Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG (1930)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.89 KB, 61 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
—–—–—–—–—–––—

THẢO LUẬN NHĨM
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI: VAI TRỊ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG Q
TRÌNH VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG (1930)

Lớp học phần
Nhóm
Giáo viên

: 2105RLCP0111
:2
: Nguyễn Huy Cát

—Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
—–—–—–—–—–––—
THẢO LUẬN NHĨM ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG

SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: VAI TRỊ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG Q TRÌNH VẬN
ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG (1930)
Lớp học phần


: 2105RLCP0111

Nhóm

:2

Giáo viên

: Nguyễn Huy Cát

ST
T

Họ tên

1

Phạm Đức Anh

2

Tạ Thị Phương Anh

3

Nguyễn Thị Ngọc Ánh

4

Phan Thị Hồng Ánh


5

Nguyễn Thị Phương Châm

6

Nguyễn Minh Châu

7

Nguyễn Thị Đào

8

Nguyễn Thị Diễm

Nhóm tự
đánh giá

Nhận xét của GV

Điểm
của GV



Mục lục
Bài làm của Phạm Đức Anh..................................................................................1
Bài làm của Tạ Thị Phương Anh...........................................................................7

Bài làm của Nguyễn Thị Ngọc Ánh....................................................................14
Bài làm của Phan Thị Hồng Ánh.........................................................................21
Bài làm của Nguyễn Thị Phương Châm..............................................................28
Bài làm của Nguyễn Minh Châu.........................................................................34
Bài làm của Nguyễn Thị Đào..............................................................................41
Bài làm của Ngô Thị Diễm..................................................................................48


Họ và tên: Phạm Đức Anh
Mã SV: 18D170103

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đề tài:

VAI TRỊ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG Q TRÌNH VẬN ĐỘNG
THÀNH LẬP ĐẢNG (1930)
1. Giới thiệu – Bối cảnh
Cuối thế kỉ XIX, do sự bất lực của triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam từ một
quốc gia độc lập, thống nhất có chủ quyền bị thực dân Pháp xâm lược và biến
thành thuộc địa. Chế độ cai trị độc tài và chuyên chế đã làm cho xã hội Việt
Nam biến đổi toàn diện, mạnh mẽ, với sự lệ thuộc, lạc hậu của xã hội và sự
bần cùng của đại đa số dân cư. Với truyền thống yêu nước và tinh thần quật
cường dân tộc, ngay khi đất nước đối đầu với họa ngoại xâm, khi triều
Nguyễn ngày càng lún sâu vào vũng bùn đầu hàng, từ bỏ chủ quyền quốc gia
cho thực dân Pháp, nhiều phong trào yêu nước đã diễn ra. Mục tiêu chung là
bảo vệ, khơi phục nền độc lập dân tộc, tồn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc
gia, chấn hưng đất nước, tiêu biểu như khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Bãi
Sậy, khởi nghĩa Hương Khê, phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế
trong hệ tư tưởng phong kiến cuối thế kỷ XIX, qua các phong trào Đông Du,

Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân theo xu hướng dân chủ tư sản đầu thế kỷ
XX, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ… Tuy nhiên, các phong trào yêu
nước đó đều đi đến thất bại.
Đã có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của các phong trào u nước,
song ngun nhân chính đó chính là thiếu vắng lực lượng lãnh đạo, chưa có
hệ tư tưởng khoa học dẫn đường, chưa có lý luận và đường lối cách mạng
đúng đắn, sáng tạo và nhất là chưa có tổ chức lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, sự thất bại của các cuộc
phong trào là không hề vô ích, nó chính là động lực cho ý chí vươn lên sáng
1


tạo của con người Việt Nam, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp bách phải có một
lực lượng soi đường, dẫn dắt.
Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình nho học có tư tưởng truyền thống
u nước, đồng thời chịu ảnh hưởng của truyền thống đấu tranh, đánh giặc
ngoại xâm, Nguyễn Ái Quốc đã đồng cảm với nỗi khổ của dân tộc từ sớm.
Với trí tuệ, sự sáng tạo, suy nghĩ độc lập, Người đã nhìn nhận ra những hạn
chế, sai lầm của những nhà Cách Mạng đi trước nên Người đã chọn cho mình
một con đường mới, đó chính là sang phương Tây. Chính sự lựa chọn này đã
tạo ra một bước ngoặt lịch sử, một sự thay đổi trọng đại cho toàn dân tộc Việt
Nam về sau.
2. Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc
Trong bối cảnh lịch sử đó, Nguyễn Ái Quốc – Hồ chí Minh với lịng u
nước, thương dân sâu sắc, lại sớm được tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của
nhân loại về “tự do, bình đẳng, bác ái” được truyền đến Việt Nam, với tầm
nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng tạo đã sớm hình thành ý chí u
nước, cứu đồng bào ở Người.
Trải qua gần 10 năm nghiên cứu, khảo nghiệm, học tập, tìm tịi, hoạt động
khơng ngừng ở nhiều quốc gia, ở hầu khắp các châu lục. Tháng 7/1920, lần

