Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

TIEUTHUYET

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (60.83 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>CHƯƠNG II</b>


Trưa hôm sau, ráng nôm mấy con cá nữa cho đầy giỏ. Lê nghe bụng đói cồn cào. Nhìn xuống thấy bóng
sắp trịn, Lê bắt tay làm loa gọi trâu đi nằm nước. Rộng cá xong Lê vội chạy ra ngồi rìa tre đứng ngóng về ngồi
giồng tìm bóng dáng của Hiền. Lát sau Lê trở lại khoảng đất trống trong đám tre lấy đất ra học nắn chữ. Số chữ
hôm qua Hiền dạy và Lê đã nắn thêm, tất cả được cột lại thành chùm treo lủng lẳng trên nhánh tre.


“ Chú ba hứa dạy cho mình học. Khi về biết mình biết chữ rồi chắc chú ngạc nhiên lắm. Rồi đây mọi
người đừng coi khinh thằng Lê này nó khơng vơ đạo nhưng nó vẫn biết chữ như thường !” Nghĩ đến đó, Lê mỉm
cười một mình.


Cái nhà thờ nằm ở ấp Ba giáp ấp Tư khơng biết có tự bao giờ mà khi lớn lên thì Lê đã nghe tiếng chng
của nó. Tiếng chuông như mang theo bao tiếng cười đùa của chúng bạn cùng trang lứa. Bọn chúng là con nhà khá
giả, có đạo nên được học ở nhà thờ. Lê ganh tỵ với bọn chúng rồi thù luôn cả tiếng chuông .


Ba của Lê không chịu vô đạo nên Lê khơng được đi học, vả lại gia đình Lê có dư giả chi đâu, cũng như
bao gia đình khác có vô đạo nhưng không được đi học, họ quan niệm “ vác giạ vay lúa chứ ai vác giạ vay chữ”.
Gia đình của chú Hai Hiếu đều có vơ đạo nên Hiền được đi học. Điều lạ là vô đạo ai cũng phải đọc kinh, cịn chú
Hai Hiếu thì khơng. Lê học lóm được mấy câu đem đọc trước mặt chú thì chú chỉ cười. Cịn chú Ba Trung, Bảy
Thành thì khỏi nói. Có lần Lê hỏi chú Ba Trung “ Con thấy người ta vô đạo người ta đọc kinh, đi nhà thờ cịn chú
thì sao con hỏng thấy ?”. Chú Ba Trung mới giảng giải: “đạo này là đạo Ki_ tơ, đạo của nước ngồi. Tín ngưỡng
là quyền của mọi người. Nhưng thực dân Pháp đã lợi dụng tín ngưỡng lấy nhà thờ làm nơi nhốt phần hồn của dân
ta, ru mê để dân ta quên đi ý chí đấu tranh giành độc lập vả lại người ta vô đạo là để được che chở, khỏi bị hạch
sách bắt bớ….”


Năm ngoái, cũng vào tháng này Lê phải nằm liệt giường vì bị du oan là đánh cậu Hậu con của ông Hương
giáo Kiều nên bị ổng đánh cho một trận thừa chết thiếu sống và đuổi không cho ở chăn trâu nữa. Ơng cịn cho
tay chân đến nhà Lê bòn vét hết lúa gạo trừ vào số lúa ruộng mà ba của Lê còn thiếu lại.


Một buổi chiều Lê đã khoẻ thả lên lộ chơi, thấy một tốp lính đang dắt người vừa bị bắt, và chúng kêu mọi
người đến xem Việt Minh. Người bị bắt là cha của Lê. Ơng bị trói, mặt mũi xưng vù, mình mẩy xủng nước, bước


đi khập khiển. Nghe Lê kêu, ông quay lại nhưng bọn lính đã thúc lưỡi lê vào lưng ơng. Lê khóc chạy theo nhưng
bọn lính gạt trở lại.


Cha chết, gia đình Lê như rắn mất đầu, lại lâm vào cảnh túng quẩn, phải bắt ốc hái rau để sống qua ngày.
Đến mùa ruộng khơng có tiền mướn trâu, má con Lê phải nai lưng ra cày cuốc. Đứa em gái Lê vì đói và làm việc
q sức đã ngất xỉu trên đồng. Chú hai Hiếu là bạn của ba Lê thấy cảnh tình của má con Lê như vậy nên đã cho
mượn lúa và biểu Lê qua bắt Trâu về cày ruộng. Nhờ vậy mà má con Lê đã vượt qua được cảnh ngặt nghèo.


