Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Chứng minh Cách mạng tháng 81945 là thắng lợi của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Công sản Đông Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.51 KB, 28 trang )

MỤC LỤC

1


Đề tài:” Chứng minh Cách mạng tháng 8/1945 là thắng lợi của nhân dân
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Công sản Đông Dương”
I. Lời mở đầu.
Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng vĩ đại nhất của nhân dân ta trong thế
kỷ 20 dưới sự lãnh đạo và đường lỗi của Đảng Cộng sản Đông Dương. Thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mùa
thu năm 1945 đã tạo nên một bước ngoặt lịch sử, làm thay đổi căn bản vận mệnh của
đất nước và dân tộc ta, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi ra đời, ngày 3-2-1930, Đảng ta đã đề ra đường lối đúng đắn với mục
tiêu xuyên suốt của sự nghiệp cách mạng là “vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần tích cực vào phong trào cách mạng thế giới”. Vì
thế, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã gắn bó máu
thịt với nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tin tưởng tuyệt đối. Chỉ trong
vòng 15 năm Đảng ta đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao
trào cách mạng: cao trào cách mạng với đỉnh cao là phong trào Xô-viết - Nghệ Tĩnh;
cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ và cao trào cách mạng giải phóng dân tộc).
Tháng 8-1945, với nghệ thuật lãnh đạo tài tình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chớp thời
cơ thuận lợi nhất, lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành “tổng khởi nghĩa, đánh
đổ đế quốc phong kiến, thành lập nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á… với
tinh thần độc lập tự chủ, dựa vào sức mình, chủ động sáng tạo, xóa bỏ xiềng xích nơ
lệ, tự thay đổi cuộc sống của mình, là thắng lợi mở đầu cho cao trào giải phóng dân tộc
sau Chiến tranh thế giới thứ hai”.

2



II. Chứng minh
1. Bối cảnh lịch sử
1,1. Bối cảnh thế giới
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phe Trục gồm Đức, Ý, Nhật đánh lại phe
Đồng Minh gồm Anh, Pháp, Liên Xơ. Sau có Mỹ và nhiều nước nữa tham chiến (trong
đó có Việt Minh, Pathet Lào, Issarak Campuchia tại Đông Dương.
Vào tháng 9 năm 1940, ngay giữa Chiến tranh thế giới thứ hai, Chính phủ Vichy
của Pháp, vì đã đầu hàng Đức Quốc xã, đồng ý cho quân đội Nhật Bản đổ bộ vào Bắc
Kỳ. Ngay lập tức, quân đội Nhật dùng đó làm bàn đạp ảnh hưởng đến các chiến trường
Trung Quốc và Đông Nam Á. Trên thực tế, đây là một điểm quan trọng trong chiến
lược qn sự của Nhật nhằm thống trị tồn bộ Đơng Nam Á. Trong khi chờ đợi cuộc
đại thắng của Đức tại châu Âu, Nhật tạm thời duy trì hệ thống bảo hộ của Pháp tại
Đông Dương. (Trong những trận đánh lớn hồi đó có thể kể đến việc hải quân và không
quân Nhật xuất phát từ Cam Ranh và Sài Gịn tiêu diệt Hạm đội Viễn Đơng của Anh).
Dưới sự cai trị của Nhật, từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, nạn đói
khủng khiếp diễn ra làm 2 triệu người chết. Đây là thời cơ để Việt Minh xây dựng lực
lượng lớn khắp cả nước, họ tập hợp nhân dân phá các kho thóc Nhật để lấy gạo phát
cho dân đói. Giáo sư kinh tế Đặng Phong đánh giá việc giải quyết được nạn đói là lý
do giải thích tại sao tuyệt đại đa số dân chúng đã tin và đi theo Việt Minh. Đồng thời,
một đại hội đại biểu toàn quốc họp trên chiến khu, thành lập Quốc dân Đại hội, tức
quốc hội lâm thời.
Tại châu Âu, Đức thất trận và đầu hàng ngày 7 tháng 5 năm 1945. Ngày 6 tháng
8, Hoa Kỳ ném hai trái bom nguyên tử trên đảo Hiroshima và Nagasaki. Ngày 15
tháng 8, Nhật hồng tun bố đầu hàng vơ điều kiện. Quân Nhật tại Việt Nam dao
động nhưng không tan rã, thậm chí vẫn giữ nguyên khí giới và các chốt phòng thủ.
Tuyên bố Potsdam của Anh, Mỹ và Trung Hoa Dân quốc gửi Nhật ngày 26 tháng 7
khơng nói rõ phần lãnh thổ nào của Đông Dương sẽ do ai giải giới vũ khí mà chỉ nói
các vùng lãnh thổ do Nhật Bản chiếm được bằng vũ lực sẽ được các nước đồng minh
vào giải giới. Tuyên bố cũng không nhắc đến việc vùng nào do ai giải giới mà chỉ nói
là phe Đồng minh (bao gồm cả Việt Minh) sẽ tham gia giải giới.


3


Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân
đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực
dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hịng khơi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc
Mỹ đúng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử
phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay đổi chủ, chống
lại cách mạng.
Trước tình hình đó, Nhật bàn giao cho Khâm sai Bắc Kỳ, Phan Kế Toại, bộ máy
hành chính địa phương, Sở Bảo An, Sở Mật thám trung ương, Sở Kiểm duyệt và một
số công sở khác. Nhật chỉ giữ quyền kiểm sốt Ngân hàng Đơng Dương và Phủ Toàn
quyền. Đầu tháng 8/1945, cán bộ Việt Minh Đồn Xn Tín được giao nhiệm vụ gặp
Phan Kế Toại để nắm bắt tư tưởng và vận động ông ủng hộ Việt Minh, đồng thời thăm
dò thái độ của Chính phủ Trần Trọng Kim.
1.2.

Bối cảnh trong nước:
Trước những biến chuyển mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước, từ cuối
năm 1939, Đảng Cộng sản Đông Dương, lãnh tụ chính trị, Bộ tham mưu chiến đấu của
cách mạng Việt Nam đã kịp thời nhận định tình hình và điều chỉnh sự chỉ đạo chiến
lược, hướng toàn bộ cuộc vận động cách mạng vào mục tiêu giải phóng dân tộc.
Đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã về tới Cao Bằng, chọn Pác Bó làm
nơi xây dựng căn cứ chỉ huy cách mạng Việt Nam. Tại Pác Bó, dưới sự chủ trì của
Nguyễn Ái Quốc, từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941 đã diễn ra Hội nghị Trung ương lần
thứ VIII của Đảng, hoàn thiện chủ trương chuyển hướng chiến lược cách mạng Việt
Nam cho phù hợp với tình hình và yêu cầu khách quan của lịch sử. Hội nghị Trung
ương VIII quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt
Minh), hình thức mới của Mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng lãnh đạo để tập hợp

đông đảo nhất, rộng rãi nhất các giai cấp, tầng lớp Nhân dân Việt Nam vì mục đích
cứu quốc, giành độc lập dân tộc. Từ sau khi ra đời, Mặt trận Việt Minh đã nhanh chóng
trở thành hạt nhân quy tụ sức mạnh đồn kết dân tộc. Lực lượng cách mạng giương
cao ngọn cờ đại nghĩa của Việt Minh ngày càng được mở rộng và phát triển không
ngừng.