đàu tiên Người đọc: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân Đạo (L’Humanite), số
ra ngày 16 và 17/7/1920. Luận cương lập tức thu hút sự chú ý đặc biệt của
Nguyễn Ái Quốc. Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn giải phóng đất
nước khỏi ách thực dân, cứu dân cứu nước là theo con đường cách mạng vơ
sản, con đường có mục đích cao cả là giải phóng dân tộc để tiến tới giải
phóng con người.
Nguyễn Ái Quốc trở thành người Việt Nam đầu tiên, nghiên cứu, tổng kết,
tìm ra bản chất của các học thuyết, các cuộc cách mạng trên thế giới, chắt
lọc, vận dụng và phát triển cho phù hợp với dân tộc mình. Năm 1927, trong
tác phẩm Đường Kách mệnh, Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Người đặt vấn đề cách mệnh trước hết phải
có cái gì? Người chỉ rõ: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh” và “Đảng có
vững cách mệnh thì mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Đảng mà khơng
có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”.
Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức sâu sắc sự gắn bó mật thiết giữa giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Và
2


Người cũng sớm nhận thức rõ, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc chân
chính là một động lực lớn của cách mạng và đã kết hợp tài tình chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa Mác – Lênin – học thuyết cách mạng tiên tiến nhất của
thời đại. Người nhận thức, chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước mới có thể xây dựng được một Đảng
cách mạng chân chính đảm bảo cho cách mạng phát triển đúng hướng và đi
đến thắng lợi.
3. Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong

nước và chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
Bằng nhiều hoạt động, trong giai đoạn 1921 - 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính
trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
Về chính trị:
Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước. Nguyễn Ái
Quốc đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của
cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng của Người
cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng
Châu (Trung Quốc). Năm 1927, những bài giảng của người trong các lớp
huấn luyện được in thành sách lấy tên là Đường Kách mệnh. Tác phẩm chỉ ra
vấn đề then chốt có tác dụng lớn không chỉ đối với Việt Nam, mà cịn đối với
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa Phương
Đông. Những vấn đề đó là: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chủ yếu
là cơng nơng, vì vậy phải tổ chức quần chúng lại; cách mạng muốn thành
cơng phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có đường lối và phương
pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ
với cách mạng vô sản thế giới…
Về tư tưởng:
Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công
nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời
sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến lập
trường của giai cấp công nhân. Nội dung truyền bá là những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hóa cho phù hợp với trình độ của
các giai tầng trong xã hội. Những bài viết, bài giảng với lời văn giản dị, nội
dung thiết thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần chúng. Đồng thời,
Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân
dân thuộc địa, nhân dân Việt Nam. Trong tác phẩm Đường Kách
3



mệnh, Người tố cáo thực dân Pháp đã bắt dân bản xứ phải đóng "thuế máu"
cho chính quốc... để "phơi thây trên chiến trường châu Âu"; "đày đọa" phụ
nữ, trẻ em thuộc địa; các thống sứ, quan lại thực dân "độc ác như một bầy thú
dữ" v.v... Tác phẩm đã "hướng các dân tộc bị áp bức" đi theo con đường cách
mạng Tháng Mười Nga, tiêu diệt "hai cái vòi của con đỉa đế quốc" – một
"vòi" bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc, một "vịi" bám vào nhân dân
thuộc địa và đề ra cho dân Việt Nam con đường cách mạng vô sản theo chủ
nghĩa Mác – Lênin.
Về tổ chức:
Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của
chính đảng vơ sản của giai cấp cơng nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào
tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung
Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm
1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo
Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên đã giúp cho những người Việt Nam yêu nước
xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của
Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Người trong chuẩn bị
về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân
dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác Lênin được Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong
nước, cùng với phong trào "vơ sản hố" đã làm chuyển biến phong trào cơng
nhân, giác ngộ họ và tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác.
Thông qua phong trào “vô sản hoá”, lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn
luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ
nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thúc đẩy
phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự
ra đời của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi

và hợp qui luật cho sự ra đời của Đảng.
Từ đó ta có thể thấy rằng, sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ
chức cho việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam vào những ngày đầu năm
1930 là những đóng góp to lớn, vững chắc và là sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc - Người thanh niên yêu nước chân
chính, tài ba, lỗi lạc.
4. Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.

