Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Gphan ngoc hoc gia londoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.55 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Phan Ngọc - vị học giả và nhà “bách khoa” cuối


cùng của một thế hệ



Tác giả: Nguyễn Hoà


Thứ ba, 23 Tháng 11 2010 15:52


Đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, tôi đã biết tới tiếng tăm của Phan Ngọc qua thầy cơ và bạn bè ở khoa
Văn hố quần chúng, Đại học Văn hố Hà Nội - nơi tơi được quân đội cử theo học. Chỉ với 4 tiết giảng
về hằng số văn hố Việt Nam, ơng đã làm cho tôi ngỡ ngàng, đúng là “danh bất hư truyền”, và hình như
từ đó, 4 tiết bài giảng của ơng cùng các bài giảng của GS Trần Đình Hượu, PGS Từ Chi, học giả Đồn
Văn Chúc... đã nhen nhóm trong tơi một mối lương duyên đối với khoa học - điều mà ngày đeo ba lơ từ
biên giới phía Bắc trở về, tơi vẫn chưa hình dung ra .Năm 1987, sau khi công bố trên báo <i>Văn nghệ</i> một
bài viết để bảo vệ một số luận điểm trong cơng trình <i>Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều</i>


của Phan Ngọc, phải đến 5 năm sau tơi mới dám tìm đến nhà ơng, phần vì tự thấy vốn liếng chữ nghĩa
của mình cịn q mỏng mảnh, phần vì e ngại sẽ bị hiểu như là muốn cầu thân (!). Cũng từ đó tơi gắn bó
với ơng, khơng chỉ như với một người thấy, mà còn như với một người cha. Song một “thằng học trị
-con trai” như tơi kể ra cũng có phần ương bướng, vì có lần ơng hỏi: “Lâu nay tơi coi anh như học trị,
như con tơi, thế anh học được cái gì ở tơi?”, tơi trả lời: “Con chỉ học Thầy mỗi cái phương pháp thôi”,
ông hỏi tiếp: “Tại sao chỉ có phương pháp?”, tơi cười hì hì mà rằng: “Con coi phương pháp học được ở
Thầy là cái xương sống, còn tri thức con phải tích lũy là phần thịt da. Cơ thể có xương sống mà thịt da
bủng beo thì vơ nghĩa”. Nghe tơi nói vậy, ơng cười.


Sinh năm 1925, trong một gia đình giàu truyền thống Nho học - cha ông là cụ Phan Võ, một nhà Hán học
nổi tiếng từng làm Thượng thư dưới triều Nguyễn, thời kỳ đầu Phan Ngọc học chữ Hán chỉ để khỏi phật
ý người thân, còn hoạn lộ của ông sẽ là thênh thang nếu ông đi theo con đường đã được gia đình hoạch
định sẵn, đó là vào trường Luật. Thế nhưng, cậu tú Phan Ngọc - người học giỏi nổi tiếng nhất nhì ở đất
Nghệ An hồi trước năm 1945, lại ni một chí hướng khác, ơng vào trường Y và sau đó nhập ngũ làm
lính ở sư đồn 304, rồi về làm việc từ Bộ Văn hoá đến Đại học Tổng hợp (nay là Trường Đại học KHXH
- NV Hà Nội), sau đó là Viện Đông Nam Á (Viện Khoa học Xã hội - Nhân văn Quốc gia) cho tới khi nghỉ


