Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Tìm hiểu ảnh hưởng của nho giáo trung quốc trong nghệ thuật kiến trúc cung đình huế công trình dự thi giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học euréka lần thứ 11 năm 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.1 MB, 100 trang )

ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
BAN CHẤP HÀNH TP. HỒ CHÍ MINH
----------------------

CƠNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC - EURÉKA
LẦN THỨ 11 NĂM 2009

TÊN CƠNG TRÌNH:

TÌM HIỂU ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRUNG QUỐC TRONG
NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ

LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU: XÃ HỘI
CHUN NGÀNH: ĐƠNG PHƯƠNG HỌC

Mã số cơng trình: …………………………….


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

CƠNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC – EURÉKA”
LẦN THỨ 11 NĂM 2009
TÊN CƠNG TRÌNH:
TÌM HIỂU ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRUNG QUỐC TRONG NGHỆ
THUẬT KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ
LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU: XÃ HỘI
CHUYÊN NGÀNH


Họ và Tên tác giả, nhóm tác giả
Trưởng nhóm: Lâm Thị Thúy Hà
- Trần Tú Anh
- Nguyễn Thị Vân Thi
- Nguyễn Ngọc Bảo Chiêu

: ĐÔNG PHƯƠNG HỌC

Giới tính
Nữ
Nữ
Nữ
Nữ

Sinh viên năm thứ
4
4
4
4

Người hướng dẫn: TS. NGUYỄN XUÂN TIÊN – P. SAU ĐẠI HỌC, TRƯỜNG ĐẠI
HỌC MỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


BÁO CÁO TÓM TẮT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1. Tên đề tài: “ Tìm hiểu ảnh hưởng của Nho giáo Trung Quốc trong nghệ thuật kiến
trúc cung đình Huế”
2. Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Xuân Tiên, P. Sau đại học, Đại học Mỹ thuật,
TP. HCM

3. Thành viên thực hiện:
a. Lâm Thị Thúy Hà- Sinh viên năm 4 khoa Đông Phương học- Chủ nhiệm đề tài
b. Trần Tú Anh- Sinh viên năm 4 khoa Đông Phương học- Thành viên
c. Nguyễn Thị Vân Thi- Sinh viên năm 4 khoa Đông Phương học- Thành viên
d. Nguyễn Ngọc Bảo Chiêu- Sinh viên năm 4 khoa Đông Phương học- Thành viên
4. Thời gian thực hiện nghiên cứu: 5 tháng ( từ tháng 12 năm 2008 đến tháng 4 năm
2009), chỉnh sửa và bổ sung thêm vào tháng 9 năm 2009
5. Nội dung nghiên cứu: gồm ba chương chính:
Chương I: Nho giáo Trung Quốc- Q trình du nhập- Ảnh hưởng đối với văn hóa
Việt Nam
Chương II: Kiến trúc cung đình Huế và những ảnh hưởng của Nho giáo Trung
Quốc
Chương III: Định hướng bảo tồn- Nghiên cứu- Học tập và phát huy những giá trị
văn hóa nghệ thuật của kiến trúc cung đình Huế
6. Kết quả đạt được:
- Xác định những ảnh hưởng của nho giáo Trung Quốc trong nghệ thuật kiến trúc
cung đình Huế làm cơ sở cho công tác bảo tồn những di sản văn hóa Huế hiện tại
và tương lai.So sánh sự khác biệt trong kiến trúc cung đình của Trung Quốc và Việt
Nam, tìm ra những nét độc đáo trong kiến trúc của hai quốc gia để có những ứng
dụng phù hợp trong xây dựng và trang trí trong lĩnh vực kiến trúc sau này.
-Xác định các thuộc tính cung đình với sự thể hiện và chi phối các biểu hiện tâm
linh, quyền lực, sáng tạo nghệ thuật để tìm ra nét độc đáo, tính chất đặc biệt trong
trang trí kiến trúc cung đình Huế.
Chủ nhiệm đề tài
Lâm Thị Thúy Hà


MỤC LỤC
TÓM TẮT........................................................................................................................1
PHẦN DẪN NHẬP..........................................................................................................3

CHƯƠNG I : NHO GIÁO TRUNG QUỐC - QUÁ TRÌNH DU NHẬP -.....................9
ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI VĂN HĨA VIỆT NAM .........................................................9
1.1 Nguồn gốc và q trình du nhập của Nho Giáo Trung Quốc vào Việt Nam.......9
1.2
Những ảnh hưởng của Nho giáo Trung Quốc đối với văn hố Việt Nam.....16
CHƯƠNG II : KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA
NHO GIÁO TRUNG QUỐC ........................................................................................24
2.1. Đặc điểm kiến trúc Nho giáo Trung Quốc: ........................................................24
2.2. Đặc điểm kiến trúc cung đình Huế .....................................................................39
2.3 Những ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo về mặt hình thức và tinh thần trong
kiến trúc cung đình Huế: ...........................................................................................51
CHƯƠNG III : ĐỊNH HƯỚNG BẢO TỒN-NGHIÊN CỨU HỌC TẬP VÀ PHÁT
HUY NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HĨA NGHỆ THUẬTCỦA KIẾN TRÚC CUNG
ĐÌNH HUẾ.....................................................................................................................59
3.1 Giá trị văn hóa và nghệ thuật của kiến trúc cung đình Huế ..............................59
3.2 Định hướng bảo tồn ............................................................................................67
3.3 Nghiên cứu, học tập và phát huy giá trị văn hóa nghệ thuật của kiến trúc cung
đình Huế .....................................................................................................................71
KẾT LUẬN....................................................................................................................73
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................76
PHỤ LỤC.......................................................................................................................79


TĨM TẮT

Cơng trình nghiên cứu “Tìm hiểu ảnh hưởng của nho giáo Trung Quốc trong nghệ
thuật kiến trúc cung đình Huế” gồm 3 chương với 50 trang chính văn và 18 trang hình ảnh
minh họa, thời gian nghiên cứu trong vòng 5 tháng từ tháng 12 năm 2008 đến tháng 4 năm
2009, cơng trình nghiên cứu tổng thể về q trình du nhập của Nho giáo Trung Quốc vào
Việt Nam, những ảnh hưởng của nho giáo Trung Quốc trong kiến trúc cung đình Huế, và

đưa ra những định hướng bảo tồn, nghiên cứu học tập và phát huy những giá trị văn hóa
nghệ thuật của kiến trúc cung đình Huế.
Trong chương I, cơng trình đã khái qt lịch sử hình thành của nho giáo Trung
Quốc, quá trình du nhập của nho giáo Trung Quốc vào Việt Nam và những ảnh hưởng của
các tư tưởng nho giáo ở Việt Nam như ảnh hưởng đối với tầng lớp tri thức phong kiến,
ảnh hưởng đối với tầng lớp bình dân và ảnh hưởng trong đối với đời sống văn hóa hiện đại.
Qua đó, người đọc sẽ có cái nhìn tổng qt hơn, rõ hơn về những ảnh hưởng của Nho giáo
Trung Quốc ở Việt Nam trong suốt quá trình lịch sử.
Trong chương II, cơng trình đi vào nội dung chính là tìm hiểu, phân tích nghệ thuật
kiến trúc cung đình Huế và những ảnh hưởng của Nho giáo Trung Quốc trong nghệ thuật
kiến trúc cung đình Huế. Trong đó tìm hiểu, phân tích về đặc trưng cơ bản của kiến trúc
nho giáo Trung Quốc bao gồm nghệ thuật bố cục cảnh quan và mặt bằng kiến trúc đơ
thành- hồng thành Trung Quốc, Nghệ thuật trang trí- điêu khắc- màu sắc trong kiến trúc
cung điện Trung Quốc, sau đó phân tích đến những đặc trưng cơ bản của kiến trúc cung
đình Huế, từ đó so sánh, phân tích và đưa ra những ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo về
mặt hình thức và tinh thần trong kiến trúc cung đình Huế để thấy được tinh hoa, nét đẹp và
những nét rất riêng của Việt Nam trong kiến trúc cung đình Huế dù chịu ảnh hưởng nhiều
từ tư tưởng Nho giáo của Trung Quốc
Trong chương III, từ những phân tích, tìm hiểu, so sánh của chương hai, đề tài nêu
lên những giá trị về văn hóa, nghệ thuật của kiến trúc cung đình Huế, tầm quan trọng của
nó đồng thời đưa ra những định hướng bảo tồn, nghiên cứu học tập và phát huy những giá
1