4


Nửa cuối năm 1929 – đầu 1930, Việt Nam xuất hiện 3 tổ chức cộng sản là
Đông Dương Cộng Sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản ĐẢng (10/1929)
và Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn (1/1930). Sự ra đời của 3 tổ chức trên
đã là một minh chứng cho sự thắng thế của xu hướng cộng sản trong phong
trào cách mạng Việt Nam.
Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm (Thái Lan), mặc dù
chưa nhận được chỉ thị của Quốc tế cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ
chức cộng sản ở Việt Nam. Song với sự nhạy bén về chính trị, sự chủ động
cao, thực hiện trọng trách lịch sử đối với dân tộc, với vai trò, trách nhiệm
trong Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp
nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Tham dự Hội nghị có các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (2
đại biểu) và An Nam Cộng sản Đảng (2 đại biểu) và 2 đại biểu hải ngoại (Hồ
Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn). Cịn Đơng Dương Cộng sản Liên đồn đã thành
lập, song chưa có liên hệ, nên chưa được triệu tập đại biểu đến dự (và ngày
24/02/1930, tổ chức này được hợp nhất vào Đảng Cộng sản Việt Nam).
Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo, đã thể
hiện rõ con đường giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam là “làm tư

sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng” (tức cách mạng dân tộc dân
chủ), “thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng” để đi tới xã
hội cộng sản”. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách
mạng, tức cách mạng dân tộc, dân chủ, trong đó giành hết độc lập dân tộc
được đặt ở vị trí trên hết. Ở Việt Nam, trước hết phải làm “dân tộc cách
mệnh”, tức trước hết phải đánh đổ sự cai trị, nô dịch dân tộc của chủ nghĩa đế
quốc, giành lại quyền bình đẳng dân tộc, tự do cho dân nước mình: “dân tộc
cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí
chống lại cường quyền”. Có thể thấy, trong Chánh cương vắn tắt, Hồ Chí
Minh đã thực hiện 3 cuộc giải phóng cách mạng vơ sản ở một nước thuộc địa
như nước ta là: giải phóng dân tộc phải tiến hành trước tiên, tạo tiền đề giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Nói một cách khác giải phóng, giành độc
lập dân tộc là bước đi đầu tiên của cuộc cách mạng vô sản ở nước thuộc địa,
ở Việt Nam. Đây là một luận điểm cơ bản, chính yếu trong Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng. Đây cũng là một đóng góp đặc sắc, bổ sung phát triển
chủ nghĩa Mác –Lênin trên phương diện lý luận về các mơ hình vận động,
phát triển của cuộc cách mạng vô sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, có vai trị to lớn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện những nỗ lực hoạt động nhận thức, phát
5


triển lý luận cách mạng gắn liền với hoạt động thực tiễn không mệt mỏi của
Người, đặc biệt là ở những luận điểm cách mạng độc đáo và sáng tạo, xác
lập. Nói cách khác, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp
của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước.
Trải qua 90 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, sự nghiệp cách mạng nước
ta đã giành được những thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Nhân

dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự dẫn dắt của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã
đồn kết, đồng lịng đánh thắng các thế lực thù địch, những chiến công đã đi
vào lịch sử như Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống
Pháp 1945, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975. Đặc biệt,
những thành tựu của công cuộc đổi mới gần 35 năm qua, càng chứng minh
cho sự lựa chọn đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và khẳng
định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thắng lợi to lớn
đó đã chứng minh một chân lý: “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Từ thực tiễn phong phú của công cuộc đổi mới và kết quả nghiên cứu lý
luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta ngày càng sáng tỏ hơn. Cương lĩnh bổ sung phát triển năm 2011 đã
rút ra 8 đặc trưng của xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, 8 phương hướng cơ bản
xây dựng chủ nghĩa xã hội và 8 mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết
tốt, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Công cuộc đổi mới không
chỉ làm biến đổi sâu sắc diện mạo đất nước, cuộc sống của nhân dân mà còn
mang lại nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, những thành tựu to
lớn qua gần 35 năm đổi mới đã làm cho thế và lực của nước ta được nâng cao
trên trường quốc tế, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã
khẳng định nhân lễ kỉ niệm 90 năm thành lập Đảng: Chưa bao giờ chúng ta
có được cơ đồ như ngày hôm nay. Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2020), chúng ta cùng nhìn lại những
đóng góp, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, nhìn
lại chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc gắn liền với sự lớn mạnh của
Đảng cách mệnh chân chính - Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta càng cảm
phục về tư tưởng, tầm vóc và cơng lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong suốt tiến trình cách mạng đất nước nói chung, trong vận động hợp nhất
các điều kiện cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.