Từ ngày về giữ trâu cho chú Hai Hiếu rồi được gần gui mấy chú. Lê đã học hỏi được nhiều điều, từ đó
càng nung nấu lịng căm thù. Nhưng muốn trả được thù cho cha thì phải hiểu biết nhiều, phải biết chữ. Và hôm
qua Hiền đã dạy cho Lê học, Lê ráng học để hôm nay Hiền vô dạy cho Lê ráp vần…


Đang mải mê nắn chữ, Hai Hiếu đi đến ở sau lưng mà Lê vẫn khơng hay. Ơng đi trờ tới đầu đụng phải
chùm chữ treo tòng teng trên nhánh tre.. Ông khựng lại trừng mắt :


- Cái gì vậy Lê ? – nhìn Lê đang cầm cụt đất ông nạt luôn : Lớn rồi nghen mậy !
- Đâu phải chú. Con nắn chữ à.


- Chữ ? Ai dạy mày vậy?
- Hiền dạy con .


- Thôi , mày đã bị con Hiền nó gạt rồi ! – Hai Hiếu cười ha hả
- Vậy, hỏng phải chữ sao chú ?


- Tao cũng chẳng biết nữa. Hồi nhỏ tao mê bắt cá, giữ trâu, có đi học hồi nào đâu mà
biết chữ. Hai chú Ba Trung, Bảy Thành của mày thì giỏi. Nhè tao mà mày hỏi. Nhưng theo tao thấy
ngươì ta viết chữ trên giấy chứ ai nắn bằng đất mậy. Nhưng thôi dẹp chuyện chữ nghĩa qua một bên,
đi rửa tay rồi ăn cơm đi!


Lê đi rồi, cịn lại một mình, Hai Hiếu lấy xâu chữ xuống xem. Ơng lầm thầm điều gì đó rồi đưa tay áo lên


quẹt ngang mắt. Khơng biết ơng khóc cho tình cảnh của Lê hay khóc cho quảng đời cơ cực của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

thật chặt phần cơm chừng hơn một người ăn, đó là phần cơm nó đem cho mấy chú nó, nếu đem theo nhiều thì
bọn lính làng sẽ nghi. Trưa đến ông lại đem cơm một lần nữa, nếu có gặp lính thì ơng có cớ nói đem cơm cho nó.
Ơng với nó làm như thế riết rồi thành cái lệ, mùa khơ các chú nó rút đi hết rồi mà ơng vẫn cịn đem cơm. Một
hơm đem cơm cho nó, ơng thấy nó tập võ. Ông nép vào một bụi tre đứng xem. Ông kinh ngạc khi thấy nó đánh
những thế võ bí truyền của cha ông truyền lại cho anh em ông.


Hồi hôm này, Hai Hiếu bóp trán suy nghĩ nát nước tìm cách cho hai đứa em của ông và Tư Đông trốn như
thế nào để khơng bị làng lính bắt mà ơng tìm hồi khơng ra. Vì sáng hơm qua Hương quản Trừng đã dẫn lính về
bao vây nhà ơng để bắt hai đứa em ông. Sau một lúc hạch hỏi bọn chúng lại kéo đến vây bắt Ba Sơn. Theo sự suy
đốn của ơng thì Ba Sơn có dính liếu đến việc giết cò Tây hồi năm trước. Nhà của Ba Sơn cặp lộ, thấy xe của cò
Tây chạy vào, Ba Sơn liền báo cho Ba Trung, Bảy Thành và Tư Đông biết. Tư Đông vừa mới vượt ngục về nên
chưa dám xuất đầu lộ diện, còn Ba Trung, Bảy Thành nghe nói gíêt Tây thì hăn hái làm liền. Họ cưa một cây gịn
lớn hơn vịng tay ơm nằm ven lộ, chằng néo cách nào mà cây gịn khơng ngả, chờ cho xe cị Tây chạy trở về liền
xơ cây gòn ngả ngang đường, chiếc xe đang ngon trớn đụng phải cây gịn lộn nhào. Cị Tây bị giết. Lính lùng xục
bắt Ba Trung, Bảy Thành nhưng hai anh chàng đã mau chân chạy thoát. Vụ này đên nay đã hơn một năm, chắc có
thằng nào thọc nách với Hương Quản Trừng nên Ba Sơn mới bị bắt.