trị văn hóa nghệ thuật của kiến trúc cung đình Huế. Từ đó, chúng ta nhận thức rõ rằng
nhiệm vụ học tập, bảo vệ và phát huy những giá trị nghệ thuật của kiến trúc cung đình
Huế là nhiệm vụ của mỗi người dân Việt Nam chúng ta và nhất là đối với những người
yêu cái đẹp, những người trân trọng giá trị truyền thống văn hóa lịch sử mà triều Nguyễn
đã để lại cho chúng ta.
Tóm lại, cơng trình nghiên cứu nhằm:

- Xác định những ảnh hưởng của nho giáo Trung Quốc trong nghệ thuật kiến trúc
cung đình Huế làm cơ sở cho công tác bảo tồn những di sản văn hóa Huế hiện tại và tương
lai.
- Sự khác biệt trong kiến trúc cung đình của Trung Quốc và Việt Nam, tìm ra
những nét độc đáo trong kiến trúc của hai quốc gia để có những ứng dụng phù hợp trong
xây dựng và trang trí trong lĩnh vực kiến trúc sau này.
- Xác định các thuộc tính cung đình với sự thể hiện và chi phối các biểu hiện tâm
linh, quyền lực, sáng tạo nghệ thuật để tìm ra nét độc đáo, tính chất đặc biệt trong trang trí
kiến trúc cung đình Huế.
- Góp phần vào cơng tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa nghệ thuật của Di
sản văn hóa Huế.

2


PHẦN DẪN NHẬP

1.

Lý do chọn đề tài

Nho giáo Trung Quốc kể từ khi du nhập vào Việt Nam đã có những ảnh hưởng to
lớn trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt trong rất nhiều lĩnh vực. Những tư
tưởng của Nho giáo đã thấm nhuần vào trong tư tưởng của người Việt từ xưa đến nay, ở
rất nhiều các tầng lớp, giai cấp trong xã hội.
Quần thể kiến trúc cung đình Huế là một phần quan trọng cấu thành nên Di sản văn
hóa Huế. Cố đơ Huế là nơi còn lưu giữ rất nhiều những di sản văn hoá vật thể và phi vật
thể, chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Nhắc
đến Huế, mọi người đều hình dung ngay đến những thành quách, cung điện vàng son,
những đền đài, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch và những

thắng tích do thiên nhiên khéo tạo. Quần thể di tích kiến trúc cung đình Huế là di sản văn
hố tiêu biểu và là niềm tự hào của người dân Việt Nam.
Tìm hiểu những ảnh hưởng của Nho giáo trong nghệ thuật kiến trúc cung đình Huế
giúp chúng ta nhận thức rõ giá trị của kiến trúc cung đình khơng chỉ góp phần vào việc gìn
giữ, phát huy những tinh hoa văn hóa dân tộc mà định hướng cho nền kiến trúc Việt Nam
trong thế kỉ XXI. Nhưng ảnh hưởng của Nho giáo trong kiến trúc cung đình Huế như thế
nào? Đặc điểm nổi bật là gì? Chúng ta có tiếp thu những ảnh hưởng đó một cách máy móc
hay khơng?
Từ những u cầu, mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn về những ảnh hưởng
của Nho giáo Trung Quốc lên nghệ thuật kiến trúc cung đình Huế nói riêng và đặc điểm
nghệ thuật, nét độc đáo trong kiến trúc cung đình Huế và đời sống văn hóa tinh thần của
người Huế nói chung đã hình thành nên đề tài nghiên cứu “Tìm hiểu những ảnh hưởng
của Nho giáo Trung Quốc trong nghệ thuật kiến trúc cung đình Huế”

3


2.

Lịch sử nghiên cứu của đề tài

Về những ảnh hưởng của nho giáo Trung Quốc lên nghệ thuật kiến trúc cung đình
Huế. Trong bài viết Văn hóa Đơng Á- Tương đồng và dị biệt, tiến sỹ Phan Thanh Hải đã
viết:
Cung điện Huế là kết tinh của kiến trúc truyền thống ngàn năm của người Việt.
Trải qua ngàn năm bồi đắp, tích lũy từ Cổ Loa huyền thoại đến Hoa Lư, Thăng
Long- Đông Đô và cuối cùng là Phú Xuân- Huế, kỹ thuật xây dựng thành trì, cung
điện đã khơng ngừng được tích lũy, bồi đắp rồi nâng lên thành một nghệ thuật.
Huế được ngợi ca là một kiệt tác kiến trúc thơ đơ thị, bời sự hài hịa, tuyệt diệu
giữa thiên nhiên, kiến trúc và con người. Cũng là Nho giáo, cũng vận dụng thuật

Phong thủy, Ngũ hành để quy hoạch và xây dựng kinh đô, nhưng Huế vẫn thể hiện
bản sắc và bản lĩnh văn hóa Việt Nam khơng thể lẫn vào đâu được…
Giáo sư Trần Văn Giàu trong bài viết “ Luận cương Nho giáo ở Việt Nam” đã khái
quát nguồn gốc và quá trình du nhập cũng như ảnh hưởng của Nho giáo Trung Quốc ở
Việt Nam.
Giáo sư Ngơ Huy Quỳnh trong “Tìm hiểu về lịch sử kiến trúc Việt Nam” đã khái
quát chung về kiến trúc dân gian Việt Nam, kiến trúc Việt Nam từ thời dựng nước đến các
bước thịnh suy phong kiến, kiến trúc Việt Nam dưới triều đại cuối cùng. Thông qua lịch
sử kiến trúc Việt Nam, chúng ta rút ra được nét tương đồng cũng như khác biệt của kiến
trúc Việt Nam và Trung Quốc đặc biệt là kiến trúc cung đình.
Việc nghiên cứu nghệ thuật trang trí kiến trúc cung đình Huế đã thu hút rất nhiều
sự quan tâm, ý kiến và đánh giá khoa học rất khác nhau. Trong cuốn Lược sử Mỹ thuật
Việt Nam của Nguyễn Phi Hoanh có đoạn viết: “Phong kiến Nguyễn là một vương triều
rất phản động và lạc hậu, cho nên đối với vấn đề mỹ thuật nó chưa được như phong kiến
Trung quốc mà nó bắt chước”
Những năm gần đây việc nghiên cứu nghệ thuật kiến trúc cung đình Huế đã phát
triển mạnh hơn với sự xuất hiện của các sách chuyên về mỹ thuật, kiến trúc thời Nguyễn
của các tác giả như Phan Thuận An, Nguyễn Tiến Cảnh, Du Chi, Chu Quang Chứ, Trần
4


Lâm Bền, Nguyễn Hữu Thông, Phan Cẩm Thượng… Nhiều kết quả nghiên cứu đã được
ứng dụng trong giảng dạy, sáng tác và có ít nhiều ý nghĩa trong việc phục chế một số cơng
trình, tác phẩm mỹ thuật. Việc tìm hiểu những ảnh hưởng của Nho giáo Trung Quốc lên
kiến trúc cung đình Huế khơng chỉ có giá trị về mặt nội dung mà cịn có những đóng góp
nhất định trong quá trình gìn giữ, bảo tồn và phát huy di sản, văn hóa Huế.
3.

