Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Quan điểm triết học của chủ nghĩa MácLênin về con người. Vận dụng vào việc xây dựng con người Việt Nam nhằm đáp ứng cho công cuộc đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.97 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA MARKETING – QUẢN TRỊ THƯƠNG HIỆU

BÀI THẢO LUẬN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

Đề tài:

Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người.
Vận dụng vào việc xây dựng con người Việt Nam nhằm
đáp ứng cho công cuộc đổi mới

Giáo viên hướng dẫn

: Nguyễn Quỳnh Hương

Mã LHP

: 2102MLNP0221

Nhóm

: 09

Hà Nội - 2021


MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................................1
B. PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN.......................................................................3
1.1.Quan niệm về con người trong triết học trước Mác..................................3


1.2.Quan niệm của Mác – Lênin về bản chất con người.................................6
CHƯƠNG 2: VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN LỰC CỦA VIỆT
NAM NHẰM ĐÁP ỨNG CHO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI…............................8
2.1.Thực trạng việc xây dựng con người Việt Nam trong thời gian qua.........8
2.2.Vai trò của nhân tố con người trong công cuộc đổi mới đất nước Việt
Nam hiện nay.................................................................................................11
2.3.Một số giải pháp cho việc phát triển nguồn nhân lực, việc xây dựng con
người Việt Nam nhằm đáp ứng cho công cuộc đổi mới................................12
C. KẾT LUẬN...................................................................................................17


A. LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề con người luôn là trọng tâm và là mục tiêu cao cả nhất của toàn
nhân loại. Đó là vấn đề mà ln được các nhà khoa học, các nhà nghiên
cứu phân tích một cách sâu sắc nhất. Không những thế trong nhiều đề tài
khoa học của xã hội xưa và nay thì đề tài con người là một trung tâm được
các nhà nghiên cứu cổ đại đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh
học, y học, triết học, xã hội học, dân tộc học, đạo đức học.v.v.. Ở mỗi
ngành khoa học, con người lại được tiếp cận và giải quyết theo từng
phương pháp khác nhau. Tuy nhiên, để nói về việc giải đáp được những
vấn đề chung nhất về con người như bản chất, vị thế của con người trong
thế giới, ý nghĩa cuộc sống của con người,… đầy đủ và sâu sắc nhất thì
chỉ có Triết học.
Trước Các Mác, vấn đề con người chưa được giải đáp một cách khoa
học. Cho đến khi quan điểm duy vật về lịch sử được hình thành khả năng
nhận thức thế giới và cải tạo thế giới của con người mới được các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác khẳng định. Với quan điểm như vậy thì chủ nghĩa
Mác đã kết luận: con người khơng chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất
vật chất, đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của lực lượng sản
xuất, mà nó cịn là chủ thể của q trình lịch sử, của tiến bộ xã hội. Đặc

biệt khi xã hội lồi người phát triển đến trình độ kinh tế tri thức thì vai trị
của con người đặt biệt quan trọng, vì con người tạo ra tri thức mới, chứa
đựng những tri thức mới.
Tại Việt Nam, từ Đại hội Đảng lần thứ III cho đến nay, Đảng ta luôn xác
định nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là cơng nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước. Để thốt khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và nâng
cao chất lượng đời sống của nhân dân thì nhiệm vụ hàng đầu cần phải đẩy mạnh
là phát triển nhanh q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa. Mà muốn làm được
điều này thì vấn đề mà chúng ta cần phải đặt lên hàng đầu là phát triển lực lượng
sản xuất, nâng cao chất lượng kỹ thuật, áp dụng cơng nghệ tiên tiến,… trong đó
đặc biệt là phát triển nguồn nhân lực. Bởi con người là mục tiêu, là động lực chủ
yếu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Việc đào tạo con người phát triển tồn diện
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, thể chất, trí tuệ, năng lực sáng tạo, lịng nhân ái,
có ý thức cộng đồng là vấn đề vơ cùng quan trọng và cấp thiết. Vì thế mà tại hội
nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương Đảng khố VII, Đảng ta đã đề ra
và thơng qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư
cách là “động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của
1


chủ nghĩa xã hội. Đó là “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.
Hiểu được tầm quan trọng của vấn đề con người trong bối cảnh đất
nước hiện nay, nhóm em đã quyết định chọn đề tài “Quan điểm triết học
của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người. Vận dụng vào việc xây dựng con
người Việt Nam nhằm đáp ứng cho công cuộc đổi mới” làm đề tài cho bài
thảo luận triết học của nhóm mình.