Không biết ấp Tư này có bao nhiêu người theo Việt Minh mà hơn một năm qua bọn chúng đã bắt mất hai
người rồi. Hai đứa em của ơng khơng biết có phải là Việt Minh không, nhưng đã giết Tây rồi chắc cũng là Việt
Minh. Vì vậy mà ơng phải hết sức bảo vệ chúng mới được.


Lê trở lại lúc nào đang ngồi ăn cơm. Dứt ra khỏi vòng suy nghĩ, Hai Hiếu đi vịng quanh đám tre ngấm
ngiá. Ơng lại nghĩ : Dù lúa Tháng chín, Tháng mười có cao khỏi đầu người đi nữa, nhưng bọn lính làng bất ngờ
bao vây thì mấy chú cũng khó thốt. Tháng này mấy chú nó trốn trong bưng, đói khát chịu khơng nổi mị về làng
thì cũng nguy ….. Bỗng phía trước có tiếng sột soạt. Ơng nhẹ chân bước tới và thấy ở một chỗ trống giữa đám
tre, một con rắn hổ đất lớn hơn bắp tay và một con chuột cống nhum bằng bắp vế đang đánh nhau. Con hổ đất thì
ngẩn cao đầu, phùn mang trịn xoe, le lưỡi thổi khù khù chực mổ con cống nhum. Còn con cống nhum thì chạy
vịng vịng lựa thế để tấn cơng lại. Hai Hiếu rấn tới ít bước nữa để xem cho rõ, vì trận đấu này hiếm khi gặp được.


Khơng biết do thấy ông, hay là ngán địch thủ mà con cống nhum chạy chuôi tọt xuống hang … Hai Hiếu tiết
ngẩn ngơ. Nhìn con hổ đất cịn đang kênh kiệu, Hai Hiếu cúi xuống lượm cục đất . Nhưng rồi ông buông cục đất
vỗ đùi cười ha hả :


- Như vậy mới được chứ !


***


Hơn nữa ngày năng gay gắt trong chuỗi ngày nằng gay gắt của mùa hè, đột nhiên bầu trời Lo Co xuất hiện
một tấm màng đen do một bàn tay khổng lồ nào đó vừa kéo ngang. Rồi tấm màng đen vương rộng ra. Mây đen ùn
ùn kéo tới. sấm chớp vang rềnh. Bầu trời sám sịt nặng như chì. Mưa. Mưa như trút nước giai giẳng mấy giờ lìên.
Mặt ruộng khơ khóc nứt nẻ là vậy mà chỉ sau một trận mưa nước đã lên xăm xắp. Năm nay mưa đến trễ hơn mọi
năm, nhưng đầu mùa mà có một trận mưa như thế này thì thật là hiếm. Sau cơn mưa bầu trời quang đãng. Cây lá
sáng hẳn ra. Trời đã thấu rõ nổi lịng nên đã trả cơng xứng đáng cho lũ ếch nhái đã khan cổ réo gọi trời mưa, giờ
đây chúng đang ca hát nhảy múa trên cánh đồng. Những con cu đất bay vút lên bầu trời rộng rồi bng lơi mấy
vịng đáp xuống ngọn tre, cất tiếng gáy vui nhộn.


Mặc dù cuộc sống đói nghèo đang đè nặng lên kiếp sống của người tá điền nhưng sau cơn mưa đầu mùa,
họ cũng tiên đoán răng sang năm sẽ được no cơm ấm áo.


Cơn mưa bất ngờ làm cho Lê lo lắng. Suốt mấy giờ dầm mưa mà Lê khơng thấy lạnh. Hai con trâu được
tấm mưa thì thích thú ngún ngẩy nhai cỏ rào rạo. Cơn mưa vừa dứt Lê vội chạy một mạch vào đám tre, chui
xuống hầm. Nhờ miệng hầm được đào ở nơi cao ráo nên nước mưa xuống được rất ít. Căn hầm vng vứt chừng
một xảy tay, được nện láng bóng. Lê và Hai Hiếu đào ròng rả suốt mấy tháng trời vào những buổi trưa, vì lúc này
ít người chú ý.


