển Nam Cực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Một con chim hải âu đực đang giang đôi cánh để tán tỉnh con cái ở đảo Nam Georgia. Hành động này
nhằm để "hâm nóng" mối quan hệ giữa chúng sau hàng tháng trời lang thang vùng biển Southern Ocean.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Hàng năm, linh dương đầu bò di chuyển khoảng 1.800 dặm ngang qua đường xích đạo để tìm kiếm những
cơn mưa và đồng cỏ xanh. Những con ngựa vằn thường di cư cùng với linh dương đầu bò.


6. Kết luận.


Động vật di cư là một hoạt động thường niên của chúng, mỗi loài
động vật khác nhau thì có cách để định hướng và xác định hướng di cư là
khác nhau.


Di cư giúp cho động vật tìm kiếm được nơi ở mới có nhiều thức ăn,
hoặc là nơi có điều kiện sinh sản an tồn giúp chúng duy trì và phát truyển
nịi giống.


7. Tài liệu tham khảo.


/> /> />


</div>

<!--links-->
<a href=' /><a href=' /><a href=' /> Luyện tập tính chất của C va Si và hợp chất
  • 1
  • 898
  • 2
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×