2



B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Quan niệm về con người trong triết học trước Mác
1.1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông
Trong nền triết học Trung Hoa suốt chiều dài lịch sử trên hai ngàn năm
cổ - trung đại, vấn đề bản tính con người là vấn đề được quan tâm hàng
đầu. Giải quyết vấn đề này, các nhà tư tưởng của Nho gia và Pháp gia đã
tiếp cận từ giác độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội:
- Khổng Tử cho bản chất con người do “thiên mệnh” chi phối quyết định,
đức “nhân”chính là giá trị cao nhất của con người, đặc biệt là người quân
tử.
- Mạnh Tử quy tính thiện của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh
hưởng của phong tục tập quán xấu mà con người bị nhiễm cái xấu, xa rời
cái tốt đẹp. Vì vậy, phải thơng qua tu dưỡng, rèn luyện để giữ được đạo
đức của mình. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng
nhân ái, quan hệ đạo đức để dẫn dắt con người hướng tới các giá trị đạo
đức tốt đẹp.
- Triết học Tuân Tử lại cho rằng bản chất con người khi sinh ra là ác, nhưng
có thể cải biến được, phải chống lại cái ác ấy thì con người mới tốt
được.Từ đó đi đến kết luận bản tính người là Thiện (Nho gia) và bản tính
người là Bất Thiện (Pháp gia).
Các nhà tư tưởng của Đạo gia, ngay từ Lão tử thời Xuân Thu, lại tiếp
cận giải quyết vấn đề bản tính người từ giác độ khác:
- Lão Tử, người mở đầu cho trường phái Đạo gia, cho rằng con người sinh
ra từ “Đạo”. Do vậy, con người phải sống “vô vi”, theo lẽ tự nhiên, thuần
phát, khơng hành động một cách giả tạo, gị ép, trái với tự nhiên. Quan
niệm này biểu hiện tư tưởng duy tâm chủ quan của triết học Đạo gia. Cuối
cùng đi tới kết luận bản tính Tự Nhiên của con người.
Sự khác nhau về giác độ tiếp cận và với những kết luận khác nhau về

bản tính con người đã là tiền đề xuất phát cho những quan điểm khác
nhau của các trường phái triết học này trong việc giải quyết các vấn đề về
quan điểm chính trị, đạo đức và nhân sinh của họ.
Khác với nền triết học Trung Hoa, các nhà tư tưởng của các trường
phái triết
3


học Ấn Độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật lại tiếp cận từ giác độ khác,
giác độ suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình (Siêu
hình học) đối với những vấn đề nhân sinh quan. Kết luận về bản tính Vơ ngã, Vơ
thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác Ngộ
là một trong những kết luận độc đáo của triết học Đạo Phật.
Có thể nói rằng, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học
phương Đơng biểu hiện tính đa dạng và phong phú, thiên về vấn đề con
người trong mối quan hệ chính trị, đạo đức. Nhìn chung, con người trong
triết học phương Đơng biểu hiện yếu tố duy tâm, có pha trộn tính chất duy
vật chất phác ngây thơ trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội.
1.1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây
Trong suốt chiều dài lịch sử triết học phương Tây từ Cổ đại Hy Lạp
trải qua giai đoạn Trung cổ, Phục hưng và Cận đại đến nay, những vấn đề
triết học về con người vẫn là một đề tài tranh luận chưa chấm dứt. Thực tế
lịch sử đã cho thấy giác độ tiếp cận giải quyết các vấn đề triết học về con
người trong nền triết học phương Tây có nhiều điểm khác với nền triết
học phương Đông.
Các trường phái triết học tôn giáo phương Tây, đặc biệt là Kitô giáo,
nhận thức vấn đề con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí.
Theo Kitơ giáo, cuộc sống con người do đấng tối cao an bài, sắp đặt. Con
người về bản chất là kẻ có tội. Con người gồm hai phần: thể xác và linh
hồn. Thể xác sẽ mất đi nhưng linh hồn thì tồn tại vĩnh cửu. Linh hồn là giá

trị cao nhất trong con người. Vì vậy, phải thường xuyên chăm sóc phần
linh
hồn
để
hướng
đến
Thiên
đường
vĩnh
cửu.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, con người được xem là điểm khởi đầu của
tư duy triết học. Con người và thế giới xung quanh là tấm gương phản
chiếu lẫn nhau. Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la.
Protagoras - một nhà ngụy biện cho rằng “con người là thước đo của vũ
trụ”. Quan niệm của Aristoteles về con người cho rằng chỉ có linh hồn, tư
duy, trí nhớ, ý trí, năng khiếu nghệ thuật là làm cho con người nổi bật lên,
con người là thang bậc cao nhất của vũ trụ. Khi đề cao nhà nước, ông xem
con người là “một động vật chính trị”. Như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại
bước đầu đã có sự phân biệt con người với tự nhiên, nhưng chỉ là hiểu biết
bên ngoài về tồn tại con người.
4


Triết học Tây Âu trung cổ xem con người là sản phẩm của Thượng đế
sáng tạo ra. Mọi số phận, niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người
đều do Thượng đế xếp đặt. Trí tuệ con người thấp hơn lý trí anh minh
sáng suốt của Thượng đế. Con người trở nên nhỏ bé trước cuộc sống
nhưng đành bằng lịng với cuộc sống tạm bợ trên trần thế, vì hạnh phúc
vĩnh cửu là ở thế giới bên kia.
Triết học thời kỳ phục hưng - cận đại đặc biệt đề cao vai trị trí tuệ, lý