4


Trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Ngày
9/3/1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội
nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng quyết định phát động một cao trào
cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ
động, tổ chức và đấu tranh để thích hợp với thời kì tiền khởi nghĩa, tập dượt quần
chúng tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền. Tháng 3/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ
thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4/1945, Trung ương
triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng,
thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân, chỉ đạo việc chuẩn
bị giành chính quyền và thành lập chính quyền cách mạng. Ngày 16/4/1945, Tổng bộ
Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành
lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.

Thành viên Chính phủ lâm thời. Ảnh Tư liệu
Tình hình nước ta khi ấy quân Nhật hoang mang, Chính phủ bù nhìn Trần Trọng
Kim rệu rã, phong trào cách mạng của quần chúng phát triển rộng khắp, cao trào
kháng Nhật cứu nước sục sơi. Thời cơ ngàn năm có một để Tổng khởi nghĩa giành
chính quyền đã đến.
2. Diễn biến Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám
Khi nhậm chức, Bộ trưởng Tư pháp Trịnh Đình Thảo của chính phủ Trần Trọng
Kim đã ra lệnh thả hàng ngàn tù chính trị bị Pháp giam giữ trước đó bao gồm đảng

viên Đảng Cộng sản Đông Dương và các đảng phái quốc gia, đồng thời cho phép
5


các tổ chức, hội đồn chính trị được hoạt động công khai. Tin đồn lực lượng quân Nhật
sắp sửa đầu hàng đã lan tỏa khắp nơi tại miền Bắc, lợi dụng cơ hội, dân chúng đã tụ
tập biểu tình, bãi cơng nhiều nơi, như ở Thái Bình vào ngày 11 tháng 8. Từ ngày 12
tháng 8 năm 1945, các đơn vị Giải phóng quân của Việt Minh lần lượt tiến công các
đồn Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái,... và
hỗ trợ nhân dân các tỉnh này tiến lên giành chính quyền tại các tỉnh lỵ.
Hội nghị toàn quốc họp ở Tân Trào ngày 13 tháng 8 năm 1945.
Dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh với sự tham gia của Trường Chinh (chủ
tọa), Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng đã nhận định rằng, điều kiện cho Tổng
khởi nghĩa đã chín muồi và chuẩn bị lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa. Ủy ban Khởi nghĩa
toàn quốc được thành lập gồm: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Lê
Thanh Nghị và Chu Văn Tấn. Tuy nhiên, nhiều nơi nổi dậy khi chưa nhận được chỉ thị
của Trung ương. Một đoàn cán bộ gồm Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Huy
Cận vào Huế, và Hoàng Quốc Việt, Cao Hồng Lãnh, Nguyễn Thị Thập vào Sài Gịn để
đơn đốc khởi nghĩa.
Ngày 16 tháng 8, một số cán bộ Đảng Cộng sản và Việt Minh dù chưa nhận được
lệnh khởi nghĩa nhưng căn cứ vào tình hình hiện tại và chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau
và hành động của chúng ta" đã quyết định cùng nhân dân khởi nghĩa, khởi nghĩa lan
rộng ra xã thuộc các tỉnh ở đồng bằng sơng Hồng như Thanh Hóa, Thái Bình,...
Ngày 17 tháng 8 năm 1945, một đơn vị Giải phóng quân của Việt Minh do Võ
Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào (Tuyên Quang) kéo về bao vây, tấn công quân Nhật
ở thị xã Thái Nguyên.
Tổng khởi nghĩa Hà Nội
Sáng ngày 19 tháng 8, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận
theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội. Khoảng 10 giờ rưỡi,
cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng được sự bảo vệ của Thanh

niên tự vệ, của tổ chức Việt Minh Hoàng Diệu Hà Nội đã diễn ra. Đại diện Việt Minh
6


tuyên bố: Tổng khởi nghĩa! Chỉ đạo khởi nghĩa ở Hà Nội có Nguyễn Khang, Trần Tử
Bình, Nguyễn Quyết.
Trong điện gửi về Tokyo, Đại sứ Nhật tại Đông Dương xác nhận: "Chiều ngày
19, Đại sứ đã 'được mời' đến dự cuộc gặp với các lãnh đạo Etsumei (Việt Minh) và đã
tham gia bàn bạc với những người đó, được coi như là các nhà chức trách chính
thức."[8]
Diễn biến tại Huế
Ngày 17 tháng 8 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim tổ chức mít tinh ra mắt
quốc dân, nhưng bởi sự ủng hộ của người dân, cuộc mít tinh đã biến trở thành cuộc
tuần hành ủng hộ lực lượng Việt Minh. Ngày 23/8, khởi nghĩa ở Huế giành thắng lợi.
Chỉ đạo khởi nghĩa có Nguyễn Chí Thanh và Tố Hữu. Cuộc khởi nghĩa có sự đóng góp
của lực lượng Thanh niên tiền tuyến (Thanh niên Phan Anh), đây vốn là bộ phận bảo
vệ trị an của chính phủ Trần Trọng Kim nhưng khi cách mạng nổ ra đã quay sang ủng
hộ Việt Minh.
Diễn biến tại miền Nam
Ở Sài Gòn, hành động chuyển giao quyền lực có ý nghĩa biểu tượng quan trọng
là lời cam kết ngày 22 tháng 8 của Thống chế Terauchi với Trần Văn Giàu và Phạm
Ngọc Thạch - hai đại diện cao cấp của Việt Minh - về việc qn Nhật khơng can thiệp
nếu Việt Minh giành chính quyền. Ơng Terauchi cịn trao kiếm cá nhân và khẩu súng
tùy thân cho đại diện của Việt Minh để làm tin
Tại Sài Gòn, Huỳnh Phú Sổ kết hợp các tổ chức chính trị Cao Đài, Hồ Hảo, Việt
Nam Quốc dân đảng, Đại Việt Quốc dân đảng... thành Mặt trận Quốc gia Việt Nam
Thống nhất, tổ chức một cuộc biểu tình lớn chống Pháp.
Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Việt Minh và Thanh niên Tiền phong làm nòng cốt tổ
chức biểu tình và giành chính quyền tại Sài Gịn (nơi chịu sự cai trị trực tiếp của
Nhật). Chỉ đạo nổi dậy ở nội thành là nhóm Việt Minh Tiền phong do Trần Văn Giàu

chỉ đạo.
7


Đến ngày 30 tháng 8, Việt Minh giành được chính quyền tồn quốc. Hai tỉnh
giành được chính quyền cuối cùng là Hà Tiên và Đồng Nai Thượng.
Hoàng đế Bảo Đại thoái vị