6


7


Họ và tên: Tạ Thị Phương Anh
Mã SV: 18D170003
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình hình thành vận động đảng
cộng sản Việt Nam 1930

Cuối thế kỷ XIX, sau khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay thực thi các
chính sách thực dân hà khắc, biến nước ta từ một nước phong kiến độc lập trở
thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết
sức gay gắt. Hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác nhau
liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó, tiêu biểu là phong trào
Cần Vương do Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng; phong trào
Đông Du của Phan Bội Châu; phong trào cải cách của Phan Chu Trinh, khởi
nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo... Các cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, nhưng cuối cùng đều bị thất bại vì thiếu một
đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp
sức mạnh của tồn dân tộc.
Chính vì thế,sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cách đây hơn 90 năm đáp
ứng yêu cầu phát triển khách quan của phong trào yêu nước và của giai cấp công
nhân nước ta lúc bấy giờ. Sự ra đời của Đảng cũng gắn liền với tên tuổi của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc.
Về bối cảnh lịch sử
Bối cảnh quốc tế
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang

chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên trong
tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm
lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế
quốc làm đời sống nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn
giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác
-Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử
loài người; là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
8


Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát
triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam,
Quốc tế Cộng sản có vai trị quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa MácLênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bối cảnh trong nước
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy
thống trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân
ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”.
Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều
thay đổi.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền
lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một chính
sách chun chế điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động
yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẽ ba nước
Đông Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực
hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.
Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách
bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài ngun,

cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở công
nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc
địa.
Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng bưng bít, ngăn
cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại,
xun tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục lạc
hậu.
Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt
Phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nơng dân;
một bộ phận địa chủ có lịng u nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới
các hình thức và mức độ khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội
Việt Nam đều mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực dân áp bức,
bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp. Do đó, mẫu thuẫn cơ bản
trong xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu
là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu thuẫn ngày
càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.

9


Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống thực dân
Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi vào
khủng hoảng về đường lối cách mạng
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào
đấu tranh của nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên do thiếu
đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó
đã lần lượt thất bại. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong
trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do
Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào nơng dân n Thế của Hồng
Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi. Phong trào yêu

nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái
do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại,… Cách mạng Việt Nam chìm
trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy và lựa chọn con đường đúng đắn
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Cách mạng Tháng Mười
Nga, Nguyễn Ái Quốc đã tìm hiểu “chủ nghĩa Uyn Xơn” và thấy rõ đây là “một
trò bịp lớn”. Người chứng kiến thực trạng xã hội TBCN; nghiên cứu diện mạo,
bản chất bóc lột tàn bạo của CNTB, đế quốc, thực dân; thấy rõ tính chất dân chủ
giả hiệu, “không đến nơi” của các cuộc cách mạng tư sản Anh, Pháp, Mỹ. Đây là
tiền đề quan trọng để Nguyễn Ái Quốc tiếp thu, nắm bắt được “ánh sáng lý
luận” từ bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa của V.I. Lênin.
Giữa lúc dân tộc đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều
nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày
5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Ái Quốc,
Hồ Chí Minh về sau) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới.

Tiếp xúc với bản Luận cương của Lênin (đăng trên báo Nhân đạo, cơ quan ngôn
luận của Đảng Xã hội Pháp, số ra ngày 16 và 17-7-1920), bằng sự mẫn cảm về
chính trị, tư duy nhạy bén và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của 10 năm lăn
lộn trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các
nước thuộc địa và tư bản, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. “Tình hình chính trị thế giới hiện nay đã đặt
vấn đề chun chính vơ sản thành vấn đề trước mắt… Tất cả các phong trào giải
phóng dân tộc trong các thuộc địa và trong các dân tộc bị áp bức mà kinh
nghiệm đau đớn đã làm cho họ tin chắc rằng đối với họ khơng có con đường cứu
10



vãn nào khác ngồi sự chiến thắng của Chính quyền Xô viết đối với chủ nghĩa
đế quốc thế giới”.
Nguyễn Ái Quốc là một trong số ít các nhà yêu nước ở các nước thuộc địa tiếp
thu được “ánh sáng kỳ diệu” từ bản Luận cương của Lênin, nhận thức và nắm
bắt được xu hướng phát triển của thời đại từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga.
Sự kiện Người gia nhập Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp (12-1920) có ý nghĩa quan trọng: trở thành người cộng sản đầu tiên của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, chính thức đưa cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc ở nước ta vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới, gắn
liền độc lập dân tộc với CNXH. Đây là “sự khẳng định một hướng đi mới,
nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn
bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa
cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự
nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư
tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng.
Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin và chuẩn bị thành lập
đảng
Về chính trị : Người phác thảo những vấn đề cơ bản của đường lối cứu nước
đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng của
Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại
Quảng Châu (Trung Quốc). Những vấn đề then chốt trong tác phẩm có tác dụng
lớn khơng chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc của nhân dân các nước thuộc địa Phương Đơng. Những vấn đề đó là: cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, chủ yếu là công nông, vì vậy phải tổ chức
quần chúng lại, cách mạng muốn thành cơng phải có một Đảng Cộng sản lãnh
đạo, phải có đường lối và phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng
dân tộc phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng vô sản thế giới…
Người nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam như tính chất giải
phóng dân tộc của cách mạng, những động lực chủ yếu của nó - cơng nhân và
nơng dân là “gốc cách mệnh”, “học trị, nhà bn, điền chủ nhỏ” là bầu bạn cách