tính của con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Đó là một
trong những yếu tố quan trọng nhằm giải thoát con người khỏi mọi gông
cuồng chật hẹp mà chủ nghĩa thần học thời trung cổ đã áp đặt cho con
người. Tuy nhiên, để nhận thức đầy đủ bản chất con người cả về mặt sinh
học và về mặt xã hội thì chưa có trường phái nào đạt được. Con người
mới chỉ được nhấn mạnh về mặt cá thể mà xem nhẹ mặt xã hội.
Trong triết học cổ điển Đức, những nhà triết học nổi tiếng như Cantơ,
Hêghen đã phát triển quan niệm về con người theo khuynh hướng chủ
nghĩa duy tâm. Hêghen, với cách nhìn của một nhà duy tâm khách quan,
thông qua sự vận động của “ý niệm tuyệt đối”, đã cho rằng, con người là
hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”. Bước diễu hành của “ý niệm tuyệt đối”
thơng qua q trình tự ý thức của tư tưởng con người đã đưa con người
trở về với giá trị tinh thần, giá trị bản thể và cao nhất trong đời sống con
người. Hêghen cũng là người trình bày một cách có hệ thống về các quy
luật của q trình tư duy của con người, làm rõ cơ chế của đời sống tinh
thần cá nhân trong mọi hoạt động của con người. Mặc dù con người được
nhận thức từ góc độ duy tâm khách quan, nhưng Hêghen là người khẳng
định vai trò chủ thể của con người đối với lịch sử, đồng thời là kết quả của
sự phát triển lịch sử.
Tư tưởng triết học của nhà duy vật Phoiơbắc đã vượt qua những hạn
chế trong triết học Hêghen để hy vọng tìm đến bản chất con người một
cách đích thực. Phoiơbắc phê phán tính chất siêu tự nhiên, phi vật chất,
phi thể xác về bản chất con người trong triết học Hêghen, đồng thời khẳng
định con người do sự vận động của thế giới vật chất tạo nên. Con người là
kết quả của sự phát triển của thế giới tự nhiên. Con người và tự nhiên là
thống nhất, không thể tách rời. Phoiơbắc đề cao vai trị và trí tuệ của con
người với tính cách là những cá thể người. Đó là những con người cá biệt,
đa dạng, phong phú, không ai giống ai. Quan điểm này dựa trên nền tảng
5



duy vật, đề cao yếu tố tự nhiên, cảm tính, nhằm giải phóng cá nhân con
người. Tuy nhiên, Phoiơbắc khơng thấy được bản chất xã hội trong đời
sống con người, tách con người khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể. Con
người của Phoiơbắc là phi lịch sử, phi giai cấp và trừu tượng.
Có thể khái quát rằng, các quan niệm về con người trong triết học
trước Mác, dù là đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị ngun
luận hoặc duy vật siêu hình, đều khơng phản ánh đúng bản chất con
người. Nhìn chung, các quan niệm trên đều xem xét con người một cách
trừu tượng, tuyệt đối hoá mặt tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối
hố mặt tự nhiên - sinh học mà khơng thấy mặt xã hội trong đời sống con
người. Tuy vậy, một số trường phái triết học vẫn đạt được một số thành
tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các
giá trị về nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó là những tiền đề
có ý nghĩa cho việc hình thành tư tưởng về con người của triết học
mácxít.
1.2. Quan niệm của Mác – Lênin về bản chất con người
1.2.1. Bản chất con người là thực thể sinh học – xã hội
Về phương diện sinh học, con người là một thực thể sinh vật, là sản
phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. Điều đó có nghĩa là con
người cũng như mọi động vật khác phải tìm thức ăn, nước uống, phải
“đấu tranh sinh tồn” để ăn uống, sinh con đẻ cái, tồn tại và phát triển.
Nhưng không được tuyệt đối hóa điều đó. Khi xem xét con người, theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, không thể tách rời hai phương
diện sinh học và xã hội của con người thành những phương diện biệt lập,
duy nhất, quyết định phương diện kia.
Không chỉ là một thực thể sinh học mà con người còn là một bộ phận
của thế giới tự nhiên. Con người tuân theo các quy luật của giới tự nhiên,
các quy luật sinh học như di truyền, tiến hóa sinh học và các q trình
sinh học của giới tự nhiên. Con người là một bộ phận đặc biệt, quan trọng

của giới tự nhiên nhưng lại còn có thể biến đổi giới tự nhiên và chính bản
thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây là điểm khác biệt rất
quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác. Bằng các hoạt
động thực tiễn, chúng ta thấy rằng con người phải dựa vào giới tự nhiên,
gắn bó, hịa hợp với tự nhiên thì mới có thể tồn tại và phát triển. Ngồi ra,
con người cịn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội, mà trong đó
6


quan trọng nhất là hoạt động lao động sản xuất. Nếu các con vật dựa hoàn
toàn vào các sản phẩm tự nhiên, dựa vào bản năng thì con người lại sống
bằng sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm nhằm
thoả mãn nhu cầu của mình.
Trong hoạt động con người khơng chỉ có các quan hệ lẫn nhau trong
sản xuất, mà cịn có hàng loạt các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó
ngày càng phát triển phong phú, đa dạng, thể hiện những tác động qua lại
giữa họ với nhau. Xã hội, xét đến cùng, là sản phẩm của sự tác động qua
lại lẫn nhau giữa những con người. Hoạt động và giao tiếp của con người
đã sinh ra ý thức người. Tư duy, ý thức của con người chỉ có thể phát triển
trong lao động và giao tiếp xã hội với nhau. Chính vì vậy, khác với con
vật, con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người.
1.2.2. Bản chất con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội
nhưng đồng thời lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo là
thuộc tính xã hội tối cao của con người. Con người và động vật đều có
lịch sử của mình. Lịch sử của con vật khơng phải do chúng làm ra và
trong cả q trình lịch sử đấy diễn ra thì chúng khơng hề biết và không
phỉa do ý muốn của chúng. Ngươc lại, con người càng cách xa con vật
hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu, thì con người càng tự mình làm
ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu. Hoạt động lịch sử đầu