Chân dung vua Bảo Đại.
Sau khi Việt Minh giành chính quyền tại Hà Nội và nhiều nơi khác, Thủ tướng
Đế quốc Việt Nam Trần Trọng Kim ở Huế nộp đơn xin từ chức.
Lực lượng quân đội Nhật tại Việt Nam khơng có phản ứng đáng kể trước những
hoạt động của Việt Minh vì lúc này Nhật đã tuyên bố đầu hàng phe Đồng minh và
đang chờ quân Đồng minh tới giải giáp, mặt khác vua Bảo Đại và Thủ tướng Đế quốc
Việt Nam Trần Trọng Kim đã từ chối lời đề nghị của Tư lệnh quân đội Nhật về việc
đem quân Nhật chống lại Việt Minh.
Ngày 22 tháng 8, Việt Minh gửi cơng điện u cầu Bảo Đại thối vị, họ đã giành
được chính quyền trên khắp cả nước.
Trước sức ép quá lớn từ phía người dân trong những giờ phút quyết định, Đại
thần Phạm Khắc Hịe khơng ngừng nhắc lại câu sấm truyền: "Bò Đái thất thanh, Nam
Đàn sinh thánh". Vị thánh đó có thể là nhà chí sĩ Phan Bội Châu, nhưng Phan Bội
Châu đã không thành công và đã mất năm 1940. Từ những năm 1920, người ta lại giải
thích vị thánh cứu nước chỉ có thể là Nguyễn Ái Quốc, cùng quê ở Nam Đàn (Nghệ
8


An). Chính câu sấm truyền ấy cùng với dư luận đồn đại, theo ơng Hịe kể lại sau này,
đã khiến Nhà vua đi đến quyết định cuối cùng. Ngày 20 tháng 8, Bảo Đại cho biết ơng
sẵn sàng thối vị ngay nếu người đứng đầu Việt Minh là Nguyễn Ái Quốc.[13]
Bảo Đại tuyên bố chấp nhận thoái vị, từ bỏ ngai vàng và trở thành công dân Vĩnh

Thụy. Ngày 25 tháng 8, hàng ngàn người tụ tập trước cửa Ngọ Mơn xem nhà vua
đọc Tun ngơn Thối vị. Vua Bảo Đại mong chính phủ mới đối xử ơn hồ với các
đảng phái đối lập để họ có thể góp sức kiến thiết quốc gia và để chứng tỏ chính thể
mới xây đắp trên sự đoàn kết quốc dân đồng thời tuyên bố "muốn được làm Dân một
nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị".
Tuyên ngôn độc lập
Cuối tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh lo chuyện tác động đến các lãnh đạo của
phe Đồng Minh theo hướng công nhận nền độc lập của Việt Nam, cũng như chuyện
phải nắm quyền lực nhà nước hoặc phải tự thể hiện bản thân như là biểu tượng dân tộc
của sự thống nhất và tự quyết. Hồ Chí Minh quyết định trực tiếp đọc bản Tuyên ngôn
Độc lập cố gắng truyền trực tiếp bản Tuyên ngôn độc lập đến mọi miền Tổ quốc nhưng
các vấn đề kỹ thuật lúc đó đã khơng cho phép điều này diễn ra. Bản tuyên ngôn độc
lập có độ dài vừa đủ do những người Việt tham gia buổi lễ hơm đó phần lớn cịn chưa
tiếp xúc với hoạt động mít-tinh kiểu châu Âu như thế này bao giờ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tun ngơn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình,
ngày 2 tháng 9 năm 1945.
9


Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội). Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc bản Tun ngôn Độc lập và tuyên bố sự khai sinh của một nước Việt
Nam mới: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên ngôn, dựa theo bản Tuyên ngôn
Độc lập Hoa Kỳ, bắt đầu bằng câu: Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng.
Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy,
có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Hồ Chí Minh cũng
trích dẫn Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp 1791 khi đọc bản Tun ngơn
độc lập.
Mặc dù chương trình được mong đợi bắt đầu vào đúng 2 giờ chiều, nhưng xe hơi
chở các thành viên trong nội các Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã đến trễ 25 phút khi

phải đi xuyên qua các đám đơng. Hồ Chí Minh dẫn đầu những người còn lại bước
nhanh lên khán đài. Sau lễ chào cờ và hát quốc ca, Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Nội
vụ, bước tới micrơ giới thiệu Hồ Chí Minh, người được chào mừng bằng những tiếng
hô vang dội được sắp xếp trước, "Độc lập! Độc lập!" Bác vẫy tay trước khán thính giả
trong vài phút, đoạn nâng hai bàn tay lên để kêu mọi người im lặng. Bằng giọng Nghệ
Tĩnh đặc trưng, Bác Hồ bắt đầu đọc Tuyên ngôn Độc lập. Khi Hồ Chí Minh có những
tương tác với quần chúng như khi ơng hỏi: "Đồng bào có nghe rõ không?" và đám
đông đồng thanh hô vang "Rõ!".[26]
Trong buổi lễ này, thơng qua bản Tun ngơn độc lập, Hồ Chí Minh cũng đã kêu
gọi các nước Đồng minh ủng hộ nền độc lập chân chính do nhân dân Việt Nam vừa tự
tay giành được thông qua Cách mạng tháng Tám. Bác tuyên bố rằng Chính phủ lâm
thời đã huỷ bỏ hết mọi hiệp ước do Pháp kí trong quan hệ với Việt Nam và bãi bỏ hết
mọi đặc quyền của người Pháp. Kết thúc bài phát biểu của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh giới thiệu từng bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời với quần chúng nhân dân và
tất cả đều làm lễ tuyên thệ nhậm chức. Sau đó, Trần Huy Liệu, bộ trưởng bộ thông tin
và tuyên truyền, báo cáo trước khán thính giả về buổi lễ thối vị của Bảo Đại ở Huế ba
ngày trước đó, và rồi trao thanh kiếm hồng gia và ấn cho Hồ Chí Minh. Sau đó,
Người tuyên bố rằng thanh kiếm, trước đây được dùng để đàn áp dân chúng, giờ đây
sẽ được dùng để "chặt đầu kẻ phản bội". Cuối cùng, trước khi kết thúc buổi lễ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: "Chúng ta sẽ phải trải qua nhiều khốn khó và đau khổ hơn
10


nhiều. Đồng bào phải ủng hộ chính quyền, để sau này có thêm nhiều buổi ăn mừng và
thắng lợi!".
Tiếp theo đó, đất nước non trẻ tổ chức tổng tuyển cử, xây dựng nhà nước dân chủ
độc lập đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh được 98,4% ủng hộ.

