Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ KIM YẾN

CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ KIM YẾN

CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 838.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN HỮU TRÁNG



HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác.
Tác giả luận văn

Phạm Thị Kim Yến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HINH SỰ VIỆT
NAM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM .....................................9
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lí của các tội xâm phạm tình dục trẻ em ..........9
1.2. Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 về các tội xâm phạm tình
dục trẻ em .................................................................................................................25
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC TỘI
XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TỪ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ..................29
2.1. Định tội danh đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em ...................................29
2.2. Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em .......................50
2.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong định tội danh và quyết
định hình phạt ............................................................................................................62
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH
DỤC TRẺ EM TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ....................................................69
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tình dục

trẻ em ........................................................................................................................69
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật hình sự Việt
Nam đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em ........................................................72
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADPL

: Áp dụng pháp luật

BLHS

: Bộ luật hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

CQTHTT

: Cơ quan tiến hành tố tụng

CTTP

: Cấu thành tội phạm

HĐTP


: Hội đồng Thẩm phán

HP

: Hình phạt

HSST

: Hình sự sơ thẩm

QĐHP

: Quyết định hình phạt

QHXH

: Quan hệ xã hội

QRTD

: Quấy rối tình dục

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao


TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

VAHS

: Vụ án hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

XPTD

: Xâm phạm tình dục

XPTDTE

: Xâm phạm tình dục trẻ em

XXPT


: Xét xử phúc thẩm

XXST

: Xét xử sơ thẩm


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu
biểu đồ
2.1

Tên biểu đồ

Trang

Số lượng các vụ án liên quan đến XHTDTE từ năm 2013 -

33

2017 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.2

Thống kê tình hình giải quyết án XHTDTE từ năm 2013 - 2017

36

2.3


Thống kê hình phạt của nhóm tội XHTDTE từ năm 2013 -

54

2017 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, việc quan tâm bảo vệ các quyền
của trẻ em luôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển
bền vững của đất nước. Vì vậy, Cơng ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (2011-1989) đã được Chính phủ của 191 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới phê
chuẩn (tính đến hết tháng 12 năm 2004). Mặc dù có những quan niệm khác nhau về
cách thức xác định một con người cụ thể là trẻ em và giới hạn về độ tuổi (từ 16 tuổi
đến 18 tuổi), nhưng trong phạm vi quốc tế, trẻ em nói chung đều được xác định là
đối tượng được chăm sóc đặc biệt, cần nhận được sự quan tâm đặc biệt của Nhà
nước, xã hội và cộng đồng.
Trong những năm trở lại đây, khi đất nước ta thực hiện chính sách mở cửa,
hội nhập, trên phạm vi toàn quốc, các tội phạm xâm hại trẻ em ở nước ta diễn biến
rất phức tạp và ln có chiều hướng gia tăng mà nổi cộm là các tội xâm phạm tình
dục đối với trẻ em. Trên các phương tiện thông tin đại chúng đã phản ánh rất nhiều
vụ việc xâm hại tình dục trẻ em ở nhiều địa phương, nhiều vụ việc chưa được xử lý
hoặc xử lý không nghiêm minh gây nên bức xúc trong dư luận xã hội. Tình hình tội
phạm xâm hại tình dục trẻ em đang có xu hướng ngày càng gia tăng, gây tác động
xấu cho xã hội. Đây là tội phạm nguy hiểm gây ảnh hưởng tâm sinh lý rất lớn cho
trẻ em là nạn nhân bị xâm hại tình dục. Căn cứ vào số liệu thống kê tại Hội thảo
tuyên truyền, phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em thì trong 5 năm (20122016), cả nước đã xảy ra gần 6,7 ngàn vụ xâm hại trẻ em, trong đó, hơn 8.100 trẻ đã
trở thành nạn nhân của các vụ xâm hại. Đặc biệt, hàng trăm trẻ dưới 6 tuổi đã trở
thành nạn nhân của loại các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Tuy nhiên đây chỉ là

những vụ việc được báo cáo, còn rất nhiều vụ nạn nhân bị người phạm tội đe dọa
hoặc vì lý do nào đó đã khơng được phát hiện và khơng có trong số liệu thống kê.
Các vụ xâm hại tình dục trẻ em đã xảy ra cho thấy tính chất vụ việc thường rất
nghiêm trọng; sự vơ cảm, mất nhân tính của tội phạm đang báo động về sự xuống