tiên khiến con người tách ra khỏi con vật là chế tạo ra công cụ lao động,
hình thành nên các hoạt động lao động sản xuất. Chính từ thời điểm này
con người tạo nên lịch sử của chính mình. “Sáng tạo ra lịch sử” là bản
chất của con người, nhưng con người không thể sáng tạo ra lịch sử một
cách tùy tiện theo ý muốn của mình mà phải dựa theo những điều kiện do
quá khứ hay thế hệ trước để lại trong những hoàn cảnh mới. Con người
một mặt phải tiếp tục các hoạt động trên các tiền đề, điều kiện cũ của thế
hệ trước để lại, một mặt phải tiến hành các hoạt động mới của mình để cải
biến những điều kiện cũ. Lịch sử sản xuất ra con người như thế nào thì
tương lai con người cũng sáng tạo ra lịch sử như thế ấy. Từ khi con người
được tạo ra tới nay thì con người ln là sản phẩm của lịch sử, cũng luôn
là chủ thể của lịch sử.
Con người tồn tại và phát triển luôn luôn nằm trong một hệ thống mơi
trường xác định. Đó là tồn bộ điều kiện vật chất, tinh thần, có quan hệ
7


trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống con người và xã hội. Một mặt, con
người là một bộ phận của giới tự nhiên, thu nhận và sử dụng các nguồn
lực của tự nhiên để cải biến chúng sao cho phù hợp với nhu cầu sử dụng
của chính mình. Mặt khác là một bộ phận của tự nhiên, con người cũng
phải tuân theo các quy luật của tự nhiên như cơ học, vật lý, hóa học, đặc
biệt là sinh học,… Về phương diện sinh học, con người như là một vũ trụ
thu nhỏ, có cấu trúc phức tạp, là một hệ thống mở, biến đổi và phát triển
không ngừng, thay đổi và thích nghi nhanh chóng so với các động vật
khác trước những biến động của môi trường. Cơ thể con người vừa tiếp
nhận, thích nghi, hịa nhịp với thế giới tự nhiên, nhưng cũng bằng cách đó
thay đổi thế giới tự nhiên để thích ứng và biến đổi chính mình.
1.2.3. Bản chất của con người là tổng hịa các quan hệ xã hội
Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất

định con người có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. Bản chất của
con người ln được hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực,
cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các quan hệ xã hội tạo nên
bản chất của con người, nhưng không phải sự kết hợp giản đơn hoặc là
tổng cộng chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa chúng; mỗi quan hệ xã
hội có vị trí, vai trị khác nhau, tác động qua lại, không tách rời nhau. Các
quan hệ xã hội có nhiều loại: quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ
vật chất, quan hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên hoặc
ngẫu nhiên, bản chất hoặc hiện tượng, quan hệ kinh tế, quan hệ phi kinh
tế,… Tất cả các quan hệ đó đều góp phần hình thành lên bản chất con
người. Các quan hệ xã hội thay đổi thì ít hay nhiều, sớm hay muộn thì bản
chất con người cũng thay đổi theo. Trong các quan hệ xã hội cụ thể, xác
định thì con người mới có thể bộc lộ được bản chất thực sự của mình, và
cũng trong những quan hệ xã hội đó thì bản chất con người mới được phát
triển. Các quan hệ xã hội khi đã hình thành có vai trò chi phối và quyết
định các phương diện khác của đời sống con người khiến cho con người
khơng cịn thuần túy là một động vật mà là một động vật xã hội.

8


CHƯƠNG 2: VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN LỰC CỦA VIỆT
NAM NHẰM ĐÁP ỨNG CHO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
2.1.

Thực trạng việc xây dựng con người Việt Nam trong thời gian qua
Con người có vai trị to lớn trong sự nghiệp phát triển của mỗi quốc
gia, dân tộc. Báo cáo phát triển con người (HDR), công bố lần đầu tiên
năm 1990 trong Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) nêu rõ:
“Của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó. Và

mục đích của phát triển là để tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép
con người được hưởng cuộc sống dài lâu, mạnh khỏe và sáng tạo”. Theo
đó, quan điểm về phát triển con người chính là lấy con người làm trung
tâm của sự phát triển. Để phát triển con người, cần phải đầu tư vào giáo
dục, y tế, kỹ năng,… để con người có thể làm việc một cách sáng tạo và
có năng suất cao nhất; cần phải bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế mà con
người tạo ra được phân phối rộng rãi và công bằng; cần phải hướng vào
việc tạo cho con người có cơ hội tham gia vào mọi hoạt động của đời
sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,…
Mục tiêu của sự phát triển khơng chỉ dừng lại ở phát triển xã hội mà
chính là phát triển con người, là đảm bảo cho con người phát huy khả
năng sáng tạo, hưởng một cuộc sống khỏe mạnh, học hành và trường thọ,
được hưởng các quyền tự do chính trị, quyền con người và cá nhân trong
một môi trường đảm bảo. Đây là quan điểm phát triển con người phù hợp
với tư tưởng của Các Mác về phát triển con người tồn diện. Trong hành
trình xây dựng một đất nước Việt Nam hịa bình, độc lập, thống nhất, dân
chủ và giàu mạnh, con người được phát triển tồn diện, Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm
của triết học Mác về con người và giải phóng con người trong hồn cảnh
cụ thể của Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm lý luận Mác - Lênin
trong bối cảnh mới. Ln xác định rõ giải phóng con người là để phát
triển con người. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã
nhìn nhận con người trong hệ giá trị của sự phát triển nhân cách; đã khẳng
định Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là mục tiêu hàng đầu của đấu tranh
cách mạng, là hệ giá trị vĩnh cửu cho sự phát triển của xã hội Việt Nam và
trong triết lý hành động của mình, Người ln coi độc lập là tiền đề, tự do
là then chốt, hạnh phúc là đích đến thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử
trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
9



Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng (năm 1991) đã
khẳng định: “Xã hội chủ nghĩa là một xã hội con người được giải phóng,
nhân dân làm chủ đất nước, có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện để phát triển cá nhân, công bằng xã hội và dân
chủ được đảm bảo”, “con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất
cơng, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân”. Tiếp đó, Nghị quyết
Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và
phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định
thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước”. Đại hội IX của Đảng khẳng
định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện về chính trị, tư
tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng,
lịng nhân ái, khoan dung, tơn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan
hệ hài hịa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố
thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách
mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội Đảng X đã chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn
thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam… Bồi dưỡng các giá trị văn
hoá trong thanh niên học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối
sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Con người là trung tâm của
chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”. Văn kiện Đại hội
XI của Đảng ghi rõ: “Xây dựng con người là phát triển toàn diện về trí
tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp
luật và chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí
tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lịng tự tơn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý

thức chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ”. Tiếp đó, Nghị quyết số
33-NQ/TW khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã nêu rõ quan điểm
về phát triển con người Việt Nam hiện nay: “Hoàn thiện các chuẩn mực
giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để
phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm
hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề
cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi
10


người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước”.
Một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước giai đoạn 20162020 là xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa và xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành
một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đây là quan điểm mới, phù hợp
với thực tiễn phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong điều kiện hội
nhập quốc tế sâu rộng. Đây cũng là một bước tiến quan trọng của Đảng
khi không chỉ nhận thức đúng về yêu cầu tất yếu phải phát triển con người
mà đã biến thành nhiệm vụ, thành hoạt động thực tiễn phải được thực hiện
đồng bộ với các nhiệm vụ quan trọng khác trong công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước. Thấu hiểu rõ lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội
Việt Nam là con người Việt Nam; lực lượng sáng tạo ra những giá trị văn
hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam là con người Việt Nam, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo tư tưởng của Các Mác về con người,
giải phóng con người trong điều kiện cụ thể của Việt Nam để chăm lo cho
con người, phát triển con người Việt Nam toàn diện. Trong hơn 30 năm
đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng phát triển con
người, coi con người là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi
mới và hội nhập quốc tế.

Chỉ một ví dụ nhỏ về chỉ số phát triển con người - HDI (chỉ số phát
triển con người dựa trên kết quả đạt được về thu nhập, giáo dục và y tế)
của Việt Nam những năm gần đây cũng cho thấy, dù còn khó khăn, song
Việt Nam đã có những cố gắng lớn trong việc thực hiện mục tiêu thiên
niên kỷ. Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao nhất là vấn đề
xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từng bước nâng
cao chất lượng đời sống của người dân. Mặc dù cịn khơng ít hạn chế,
song những thành tựu của Việt Nam về phát triển con người đã được thực
tiễn chứng minh và không thể phủ nhận, HDI của Việt Nam liên tục tăng
qua các năm. Nếu năm 2000, HDI của Việt Nam đạt 0,683 điểm (thuộc
nhóm trung bình), thì năm 2010 là 0,733 điểm (xếp trong nhóm trung bình
cao của thế giới). Năm 2014, Việt Nam được xếp thứ 116/188 nước (ở thứ
hạng trên của nhóm các nước có mức phát triển con người trung bình).
Năm 2016, chỉ số HDI tổng quát của Việt Nam tăng 1%, lên 0,683 và ở
mức trung bình, xếp hạng 115 trên tổng số 188 quốc gia, tăng 2 bậc so với
năm trước. Chỉ số này được cải thiện nhờ tăng trưởng GDP, chỉ số y tế ở
11


mức cao trong khi chỉ số giáo dục tăng chậm hơn. Chỉ số IHDI - đo lường
mức độ bất bình đẳng cũng đã tương đối tốt, chênh lệch 17,8% so với chỉ
số HDI, tốt nhất khu vực châu Á- Thái Bình Dương.
2.2.

Vai trị của nhân tố con người trong cơng cuộc đổi mới đất nước Việt
Nam hiện nay
Tìm hiểu kĩ về cuộc đời, sự nghiệp cũng như hệ thống tư tưởng mà Hồ
Chủ tịch tiếp thu từ Chủ nghĩa Mác – Lênin, chúng ta thường thấy Người
rất coi trọng vai trị của con người trong q trình phát triển kinh tế, đất
nước. Như Bác đã từng khẳng định: “Vô luận việc gì đều do con người