Mục đích nghiên cứu


Xác định những ảnh hưởng của nho giáo Trung Quốc trong nghệ thuật kiến trúc
cung đình Huế làm cơ sở cho cơng tác bảo tồn những di sản văn hóa Huế hiện tại và tương
lai.
Sự khác biệt trong kiến trúc cung đình của Trung Quốc và Việt Nam, tìm ra những
nét độc đáo trong kiến trúc của hai quốc gia để có những ứng dụng phù hợp trong xây
dựng và trang trí trong lĩnh vực kiến trúc sau này.
Xác định các thuộc tính cung đình với sự thể hiện và chi phối các biểu hiện tâm
linh, quyền lực, sáng tạo nghệ thuật để tìm ra nét độc đáo, tính chất đặc biệt trong trang trí
kiến trúc cung đình Huế.
Góp phần vào cơng tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa nghệ thuật của Di
sản văn hóa Huế.
4.

Giới hạn nghiên cứu

Đề tài chủ yếu tập trung vào những đặc điểm kiến trúc ở những cơng trình kiến trúc
cung đình tiêu biểu như cung điện, thành lũy, lăng tẩm, đền miếu.
Nghiên cứu những ảnh hưởng của nho giáo Trung Quốc từ khi du nhập vào Việt
Nam đặc biệt hình thức biểu hiện của nho giáo Trung Quốc trong kiến trúc cung đình Huế.
5.

Phương pháp nghiên cứu

Phân tích, chắt lọc, xử lý thơng tin tư liệu lịch sử và nghệ thuật để rút ra những vấn
đề trọng tâm, đối chiếu, so sánh rút ra nhận định.
Phương pháp nghiên cứu phân tích tổng hợp là phương pháp nghiên cứu chủ yếu để
hoàn thành đề tài. Đề tài còn sử dụng các phương pháp như so sánh, đối chiếu, ghi chép
5



tài liệu, hình ảnh để so sánh, đối chiếu nhằm làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề tài.
Để phân tích tổng hợp một cách chính xác và đem lại hiệu quả nghiên cứu, đề tài còn
tham khảo các tài liệu, sách báo, nhận định của các nhà chuyên mơn, nhà khoa học, nhà
văn hóa. Ngồi ra cịn khai thác thông tin, đặc biệt là các thông tin về chất liệu truyền
thống, ý nghĩa tâm linh, văn hóa lễ hội ở Huế.
6.

Những đóng góp của đề tài

Bước đầu tạo lập hệ thống đề tài, mang đến cái nhìn rõ hơn về những ảnh hưởng
của nho giáo Trung Quốc trong kiến trúc cung đình Huế, từ đó hiểu rõ hơn về giá trị nghệ
thuật trong kiến trúc cung đình Huế.
Khẳng định nét độc đáo của kiến trúc Việt Nam, dù chịu nhiều ảnh hưởng của nho
giáo Trung Quốc nhưng vẫn giữ những nét rất riêng, nét truyền thống phù hợp với văn hóa
và tinh thần Việt.
Đề tài mong muốn đóng góp vào việc xác định các giá trị của nghệ thuật kiến trúc
cung đình Huế cũng như văn hóa tinh thần trong đời sống của người dân Huế nói riêng và
người Việt nói chung. Từ đó có cơ sở để bảo tồn, trùng tu, phục chế các di tích trong quần
thể kiến trúc cung đình Huế và phát huy những truyền thống, giá trị của văn hóa cung đình,
văn hóa dân gian và tinh thần Huế.
7.

Kết cấu

CHƯƠNG I. NHO GIÁO TRUNG QUỐC- QUÁ TRÌNH DU NHẬP- ẢNH
HƯỞNG ĐỐI VỚI VĂN HĨA VIỆT NAM
1.1.

1.2.


Nguồn gốc và q trình du nhập của Nho giáo Trung Quốc vào Việt Nam
1.1.1

Nguồn gốc

1.1.2

Quá trình du nhập

Những ảnh hưởng của Nho giáo Trung Quốc đối với văn hóa Việt Nam
1.2.1.

Những ảnh hưởng đối với tầng lớp tri thức phong kiến

1.2.2.

Những ảnh hưởng đối với tầng lớp bình dân
6


1.2.3.

Những ảnh hưởng đối với đời sống văn hóa hiện đại

CHƯƠNG II. KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG
CỦA NHO GIÁO TRUNG QUỐC
2.1. Đặc điểm kiến trúc Nho giáo Trung Quốc
2.1.1. Nghệ thuật bố cục cảnh quan và mặt bằng kiến trúc đơ thành- hồng
thành Trung Quốc
2.1.2. Nghệ thuật trang trí- điêu khắc- màu sắc trong kiến trúc cung điện

Trung Quốc
2.1.3. Đặc trưng cơ bản của kiến trúc Nho giáo Trung Quốc
2.2. Đặc điểm kiến trúc cung đình Huế
2.2.1 Nghệ thuật bố cục cảnh quan và mặt bằng kiến trúc hồng thành cung
đình Huế
2.2.2. Nghệ thuật trang trí – điêu khắc- màu sắc trong kiến trúc cung đình Huế
2.2.3. Đặc trưng cơ bản của kiến trúc cung đình Huế
2.3 Những ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo về mặt hình thức và tinh thần trong
kiến trúc cung đình Huế
2.3.1. Ảnh hưởng về mặt hình thức
2.3.2 Ảnh hưởng về mặt văn hóa tinh thần
CHƯƠNG III. ĐỊNH HƯỚNG BẢO TỒN- NGHIÊN CỨU- HỌC TẬP VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA NGHỆ THUẬT CỦA KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH
HUẾ
3.1. Giá trị văn hóa và nghệ thuật của kiến trúc cung đình Huế
3.1.1. Giá trị văn hóa
3.1.2 Giá trị nghệ thuật
3.2. Định hướng bảo tồn
7


3.2.1. Thực trạng
3.2.2 Định hướng
3.3. Nghiên cứu, học tập và phát huy giá trị văn hóa nghệ thuật của kiến trúc cung đình
Huế
KẾT LUẬN
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MINH HỌA