1


cấp đạo đức của một bộ phận dân cư. Nguy cơ bị xâm hại tình dục có thể xảy ra đối
với trẻ em ở bất kỳ độ tuổi nào, không phân biệt giới tính, từ thành thị đến nơng
thơn, và trẻ có thể bị xâm hại ngay dưới mái trường, hay trong chính ngơi nhà của
mình.Thực tiễn đấu tranh phịng, chống tội phạm XPTDTE ở Đà Nẵng trong những
năm gần đây cho thấy vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế,thiếu sót, cả trong q trình áp
dụng pháp luật hình sự đối với các tội XPTDTE, cả trong quá trình phối hợp giữa
các lực lượng chức năngtrong đấu tranh phòng, chống loại tội phạm rất nguy hiểm
này.
Trong bối cảnh trên, việc phân tích làm rõ những khó khăn, hạn chế, bất cập
trong áp dụng pháp luật để xử lí các hành vi phạm tội XPTDTE từ đó kiến nghị
những giải pháp tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội XPTDTE ở
thành phố Đà Nẵng đang đặt ra hết sức cấp bách. Đó cũng là lí do mà học viên lựa
chọn đề tài “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài nghiên cứu, thời gian qua đã có một số cơng trình
nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Phòng ngừa tội phạm xâm hại trẻ em ở
Việt Nam theo chức năng của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Trần Phương Đạt làm
chủ nhiệm, năm 2004.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em ở
các tỉnh thành phố phía Nam, thực trạng và giải pháp phịng ngừa, Vũ Đức Trung

làm chủ nhiệm, năm 2005.
- Luận văn thạc sĩ: Đấu tranh phòng, chống tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh, của Dương Thị Quỳnh Mận, năm 2006.
- Luận văn thạc sĩ: “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt
Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội”, của Nguyễn Tuấn
Thiện.

2


- Luận văn thạc sĩ: “Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự
Việt Nam" của Nguyễn Minh Hương.
- Luận văn thạc sỹ “Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam” của tác giả Cao Hữu Sáng, bảo vệ tại Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội
năm 2015.
- Luận văn thạc sỹ “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Luật hình sự
Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội”, của tác giả
Nguyễn Tuấn Thiện, bảo vệ tài Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015.
- Luận văn thạc sỹ “Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk” của Trịnh Văn Toàn, bảo vệ
tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015.
- Luận văn thạc sỹ “Các tội xâm phạm tình dục theo quy định của Luật Hình
sự Việt Nam và một số nước trên thế giới” của Hồng Thị Ngọc Bích, bảo vệ tại
Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2016.
- Luận văn thạc sỹ “Tội giao cấu với trẻ em theo quy định của Bộ luật hình
sự hiện hành” của tác giả Trần Thùy Chi, bảo vệ tại trường Đại học Luật Hà Nội,
năm 2011.
- Bài viết “Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về các tội
XPTDTE’’ của tác giả Phạm Mạnh Hùng, đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số
12/2002.

- Bài viết “Tội mua dâm người chưa thành niên lý luận và thực tiễn " của tác
giả Đỗ Đức Hồng Hà, đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 10/2010.
- Bài viết “Những hậu quả về tâm lý đối với nạn nhân của tội hiếp dâm, hiếp
dâm trẻ em và giải pháp khắc phục” của TS. Dương Tuyết Miên đăng trên Tạp chí
Luật học số Đặc san Bình đẳng giới, năm 2005.
- Bài viết “Những bất cập và hướng hoàn thiện quy định về một số tội xâm
phạm nhân phẩm của con người trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999”, của
Phạm Văn Báu, đăng trên Tạp chí Luật học số 1/2010.
- Bài viết “Một số ý kiến trao đổi về tội giao cấu với trẻ em” của Phạm Văn
Nhớ. Đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 11/2010.
3


- Bài viết “Truy cứu trách nhiệm hình sự tội hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em – khó
khăn, vướng mắc và kiến nghị” của Hoàng Quảng Lực, đăng trên Tạp chí Tịa án
nhân dân, số 13/2014.
- Bài viết “Một số vướng mắc trong xét xử trường hợp phạm tội hiếp dâm trẻ
em chưa đủ 13 tuổi có tính chất loạn luân” của Vũ Hải Anh, đăng trên Tạp chí
Nghề Luật số 01/2015.
- Bài viết “Về quy định đối với các tội hiếp dâm – hiếp dâm trẻ em” của Trần
Hà Bảo Khun, đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân, số 11/2015.
- Hội thảo: “Truyền thơng giáo dục phịng chống lạm dụng tình dục trẻ
em”của Ban tuyên giáo, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, tổ chức Tháng 11/1998.
Đánh giá chung: Các cơng trình nghiên cứu kể trên đã đề cập đến thực trạng
tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em hoặc một tội cụ thể trong nhóm tội xâm
phạm tình dục trẻ em; phân tích những hạn chế, bất cập trong các quy định của
nhóm tội xâm phạm tình dục trẻ em cũng như khó khăn, bất cập trong áp dụng các
quy định này, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật
cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật đối với các tội xâm
phạm tình dục trẻ em.Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nào đi sâu nghiên cứu các

tội xâm phạm tình dục trẻ emtừ thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng,
để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống loại các tội
xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Như vậy, với tổng quan
tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc lựa chọn đề
tài “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ luật học là hợp lý và cần thiết vừa có ý
nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là hướng đến việc nghiên cứu đề xuất các
giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm

4


phạm tình dục trẻ em, từ đó nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hình sự nói
chung và các quy định về các tội xâm phạm tình dục trẻ em nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, trong q trình nghiên cứu, đề tài cần thực
hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam về các tội
xâm phạm tình dục trẻ em.
- Nghiên cứu, phân tích thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự
về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, chủ yếu là hoạt động định tội danh và quyết
định hình phạt, từ đó làm rõ những vướng mắc, khó khăn trong việc áp dụng các
quy định này từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất một số giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật về các tội xâm
phạm tình dục trẻ em.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của Bộ luật hình sự về
các tội XPTDTE và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn
2013-2017.
Mặc dù Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 đã có hiệu lực thi
hành từ 01.01.2018, tuy nhiên, các hành vi phạm các tội XPTDTE trong giai đoạn
2013-2017 chủ yếu được giải quyết theo quy định của BLHS 1999, sửa đổi năm
2009. Vì vậy, khi nghiên cứu quy định về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, luận
văn sẽ nghiên cứu các quy định này theo Bộ Luật hình sự Việt Nam 1999, có so
sánh với các quy định của Bộ luật hình sự 2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu về các tội XPTDTE trong phạm vi thành phố
Đà Nẵng.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu số liệu các tội XPTDTE thành phố Đà
Nẵng từ năm 2013 đến năm 2017.

5


Như trên đã nói, mặc dù Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 đang
có hiệu lực thi hành nhưng các hành vi phạm các tội XPTDTE trong giai đoạn
2013-2017 chủ yếu được giải quyết theo quy định của BLHS 1999, sửa đổi năm
2009. Nên luận văn sẽ nghiên cứu các quy định này theo Bộ Luật hình sự1999, có
so sánh với các quy định của Bộ luật hình sự 2015.
Những quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ em
được nghiên cứu trong đề tài là Tội hiếp dâm trẻ em Điều 112 BLHS 1999(nay là
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, Điều 142 BLHS 2015), Tội cưỡng dâm trẻ em
Điều 114 BLHS 1999 (nay là Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi,
Điều 144 BLHS 2015), Tội giao cấu với trẻ em Điều 115 (nay là Tội giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, Điều
145 BLHS 2015), Tội dâm ô đối với trẻ em Điều 116 BLHS 1999 (nay là Tội dâm ô

với người dưới 16 tuổi, Điều 146 BLHS 2015). So với BLHS 1999, Bộ luật hình sự
2015 đã quy định thêm Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm tại
Điều 147 BLHS 2015.
Trong các quy định của BLHS còn quy định Tội mua dâm người chưa thành
niên (Điều 256 BLHS 1999) nay là Tội mua dâm người dưới 18 tuổi (Điều 329
BLHS 2015). Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả không
nghiên cứu tội danh này bởi vìkhách thể loại của các tội xâm phạm tình dục trẻ em
là an tồn cơng cơng, trật tự công cộng.
Áp dụng pháp luật được hiểu là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà
nước thơng qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức
cho các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết
định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ
thể. Theo nghĩa này, áp dụng các quy định về các tội XPTDTE bao gồm nhiều hoạt
động, như định tội danh, quyết định hình phạt, miễn truy cứu TNHS, miễn hình
phạt, áp dụng các biện pháp tư pháp…Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn, tác giả
giới hạn phạm vi nghiên cứu ở hai hoạt động cơ bản của áp dụng pháp luật hình sự

6


về các tội xâm phạm tình dục trẻ em là định tội danh và quyết định hình phạt đối
với các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp
quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các
Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số Nghị quyết số 08/ NQTW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp đặc thù trong
nghiên cứu khoa học xã hội, như phân tích, bình luận, quy nạp, diễn dịch, nghiên
cứu tài liệu, tổng hợp, so sánh…để phân tích quy phạm pháp luật, đánh giá thực tiễn
định tội danh và quyết định hình phạt thơng qua một số vụ án cụ thể từ đó rút ra
được những ưu điểm và nhược điểm trong các quy định về các tội này. Chương 2
tác giả sử dụng phương pháp so sánh, phân tích và đánh giá thực tiễn định tội danh
và quyết định hình phạt nhằm nhận thức một cách khái quát các nội dung, các vấn
đề được nghiên cứu; Phương pháp thống kê dùng để tổng hợp các số liệu về vụ án
cũng như số bị cáo trong các vụ án XPTDTE trên thực tế điều tra, truy tố, xét xử tại
thành phố Đà Nẵng để từ đó đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về các tội
XPTDTE. Chương 3 tác giả sử dụng phương pháp thống kê dùng để tổng hợp các
số liệu về vụ án cũng như các biện pháp giải quyết án về nhóm tội XPTDTE trên cơ
sở đó, đánh giá được các tồn tại, nguyên nhân, vướng mắc và đề ra các biện pháp
hoàn thiện pháp luật.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận của
luật hình sự nói chung và lí luận về các tội xâm phạm tình dục trẻ em nói riêng, đồng