hưu. Về các cơng trình khoa học, xin sẽ đề cập sau, song về ngoại ngữ thì có thể nói rằng sau Trương
Vĩnh Ký, thì PGS Phan Ngọc là một người hiếm hoi ở Việt Nam có một vốn liếng ngoại ngữ khơng dễ
mấy ai có được. Từ khả năng tự học đáng kinh ngạc, dưới bút danh Phan Ngọc hoặc Nhữ Thanh, ông
đã dịch <i>Mỹ học Hegel</i> từ nguyên bản tiếng Đức; <i>Spartacus</i>từ ngun bản tiếng Ý; <i>Chiến tranh và hồ</i>
<i>bình</i> từ nguyên bản tiếng Nga; <i>Sử ký</i> (Tư Mã Thiên), <i>Chuyện làng Nho</i>, <i>Hàn Phi Tử</i> từ nguyên bản chữ
Hán; <i>David Coperfield</i> và <i>Trần trụi giữa bầy sói</i> từ nguyên bản tiếng Anh... Cách đây vài năm, ông đã
xuất bản một cuốn <i>Từ điển Anh-Việt</i> với hơn 100.000 mục từ và đang soạn tiếp <i>Từ điển Việt - Anh </i>với
số mục từ tương đương. Dường như có cái gì đó như là năng khiếu, bẩm sinh trong việc học tiếng nước
ngoài của Phan Ngọc, điều này được ơng giải thích một cách giản dị: “Tơi đã tìm ra cái mẹo của cách
học”. Tuy nhiên, điều đáng nói là khơng giống như nhiều người trong chúng ta đang học ngoại ngữ như
đi tìm một sinh kế, PGS Phan Ngọc đã vượt qua giới hạn dùng ngôn ngữ như công cụ môi giới văn hố
mà ơng dùng ngơn ngữ để trực tiếp khảo sát văn hoá các dân tộc, các khoa học xã hội mũi nhọn đang
phát triển trên thế giới theo cả chiều rộng cùng chiều sâu. Theo tơi, chức danh Phó Giáo sư ngành Ngôn
ngữ học chưa phản ánh đầy đủ năng lực thực tế của Phan Ngọc. Đọc các công trình, nghe các bài giảng
và qua tiếp xúc, có thể nhận thấy ơng cịn là nhà triết học, nhà Hán học, nhà mỹ học, nhà dân tộc học,
nhà nghiên cứu văn học... Những lĩnh vực ông nghiên cứu không dừng lại ở các hiểu biết thông thường
mà luôn nhất quán theo phương châm “cách vật, trí tri” (biết đến tận cùng sự vật, biết đến tận cùng sự
biết). Theo tôi, một số trí thức lớn cùng thời với ơng và được lưu danh tên tuổi ở Việt Nam đều có xu
hướng như vậy, sự uyên bác của họ như mang dáng dấp của những nhà “bách khoa”. Phải chăng sau
khi tiếp xúc với văn hoá - văn minh phương Tây, họ khơng cịn bằng lịng với “bể học” phương Đơng, mà
họ muốn tìm hiểu kỹ lưỡng về cái thế giới tri thức rộng lớn và khác lạ mới mở ra trước mắt cộng đồng?
Và phải chăng đối với họ, vấn đề không chỉ là phương pháp khoa học, là phương thức tư duy kiểu mới...
mà còn là sự khám phá nền tảng vật chất - tinh thần đã khai sinh ra các sản phẩm đó, vì thế mà phẩm
chất khoa học và địi hỏi về tính “bách khoa” trở nên cần thiết, để rồi sau khi nắm vững hệ thống tri thức
ấy, họ mới chuyên tâm đi sâu vào lĩnh vực nghiên cứu chun biệt của mình? Thời gian trơi đi, thế hệ trí
thức như Phan Ngọc vơi mỏng dần, có lẽ chỉ cịn lại mình ơng, người mà cốt cách “ông đồ” và tri thức
hiện đại đã phối kết với nhau như là hiện thân của sự nghiệp khoa học ông đã và đang theo đuổi để
chứng minh người Việt Nam với bản sắc văn hố của mình hồn tồn có đủ khả năng hội nhập, đuổi kịp
và đứng vững trong nền văn minh công nghiệp, văn minh tin học.