8



CHƯƠNG I : NHO GIÁO TRUNG QUỐC - QUÁ TRÌNH DU NHẬP ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM

1.1 Nguồn gốc và quá trình du nhập của Nho Giáo Trung Quốc vào Việt Nam
1.1.1 Nguồn gốc:
Về nguồn gốc của Nho giáo, cho đến nay vẫn cịn có nhiều người lầm lẫn cho rằng
Khổng Tử là “Thuỷ tổ” của Nho giáo. Nho giáo không phải bắt đầu từ Khổng Tử mà
Khổng Tử chỉ là người phục hưng Nho giáo và ngài là người có cơng rất lớn trong việc
hồn thiện và phát triển Nho giáo
Nho giáo bắt nguồn từ thời Thái cổ nước Tàu, khởi thủy của Nho giáo được hình
thành do thực tế quan sát và nhu cầu tổ chức xã hội, kết hợp với nguyên lý của trời đất, lấy
đạo Trời làm khuôn mẫu cho các hành động của người, nếu nghịch lẽ Trời thì phải bị tiêu
diệt với ba vị Thánh Vương: Phục Hy mà Phục Hy là vị vua khởi đầu, Thần Nơng , Hồng
Đế, nhờ quan sát Long Mã, lập ra Hà đồ, vạch ra Bát Qi, cắt nghĩa sự hình thành và
biến hố của trời đất. Những vạch bát quái được xem là đầu mối của văn tự sau này. Vua
lại dạy dân trồng dâu nuôi tằm, lấy tơ làm quần áo, chế ra đờn cầm đàn sắt, dạy dân lễ
nghĩa, phép cưới vợ gả chồng, lập thành gia tộc. Sau Phục Hy là vua Thần Nông chế ra
cày bừa dạy dân làm ruộng, họp chợ búa để dân trao đổi hàng hoá, nếm thử các thứ cây
thuốc để trị bệnh cho dân.
Tiếp nối vua Thần Nông là Huỳnh Đế chế ra áo mão, lập nghi lễ triều đình, sai ơng
thương hiệp chế ra chữ viết.
Nối tiếp ba vị Thánh vương kể trên là vua Nghêu và vua Thuấn, khởi đầu đạo
Trung Dung, củng cố lễ nhạc, lập ra nền tảng gia đình và xã hội với đạo Tam cương và
Ngũ thường.
Đến thời vua Hạ Võ, nhờ Lạc thư, vua lập ra Hồng Phạm Cửu Trù, chế ra Ngũ
Hành.
Tới đây Nho giáo đã có căn bản đầy đủ và vững chắc.
9



Nho giáo đã giúp cho nước Trung Quốc thời thượng cổ được hồ bình, dân chúng
thuận hồ, tạo nên một nền luân lý tốt đẹp.
Sau một thời gian dài, đến đời nhà Chu, vua Văn Vương nghiên cứu Bát quái của Phục Hy
(gọi là Tiên Thiên Bát Quái), đặt ra Bát Quái Hậu Thiên, tạo thành Kinh Dịch, giải nghĩa
64 quẻ. Con của Văn Vương là Chu Công Đán giải ý nghĩa của 384 hào của 64 quẻ, rồi
nghiên cứu lễ nhạc của các đời trước, qui định lại lập thành lễ nhạc có hệ thống chặt chẽ.
Cuối thời nhà Chu, đời vua Chu Linh Vương, năm 551 trước Tây lịch Đức Khổng Tử ra
đời.
Khổng Tử chỉnh đốn lễ nhạc, san định các kinh sách đời trước để lại: Kinh Thi,
Kinh Thư, Kinh lễ, Kinh Nhạc, viết Kinh Xuân Thu, dạy 3000 học trị. Tồn bộ cuộc đời
với những hoạt động phong phú và sinh động của Khổng Tử, chúng ta có thể kết luận
được rằng ơng là người đã khai sinh ra một đại học phái có ảnh hưởng lâu dài và to lớn
đối với Trung Quốc nói riêng, các nước phương Đơng nói chung và đặc biệt là Việt Nam.
Đại học phái đó chính là Nho học. Vậy nói đến Nho học là nói đến Khổng Tử.
Khổng Tử người làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, nay thuộc phủ Dun Châu,
tỉnh Sơn Đơng. Ngài dịng dõi là người nước Tống (Hà Nam). Ông tổ ba đời dời sang ở
nước Lỗ (Sơn Đông). Thân phụ ngài là là Thúc Lương Ngột làm quan võ, lấy người vợ
trước sinh được chín người con gái. Người vợ lẽ sinh được một người con trai tên Mạnh
Bì, nhưng lại có tật q chân. Đến lúc gần già ông thân phụ mới lấy bà Nhan Thị sinh ra
Ngài. Ngài sinh vào mùa Đông tháng mười năm canh Tuất là năm thứ hai mốt đời vua
Linh Vương nhà Chu, tức là năm 551 trước Tây lịch kỷ nguyên. Bà Nhan Thị có lên cầu
tự trên núi Ni Khâu, cho nên khi sinh ra ngài mới nhân điềm ấy đặt tên ngài là Khâu Ni,
tên tự là Trọng Ni.
Nói đến Khổng Tử cũng có nghĩa là trước hết và chủ yếu là nói đến cơng lao san
định và biên soạn Lục Kinh gồm có Kinh thi, Kinh thư, Kinh lễ, Kinh dịch, Kinh xuân thu,
Kinh nhạc. Về sau Kinh nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ Kinh nên thường được gọi là
Ngũ kinh - cơng trình có giá trị đặt nền tảng căn bản đầu tiên cho sự khai sinh của Nho
học. Hiểu một cách đơn giản nhất thì Lục Kinh đại để như sau:
10



Kinh thi: Là tác phẩm tuyển chọn ca dao cổ đại của Trung Quốc. Hẳn nhiên Khổng
Tử tuyển chọn theo cách của ông. Với tất cả 311 bài ca dao, Kinh thi tuy chỉ có độ dày khá
khiêm nhượng nhưng lại có ý nghĩa và giá trị rất sâu sắc. Xem Kinh thi thì biết được tính
tình, phong tục và chính trị các đời và các nước chư hầu. Học Kinh thi thì có thể di dưỡng
tính tình và mở rộng tri thức.
Kinh thư: Là tuyển tập những điển, mô, huấn cáo, thệ, mệnh…của các vua Trung
Quốc thời Đường, Ngêu, Ngu Thuấn cho đến đời Đông Chu. Kinh thư hiện đang lưu
truyền có tấ cả 59 thiên, chia làm: Ngu thư, Hạ thư, Thượng thư, Chu thư. Đọc Kinh thư
chúng ta có thể hình dung được sơ bộ chế độ, tư tưởng phép tắc, đạo đức, cấu trúc của xã
hội Trung Quốc cổ đại. Xem Kinh thư thì biết cái tính chất phác và lối văn chương của
người đời cổ. Những sự hành vi và những tư tưởng chép trong sách đều lấy hai chữ chấp
trung làm cốt.
Kinh lễ: Là cơng trình tập hợp, tuyển chọn và giới thiệu lễ nghi của người Trung
Quốc cổ đại, mà theo Khổng Tử là để ni đức, giữ tình và tạo dựng trật tự sao cho thật
phân minh, hạn chế những điều sai quấy thường thấy trong mn đời.
Trong Ngũ kinh tính phức hợp thể hiện trong Kinh lễ là rõ ràng, tập trung và sâu
sắc nhất. Văn bản Kinh lễ còn được lưu giữ có tất cả 25 quyển, chia làm 49 thiên. Tuy
Kinh lễ cũng khơng phải là một cơng trình lớn nhưng các bậc danh Nho thiên cổ Trung
Quốc lẫn của ta đều cho rằng đó thật sự là kết quả của một cuộc đại tập thành trí tuệ của
nhiều thế hệ, Khổng Tử chỉ là người mở đầu mà thơi.
Kinh dịch: Dịch là sách tướng số để bói tốn xem cát hung và lại là sách lý học,
giải thích lẽ biến hoá của trời đất và sự hành động của muôn vật, tức là bộ sách trọng yếu
của Nho Giáo. Kinh dịch hiện cịn lưu giữ được có cấu trúc đại để gồm hai bộ phận khác
nhau. Bộ phận thứ nhất là hình dạng từng quẻ. Bộ phận thứ hai là thoán từ tức là cắt nghĩa
từng quẻ. Bộ phận này cũng chia làm 2 phần riêng biệt: 2 thiên Kinh và 10 thiên Truyện,
cả thảy là 12 thiên. Trong những thiên Truyện, Khổng Tử giải thích rõ ràng các ý nghĩa
sâu xa ở Kinh dịch và phát huy những tư tưởng uyên áo về tạo hoá và những quan niệm