11



3. Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm
3.1.Ý nghĩa lịch sử
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nơ lệ của chủ nghĩa đế
quốc trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ qn chủ chun chế ngót
nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước của nhân dân đầu
tiên ở Đông Nam Á, giải quyết thành công vấn đề cơ bản của một cuộc cách mạng xã
hội là vấn đề chính quyền.
-Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ thân phận nộ lệ
bước lên địa vị người chủ đất nước, có quyền quyết định vận mệnh của mình.
Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập có chủ
quyền, vươn lên cùng các dân tộc trên thế giới đấu tranh cho những mục tiêu cao cả
của thời đại là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật trở thành một đảng
cầm quyền. Từ đây, Đảng và nhân dân Việt Nam có chính quyền nhà nước cách mạng
làm cơng cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
-Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch
sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do và hướng tới chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc lần đầu tiên
giành thắng lợi ở một nước thuộc địa, đã đột phá một khâu quan trọng trong hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã của chủ nghĩa thực
dân cũ.
-Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là chiến công của dân tộc Việt
Nam mà cịn là là chiến cơng chung của các dân tộc thuộc địa đang đấu tranh vì độc
lập tự do, vì thế nó có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng
tạo của Đảng và tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh. Nó chứng tỏ rằng: một cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo hồn tồn có khả năng
thắng lợi ở một nước thuộc địa trước khi giai cấp công nhân ở chính quốc ” lên nắm
chính quyền. Cách mạng Tháng Tám đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý

luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc.

12


2. Bài học kinh nghiệm
Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều
kinh nghiệm quý báu.
- Thứ nhất, về chỉ đạo chiến lược, phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc,
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng
ruộng đất. Trong cách mạng thuộc địa, phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu, còn nhiệm vụ cách mạng ruộng đất cần tạm gác lại, rải ra thực hiện từng bước
thích hợp nhằm phục vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc.
- Thứ hai, về xây dựng lực lượng: Trên cơ sở khối liên minh công nông , cần
khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng nước
trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, Việt Minh là một điển hình thành cơng của
Đảng về huy động lực lượng toàn dân tộc lên trận địa cách mạng, đưa cả dân tộc vùng
dậy trong cao trào kháng Nhật cứu nước, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Theo cách dùng từ của VILênin trong tác phẩm Tổng kết một quốc cuộc tranh luận về
quyền tự quyết, thì đó chính là một “ lị lửa khởi nghĩa dân tộc ”.
- Thứ ba, về phương pháp cách mạng: Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng
của quần chúng, ra sức xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp
đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích cục bộ và khởi
nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận ở những vùng nơng thơn có điều kiện,
tiến lên chớp đúng thời cơ, phát động tổng khởi nghĩa ở cả nơng thơn và thành thị,
giành chính quyền tồn quốc.
- Thứ tư, về xây dựng Đảng: Phải xây dựng một Đảng cách mạng tiên phong của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam, tuyệt đối trung thành
với lợi ích giai cấp và dân tộc; vận dụng và phát triển lý luận Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, đề ra đường lối chính trị đúng đắn; xây dựng một đảng vững mạnh về tư

tưởng, chính trị và tổ chức, liên hệ chặt chẽ với quần chúng và với đội ngũ cán bộ
đảng viên kiên cường được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng.
4. Nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám - 1945
Cách mạng Tháng Tám thành công do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân
đầu tiên cũng là nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định, đó là sự lãnh đạo
đúng đắn, sáng suốt, khôn khéo của Đảng, là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác13


Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và
sáng tạo có phương pháp; chiến lược, chiến thuật cách mạng thích hợp và linh hoạt.
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám là đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của toàn dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng, trải qua ba cao trào cách mạng lớn: Cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh
(1930 - 1931), cao trào dân chủ (1936 - 1939), cao trào cứu nước trong chiến tranh thế
giới thứ hai (1939 - 1945). Qua đấu tranh gian khổ, với nhiều hy sinh to lớn, Đảng ta
đã từng bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng được lực lượng
xung quanh mình, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phân hóa
lực lượng kẻ thù, xác định kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt để có sách lược khơn
khéo tập hợp lực lượng. Đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, phương châm,
phương pháp, sách lược cách mạng mềm dẻo, linh hoạt đã lơi cuốn, tập hợp, đồn kết
các tầng lớp nhân dân thành một khối thống nhất, hun đúc bầu nhiệt huyết, làm bùng
cháy ngọn lửa cách mạng trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Trong quá trình vận
động cách mạng, Đảng ta đã coi trọng cả đấu tranh chính trị lẫn đấu tranh vũ trang, kết
hợp chặt chẽ, linh hoạt, không chỉ chú ý đưa nhân dân vào các tổ chức chính trị, Đảng
cịn từng bước vũ trang cho nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Lực
lượng vũ trang đó, được nhân dân ni dưỡng, đùm bọc, có chỗ đứng vững chắc là các
căn cứ địa cách mạng. Vì thế, cho đến ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, tuy ta chưa
có đội quân chủ lực mạnh nhưng đã có đủ các loại lực lượng vũ trang phát triển khắp
nơi, ta có ưu thế về lực lượng chính trị so với kẻ thù; Đảng đã phát huy ưu thế đó,
chớp đúng thời cơ lịch sử ngàn năm có một, với nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức khởi nghĩa khéo léo, tài tình, Đảng đã đưa cuộc Tổng khởi nghĩa đến thắng lợi

trọn vẹn trong cả nước.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là sự vận dụng thời cơ cách mạng chín
muồi, lực lượng cách mạng đã được chuẩn bị chu đáo cộng với sự lãnh đạo sáng suốt
tài tình của Đảng, biết nắm lấy thời cơ, biết sử dụng lực lượng cách mạng đúng lúc,
kết hợp chính trị và vũ trang, lấy lực lượng chính trị của nhân dân giữ vai trị quyết
định, kết hợp nơng thơn và thành thị, kết hợp các hình thức đấu tranh hợp pháp và
không hợp pháp, từ thấp lên cao, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa
giành thắng lợi hồn tồn, đó chính là ngun nhân chủ yếu đưa cuộc Tổng khởi nghĩa
Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi.
14