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

mục các vấn đề nghiên cứu của PGS Phan Ngọc, hắn là sẽ có người nghi ngờ chất lượng khoa học của
chúng nếu khơng tìm hiểu cơ chế làm việc của ông. PGS Phan Ngọc tự đặt ra yêu cầu rất nghiêm ngặt
rằng bản thân phải đạt tới một sự <i>thức nhận</i> về đối tượng và về phương pháp làm việc. Ơng cho rằng:
“Nếu khơng thực hiện được sự thức nhận ấy - dù người nghiên cứu có tài giỏi, uyên bác đến đâu, anh ta
có làm việc nghiêm túc, cơng phu đến đâu - cơng trình của anh ta vẫn cứ thiếu chính xác”. Từ sự thức
nhận, ơng nghiên cứu văn hóa - lĩnh vực cực kỳ đa dạng với phương thức tiếp cận đa ngành, liên ngành
và luôn luôn cố gắng nắm bắt một cách cập nhật tri thức về những lĩnh vực khác nhau của văn hóa. Các
tri thức địa - văn hố, lịch sử học, ngôn ngữ học, khảo cổ học, nhân chủng học... được ông vận dụng
một cách hệ thống, phù hợp và hiệu quả. Cá tính sáng tạo đầy bản lĩnh của ơng được bảo đảm bằng
một trí tuệ un bác, một phương pháp làm việc nghiêm túc, lập luận chặt chẽ, kết hợp uyển chuyển,
linh hoạt giữa lý luận và thực tiễn, giữa lý trí và trái tim mỹ cảm, giữa quan điểm Mác-xít và phẩm cách
một nhà Nho. Tuy nhiều năm không trực tiếp công tác tại một trường đại học, song với việc tham gia
giảng dạy và các cơng trình nghiên cứu của ơng đã có ảnh hưởng trong nhiều thế hệ nhà khoa học và
các sinh viên. Về phần mình tơi thấy, từ thực tế lịch sử phát triển khoa học xã hội - nhân văn ở Việt
Nam, tình huống có một nhà khoa học đã xây dựng được một lý thuyết nghiên cứu riêng, xác lập một
hướng nghiên cứu riêng, có luận điểm riêng… và sau họ là sự hình thành những thế hệ học trị “nối
nghiệp” là rất hiếm hoi. Có lẽ cả thế kỷ XX chỉ có thể kể ra tên tuổi của các học giả như Cao Xuân Huy,
Trần Đình Hượu, Từ Chi… hiện tại dường như chỉ còn một vài người như Phan Ngọc, Nguyễn Tài
Cẩn… và cần lưu ý rằng, các cơng trình của họ chủ yếu ra đời vào thời điểm mà khái niệm “đầu tư” còn
hết sức xa lạ! Hiện tượng đó dường như là kết quả của thói quen tiếp nhận và ứng dụng hình thành đã
lâu đời (ít nhất cũng từ ngày tiếp xúc với Nho giáo và đơi khi, cịn là sự tiếp nhận hời hợt và ứng dụng
cẩu thả!). Đến lượt các thế hệ hậu sinh, dù có muốn thì cuộc mưu sinh, và cả sự chắp vá manh mún
-thực dụng nữa, đã khơng giúp hình thành nên một bản lĩnh khoa học để mỗi người dám dấn thân và hết
mình. Trong hồn cảnh đó, những con người như PGS Phan Ngọc thật sự là tấm gương để những
người làm khoa học soi vào và tự răn mình.


Trong các cơng trình nghiên cứu của ơng, PGS Phan Ngọc sử dụng <i>thao tác luận </i>(operationalist - một
phương pháp nghiên cứu ở Việt Nam ít người biết và sử dụng) để làm việc và ơng kiên trì với cơng cụ
đó một cách nhất qn. Con người <i>thức nhận</i> (prise de conscience) Phan Ngọc không tiếp cận sự vật
-hiện tượng theo lối miêu tả, ông tiếp cận từ cách đặt vấn đề: Tại sao có -hiện tượng ấy? Tại sao cái -hiện