11


đặc biệt về vũ trụ và vạn vật, ngài lập thành cái nền lý học của Nho Giáo về sau các nho
giả đời Tống đều sở cứ vào Kinh dịch mà thiết lập ra các học thuyết rất có giá trị.
Thư tịch cổ thường hay nhắc đến Hà đồ và Lạc thư. Đặt trong lịch sử hình thành và
phát triển của hệ thống phân tich có thể nói Hà đồ và Lạc thư là bước chuẩn bị quan trọng
đầu tiên để từ đó hình thành sau nó một loạt khái niệm căn bản về âm dương, ngũ hành,
bát quái… đã được xây dựng và phổ biến ngày càng rộng rãi. Nho gia nói Kinh dịch để xét
đốn sự hay dở, cát hung, lường trước sự thịnh suy, biến hoá, nhằm răn dạy điều lành,
khuyên tránh việc giữ. Trong Ngũ kinh thì Kinh dịch là khó hiểu nhất.
Kinh xn thu: Là bộ sách do Khổng Tử làm ra. Ngài theo lối văn làm sử mà chép
truyện nước Lỗ. Xem hình thể ngồi thì đó là một bộ sử biên niên, lời lẽ vắn tắt, lắm chỗ
khơng có nghĩa gì cả, nhưng xét rõ đến tinh thần thì thật là một bộ sách triết lí về việc
chính trị.
Với Kinh xuân thu, Khổng Tử muốn xây dựng và quảng bá thuyết chính định danh
phận, bởi thế, các triết gia xưa thường nói Kinh xuân thu là kinh của danh và phận. Chữ
trong Kinh xuân thu được chọn lọc và sử dụng một cách đặc biệt nghiêm cẩn. Kinh xuân
thu là thành tựu được chính Khổng Tử tâm đắc nhất
Kinh nhạc: Do Khổng Tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ cịn lại một ít làm
thành một thiên trong Kinh lễ gọi là Nhạc Ký. Như vậy Lục kinh chỉ còn lại Ngũ kinh.
Ngay khi còn tại thế, Ngũ kinh đã được đông đảo các môn đệ của ông hân hoan tiếp
nhận. Cho dẫu được xây dựng trên một nền tảng lịch sử như thế nào và cho dẫu sự kế thừa
đã diễn ra ở mức độ cụ thể ra sao, thì Ngũ kinh vẫn thật sự là tinh hoa trí tuệ của Khổng
Tử. Từ Ngũ kinh và trên cơ sở Ngũ kinh, Khổng Tử đã có cơng đặt nền tảng căn bản đầu
tiên cho sự khai sinh của Nho học.
Sau Ngũ Kinh, đồng thời kế tục và phát triển những tư tưởng của Ngũ kinh là Tứ
thư. Nếu như Ngũ kinh chủ yếu gắn liền với tên tuổi của Khổng Tử thì Tứ thư chủ yếu gắn
liền với tên tuổi những môn đệ mà gần gũi và xuất sắc nhất của ông.


12


Tứ thư gồm có: Luận Ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử. Cùng với Ngũ kinh, Tứ
thư là kinh điển của Nho giáo.
Luận ngữ: Là sách ghi của những lời nói và việc làm của Khổng Tử cùng các thế
hệ mơn đệ đầu tiên của ơng. Luận ngữ cịn có tên gọi khác là Lỗ luận. Sách gồm 10 quyển,
mỗi quyển đều có hai thiên, tổng cộng là 20 thiên.
Đại học: Người đầu tiên có cơng cống hiến một phần của Kinh lễ thành một trong
Tứ Thư là Tăng Tử - một học trò xuất sắc của Khổng Tử
Văn phong của Đại học rất giản dị, dễ đọc, dễ nhớ, nhưng vẫn chuyển tải được
những ý tưởng sâu sắc, khiến cho người học chỉ cần đọc qua cũng đã có thể sơ bộ hiểu
được, dạy phép làm người để trở thành bậc quân tử.
Trung dung: Có nguồn gốc từ Kinh lễ. Người đầu tiên có cơng biến một phần của
Kinh lễ thành sách Trung dung là Tử Tư (tức Khổng Cấp), con của Khổng Bá Ngư, cháu
nội của Khổng Tử. Trung dung dạy cho người ta cách sống dung hoà, khơng thiên lệch.
Trung dung cũng được coi là khó hiểu nhất trong Tứ thư.
Mạnh Tử: Mạnh Tử là tên sách, đồng thời cũng chính là tên tác giả của sách. Sách
này do ông cất công ghi chép lại những cuộc đối đáp của chính ơng với vua các nước chư
hầu và với những học trị gắn bó mật thiết nhất, đồng thời chép lại những ý kiến của mình
về một số học phái đương thời… tất cả gộp lại được bảy thiên, đặt cho tên gọi chung là
Mạnh Tử.
Như vậy tính đến Mạnh Tử nho học đã tiến được một bước tiến rất xa và cũng rất
vững chắc. Cũng tính đến Mạnh Tử, nền tảng căn bản nhất của Nho học là Ngũ kinh và Tứ
thư đã hoàn tất. Sau Mạnh Tử Nho học còn được tiếp tục bổ sung và nâng cao với những
khía cạnh và mức độ khác nhau bởi nhiều danh Nho nữa. Nhưng tính cho đến trước thời
tiền Hán, Nho học ở Trung Quốc nhìn chung vẫn là Nho học xã hội, tồn tại và phát triển
trong lịng xã hội chứ chưa có cơ hội để xuất hiện trên vũ đài chính trị và tư tưởng của nhà
nước chính thống.


13


Đến thời Tiền Hán, một bước ngoặt thực sự của Nho học mới bắt đầu, mà đến lúc
đó thì những người có cơng khai sinh ra Ngũ kinh và Tứ thư đều đã về chốn vĩnh hằng,
khơng một ai có cơ may được chứng kiến nữa.
1.1.2 Quá trình du nhập
Vào khoảng đầu công nguyên, tức là vào những năm cuối cùng của nhà Tiền Hán,
thời Bắc thuộc (bắt đầu từ năm 179 trước Công nguyên đến năm 905 sau Công nguyên)
Nho giáo mới bắt đầu truyền bá vào nước ta, với tư cách là công cụ, phương tiện để thiết
lập củng cố xã hội, chủ yếu theo gót giày quân xâm lược phương Bắc và giao lưu văn hoá
(trong chừng mực nhất định thì đó là sự cưỡng bức văn hoá). Nho giáo ở nước ta thời Bắc
thuộc chỉ bao hàm nội dung rất hạn hẹp nhưng lại được coi là những khuôn mẫu về đạo
đức và luật pháp.
Nho giáo truyền vào nước ta bởi những hoạt động mang tính tự phát của khá đông
Nho gia Trung Quốc thất thế, bị đày hoặc tự dộng di cư lánh nạn sang nước ta gần như
những nhà truyền bá Nho giáo vào nước ta thời Bắc thuộc đều là người Trung Quốc, họ
gồm nhiều thành phần phong phú khác nhau, nhưng phần lớn là quan lại của chính quyền
đơ hộ.
Nho giáo với tư tưởng Tam Cương Ngũ Thường, tư tưởng Thiên mệnh hết sức
khắc nghiệt và phản động đã được quân xâm lược phương Bắc sử dụng như một công cụ
chủ yếu để thống trị, nô dịch nhân dân ta và biến nước ta thành một quận, huyện của
Trung Quốc, biến văn hoá nước ta phụ thuộc và là một bộ phận văn hoá Hán. Lúc đầu
ngoại trừ một số người thuộc tầng lớp trên của xã hội ít nhiều tiếp thu tri thức Nho giáo do
được học tập theo tư tưởng Nho giáo và tham gia vào bộ máy cai trị của chúng, còn lại
tuyệt đại đa số nhân dân ta căm ghét xa lánh Nho giáo, chống lại Nho giáo và văn hố Hán,
vì vậy Nho giáo trong thời kỳ đầu ít có ảnh hưởng sâu đến đời sống của nhân dân Việt
Nam.
Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, là giai đoạn xây dựng chế độ phong kiến dân tộc độc lập.
Mặc dù Nhà nước đã có tính chất căn bản của một Nhà nước phong kiến trung ương tập