Nguyên nhân thứ hai cũng rất quan trọng, đó là tinh thần yêu nước, ý chí quật
cường của các tầng lớp nhân dân ta không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất
nước, nghe theo tiếng gọi của Đảng, quyết vùng lên đánh đổ bọn đế quốc, phát xít
cướp nước, bọn vua quan phong kiến, tay sai bán nước. Tinh thần yêu nước nồng nàn
của con người Việt Nam được hun đúc qua mấy ngàn năm lịch sử, được thử thách
trước “thiên tai và địch họa”... Điều kiện địa lý và hoàn cảnh lịch sử từ bao đời đã hình
thành và trao truyền tinh thần đồn kết, lịng yêu nước, ý chí quật cường, sự mưu trí,
sáng tạo của người dân đất Việt trong quá trình chế ngự thiên nhiên và chống chọi với
giặc giã. Xuyên suốt chiều dài lịch sử nhọc nhằn đó đã bồi đắp lịng u q hương đất
nước, tình đồn kết bền chặt của cộng đồng cư dân sinh sống, làm ăn trên đất nước
Việt Nam. Sức mạnh của khối Đại đoàn kết toàn dân tộc đã được Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh nhìn nhận: “Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy
lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Cuộc Tổng
khởi nghĩa năm 1945 là thành tựu tuyệt vời của tinh thần, ý chí, trí tuệ của con người
Việt Nam. Tinh thần, trí tuệ ấy xuất hiện từ buổi đầu lịch sử dân tộc, đã được nâng lên
một tầm cao mới sau 15 năm đấu tranh quật cường dưới sự lãnh đạo của một Đảng

Mácxít - Lêninnít chân chính.
Nguyên nhân thứ ba là Đảng ta tiến hành cuộc cách mạng Tháng Tám trong bối
cảnh quốc tế thuận lợi; đó là việc quân đội Liên Xô và đồng minh đã đánh bại phát xít
Đức, Ý, Nhật, thắng lợi đó đã tạo điều kiện cho các lực lượng bị áp bức, yêu hịa bình
và các lực lượng tiến bộ trên thế giới có điều kiện để giành thắng lợi khi biết lợi dụng
được thời cơ ngàn năm có một này. Trong bối cảnh ở nước ta, quân Pháp bị Nhật hất
chân, quân Nhật lại bị Hồng quân Liên Xô và quân đồng minh đánh cho bại trận, đang
hoang mang cao độ và đang tan rã, quân đội các nước đồng minh chưa kịp vào Đông
Dương giải giáp quân đội Nhật.
Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng để đi đến thắng lợi, đã có
biết bao nhiêu đồng bào, đồng chí đã khơng hề tiếc xương máu, hy sinh oanh liệt. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói: "Chính họ đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của dân tộc
lên trên hết, đã tin tưởng sâu sắc vào tương lai của Đảng, của dân tộc, đã hy sinh tất cả,
15


đem xương máu vun tưới cho cây cách mạng, cho nên cây cách mạng đã khai hoa, kết
quả tốt đẹp như ngày nay". Đó cũng là một nguyên nhân quan trọng để đưa cuộc cách
mạng chúng ta đến thành công.
5. Chứng minh Cách mạng tháng 8/1945 là thắng lợi của nhân dân Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của ĐCSDD
5.1 Sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời mảnh đất
Sài Gịn ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người không chọn Nhật hay
Trung Quốc như một số người yêu nước Việt Nam đã ra đi, mà Người muốn đến
phương Tây, sang chính nước Pháp - nước đang cai trị Việt Nam. Sau đó, Người đi
sang Châu Mỹ, đến nước Mỹ, Anh.
Sau 10 năm bôn ba ở nước ngoài (1911-1920), từ một người yêu nước, Nguyễn
Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, trở thành người cộng sản và tìm thấy con
đường cứu nước đúng đắn. Người đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào

công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị những điều kiện để thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nếu từ năm 1921 đến cuối năm 1924, chủ yếu Người chuẩn bị về mặt chính trị,
tư tưởng, thì từ năm 1925 trở đi, Người chú trọng về mặt tổ chức. Trước hết, Người
thành lập một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản, đó là Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên, hạt nhân là Cộng sản đoàn. Người mở lớp huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ. Những cán bộ này sau khi nắm được những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin, trở về nước thâm nhập phong trào công nhân và phong trào u nước,
thực hiện “vơ sản hóa”. Nhờ thấm nhuần tư tưởng cách mạng tiên tiến nhất của thời
đại, phong trào cơng nhân chuyển dần từ trình độ “tự phát” sang “tự giác” mà một nội
dung có ý nghĩa quan trọng là giai cấp công nhân đã giác ngộ về chủ nghĩa Mác-Lênin
và đường lối cách mạng vơ sản, giác ngộ về sự cần thiết phải có Đảng Cộng sản.
Tháng 6/1925, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập được
thành lập, là cơ sở để xây dựng Đảng Cộng sản và thực hiện sứ mệnh lịch sử là chuẩn
bị về tư tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức cán bộ cho sự ra đời của Đảng Cộng sản.

16


Ngày 17/6/1929, tại số nhà 132 phố Khâm Thiên (Hà Nội) các đồng chí trong Kỳ
bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã quyết định thành lập Đông Dương
Cộng sản Đảng. Sau khi ra đời, Đông Dương Cộng sản Đảng hoạt động mạnh mẽ và
phát triển nhanh tổ chức trong cả nước.
Việc thành lập An Nam Cộng sản Đảng cũng diễn ra, ngày 16/8/1929, đã thành
lập chi bộ An Nam Cộng sản ở Gị Cơng, Mỹ Tho. Giữa tháng 9/1929, thành lập đặc
ủy An Nam Cộng sản ở Hậu Giang.
Ở Trung Kỳ, nhiều thanh niên trí thức đã sớm xây dựng tổ chức yêu nước, Hội
Phục Việt ra đời vào tháng 7/1925, sau đó đổi thành Hội Hưng Nam (1926), Việt Nam
cách mạng đồng chí hội (tháng 7/1927), Tân Việt cách mạng Đảng (tháng 7/1928),
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (tháng 1/1930).