mệnh của công nông.
Người xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng
thế giới: “An Nam dân tộc cách mệnh thành cơng thì tư bản Pháp yếu, tư bản
Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng “dễ”và “ai làm cách
mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”. Luận điểm trên là cụ
thể hóa và phát triển quan điểm của Người đã nêu trước đây về tính chủ động và
khả năng thắng lợi trước của cách mạng thuộc địa đối với cách mạng chính

11


quốc. Những nội dung đó đem đến cho quần chúng niềm tin, quyết tâm chủ
động đứng lên làm cách mạng cứu nước, cứu nhà.
Về tư tưởng: Người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nhằm làm
chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho
hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm
chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến lập trường của giai cấp
công nhân.
Nội dung truyền bá là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được
cụ thể hóa cho phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội. Người truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam không phải bằng các tác phẩm kinh
điển, những cuốn sách lý luận đồ sộ mà bằng các tác phẩm ngắn gọn, dể hiểu,
phù hợp với trình độ quần chúng. Những bài viết, bài giảng với lời văn giản dị,
nội dung thiết thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần chúng. Người đã
vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa,
nhân dân Việt Nam; nêu lên mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng
giải phóng dân tộc.
Về tổ chức: Cùng với việc truyền bá lý luận chính trị để chuẩn bị cho sự ra đời
của một chính Đảng, Người đã dày cơng chuẩn bị về mặt tổ chức đó là huấn
luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu

(Trung Quốc) tiến tới thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6-1925) để
vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là một tổ chức
tiền thân có tính chất quá độ, vừa tầm, thích hợp với thực tiễn cách mạng Việt
Nam bấy giờ. Nó giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các
thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy
sáng tạo và là thành công của Người trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra
đời.
Như vậy, có thể thấy rằng Người đã chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ
chức, là một sáng tạo lớn và vững chắc cho việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
vào mùa xuân năm 1930. Đó là thành quả tất yếu của sự kết hợp giữa chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, mà
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giữ vai trò là người kiến tạo và sáng lập. Điều đó càng
làm sáng tỏ thêm vai trị to lớn của tầm cao tư tưởng và phương pháp hoạt động
thực tiễn của Người trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
12


Nguyễn Ái Quốc hợp nhất các tổ chức cộng sản
Từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930 (từ ngày 5 đến ngày 9 tháng Giêng năm Canh
Ngọ). Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất, thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Buổi đầu tổ chức tại một căn phịng của một cơng nhân nghèo, sau đó chuyển
qua một số địa điểm khác ở Cửu Long (Hồng Kông, Trung Quốc).
Đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng 1930 sản Đảng, chi
bộ của những người cộng sản Việt Nam ở nước ngồi đã tham dự Hội nghị.
Hội nghị đã nhất trí với đề xuất của Nguyễn Ái Quốc về việc hợp nhất các tổ
chức cộng sản thành một Đảng duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị
đã thông qua những văn kiện chính thức của Đảng - Chánh cương vắn tắt của
Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam
- do Người khởi thảo. Nội dung của các văn kiện này xác định cách mạng Việt

Nam là “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”; “thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư
bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ cơng nơng binh quản lý”;
“Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng… trung, tiểu địa
chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu
mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng
Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”, “khơng khi nào nhượng một chút lợi ích gì của
cơng nơng mà đi vào đường thỏa hiệp”, “phải đồng tuyên truyền và thực hành
liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp
Pháp”. Các văn kiện này là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Ý nghĩa
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập có ý nghĩa quan trọng:
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc
và giai cấp ở Việt Nam, là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác -Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng
Việt Nam:
+ Chấm dứt sự khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt
Nam, khẳng định giai cấp công nhân Việt Nam từ đây đã nắm quyền tuyệt đối
lãnh đạo cách mạng với đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Từ đây, cách mạng Việt Nam đã có một đường lối lãnh đạo đúng đắn được nêu
ra trong Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng.
13


- Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã gắn cách mạng Việt Nam trở thành
một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự chuẩn bị đầu tiên có tính tất yếu, quyết
định cho những bước phát triển nhảy vọt về sau của cách mạng và lịch sử dân
tộc Việt Nam.