quyền, nhưng ảnh hưởng của Nho giáo trong thời này không đáng kể. Tình hình trật tự kỷ
14


cương trong xã hội chưa thật sự ổn định, những hiện tượng trái với các quan điểm của
Nho gia về chính danh, trái đạo trời… chứng tỏ Nho giáo chưa có một chỗ đứng và cơ sở
vững chắc để phát triển.
Đến thời Lý - Trần là giai đoạn xây dựng và củng cố, phát triển của chế độ phong
kiến và Nhà nước phong kiến tập quyền. Vì nhu cầu tổ chức, duy trì và phát triển bộ máy
Nhà nước và chế độ phong kiến vững mạnh, vì mong muốn duy trì trật tự kỷ cương xã hội,
cùng việc cai trị, quản lí xã hội và xây dựng phát triển đất nước hết sức bức thiết… các
nhà tư tưởng đã tìm thấy ở Nho giáo với những tư tưởng về thiên mệnh, Tam cương, Ngũ
thường hết sức phù hợp với những yêu cầu trên nên Nho giáo bắt đầu được các triều đại
phong kiến Việt Nam đề cao, khai thác, và sử dụng như một cơng cụ, một vũ khí sắc bén
trong việc cai trị và quản lí xã hội. Tuy nhiên, ở thời Lý, Nho giáo vẫn giữ một vị trí khá
khiêm tốn trong xã hội và chỉ khi sang đến đời Trần, cùng với sự “thất sủng” của Phật
giáo thì Nho giáo lúc này mới “lên ngơi”, ngày càng có vị trí, vai trị nhiều hơn trong đời
sống con người và xã hội. Đến cuối đời Trần, Nho giáo đã trở thành ý thức hệ thống chính
trị xã hội.
Thế kỷ XV là thời kỳ phát triển cao độ chế độ phong kiến quân chủ chuyên chế và
bộ máy Nhà nước phong kiến tập quyền quan liêu. Đến giữa thế kỷ XV dưới thời vua Lê
Thánh Tông, chế độ phong kiến Việt Nam đã phát triển tới giai đoạn toàn thịnh. Đây cũng
là giai đoạn Nho giáo được đẩy lên bằng các biện pháp: tổ chức Nhà nước quân chủ tập
trung, pháp luật và các chính sách, giáo dục, và khoa cử Nho học. Các vua quan nhà Lê,
để phục vụ cho giai cấp mình đã chủ trương “độc tơn Nho giáo” và ban những chiếu dụ,
luật gây khó khăn, hạn chế sự phát triển và ảnh hưởng của những tôn giáo khác như Phật
giáo, Đạo giáo…
Ở những thế kỷ sau, vai trò của Nho giáo ngày càng mờ nhạt. Mặc dù các vua quan
vẫn ra sức đưa Nho giáo thành hệ tư tưởng chính thống trong xã hội, và dưới triều Nguyễn
Nho giáo một lần nữa trở lại vị trí độc tơn, nhưng đó là một Nho giáo đã biến chất nhiều,

tính tích cực khơng cịn, trái lại mang nhiều sự bảo thủ giáo điều, tiêu cực… nên sự ảnh
hưởng của nó trong nhân dân khơng cịn mạnh mẽ. Đó là thực trạng đương thời, càng về
sau, chế độ phong kiến càng lâm ào khủng hoảng, “đạo thống” không cịn được tơn trọng,
15


kỷ cương, phép tắc, luân thường bị đảo lộn, lý tưởng về một xã hội thái bình, thịnh trị ổn
định ngày càng mất hiệu lực… Giai cấp phong kiến vì lợi ích của mình đã dần mất đi vai
trị lãnh đạo tích cực mà dần đi vào con đường phản động, chống lại nhân dân, ra sức bóc
lột nhân dân để phục vụ cho lợi ích của mình. Xã hội ngày càng rối loạn, trộm cắp nhan
nhản, các cuộc khởi nghĩa bạo động của nhân dân ngày càng nhiều, và thậm chí ngay ở
trong cung đình thì cha con, anh em mưu hại, tàn sát, lẫn nhau… Những quan niệm Nho
giáo trở nên giáo điều, xa rời thực tế, không còn phù hợp vớii xã hội nên dần dần bị đào
thải và người dân tìm quên nỗi khổ của mình trong Phật Giáo, Đạo giáo…Nhưng nói cho
cùng Nho giáo du nhập vào Việt Nam đã ảnh hưởng sâu đậm trên nhiều lĩnh vực như tư
tưởng, thơ văn, phong tục tập quán… của người Việt từ xưa cho đến nay.
Tuy Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo Trung Quốc, nhưng
không phải là một phiên bản hồn chỉnh mà đã có những biến đổi nhất định so với Nho
giáo Trung Quốc. Quá trình du nhập và tiến tới xác nhập vị trí của Nho giáo trong đời
sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hoá hết sức sáng tạo của người Việt
trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, là một nét độc đáo trong văn hoá Việt
Nam.
1.2 Những ảnh hưởng của Nho giáo Trung Quốc đối với văn hoá Việt Nam
1.2.1 Những ảnh hưởng đối với tầng lớp tri thức phong kiến
Những quan điểm nổi bật của các nhà Nho, nhà tư tưởng Việt Nam và xã hội với
những đặc trưng cơ bản là chế độ phong kiến thái bình, thịnh trị và thống nhất, trong xã
hội đó có “vua sáng tơi hiền” cùng nhau “đồng tâm hiệp sức” để trị nước yên dân. Vua là
người có đức, quan thì mẫn cán, trung thành và quan tâm chăm sóc dân chúng, để trăm họ
an vui, hạnh phúc. Rõ ràng nhà Nho, nhà tư tưởng Việt Nam thời kỳ này đã khai thác tư
tưởng đức trị trong học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo để đưa ra quan điểm với một

xã hội lý tưởng. Nhưng một số đặc trưng khác trong quan điểm của các nhà Nho Việt
Nam được hình thành từ truyền thống nhân ái, yêu hồ bình và thực tiễn xây dựng và bảo
vệ tổ quốc của nhân dân ta. Vì vậy, về cơ bản, xã hội lý tưởng trong quan điểm của người
Việt Nam là sự bổ sung và phát triển tư tưởng của Nho giáo. Những đặc trưng đó khơng
16