làm ra cả”. Bởi lẽ vì thế mà vai trị của con người trong cơng cuộc đổi
mới đất nước ngày càng được Đảng và nhà nước đặc biệt chú trọng.
Con người là nhân vật trung tâm của xã hội, là chủ thể sáng tạo ra mọi
giá trị vật chất và tinh thần. Trong mọi hoạt động xã hội từ văn hóa, giải
trí đều do con người sáng tạo, tiếp nối và phát triển. Đặc biệt là hoạt động
sản xuất kinh tế không thể thiếu vắng bàn tay và bộ óc của con người. Nói
đến nhân tố con người chính là nói đến những phẩm chất, thuộc tính, tri
thức, kinh nghiệm biểu hiện qua các hoạt động khác nhau, từ đó ảnh
hưởng trực tiếp đến phát triển đất nước. Con người luôn biết cách đổi mới
tư duy, phát triển để ngày một hoàn thiện hơn phù hợp với những xu thế
hiện tại.
Con người là một trong năm yếu tố quan trọng để đổi mới và phát
triển kinh tế bền vững. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta, nhân tố con
người, phát triển nguồn nhân lực chính là phát triển yếu tố nội sinh, nếu
được phát huy và sử dụng có hiệu quả sẽ là động lực, nguồn sức mạnh để
phục vụ cho chính sách con người và xã hội. Bồi dưỡng và phát huy yếu
tố con người chính là động lực và là mục tiêu để cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Đối với lao động sản xuất hiện nay và trong tương lai
không chỉ dựa vào kinh nghiệm mà cần phải có sự đột phá trong tư duy,
trí thức. Mà đó là một trong những điều phụ thuộc rất lớn vào con người.
Trí tuệ và đạo đức của con người đóng vai trị chủ chốt trong nền kinh
tế số hóa hiện nay. Bước vào kỷ ngun mới – thời kì của trí tuệ nhân tạo
con người đã biết cách đổi mới, làm chủ bản thân, bắt kịp thời đại. Ở con
người hiện đại, tri thức đã bao gồm cả năng lực, tư duy, cách ứng xử văn
hóa và ngày càng thể hiện rõ vị trí là nhân tố hàng đầu trong tăng trưởng
kinh tế và thúc đẩy cân bằng xã hội. Ngày nay, cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại đang phát triển mạnh mẽ, thời kỳ cách mạng công
12



2.3.

nghệ 4.0, những kết quả sáng tạo do con người đem lại đã tạo ra làn sóng
văn minh mới, kéo theo cuộc cách mạng mới về năng suất, chất lượng và
hiệu quả.
Q trình phát triển kinh tế xã hội khơng phải là q trình tự động mà
phải thơng qua q trình hoạt động, đóng góp của con người. Trong lực
lượng sản xuất, chỉ có con người có tri thức mới có thể làm thay đổi được
cơng cụ sản xuất, tác động vào đối tượng sản xuất làm cho sản xuất ngày
càng phát triển với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Chính con
người mới là chủ nhân, là yếu tố quan trọng nhất làm thay đổi quan hệ sản
xuất và các quan hệ xã hội khác, nhằm mục đích ngày càng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của con người và tồn xã hội. Trong q trình
tồn tại và phát triển, con người không ngừng tác động vào tự nhiên, làm
biến đổi tự nhiên, qua đó làm biến đổi chính bản thân con người.
Một số giải pháp cho việc phát triển nguồn nhân lực, việc xây dựng
con người Việt Nam nhằm đáp ứng cho công cuộc đổi mới
Trong bối cảnh mở cửa, hội nhập quốc tế hiện nay, đặc biệt là yêu
cầu, nhiệm vụ của quá trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, đặt
ra u cầu cấp bách đối với nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây sẽ là
nguồn lực quan trọng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, đối ngoại, nâng
cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Đảng và nhà nước đã khẳng
định: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển
nhanh và bền vững đất nước”. Do đó, cần có cơ chế, chính sách hữu hiệu
để nguồn nhân lực chất lượng cao được phát huy năng lực, sở trường, thế
mạnh cho từng ngành, từng lĩnh vực, tạo thành sức mạnh tổng hợp, thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ nhất: Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các bậc học, đặc

biệt là bậc đại học, cao đẳng.
Đây là giải pháp quan trọng có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra
nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay. Ngay từ các bậc học,
nhất là bậc học Phổ thông trung học, giáo viên và phụ huynh học sinh
phải định hướng tương lai cho con em mình trong việc chọn lựa ngành
nghề phù hợp với năng lực, thế mạnh của bản thân. Từ đó, tập trung đào
tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về một ngành, lĩnh vực mà mình u thích, có
đầy đủ kiến thức, kỹ năng sau khi hồn thành khố học.
13


Đặc biệt, các trường cao đẳng, đại học phải làm tốt cơng tác tuyển
chọn, xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với trình độ nhận thức của
người học, đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ của xã hội, của quá trình hội nhập,
mở cửa, phát triển nền kinh tế tri thức hiện nay. Chú trọng đến việc thực
hành các thao tác, các bước của hoạt động lắp ráp, sản xuất kinh doanh,
chuyển giao công nghệ; sử dụng thành thạo các trang thiết bị kỹ thuật,
nhất là máy móc hiện đại, điều khiển từ xa, tự động hoá.
Thực tiễn nguồn lực chất lượng cao ở nước ta khơng có nhiều, chủ
yếu là nguồn lực trung bình, tức là lao động ở bậc phổ thơng, đơn giản,
lao động có trình độ chun mơn cao rất ít. Do đó, hầu hết việc sản xuất,
sử dụng cơng nghệ máy móc, thiết bị đều nhập khẩu từ nước ngoài, xin ý
kiến chuyên gia nước ngoài đến hỗ trợ. Theo đó, tiến hành rà sốt lại
chương trình đào tạo ở các trường; tăng cường thời gian học thực hành,
giảm thời gian học lý thuyết; gắn quá trình đào tạo với hoạt động thực tập,
tham quan, bắt tay vào công việc ở từng chuyên ngành đào tạo; đẩy mạnh
các hoạt động hợp tác, liên doanh, liên kết giữa các trường, các chuyên
ngành đào tạo với nhau, nhất là với các doanh nghiệp, nhà sản xuất, đầu
tư, công ty; tuyển dụng học sinh vào đào tạo phải bảo đảm chất lượng,
không chạy theo số lượng; Các cơ sở giáo dục cần phát triển hơn nữa vào