Như vậy, trong những tháng cuối của năm 1929, từ hai tổ chức Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên và Tân Việt cách mạng Đảng đã dẫn tới thành lập ba tổ chức
cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương
Cộng sản Liên đồn. Từ thực tế đó, phản ánh nhu cầu bức bách của cách mạng Việt
Nam đòi hỏi phải có một Đảng Cộng sản mới đủ sức lãnh đạo và tổ chức các phong
trào.
Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đến Hồng Kông, tại đây thay mặt cho Quốc tế
cộng sản, Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản trong nước
để hợp nhất thành một Đảng Cộng sản. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
họp từ ngày 6/1 đến đầu tháng 2/1930, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc (Đồng chí
Nguyễn Ái Quốc - phái viên của Quốc tế Cộng sản, Ủy viên Bộ phương Đông phụ
trách Cục phương Nam của quốc tế Cộng sản). Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra ý kiến
chỉ đạo với 5 điểm lớn:
“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm
cộng sản Đơng Dương;
2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng;
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
5. Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai đại biểu chi
bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương.”
17


Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam phản ánh các điều kiện để thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam và Đơng Dương đã chín muồi với vai trị to lớn của Nguyễn
Ái Quốc và các chiến sĩ cộng sản. Sự ra đời của một Đảng cách mạng chân chính là
hết sức cần thiết. Nguyễn Ái Quốc đã sớm đặt vấn đề “Cách mệnh trước hết phải có
cái gì?”. Và Người đã giải thích: “Trước hết phải có đảng cách mạng, để trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp
mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững

thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng
phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như
người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”.[3]
Từ khi có Đảng, lịch sử dân tộc Việt Nam bước sang một trang mới, 54 dân tộc
anh em trên đất nước bước sang một cuộc đời mới. Trong những ngày thiêng liêng khi
Đảng ta mới ra đời, đánh dấu bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh - người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, người tiêu biểu cho sự kiên trì lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cho lịng nhân ái và tinh hoa khí phách, trí
tuệ Việt Nam, đã ra lời kêu gọi “Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là
Đảng của giai cấp vơ sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho tồn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta.
Từ nay a nh em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng”.
Đảng ta mang bản chất giai cấp cơng nhân. Đồng thời, người cộng sản có vinh dự
to lớn là mọi người Việt Nam yêu nước, dù đảng viên hay không phải đảng viên đều tự
hào gọi Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng ta”, “Đảng của mình”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh rất quan tâm tới việc xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân.
Đảng lãnh đạo, dân làm chủ, Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, tức là Đảng trực tiếp lãnh
đạo chính quyền, lãnh đạo Nhà nước, thì Đảng phải lấy dân làm gốc; phát huy cao độ
quyền làm chủ của nhân dân. Nội dung Đảng gắn bó với dân có nhiều, nhưng quan
trọng nhất là biết lắng nghe ý kiến của dân, học hỏi dân, khai thác và chắt lọc trí tuệ
của dân, chăm lo lợi ích cho cả dân tộc. “Hễ cịn có một người Việt Nam bị bóc lột, bị
nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ” [5].

18


5.2 Vai trò của ĐCSĐD trong việc lãnh đạo nhân dân tiến tới thắng lợi của
Cách mạng tháng 8
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo

của Đảng Cộng sản Đông Dương đứng lên phá bỏ xiềng xích nơ lệ gần một thế kỷ
dưới ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và hàng nghìn năm của chế độ
quân chủ; giành quyền làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời mới. Mở ra một kỷ nguyên
mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đập tan ách phát xít Nhật, lật đổ ách thống trị
87 năm (1858-1945) của thực dân Pháp, xóa bỏ chế độ quân chủ chuyên chế gần 1.000
năm, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Một trụ cột góp phần quan trọng giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám và cũng
là vấn đề cốt lõi trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay là vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nhưng kẻ thù của cách mạng tìm cách xuyên tạc những thành quả, những giá trị
to lớn của Cách mạng Tháng Tám. Sự xuyên tạc của chúng làm cho một số người
không hiểu, hoặc không muốn hiểu sự thật của cách mạng. Một số luận điểm cho rằng
vào tháng 8-1945, thời cơ xuất hiện khi quân Nhật bại trận phải đầu hàng, lực lượng
các nước Đồng minh tiếp nhận sự đầu hàng chưa vào Đông Dương kịp, do đó xuất
hiện "một khoảng trống quyền lực" nhờ đó mà dân tộc Việt Nam giành được độc lập
một cách quá dễ dàng, không phải đổ máu, chẳng qua là do "vận may". Thậm chí họ
cịn cho rằng Cách mạng Tháng Tám chẳng qua "may mắn" mà vớ được chính quyền...
Những người này coi thường hoặc phủ nhận hoàn toàn vai trò lãnh đạo của Đảng trong
việc chuẩn bị lực lượng đón bắt thời cơ - nhân tố chủ quan quyết định thắng lợi Cách
mạng Tháng Tám 1945.

19


Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách
mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ
Đó là sự nhận thức sai lầm và ngoan cố, xuyên tạc. Sự thật lịch sử đã khẳng định
vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng là nhân tố chủ quan quan
trọng nhất quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Nói như vậy, khơng có
nghĩa là phủ nhận nhân tố khách quan.

Đến tháng 8-1945, ở Việt Nam tình thế khách quan vơ cùng thuận lợi xuất hiện.
Thực hiện lời cam kết ở Hội nghị Yanta, ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với
Nhật, quân đội Liên Xô tấn công đội quân Quan Đông tinh nhuệ nhất gồm hơn 1 triệu
quân của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Bên cạnh việc quân đội Liên Xô tiến đánh
quân đội Nhật thì Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirôsima ngày (6-8-1945) và
Nagadaki ngày (9-8-1945). Trước sức mạnh của đồng minh, ngày 11-8-1945 Chính
phủ Nhật gửi thơng điệp cho Liên Xô, Mỹ và các nước Đồng minh chấp nhận đầu
hàng vơ điều kiện. Đúng như dự đốn của lãnh tụ Hồ Chí Minh thì đây là cơ hội nghìn
năm có một để nhân dân ta thực hiện tổng khởi nghĩa.
Lúc này, thời cơ đã đến. Thời cơ xuất hiện trong những ngày tháng 8 - 1945
khơng chỉ có ở Việt Nam mà cịn ở nhiều nước Đơng Nam châu Á bị quân đội Nhật
chiếm đóng. Các nước này tuy có điều kiện khách quan thuận lợi giống như ở Việt
Nam, nhưng không chớp được thời cơ khởi nghĩa hoặc kịp thời phát động tổng khởi
nghĩa nhưng thành quả thu được khơng nhiều, vì lực lượng chưa được chuẩn bị đầy đủ,
Đảng tiên phong chưa nắm được quyền lãnh đạo cách mạng… Chỉ có duy nhất ở Việt
Nam từ khi Đảng thành lập năm 1930 đến năm 1945, đảng từng bước chuẩn bị lực
20