Nhớ lại những ngày đầu Hai Hiếu cho biết ý định đào hầm thì Lê nghĩ: đào hầm để trốn cũng như đào hầm
cho cá nhảy. Nhưng thật ra không phải như vậy. Hai Hiếu ruồng trong đám tre. Chỗ này muốn vào được thì
khơng cách nào khác là phải rong hết mạng nhện, dọn một lối đi vào. Lê định làm như vậy nhưng Hai Hiếu đã
ngăn lại “ mày làm như vậy hỏng khác nào lại ông tôi ở bụi này”. Hai Hiếu cẩn thận kéo từng nhánh tre lên cột


lại, nhánh nào rắc rối lắm thì ơng mới chặt nhưng rất khéo Sau ba ngày thì lối vào hầm dọn xong, nhưng muốn
vào tới được miệng hầm thì phải bị.


Trong lúc nghĩ mệt Lê hỏi Hai Hiếu :


- Hỏng bíêt ai trồng đám tre này hồi nào mà bây giờ nó bịt bù để cho mấy chú trốn, đã quá hén chú
Hai ?


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

- Hồi đó, mày chừng bốn năm tuổi là cùng, nơi đây là đất bỏ hoang, người ta mới đến khai khẩng. Thì
địa chủ Kiều, lúc đó hắn chưa có chức Hương giáo, giành lại. Chả nói đất này là của chả lao hoá rồi. Rồi chả bắt
những người thiếu nợ của chả đấp sân lúa, rồi cho những người khẩng đất hoang mướn ruộng làm. Lợi cho tá
điền là khỏi phải cộ lúa về ngồi giồng, cịn lợi cho chả là có thêm được nhiều đất và cũng tiện cho việc thu lúa
ruộng, năm sau lấy ba giạ một công. Mà đất này nhiều phèn làm ra được hạt lúa cũng bị chim chuột trong bưng ra
phá hết. Cuối cùng tá điền cũng trả đất lại cho chả. Đất lại bỏ hoang.


- Vậy đám tre này có từ lúc nào ? Sao chú nói phải đổi mấy mạng người?


- Vì trong lúc đắp cái sàn lúa này có nhiều người sanh bệnh mà chết. Bao nhiêu công sức bỏ ra rồi lại
bỏ hoang, người ta tiếc đem tre vô trồng, dần dần mới thành một đám tre như vầy. Nơi đây người ta gọi là đìa cồn
vì c sân lúa cao như cái cồn, cịn chỗ lấy đất thì sâu như cái đìa.


- Hồi đó thằng Hương giáo Kiều nó ác lắm hả chú ?


- Mày ở cho nhà nó mà cịn hỏi. Nhưng gần đây thì nó cũng bớt ác độc, vì tá điền làm dữ quá. Và
cũng từ cái vụ mấy chú mày giết thằng cò Tây thì coi bộ nó xuống mấy phân gà. Nhưng rắn độc nó có lột xác thì
vẫn là rắn độc. Nó nằm im đó chứ cắn một cái là trào đờm …. Ờ, nhắc tới chuyện rắn tao mới nhớ. Mày biết sao
tao nghĩ ra được cách đào cái hầm này cho mấy chú của mày trốn hôn? Hôm nọ ở bụi tre đằng kia, tao thấy con
cống nhum và con hổ đất đánh nhau. Con cống nhum thua chạy xuống hang …


- Hổng phải đâu chú ơii! - Lê chen vào giọng hiểu biết – Nó chạy đi tìm củ cỏ ăn giả nọc rắn đó. Một


lát sau nó trở lại đánh tiếp cho chú coi. Chứ nó thua rồi thì ở cái hang đó rồi cũng chết.


Hai Hiếu gục gật đầu như để tán thưởng ý nghĩ của mình :


- Con cống nhum nó ngu nó để cho con hổ đất biết hang. Chứ cái hầm của tao đào thì mâys thằng
lính có mắt như mù.


Rồi tíêp theo đó là những ngày đào hầm, Hai Hiếu xắn từng cụt đất bỏ vào thúng, Lê ì ạch khom khom đem
đổ xuống đìa, vì ra khỏi lối dẫn vào hầm mới đi thẳng lưng được. Có những lúc mỗi quá Lê đi nhóng lưng lên
liền bị gai quàu, gặp mồ hôi tươm ra rát buốt. Lê nghĩ : Thiệt cũng ngộ, ngày xưa người ta chết vì bưng đất từ ở
dưới đìa lên đây, ngày nay cũng vì sợ chết mà bưng đất từ đây đem trở xuống đìa


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×