14


Họ và tên: Nguyễn Thị Ngọc Ánh
Mã SV: 18D170004
Đề tài: Vai trị của Nguyễn Ái Quốc trong q trình vận động thành lập
Đảng (1930)

1. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến
chuyển sâu sắc.
a) Thế giới:
Trên thế giới mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày
càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các
nước thuộc địa. Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ
nghĩa Mác -Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, trở thành nguồn cổ vũ to lớn
cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người. Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III)
ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế.
b) Trong nước:
Ở trong nước, năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết
lập bộ máy thống trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ
thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù
hung ác”. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam
có nhiều thay đổi trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Trong đó đặc biệt là sự ra đời hai giai cấp mới là công nhân và tư sản Việt Nam.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân mất
nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép. Do đó, mẫu thuẫn cơ bản trong

xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông
dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu thuẫn ngày càng
gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Trong bối cảnh đó, các phong trào yêu nước của nhân dân ta theo khuynh hướng
tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên,
do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong
trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng
sâu sắc về đường lối cứu nước.
15


2. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn
cho dân tộc ta.

Từ cuối thế kỷ XIX, do sự bất lực của triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam từ một
quốc gia độc lập, thống nhất có chủ quyền bị thực dân Pháp xâm lược và biến
thành thuộc địa. Chế độ cai trị độc tài và chuyên chế đã làm cho xã hội Việt
Nam biến đổi toàn diện, mạnh mẽ, với sự lệ thuộc, lạc hậu của xã hội và sự bần
cùng của đại đa số dân cư. Với truyền thống yêu nước và tinh thần quật cường
dân tộc, ngay khi đất nước đối đầu với họa ngoại xâm, khi triều Nguyễn ngày
càng lún sâu vào vũng bùn đầu hàng, từ bỏ chủ quyền quốc gia cho thực dân
Pháp, nhiều phong trào yêu nước đã diễn ra. Mục tiêu chung là bảo vệ, khôi
phục nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia, chấn hưng đất
nước, tiêu biểu như khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Bãi Sậy, khởi nghĩa Hương
Khê, phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế trong hệ tư tưởng phong kiến
cuối thế kỷ XIX, qua các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân
theo xu hướng dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX, phong trào chống thuế ở Trung
Kỳ… Tuy nhiên, các phong trào yêu nước đó đều đi đến thất bại.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước, song
nguyên nhân chính là thiếu lực lượng lãnh đạo, chưa có hệ tương tưởng khoa

học dẫn đường, chưa có lý luận và đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo và
nhất là chưa có một tổ chức lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc. Sự thất bại của các phong trào yêu nước thể hiện sự khủng
hoảng, bế tắc của các phương cách cứu nước truyền thống Việt Nam trước sự
chuyển biến của thời cuộc. Song sự thất bại đó khơng hề vơ ích, nó là động lực
thơi thúc ý chí vươn lên sáng tạo của con người Việt Nam, đồng thời đặt ra yêu
cầu cấp bách phải có một ánh sáng mới soi đường, dẫn dắt.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với lịng u nước,
thương dân sâu sắc, lại sớm được tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại
về “tự do, bình đẳng, bắc ái” được truyền đến Việt Nam, với tầm nhìn chiến lược
và phương pháp tư duy sáng tạo đã sớm hình thành ý chí cứu nước, cứu đồng
bào ở Người. Người nhận thấy những bất cập và bế tắc của con đường cứu nước
của thế hệ cha anh đang tiến hành và yêu cầu bức bách đối với dân tộc là phải
tìm kiếm con đường cách mạng mới và Người đã đảm đương trọng trách đó.
Trải qua gần 10 năm nghiên cứu, khảo nghiệm, học tập, tìm tịi, hoạt động
khơng ngừng ở nhiều quốc gia, ở hầu khắp các châu lục. Tháng 7/1920, lần đầu
tiên Người đọc: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân Đạo (L’Humanite), số ra ngày 16 và
17/7/1920. Luận cương lập tức thu hút sự chú ý đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc.
16


Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách thực
dân, cứu dân cứu nước là theo con đường cách mạng vô sản, con đường có mục
đích cao cả là giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người. Sau này
Người viết: “Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi,
sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình
trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi
đồng bào bị đày đọa và đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng cho chúng ta!