lượng, sẵn sàng chờ thời cơ đến và kịp thời chớp thời cơ, lãnh đạo nhân dân Tổng khởi
nghĩa thắng lợi.
Đảng đã vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, ra sức và tích cực chuẩn bị lực lượng để đón thời cơ giành thắng lợi chứ
không khoanh tay chờ thời một cách bị động. Sự lãnh đạo tích cực của Đảng trong
việc chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền, được thể hiện trên
3 mặt sau:
Một là, Đảng đã xây dựng và phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ
trang và căn cứ địa để chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, quần chúng nhân dân được
chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa khi thời cơ đến.
Ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Minh được thành lập với tơn chỉ và mục đích của

mình: “Liên hiệp hết các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể
dân chúng yêu nước, đặng cùng nhau đánh đuổi Nhật, Pháp, làm cho Việt Nam hoàn
toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Mặt trận Việt Minh ra
đời đã nhanh chóng phát triển trong tồn quốc, là hạt nhân và nịng cốt thực hiện đoàn
kết toàn thể dân chúng tiến hành sự nghiệp cách mạng đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Lực lượng chính trị to lớn ấy khơng ngừng được mở rộng và trình độ giác ngộ ngày
càng nâng cao, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng chính trị to lớn này đóng vai trị
quyết định giành thắng lợi trong cách mạng tháng 8 năm 1945.
Cao trào kháng Nhật, cứu nước dâng cao, vấn đề khẩn trương phát triển lực
lượng vũ trang, thống nhất và kiện toàn tổ chức quân sự để kịp thời chớp thời cơ tổng
khởi nghĩa đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách. Để đáp ứng yêu cầu chiến lược đó,
Thường vụ Trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ. Hội
nghị họp từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 4 tại xã Hồng Vân (Hiệp Hịa - Bắc Giang).
Sau Hội nghị này, thời cơ tiến lên Tổng khởi nghĩa chín muồi nhanh chóng; lãnh tụ Hồ
Chí Minh từ Cao Bằng về Tân Trào để trực tiếp chỉ đạo phong trào trong cả nước (51945). Hình thái chiến tranh du kích cục bộ - khởi nghĩa từng phần - giành chính
quyền trong từng địa phương đang tiến tới cao trào, hàng loạt sự kiện sơi động diễn ra
để kịp đón thời cơ phát động tồn dân khởi nghĩa: Khu giải phóng được thành lập với
trung tâm là Tân Trào; lực lượng vũ trang được thống nhất thành Việt Nam Giải phóng
quân; Hội nghị tồn quốc của Đảng và ngay sau đó là Quốc dân đại hội, quyết định
21


phát động Tổng khởi nghĩa; Ủy ban dân tộc giải phóng được thành lập và quyết định
những vấn đề chiến lược và sách lược đối nội và đối ngoại sau khi giành chính quyền
trong cả nước.
Trải qua 4 năm (1941 - 1945), trong suốt quá trình phát triển đấu tranh chính trị
kết hợp với đấu tranh vũ trang, chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã bám sát phong trào và nắm bắt tình hình, kịp thời chỉ đạo toàn dân triển khai
một cách sáng tạo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương. Nét
đặc sắc trong sự chỉ đạo đó là mọi chủ trương của Đảng đều quán triệt và cụ thể hóa

đường lối, chiến lược cách mạng đã được Hồ Chí Minh vạch ra 4 năm trước, vận dụng
trong bối cảnh tình hình trong và ngồi nước biến chuyển hết sức mau lẹ, có lợi cho
cách mạng.
Cùng với xây dựng và phát triển lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, Đảng
đã tập trung lãnh đạo và chỉ đạo xây dựng căn cứ địa làm nơi đứng chân nhằm củng cố
và xây dựng lực lượng cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 7 của Đảng (11/1940),
Trung ương chủ trương thành lập các căn cứ du kích, lấy Bắc Sơn - Võ Nhai làm trung
tâm. Trên đường trở về Tổ quốc, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng lựa chọn
Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Để hoàn chỉnh chủ trương chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược, đưa vấn đề dân tộc lên hàng đầu, Hội nghị Trung ương 8
(5/1941) quyết định duy trì và phát triển các căn cứ du kích Bắc Sơn, Võ Nhai, đồng
thời ra sức củng cố và mở rộng căn cứ địa Cao Bằng. Trong một thời gian ngắn, chúng
ta đã xây dựng được một vùng căn cứ địa Việt Bắc rộng lớn, bao gồm hầu hết các vùng
nông thôn thuộc sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang,
Thái Nguyên, cùng nhiều chiến khu và căn cứ vũ trang khác như: Bắc Giang, Vĩnh
Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, n Bái, Hải Dương, Ninh Bình, Thanh Hố, Quảng Ngãi ...
Đó là q trình vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin về khởi nghĩa vũ trang và
chiến tranh cách mạng trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Các căn cứ địa
cách mạng trên cả nước góp phần vào sự thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ
đại.

22


Hai là, Đảng tích cực vận động, lơi kéo tầng lớp trung gian đứng về phía cách
mạng.
Trong hệ thống lý luận của giai cấp vô sản, vấn đề tranh thủ tầng lớp trung gian
có tầm quan trọng lớn mặc dù về cơ bản tầng lớp trung gian khơng đóng vai trò đầu
tàu quyết định trong những bước ngoặt của lịch sử. Nhưng khi các tầng lớp trung gian
ngả về phía cách mạng thì nó tạo thêm điều kiện thuận lợi cho cách mạng thành công.