tượng ấy có thể tồn tại và diễn biến qua lịch sử? Nói cách khác là ơng đi tìm lý do tồn tại của sự vật
-hiện tượng. Về thao tác, ông thường quy -hiện tượng ra thành một chùm quan hệ rồi tìm trong đó quan
hệ nào có thể trực tiếp tác động để qua đó góp phần đổi mới cuộc sống. Nghiên cứu Nho giáo, ông đi
tìm cái <i>bất biến</i> trong cái <i>khả biến</i> và từ chùm các quan hệ nội tại của Nho giáo, Phan Ngọc rút ra kết
luận: quan hệ giữa Khổng Tử và học thuyết chân truyền của ông mới thật sự là quan hệ cơ bản nhất của
Nho giáo; còn các Nho gia hậu sinh đã làm nên Hán nho, Tống nho, Minh nho... đã khơng cịn giữ được
Khổng giáo chân truyền, nói cách khác, luận thuyết của các Nho gia hậu sinh là cái <i>khả biến</i> nảy sinh từ
cái <i>bất biến</i> của Khổng Tử. Nhận xét về ý nghĩa xã hội của Nho giáo nói chung, PGS Phan Ngọc viết:
“Đạo Khổng tơn thờ đẳng cấp, nó phục vụ một xã hội chia thành những đẳng cấp khác nhau. Nó khơng
phải là một chủ nghĩa nhân đạo dù cho bên ngoài nó nói tồn là nhân nghĩa, đạo lý. Nó khơng chấp
nhận sự bình đẳng giữa cá nhân với cá nhân”. Từ nhận xét ấy ông cho rằng: “Muốn đổi mới một xã hội
Khổng giáo, người ta phải bắt đầu từ việc xây dựng một xã hội bình đẳng, khơng dựa trên một thứ bậc
có sẵn, mà phải dựa trên từng cá nhân với tư cách người lao động, trên một pháp luật bảo đảm quyền
lao động và bắt buộc phải lao động, trên sự xoá bỏ mọi đặc quyền khác chấp nhận sự bình đẳng của cá
nhân trước pháp luật”.


Nhìn nhận lịch sử - văn hố trong tính liên tục của nó, Phan Ngọc chứng minh q trình tiếp thu văn hoá
Hán của nước Việt Nam sau thế kỷ X là một kiểu lựa chọn đúng, vì có như thế người Việt Nam mới có
thể xây dựng được sự thống nhất chính trị - văn hố sao cho có thể đủ sức đương đầu với các thế lực
phong kiến phương Bắc. Ơng luận chứng bản sắc văn hóa dân tộc là một kiểu lựa chọn từ quan hệ qua
lại giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại, và chính sự lựa chọn này đã làm ra cái riêng, cái bản
sắc của văn hoá mỗi cộng đồng. Để chứng minh Nho giáo ở Việt Nam mang chứa nhiều đặc điểm khác
biệt so với Nho giáo Trung Hoa, ông đưa ra khái niệm “độ khúc xạ trong giao lưu văn hóa” - khái niệm


<i>khúc xạ</i> hiện đã và đang được sử dụng khá phổ biến trong giới nghiên cứu văn hố, có lẽ bởi nó vừa
chuyển tải những nội hàm lý luận - thực tiễn có tính khoa học, vừa đảm bảo tính hữu lý khi người nghiên
cứu cần phải giải mã một sự vật - hiện tượng văn hoá đã nảy sinh như là sản phẩm tất yếu của quá trình
tiếp biến giữa các quan hệ “nội sinh” và “ngoại sinh” có tính bản chất… Là người nghiên cứu cẩn trọng
và nghiêm túc, Phan Ngọc luôn ý thức về tính chính xác của các khái niệm khoa học, và khi chưa thoả
mãn với các khái niệm đang tồn tại, ông chủ động xây dựng các khái niệm mới đồng thời chú ý giới


thuyết về chúng sao cho vừa có thể phản ánh tốt nhất về đối tượng và tương ứng với trình độ nhận thức
của thời đại, vừa giúp người đọc hiểu cặn kẽ về cách thức tiếp cận của tác giả. Có thể kể ra các khái
niệm như: <i>vượt gộp</i> được ông giới thuyết: “Tôi dùng chữ “vượt gộp” để dịch khái niệm <i>Aufheben</i> của
Đức hay <i>dépassement</i> của Pháp. <i>Vượt gộp </i>có nghĩa là tiếp thu được cái mới nhưng đổi mới được nó
trên cơ sở một cái cũ cũng đã được đổi mới cho thích hợp với hồn cảnh mới. Nó có nghĩa là bảo vệ
được cả cái cũ lẫn cái mới sao cho thích hợp với sự đổi mới cần phải tiến hành. Như vậy <i>vượt gộp</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

khoa học có phong cách làm việc như PGS Phan Ngọc thật sự là không có nhiều.