Nguyễn Ái Quốc trở thành người Việt Nam đầu tiên, nghiên cứu, tổng kết, tìm ra
bản chất của các học thuyết, các cuộc cách mạng trên thế giới, chắt lọc, vận
dụng và phát triển cho phù hợp với dân tộc mình. Năm 1927, trong tác phẩm
Đường Kách mệnh, Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lênin”. Cũng trong tác phẩm đó, Người đã thấy sự cần thiết phải có Đảng
để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đặt vấn đề cách mệnh trước hết phải có
cái gì? Người chỉ rõ: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh” và “Đảng có vững
cách mệnh thì mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới
chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Đảng mà khơng có chủ
nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”
Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức sâu sắc sự gắn bó mật thiết giữa giải phóng dân
tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Và Người
cũng sớm nhận thức rõ, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc chân chính là
một động lực lớn của cách mạng và đã kết hợp tài tình chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa Mác – Lênin – học thuyết cách mạng tiên tiến nhất của thời đại.
Người nhận thức, chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước mới có thể xây dựng được một Đảng cách mạng
chân chính đảm bảo cho cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.
3. Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong
nước và chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
Bằng nhiều hoạt động, trong giai đoạn 1921 - 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã
tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư
tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng:
a) Về chính trị:
Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước. Nguyễn Ái
Quốc đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của
cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng của Người cho
những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng
17



Châu (Trung Quốc). Năm 1927, những bài giảng của người trong các lớp
huấn luyện được in thành sách lấy tên là Đường Kách mệnh. Tác phẩm chỉ ra
vấn đề then chốt có tác dụng lớn khơng chỉ đối với Việt Nam, mà cịn đối với
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa Phương
Đông. Những vấn đề đó là: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chủ yếu
là cơng nơng, vì vậy phải tổ chức quần chúng lại; cách mạng muốn thành
cơng phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có đường lối và phương
pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ
với cách mạng vô sản thế giới…
b) Về tư tưởng:
Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công
nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời
sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến lập
trường của giai cấp cơng nhân. Nội dung truyền bá là những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hóa cho phù hợp với trình độ của
các giai tầng trong xã hội. Những bài viết, bài giảng với lời văn giản dị, nội
dung thiết thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần chúng. Đồng thời,
Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân
dân thuộc địa, nhân dân Việt Nam. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh,
Người tố cáo thực dân Pháp đã bắt dân bản xứ phải đóng "thuế máu" cho
chính quốc... để "phơi thây trên chiến trường châu Âu"; "đày đọa" phụ nữ, trẻ
em thuộc địa; các thống sứ, quan lại thực dân "độc ác như một bầy thú dữ"
v.v... Tác phẩm đã "hướng các dân tộc bị áp bức" đi theo con đường cách
mạng Tháng Mười Nga, tiêu diệt "hai cái vòi của con đỉa đế quốc" – một
"vòi" bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc, một "vịi" bám vào nhân dân
thuộc địa và đề ra cho dân Việt Nam con đường cách mạng vô sản theo chủ
nghĩa Mác – Lênin.

c) Về tổ chức:
Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của
chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào
tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung
Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm
1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo
Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên đã giúp cho những người Việt Nam yêu nước
xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của

18


Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Người trong chuẩn bị
về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta
tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác - Lênin được
Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùng
với phong trào "vơ sản hố" đã làm chuyển biến phong trào cơng nhân, giác ngộ
họ và tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác. Thông qua phong trào
“vô sản hoá”, lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn, giác
ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng, lợi ích của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, thúc đẩy phong trào công nhân và phong
trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản
đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi và hợp qui luật cho sự ra đời của
Đảng.
Có thể thấy rằng, sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc
ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam vào những ngày đầu năm 1930 là những đóng
góp to lớn, vững chắc và là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam của Nguyễn
Ái Quốc - Người thanh niên yêu nước chân chính, tài ba, lỗi lạc.

4. Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm (Thái Lan), mặc dù chưa
nhận được chỉ thị của Quốc tế cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng
sản ở Việt Nam. Song với sự nhạy bén về chính trị, sự chủ động cao, thực hiện
trọng trách lịch sử đối với dân tộc, với vai trò, trách nhiệm trong Quốc tế cộng
sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ
mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ ngày 06/01/1930
đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long – Hồng Công (Trung Quốc), Hội nghị hợp
nhất đã được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Tham dự Hội nghị
có các đại biểu của Đơng Dương Cộng sản Đảng (2 đại biểu) và An Nam Cộng
sản Đảng (2 đại biểu) và 2 đại biểu hải ngoại (Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn).
Cịn Đơng Dương Cộng sản Liên đồn đã thành lập, song chưa có liên hệ, nên
chưa được triệu tập đại biểu đến dự (và ngày 24/02/1930, tổ chức này được hợp
nhất vào Đảng Cộng sản Việt Nam). Với sự nhất trí cao, Hội nghị đặt tên Đảng
là Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách
lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng
do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đã trở thành Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng.
Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo, đã thể hiện
rõ con đường giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam là “làm tư sản dân
19