Trái lại, nếu Đảng lãnh đạo cách mạnh không tranh thủ được tầng lớp trung gian, thì
nhiều khi thời cơ đã chín muồi mà vẫn khơng thể làm cách mạng thắng lợi nhanh
chóng được.
Tình cảnh khó khăn của tầng lớp trung gian là tiền đề tạo ra khả năng lôi cuốn họ
vào con đường đấu tranh chống Pháp - Nhật. Nhưng từ khả năng đến hiện thực là cả
một q trình vận động. Chính sách của Đảng với tầng lớp trung gian trong thời kỳ
Cách mạng Tháng Tám là: phê bình, uốn nắn, vạch đường lối, chân thành đoàn kết
cùng nhau đưa cách mạng đến thành cơng. Chẳng những thẳng thắn phê bình mà Đảng
cịn chân thành đoàn kết trong hành động thực tế. Đảng giúp đỡ các tầng lớp trung
gian lập ra tổ chức của mình để phát huy năng lực phục vụ Tổ quốc. “Tháng 6 năm
1944 Đảng dân chủ Việt Nam ra đời với tư cách là một chính đảng cách mạng của tư
sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức yêu nước tiến bộ” làm cho thành phần tổ chức của
Mặt trận Việt Minh ngày thêm phong phú và khả năng hiệu triệu của tầng lớp trung
gian tham gia đánh đuổi Nhật càng được tăng thêm. Tuy vậy, cho đến cuộc đảo chính
của Nhật ngày 9-3-1945 các tầng lớp trung gian tham gia phong trào cách mạng chống
Nhật - Pháp vẫn chưa đơng đảo. Sau đảo chính, nhiều nhân vật trung gian vẫn trải qua
một bước dao động ngắn rồi với mạnh dạn tham gia phong trào cứu quốc một cách
đông đảo. Một số đông quần chúng trung gian thoạt đầu còn bị mắc lừa Nhật và bọn
tay sai Đại Việt quốc gia liên minh vì tưởng rằng Nhật đã ban cho mình độc lập thật,
cứ thế mà hưởng. Một số nhân vật trung gian khác, tuy hiểu rằng Nhật chẳng tốt đẹp
gì, nhưng thiếu quan điểm đấu tranh cách mạng nên lập lờ chủ trương lợi dụng Nhật
hoặc lợi dụng chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim để xây dựng lực lượng cho Việt Nam
để sau này Nhật thua có thể chống Pháp nếu Pháp quay trở lại xâm lược lần nữa, điển
hình là tổ chứcTân Việt Nam hội. Hơn nữa, bộ mặt có vẻ trung gian của nội các bù
nhìn Trần Trọng Kim cũng làm cho nhiều người mắc lừa… Trước tình hình đó, Đảng
23


chủ trương phải vạch mặt chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim "Thân phận bù nhìn của
nó chỉ giữ được bù nhìn, phương châm của nó hứa hẹn nhiều nhưng thực hành ít, hay

thực hành trái với lời hứa. Nhiệm vụ của nó là bọc nhung cho ách Nhật và hùa với giặc
áp bức bóc lột nhân dân”, và bóc dần cái vẻ độc lập giả hiệu của phát xít Nhật... Sự
phê bình, giúp đỡ của Đảng đã làm cho quần chúng trung gian dần dần tỉnh ngộ và đi
theo cách mạng. Mặt khác, thực tiễn chứng minh những điều phê bình chỉ dẫn của
Đảng là đúng. Ngày 13-8-1945, sau khi Nhật đầu hàng đồng minh tầng lớp trung gian
nói chung đều theo cách mạng.
Ba là, Đảng tiền phong đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, nắm bắt thời cơ,
biết địch biết ta trăm trận trăm thắng, sẵn sàng lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa
giành chính quyền
Ngay từ năm 1930 tại Hội nghị thành lập Đảng, Chánh cương vắn tắt của Đảng
xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập". Đường lối chiến lược và
sách lược của Đảng đúng đắn ngay từ đầu và không ngừng được bổ sung, phát triển
cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Đặc biệt tại Hội nghị lần thứ tám của Ban
Chấp hành Trung ương (5-1941) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì đã đề ra
chủ trương thay đổi chiến lược cáchmạng. Hội nghị quyết định tiếp tục chủ trương tạm
gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để tranh thủ mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Hội nghị nhấn mạnh “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, khơng địi được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể
quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của các bộ phận, giai cấp
đến vạn năm cũng khơng địi được”(5). Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Việt
Minh, xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi
nghĩa.
Cuối năm 1944, Hồng quân Liên Xô phản công tiêu diệt phát xít Đức, Ý, giải
phóng các nước Đơng Âu, làm cho quân Nhật ở Đông Dương hoang mang dao động.
Trước tình hình đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh nhận định: "Bây giờ tình hình phát triển cách
mạng hịa bình đã qua, nhưng thời kỳ khởi nghĩa toàn dân chưa đến. Cho nên nếu chỉ
hoạt động trong vịng chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào tiến tới, nhưng
nếu phát động khởi nghĩa ngay thì sẽ bị quân địch làm cho nguy khốn. Đã đến lúc một
24



cuộc đấu tranh phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức qn sự, nhưng lúc này
chính trị vẫn trọng hơn quân sự, cần phải tiến hành hình thức đấu tranh thích hợp thì
mới có thể đưa cách mạng tới thành cơng".
Đêm 9-3-1945, khi Nhật đảo chính Pháp, ngay đêm đó Hội nghị Ban Thường vụ
Trung ương mở rộng được triệu tập tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí
Trường Chinh chủ trì. Ban thường vụ Trung ương Đảng nhận định về thời cơ có thể nổ
ra khởi nghĩa: Tình hình chính trị trong cả nước khủng hoảng sâu sắc, nạn đói ghê gớm
diễn ra, chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt là những cơ hội tốt cho khởi nghĩa đi đến
chín muồi một cách nhanh chóng; Khi qn Đồng minh kéo vào Đơng Dương, khi
phát xít Nhật đưa quân ra ngăn cản quân Đồng minh, để sau lưng sơ hở thì lúc đó là
lúc phát động khởi nghĩa vô cùng thuận lợi. Đồng thời bản Chỉ thị nói rõ “Dù sao ta
khơng thể đem việc qn Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho
cuộc khởi nghĩa của ta, vì như thế lại ỷ vào người và tự bỏ tay trong khi tình thế biến
chuyển thuận tiện. Nếu cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân
dân Nhật thành lập hay nếu giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn
chinh của Nhật mất tinh thần thì khi ấy quân đồng minh chưa đổ bộ vào Đơng Dương
thì cuộc tổng khởi nghĩa của ta có thể bùng nổ thắng lợi”. Dự kiến này gần đúng với sự
thật diễn ra trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Thực hiện chỉ thị trên, Đảng phát động cao trào kháng Nhật cứu nước (thời kỳ
tiền khởi nghĩa) lãnh đạo toàn dân gấp rút chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa giành
chính quyền trong cả nước. Hội nghị thay đổi khẩu hiệu (đánh đuổi phát xít Nhật Pháp) trước đây bằng khẩu hiệu đánh đuổi phát xít Nhật và đề ra việc thành lập chính
quyền cách mạng của nhân dân. Bản Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta” thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời nhạy bén, bình tĩnh thận
trọng và sáng tạo. Bản chỉ thị là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và của Mặt
trận Việt Minh trong cao trào kháng Nhật cứu nước, quyết định trực tiếp đối với thắng
lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.
Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về việc tổ chức Uỷ ban dân tộc
giải phóng các cấp và trong phạm vi cả nước thì lập Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt

Nam tức chính quyền cách mạng lâm thời của nước Việt Nam mới.

25


×