Biên độ các vấn đề nghiên cứu của PGS Phan Ngọc rất rộng rãi. Ông quan tâm tới Nguyễn Trãi, tới
Nguyễn Đình Chiểu, tới văn hóa cố đơ Huế. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một say mê của ơng, ơng
nghiên cứu Hồ Chí Minh một cách trân trọng, sâu sắc, có các lý giải riêng. Với văn hố Việt Nam, ơng có
các cơng trình như <i>Bản sắc văn hoá Việt Nam</i>, <i>Một cách tiếp cận văn hố</i>, <i>Thử xét văn hố - văn học</i>
<i>bằng ngơn ngữ học</i>, <i>Cách giải thích văn học bằng ngơn ngữ học</i>... Bằng phong cách học, ông nghiên
cứu <i>Truyện Kiều</i> để tìm ra cống hiến nghệ thuật thiên tài của Nguyễn Du “trứơc đó khơng ai làm được
và sau đó khó có ai làm được”. Ơng quan tâm tới cách chữa lỗi chính tả cho học sinh. Ơng viết các cơng
trình <i>Cách lựa chọn của sáu nền văn hoá</i> (Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp, La Mã, Đông Nam Á, Pháp),


<i>Đạo giáo ở Trung Quốc và ảnh hưởng ở Việt Nam</i>. Cùng Phạm Đức Dương ông xuất bản cuốn <i>Tiếp xúc</i>
<i>ngôn ngữ Đông Nam Á</i>, cùng Lê Ngọc Cầu ông viết <i>Nội dung xã hội và mỹ học tuồng Đồ</i>. Ông nghiên
cứu và xuất bản <i>Đỗ Phủ - nhà thơ dân đen </i>và mới cho ra đời <i>Thi thánh Đỗ Phủ và một nghìn bài thơ</i>.
Ơng bàn chuyện dịch <i>Đạo đức kinh</i> và đã dịch - xuất bản cuốn <i>Đạo đức kinh dễ hiểu</i>. Ơng cịn dịch và
xuất bản những cơng trình nghiên cứu lớn như <i>Hình thái học của nghệ thuật</i> (M.Kagan), <i>Sử thi lịch sử</i>
<i>và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc</i> (B.L.Riftin)... Danh mục các cơng trình này tự chúng đã
cho thấy học giả và dịch giả Phan Ngọc có một phạm vi khảo sát rất rộng rãi với một nền tảng lý thuyết
và kiến văn mà tình huống phát triển của các khoa học ngày càng phân nhánh và chuyên sâu như ngày
nay khiến người ta không dễ trang bị. Nên không ngẫu nhiên, từ ngày mở cửa, PGS Phan Ngọc đã
được mời tới giảng dạy tại một số trường đại học ở Pháp, Niu Dilân, Hồng Kông và Sinhgapo.
Một lần tôi bày tỏ với ông nỗi thắc mắc: từ lai lịch thì có thể lý giải việc Thầy trau dồi tri thức về phương
Đơng ra sao, nhưng thật tình con khơng hiểu Thầy thâu nhận tri thức phương Tây vào lúc nào? Ông kể:


thời kháng chiến chống Pháp, trên chiến khu Việt Bắc, GS Trần Đức Thảo và ông cùng ở trong một
chiếc lán giữa rừng sâu, mỗi người một cái sạp tre. Trước khi đi ngủ, không dầu không đèn, hai anh em
thường nằm dài chuyện vãn với nhau. Chuyện mãi cũng chán, một hôm GS Trần Đức Thảo bảo với
Phan Ngọc: tớ nghe nói cậu biết nhiều về phương Đông, từ nay trở đi, trước khi đi ngủ cậu trình bày cho
tớ nghe được khơng. Phan Ngọc trả lời, như thế thì phải “có đi có lại”, tối nay em nói về phương Đơng,
tối mai anh lại nói về phương Tây cho em nghe. Hai người nhất trí, và các bài giảng cho nhau nghe giữa
GS Trần Đức Thảo và Phan Ngọc đã diễn ra trong bóng tối như vậy trong gần 2 năm trời. Nghe ông kể
xong, tôi chỉ cịn biết bày tỏ lịng kính trọng vì xem ra thời nay, điều kiện của chúng tôi hơn thời của các
ơng rất nhiều, nhưng ý chí thì lại kém các ông nhiều bậc!


</div>

<!--links-->
Chỗ nào dịch tài liệu sinh học giá rẻ nhất
  • 4
  • 342
  • 0
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×