các ngành nghề chất lượng cao: như lĩnh vực kỹ thuật số, công nghệ thông
tin, năng lượng, vật liệu mới, công nghệ sinh học,… để giúp người lao
động có thể làm chủ khi cuộc cách mạng số hóa bùng nổ như hiện nay.
Thứ hai: Có cơ chế, chính sách hợp lý, đồng bộ để thu hút, sử dụng
đối với nguồn nhân lực chất lượng cao.
Trong mọi giai đoạn, thời kỳ cách mạng, vấn đề cơ chế, chính sách
hợp lý, đồng bộ để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng là rất quan trọng. Nếu không thu hút, lôi cuốn được
nguồn nhân lực chất lượng cao, đất nước kém phát triển và ngược lại. Có
thể thấy, cơ chế, chính sách sử dụng hợp lý, phù hợp với nguồn nhân lực
chất lượng cao là sự ghi nhận, đánh giá của Đảng, Nhà nước và các tổ
chức, lực lượng có liên quan đối với những đóng góp của nguồn nhân lực
chất lượng cao cho cơ quan, đơn vị và địa phương. Tuy nhiên, cơ chế,
chính sách đó là sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào từng lĩnh vực, ngành
nghề ở các vùng, miền và sự đóng góp đó cho sự phát triển ở mỗi cơ
quan, đơn vị và địa phương khơng phải là sự mặc định, có sẵn theo một
khung nhất định. Trên cơ sở nền tảng những quan điểm, đường lối của
Đảng, Nhà nước, Chính phủ về chính sách tiền lương, trọng dụng nhân
tài, mỗi cơ quan, đơn vị và địa phương căn cứ vào tình hình cụ thể của
14


mình để hỗ trợ phần nào điều kiện vật chất, hoặc tạo điều kiện thuận lợi
về môi trường công tác cho nguồn nhân lực chất lượng cao được phát huy
thế mạnh, sở trường. Vấn đề đặt ra là, cần phát huy vai trò, trách nhiệm
của các tổ chức, lực lượng trong việc phối kết hợp để xây dựng, ban hành
quy chế sử dụng, làm việc đối với nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt
là các phòng, ban, sở nội vụ ở các cơ quan, đơn vị và địa phương; xây
dựng mơi trường văn hố trong sáng, lành mạnh giữa người đứng đầu với
cấp dưới; duy trì và thực hiện nghiêm túc các chế độ, quy định, nề nếp

sinh hoạt ở mỗi cơ quan, đơn vị và địa phương; quan tâm đến đời sống
của cán bộ, công nhân thuộc quyền quản lý. Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc đã khẳng định: Đóng góp chung vào thành cơng này có vai trị quyết
định của cả hệ thống chính trị, của nhân dân cả nước và cộng đồng doanh
nghiệp, trong đó có sự cống hiến của biết bao nhân tài, hiền tài đã ngày
đêm lao động, nghiên cứu, góp phần cho thành tựu chung của đất nước.
Những cơ chế, chính sách bám sát thực tiễn đất nước, tình hình thế giới,
yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời điểm, giai đoạn đặt ra để có sự điều
chỉnh, bổ sung cho kịp thời với diễn biến của thời cuộc.
Thứ ba: Tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với nguồn nhân
lực chất lượng cao.
Bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải bảo đảm sự quản
lý của Nhà nước, điều hành của Chính phủ đối với các hoạt động sản xuất
kinh doanh, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhà nước là người
ban hành cơ chế, chính sách đãi ngộ, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng
cao, do đó, Nhà nước cần phân cấp, giao nhiệm vụ cho các cơ quan, ban,
ngành tiến hành quản lý nguồn nhân lực chất lượng cao một cách hiệu
quả, không để xảy ra hiện tượng “chảy máu chất xám”. Tức là đào tạo ra
nguồn nhân lực cao nhưng không phục vụ cho Nhà nước mà phục vụ cho
doanh nghiệp nước ngoài. Xây dựng, ban hành các quy định, yêu cầu cho
các cơ sở đào tạo về nguồn nhân lực chất lượng cao; yêu cầu nguồn nhân
lực chất lượng cao khi đào tạo song phải làm việc ở trong nước, đặc biệt
là bộ máy hành chính Nhà nước, nếu vi phạm sẽ phải bồi thường, hoặc
yêu cầu những nơi khác không tuyển dụng; đặt ra yêu cầu cao cho nguồn
nhân lực chất lượng cao phải đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết,
toàn tâm, toàn ý phục vụ cho sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam dân chủ,
văn minh, giàu đẹp, có vị thế ngày càng cao trong cộng đồng quốc tế;
thường xuyên kiểm tra quá trình làm việc nguồn nhân lực chất lượng cao,