quyền cách mạng và thổ địa cách mạng” (tức cách mạng dân tộc dân chủ), “thực
hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng” để đi tới xã hội cộng sản”.
Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, tức cách mạng
dân tộc, dân chủ, trong đó giành hết độc lập dân tộc được đặt ở vị trí trên hết. Ở
Việt Nam, trước hết phải làm “dân tộc cách mệnh”, tức trước hết phải đánh đổ
sự cai trị, nô dịch dân tộc của chủ nghĩa đế quốc, giành lại quyền bình đẳng dân
tộc, tự do cho dân nước mình: “dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa

là sĩ, nơng, cơng, thương đều nhất trí chống lại cường quyền” . Có thể thấy,
trong Chánh cương vắn tắt, Hồ Chí Minh đã thực hiện 3 cuộc giải phóng cách
mạng vơ sản ở một nước thuộc địa như nước ta là: giải phóng dân tộc phải tiến
hành trước tiên, tạo tiền đề giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Nói một cách
khác giải phóng, giành độc lập dân tộc là bước đi đầu tiên của cuộc cách mạng
vô sản ở nước thuộc địa, ở Việt Nam. Đây là một luận điểm cơ bản, chính yếu
trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đây cũng là một đóng góp đặc
sắc, bổ sung phát triển chủ nghĩa Mác –Lênin trên phương diện lý luận về các
mơ hình vận động, phát triển của cuộc cách mạng vô sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, có vai trị to lớn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, thể hiện những nỗ lực hoạt động nhận thức, phát triển lý luận
cách mạng gắn liền với hoạt động thực tiễn không mệt mỏi của Người, đặc biệt
là ở những luận điểm cách mạng độc đáo và sáng tạo, xác lập. Nói cách khác,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào cơng nhân và phong trào yêu nước.
Trải qua 90 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, sự nghiệp cách mạng nước ta đã
giành được những thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự dẫn dắt của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã đồn kết,
đồng lịng đánh thắng các thế lực thù địch, những chiến công đã đi vào lịch sử
như Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống Pháp 1945,
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975. Đặc biệt, những thành tựu
của công cuộc đổi mới gần 35 năm qua, càng chứng minh cho sự lựa chọn đắn
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thắng lợi to lớn đó đã chứng minh một chân
lý: “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam” (6).
Từ thực tiễn phong phú của công cuộc đổi mới và kết quả nghiên cứu lý luận,
nhận thức về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày
càng sáng tỏ hơn. Cương lĩnh bổ sung phát triển năm 2011 đã rút ra 8 đặc trưng

của xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, 8 phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa
xã hội và 8 mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết tốt, trong xây dựng chủ
20


nghĩa xã hội ở Việt Nam. Công cuộc đổi mới không chỉ làm biến đổi sâu sắc
diện mạo đất nước, cuộc sống của nhân dân mà còn mang lại nhận thức mới về
chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, những thành tựu to lớn qua gần 35 năm đổi mới đã
làm cho thế và lực của nước ta được nâng cao trên trường quốc tế, như Tổng Bí
thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định nhân lễ kỉ niệm 90 năm
thành lập Đảng: Chưa bao giờ chúng ta có được cơ đồ như ngày hôm nay.
5. Kết luận:
Thực tiễn 90 năm qua đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản
Việt Nam thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân; đồng thời, là đội tiên
phong của nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam. Kinh nghiệm xây dựng
Đảng ta trong hơn 90 năm qua, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền hiện
nay càng làm cho chúng ta nhận thức sâu sắc hơn rằng: Giáo dục chính trị, xây
dựng tư tưởng, bồi dưỡng tình cảm, chỉnh đốn tổ chức… mà không đặt trên nền
tảng đạo đức cách mạng vững chắc thì cũng khơng có hiệu quả lâu bền.
Vai trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc tổ chức, sáng lập ra Đảng Cộng sản
Việt Nam là vơ cùng to lớn. Song, vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là
Người đã xây dựng và rèn luyện Đảng ta thành một đảng kiên cường, giàu bản
lĩnh và kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng cũng như xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh.
Cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cả một kho
báu về lý tưởng, lý luận, phương pháp, kinh nghiệm và mẫu mực cách mạng.
Giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn đang ngày càng tỏa sáng, dẫn
đường cho dân tộc Việt Nam và cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trong
thế kỷ XX, và mãi mãi là ngọn cờ đưa dân tộc Việt Nam tiến lên trong thế kỷ

mới.

21


×