chỉ là mục tiêu, định hướng cơ bản mà còn là cơ sở căn cứ chỉ đạo hoạt động của chế độ
phong kiến Việt Nam trong công cuộc xây dựng triều đại, xây dựng và phát triển đất nước
về nhiều mặt.
Quan điểm về một xã hội lý tưởng của các nhà Nho Việt Nam được hình thành,
hồn thiện và phát triển không thể không chịu sự ảnh hưởng của Nho giáo nhưng truyền
thống văn hoá của dân tộc, điều kiện kinh tế xã hội, những nhiệm vụ thực tiễn đặt ra cho
chế độ phong kiến Việt Nam, và cho cả dân tộc, ở từng thời kỳ phát triển là yếu tố chi
phối. Vì vậy mà quan điểm về xã hội đó cùng những đặc trưng cơ bản của nó được bổ
sung thêm và vượt qua những giới hạn chật hẹp, gị bó, khắc nghiệt của Nho giáo. Tất
nhiên xã hội ấy cũng chỉ là một xã hội phong kiến, không vượt qua khuôn khổ phong kiến
với những giới hạn của nó. Do vậy mà quan điểm đó cũng chỉ nhằm mục đích duy trì sự
tồn tại của chế độ phong kiến và góp phần duy trì bảo vệ địa vị và quyền lợi của giai cấp
phong kiến thống trị.
Nho giáo đặt mối quan hệ vua tôi là cao nhất trong ngũ luân. Ở Việt Nam các nhà
Nho không quá “Ngu trung” như ở Trung Quốc. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung
thành với tổ quốc và phải chăm lo quan tâm đến đời sống người dân. Nhân nghĩa trong
Nho giáo Việt Nam cốt đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình và qn đội chính
nghĩa phải tiêu diệt những quân tàn bạo như Nguyễn Trãi đã viết trong “Đại cáo Bình
Ngơ”:
“Việc nhân nghĩa cốt ở n dân
Qn điếu phạt trước lo trừ bạo”
Nho giáo hết sức đề cao việc học coi trọng “văn bị” hơn “võ bị”. Với tinh thần của
Nho giáo: “học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện”, “Giáo gia”, “đào tạo kẻ sĩ, nhân tài là

công việc đầu tiên cơ bản”, của nhà vua, của chế độ… Nhà nước phong kiến Việt Nam đã
tiếp thu trọn vẹn những tư tưởng quan điểm của Nho giáo về giáo dục, về việc dạy và học.
Ảnh hưởng của Nho giáo đến nền giáo dục Việt Nam rất mạnh mẽ .Nội dung dạy học và
thi cử, trong hệ thống giáo dục nước ta thời phong kiến cơ bản khơng nằm ngồi những tri
thức trong kinh sách Nho giáo như Tứ thư , Ngũ kinh. Người đi học, đi thi, đỗ đạt, làm
17


quan, làm thầy phải thơng thạo những kiến thức đó. Điều đó chứng tỏ Nho giáo đã ảnh
hưởng sâu sắc và chi phối các khâu, các mặt, các lĩnh vực của nền giáo dục, khoa cử Việt
Nam. Nhà nước đặc biệt coi trọng, đề cao nhân tài, những người có học, đỗ đạt, họ được
bổ nhiệm làm quan, làm thầy, được hưởng bổng lộc của nhà vua, được nhà vua ban yến
tiệc, làm lễ xướng danh, ghi tên vào bia đá, được vinh quy bái tổ, được cả xã hội tơn
kính… Vì vậy, nền giáo dục khoa cử ở Việt Nam đã tạo ra một truyền thống “tôn sư trọng
đạo”, tinh thần ham học, hiếu học, trọng người có học…
Tuy nhiên, nền giáo dục Nho học ấy cũng có những tiêu cực, những mặt hạn chế
của nó, những điều người ta học chỉ bó hẹ trong Tứ thư Ngũ kinh, những kinh sách của
Nho giáo. Những tri thức ấy đôi khi hết sức giáo điều, xáo rỗng, sách vở, ra rời thực tế và
làm thui chột sức sáng tạo của người học khi cứ phải học thuộc lòng theo những khuôn
mẫu sách vở. Nho giáo đề cao việc học nhưng lại phiến diện, một chiều: coi trọng việc
học nhưng lại không coi trọng việc giáo dục nhân cách, dạy nghề. Nho giáo không cung
cấp cho con người những kiến thức cần thiết trong cuộc sống như những kiến thức về
khoa học kỹ thuật, hướng nghiệp, làm ăn, mà chỉ dạy họ làm thơ văn, cung cấp những
kiến thức về khoa học xã hội, văn học, sử học, triết học… đã khiến cho nhiều nhà Nho học
chỉ “có tiếng mà khơng có miếng”, họ chỉ có kiến thức sách vở mà khơng có thực tài.
Đồng thời dẫn tới những hiện tượng tiêu cực trong xã hội như dùng tiền để “mua quan bán
tước”, những tư tưởng trì trệ như chỉ có một con đường tiến thủ bản thân là đi học, đi thi
và ra làm quan.
Tất cả những hạn chế này là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng
tính bảo thủ, xa rời thực tế của Nho giáo, cản trở bước phát triển của lịch sử. Đặc biệt từ

thế kỷ XVI trở đi ở Việt Nam dưới chế độ phong kiến và những hệ lụy của nó vẫn còn kéo
dài tới ngày nay.
1.2.2 Những ảnh hưởng đối với tầng lớp bình dân
Ở Việt Nam Nho học được gọi là Nho giáo, người Việt tiếp nhận những yếu tố
mang tính tơn giáo ở Nho giáo sâu sắc hơn, khiến Nho giáo Việt Nam gần giống với một
tôn giáo hơn là một học thuyến chính trị xã hội. Những người nông dân là tầng lớp chiếm
18


số đông trong xã hội, không thể hiểu thấu đáo những lý thuyết “Thiên mệnh”, “tính lý”…
nhưng họ dễ dàng tiếp nhận Nho giáo qua những quan niệm hiếu trung lễ nghĩa… cùng ý
thức củng cố về gia đình, họ tộc và cộng đồng qua những hoạt động có tính công giáo.
Vào thế kỷ thứ XIX, ở nhiều làng quê Việt Nam đã có những văn chỉ bia miếu thờ thánh
Khổng Tử. Nho giáo Việt Nam là loại tôn giáo đặc biệt khơng hề có giáo chủ, giáo hội,
giáo điều, giáo dân, nhưng nhờ những nhà Nho như là tầng lớp tăng lữ đặc biệt đi rao
giảng kinh sách Khổng Mạnh mà người người nghe theo. Những lời nói của Khổng Mạnh
là lời của Thánh Nhân không ai bàn luận nó đúng hay sai mà mọi người chỉ biết tuân thủ
nghiêm khắc như tn theo tín điều tơn giáo vậy. Có thể nói “Nho giáo Việt Nam cũng
giống như là một dạng tơn giáo đặc biệt. Nho giáo tuy ít bàn đến vấn đề sống chết mà chủ
yếu nói về gia đình tơng tộc, đến vua tơi nhưng rất đề cao tín ngưỡng đặc biệt là tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nho giáo không chủ trương xuất gia nhưng lại có hệ thống luân
lý hạn chế những dục vọng chặt chẽ, bắt mọi người phải giũ đúng những qui định khn
phép, lễ nghi nghiêm ngặt như một tín đồ”1. Có thể nói Nho giáo ở Việt Nam là một hệ tư
tưởng chính xuyên suốt chiều dài lịch sử phong kiến và vẫn còn ảnh hưởng nhiều đến tận
ngày nay. Nho giáo như là một tư tưởng đánh giá phẩm chất đạo đức của con người trong
xã hội.
Tuy nhiên Nho giáo cũng có nhiều hạn chế là xem nhẹ vai trị của người dân,
những kẻ “tiểu nhân” tầng lớp thương nhân… là những người trực tiếp làm ra của cải vật
chất nuôi sống xã hội nhưng Nho giáo chỉ đề cao người quân tử, kẻ có học. Điều này
khiến người dân khơng phát huy sức sáng tạo của mình khiến họ trở nên an phận, khơng