15



nếu không đáp ứng được sẽ bị thải loại, hoặc xắp xếp, bố trí ở những nơi
khác.
Tạo ra những cơ chế khuyến khích hợp tác doanh nghiệp với nhà
trường để đào tạo đúng và phù hợp, gần sát nhất với nhu cầu của thị
trường. Đồng thời, cần nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo
dục, gắn đào tạo kiến thức với thực tập, thực hành nghề tại các cơ sở
doanh nghiệp; có biện pháp để cơ quan quản lý nhà nước thường xuyên
thu nhận thông tin phản hồi về mức độ hài lòng của các doanh nghiệp đối
với “sản phẩm” đầu ra của các cơ sở đào tạo.
Thứ tư: Giải quyết tốt mối quan hệ giữa môi trường làm việc với
thực tiễn nền kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong những năm vừa qua nền kinh tế - xã hội nước ta có bước tăng
trường khá cao, tương đối ổn định, nhưng do tác động của bối cảnh thế
giới, khu vực và đặc biệt là đại dịch Covid - 19 gần đây đã làm cho một số
ngành, lĩnh vực, nhất là người lao động bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tình
hình đó ảnh hưởng phần nào đến nguồn nhân lực chất lượng cao, theo đó,
cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa môi trường làm việc với điều kiện tế
của mỗi ngành, lĩnh vực ở mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương. Nguồn nhân
lực chất lượng cao thường có biểu hiện tự cao, tự mãn, ít lắng nghe ý kiến
đóng góp của người khác, hoặc có nghe chỉ mang tính chất chiếu lệ cho
song, cho có, tự mình quyết định mọi việc, khơng tơn trọng mọi người
xung quanh. Do đó, trong q trình làm việc, giải quyết các mối quan hệ
giữa cấp trên với cấp dưới, giữa nguồn nhân lực chất lượng cao với mọi
người xung quanh phải hài hồ, hợp lý, khơng đặt cái tơi cá nhân lên quá
cao, khiêm tốn, giản dị, cầu tiến bộ; đặt trong mối quan hệ tổng thể của
đơn vị, không vì có thành tích, tài hơn người khác mà có biểu hiện lên
mặt, xem thường người khác.
Như thế, nguồn nhân lực chất lượng cao đó chỉ có tài mà khơng có

đức, kìm hãm, cản trở sự phát triển ở nơi đó. Người đứng đầu cơ quan,
đơn vị, địa phương phải lựa chọn chính xác nguồn nhân lực chất lượng
cao vào làm việc, năng lực, trình độ đi liền với phẩm chất đạo đức, lối
sống, không được đố kỵ, ganh đua với đồng nghiệp; không được đặt ra
yêu sách cho nơi làm việc; đồng cam, cộng khổ với môi trường làm việc;
phát huy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc; tích cực, chủ động
tự học, bồi dưỡng, rèn luyện về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của
xu thế tồn cầu hố, mở cửa, hội nhập và phát triển nền kinh tế tri thức.
Trọng dụng nhân tài đồng bộ, tạo cơ hội cho người tài phát huy năng lực
16


và thu hút nhân lực trình độ cao là người Việt đang làm việc ở nước ngoài,
Việt kiều và chuyên gia nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam.

17


C. KẾT LUẬN
Sự nghiệp đổi mới đất nước đang đặt ra những yêu cầu cần thiết phải có
những con người có tri thức, kĩ năng, phẩm chất để phục vụ phát triển đất nước.
Ở hầu hết các nước phát triển, nguồn lực là một trong những mối quan tâm hàng
đầu, tất cả các nước đều coi trọng yếu tố con người và có chính sách phát triển
nguồn lực. Thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng ta đã xác định thắng lợi của
sự nghiệp đổi mới cũng là thành công của quá trình xây dựng và phát triển con
người mang tính tồn diện, là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối
với việc phát triển kinh tế xã hội, xây dựng nước ta là một nước công nghiệp,
theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Hơn 170 năm qua kể từ khi Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản ra đời, dù trải
qua những bước thăng trầm của lịch sử và chịu sự cơng kích, chống phá từ nhiều

kẻ thù tư tưởng khác nhau, chủ nghĩa Mác vẫn đứng vững và có sức sống mãnh
liệt bởi đó là một học thuyết khoa học, nhân văn, phát triển và giải phóng con
người, học thuyết ln được bổ sung, hồn thiện bởi những người mác-xít chân
chính; và do đó, chúng ta có học thuyết Mác - Lê-nin tiếp tục là nền tảng tư
tưởng cốt lõi để tư duy và định hình đường lối phát triển thích ứng với mọi sự
thay đổi, phù hợp với mọi bối cảnh và điều kiện mới. 90 năm qua, Ðảng Cộng
sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đã lãnh đạo
đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong gần 35 năm qua, một lần nữa, khẳng định sự vận
dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Ðảng ta trong công cuộc đổi
mới, hội nhập và phát triển, xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam
và do chính con người Việt Nam thực hiện.
Trên đây là bài thảo luận của nhóm 9, do kiến thức của chúng em cịn nhiều
hạn chế nên khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì thế, chúng em rất mong
được cơ và các bạn đóng góp ý kiến để bài thảo luận được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin
2.

/>
3.


/>
4.

/>
19


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 9
ST
T

Họ và tên

1

Phạm Thị Thùy

2

Trần Thị Thu Thủy

3

Nguyễn Thị Trâm

4

Đỗ Kiều Trang

5


Giáp Thùy Trang

6
7
8
9
10
11
12

Nguyễn Thị Thu
Trang
Phạm Thị Huyền
Trang
Phan Thị Trang
Nguyễn Thành
Trung
Trần Quốc Trung
(NT)
Đậu Nguyễn Anh
Tuấn
Cáp Thị Tuyền

Mã SV

Lớp
hành
chính


20D2201
19
20D2200
50
20D2201
24
20D2200
52
20D2201
22
20D2200
53
20D2201
23
20D2200
54
20D2200
55
20D2201
25
20D2201
15
20D2200
46

K56T
2
K56T
1
K56T

2
K56T
1
K56T
2
K56T
1
K56T
2
K56T
1
K56T
1
K56T
2
K56T
2
K56T
1

20

Nhiệm vụ

Tìm tài liệu
Tìm tài liệu
Tìm tài liệu
Tìm tài liệu
Tìm tài liệu
Làm word

Tìm tài liệu
Làm
powerpoint
Kết luận
Làm đề
cương
Lời mở đầu
Thuyết trình

Đánh
giá
T N
V T

Ch





×