có sức đấu tranh chỉ biết tuân theo những giáo huấn đôi khi duy tâm, không tưởng của
triết lý Nho giáo. Ngoài ra, Nho giáo cũng hết sức xem thường thân phận người phụ nữ.
Những người phụ nữ ấy khơng có quyền lợi, địa vị gì trong gia đình và cả ngồi xã hội.
Tơng giáo Trung Quốc thực hiện quyền gia trưởng nghiêm ngặt, người phụ nữ có địa vị
thấp và khinh thường .Cịn ở Việt Nam chế độ tơng pháp có phần thơng thống hơn, phụ
nữ cũng được phân chia tài sản, Nho giáo trọng nam khinh nữ đề cao nam giới, còn ở

1

Phan Đại Dỗn (1985)- Một số vấn đề lí luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện triết học

19


nông nghiệp Việt Nam lại trọng âm sinh nên coi trọng ngưòi phụ nữ, coi trọng mẹ sinh:
thờ Thánh Mẫu, thờ các bà Tứ Phóng, đức Liễu Hạnh…
Cịn gia đình truyền thống Việt Nam khơng có đặc tính một định chế xã hội chính
trị như kiểu đại gia đình “tứ đại đồng đường” “ngũ đại đồng đường” như ở Trung Quốc.
Nho giáo coi trọng gia đình, ít nói tới chú bác cơ dì, cịn ở Việt Nam ln mở rộng phạm
vi gia tộc, coi trọng họ hàng, làng xóm: chết cha cịn chú, sảy mẹ bú dì, bán anh em xa
mua láng giềng gần…
Nho giáo Trung Quốc đề cao gia đình hơn dịng họ trong khi Nho giáo Việt Nam
coi trọng dịng họ hơn gia đình. Mỗi dịng họ đều có trưởng họ, nhà thờ họ và ngày giỗ họ.
Do đó, tổ chức họ tộc, các tập tục thờ cúng tổ tiên có ảnh hưởng đối với người Việt Nam
sâu đậm hơn, ngồi ra chế độ tơng pháp ở Việt Nam không chặt chẽ như ở Trung quốc.
Trong điều kiện như trên, những tư tưởng của Khổng Tử toát lên tinh thần khoan
dung, sống có trách nhiệm với nhau. Việt Nam tiếp thu Nho giáo mang đậm bản sắc văn
hoá nơng nghiệp lúa nước của mình là ưa chuộng hồ bình, trọng tình trọng nghĩa, trọng
tình nghĩa làng xóm, triết lý âm dương hoà hợp sinh thành đã nảy nở… Văn hố Việt Nam
là văn hố nơng nghiệp, Nho giáo cũng là văn hố nơng nghiệp nhưng lại kết hợp thêm

văn hoá du mục từ thời Hán.
Bản sắc văn hoá Việt Nam nơng nghiệp trọng nghĩa tình, nên dễ dàng hồ nhập với
đạo đức Nho giáo nhân, lễ, nghĩa, trí tín, trong cuộc sống tình người gương mẫu hàng
ngày.
Văn hố nông nghiệp lúa nước Việt Nam đã sớm nảy nở tư duy ẩn dụ về vũ trụ
theo cấu trúc âm dương ngũ hành, khi Nho giáo vào Việt Nam đã giúp hệ thống hoá, ký
hiệu hoá cấu trúc này thành giá trị văn hoá phổ biến sử dụng sau này. Người Việt tôn
trọng Trời, nhưng Trời không đơn lẻ chỉ có dương sinh, cha sinh như trong quan niệm
Nho giáo mà Trời ở người Việt bao giờ cũng đi liền với Đất, như dương kết hợp với âm:
thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn, “ Trời cao đất dày ơi, khấn xin keo âm
dương”

20


Ảnh hưởng của Nho giáo vào Việt Nam trên cơ sở một tiểu nông lúa nước, do môi
trường xã hộit như vậy mà những lí thuyết và tư tưởng Nho giáo từ Trung Quốc vào Việt
Nam cũng phải được “điều hồ hố” để thích hợp với xã hội Việt Nam.
1.2.3 Những ảnh hưởng đối với đời sống văn hoá hiện đại
Hiện nay ở Việt Nam đối với vấn đề Nho giáo hiện nay có những điều trong lí
thuyết, tư tưởng Nho giáo khơng cịn phù hợp với nhu cầu thực tiễn, chế độ tơng pháp có
nhiều nhược điểm như gia trưởng, hạn chế tự do dân chủ, bình đẳng, coi thường phụ nữ,
tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, phải có con trai nối dõi diễn ra khơng ít và phá vỡ việc
sinh đẻ có kế hoạch. Tác phong gia trưởng, “tình nhà cao hơn phép nước”, vẫn cịn diễn ra
ở nhiều cơ quan đồn thể, thậm chí ở nhiều thơn q cịn tạo ra bè phái, gây nhiều xích
mích. Nhưng có những quan điểm vẫn đúng đắn phù hợp với xã hội Việt Nam hiện nay.
Điều quan trọng là chúng ta phải biết loại bỏ những điều hủ lậu, lạc hậu của Nho giáo và
giữ gìn phát huy những nhân tố hợp lí của nó nhằm khơi phục lại truyền thống tốt đẹp xưa
nay của văn hố Việt Nam.
Gia đình là điều kiện tiên quyết cho xã hội ổn định, giáo dục gia đình sẽ góp phần

ngăn chặn những tệ nạn xã hội. Những ảnh hưởng tích cực của Nho giáo và mối quan hệ
gia đình cũng rất cần thiết và cần được duy trì như: hiếu để “kính trên nhường dưới”, “chị
ngã em nâng”, “tôn sư trọng đạo” “uống nước nhớ nguồn”… và khôi phục lại những mối
quan hệ, sinh hoạt gia đình truyền thống như thờ cúng tổ tiên, nhận lại anh em họ hàng
xa… củng cố quan hệ gia đình, gạt bỏ tư tưởng gia đình trị, thái độ bao che lẫn nhau của
người trong họ hàng, gia đình…
Tư tưởng khoan dung là một trong những tư tưởng lớn của Khổng - Mạnh. Những
quan niệm: tứ hải giai huynh đệ, kỷ sở bất dục vật thi ư nhân, dĩ hoà vi quý, kỷ dục lập nhi
lập nhân - Kỷ dục đạt nhi đạt nhân trong Luận ngữ thì thực sự là những mệnh đề có ý
nghĩa tích cực thể hiện một tinh thần khoan dung nhân hậu.
Xã hội hiện đại, trong một nước, một khu vực chứa bao nhiêu hiện tượng khác biệt
thậm chí là mâu thuẫn như: giàu - nghèo, sang - hèn, lạc hậu - tiến bộ, cá nhân - cá nhân,

21


×