7


thời, góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật về các tội xâm phạm tình dục trẻ
em. Ngồi ra, Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu học tập và nghiên cứu.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu trong Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích góp phần
nâng cao hiệu quả xử lý các vụ án hình sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ em,
đồng thời làm cơ sở để trình cấp có thẩm quyên sửa đổi, bổ sung một số quy định
của pháp luật liên quan đến các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Bộ Luật hình

sự, Bộ Luật tố tụng Hình sự Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về các tội
xâm phạm tình dục trẻ em.
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tình dục
trẻ em từ thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự và nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em tại
thành phố Đà Nẵng.

8


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
TÌNH DỤC TRẺ EM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lí của các tội xâm phạm tình dục
trẻ em
1.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Trước khi phân tích đặc điểm pháp lý hình sự của các tội phạm XHTDTE,
cần làm rõ một số khái niệm cơ bản có liên quan bao gồm khái niệm “trẻ em” và
“xâm hại tình dục”.
Thứ nhất, về khái niệm trẻ em.
Theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em có hiệu lực từ
ngày 02/9/1990 đã chỉ rõ: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp
luật pháp quốc gia áp dụng đối với trẻ em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam đã phê chuẩn tham gia Công ước.
Tuy nhiên hiện nay, trong các quy định của pháp luật Việt Nam, dưới góc độ luật

học, việc xác định trẻ em căn cứ vào độ tuổi cịn chưa có sự thống nhất. Cụ thể, tại
Điều 1 Luật Trẻ em có quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” [15, Điều 1]. Đây
là văn bản quy phạm pháp luật duy nhất quy định chính xác khái niệm về trẻ em.
Ngoài ra, theo Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người thành niên là người đủ
mười tám tuổi” [14, Điều 20, khoản 1] và “Người chưa thành niên là người chưa đủ
mười tám tuổi” [14, Điều 21, khoản 1]. Điều này cho thấy khái niệm “trẻ em” trong
Luật trẻ em hoàn toàn khác khái niệm “người chưa thành niên” trong Bộ luật dân sự.
Tại Chương X, BLHS 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 không định
nghĩa“trẻ em” mà chỉ có định nghĩa “người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”
[12, Điều 68].Trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 2015, sửa đổi năm 2017 cũng không
đưa ra định nghĩa về trẻ em và trong Bộ luật đã khơng cịn sử dụng khái niệm
“người chưa thành niên” mà thay thế bằng khái niệm “người dưới 18 tuổi” hoặc
“người dưới 16 tuổi”, “người dưới 13 tuổi”, “người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
9


Ví dụ Điều 142 - Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi hay Điều 144 - Tội cưỡng dâm
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi..
Có thể thấy, mặc dù cịn có những điểm chưa thống nhất, nhưng về cơ bản,
trong Luật hình sự, khái niệm trẻ em được sử dụng phù hợp với khái niệm trẻ em
trong Luật trẻ em. Theo đó, trẻ em được hiểu là: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”.
Thứ hai, về khái niệm xâm phạm tình dục. Điều 20 Hiến Pháp 2013 khẳng
định: “Cơng dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo vệ về
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm” [5]. Bảo vệ danh dự, nhân phẩm, tính
mạng, sức khỏe của con người, của cơng dân là nhiệm vụ của xã hội. Theo Từ điển
Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng “Tình dục là nhu cầu tự nhiên của con người về
quan hệ tính giao” và “Xâm hại là xâm phạm đến khiến cho bị tổn hại” [41]. Do
vậy, “xâm hại tình dục trẻ em” là xâm phạm, động chạm đến quyền tự do, đến nhu
cầu phát triển tự nhiên của trẻ em về quan hệ tính giao; xâm phạm đến thân thể, sức
khoẻ, nhân phẩm và danh dự của trẻ em.

Hiện nay, ở Việt Nam, XPTDTE cũng được nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau, tuy nhiên cũng chưa có một khái niệm thống nhất nào được đưa ra. Tại
Khoản 8, Điều 4 Luật Trẻ em có quy định: “XPTDTE là việc dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến
tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ
em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức” [15, Điều 4]. Tại báo
cáo “Phân tích kết quả kết nối can thiệp các ca trẻ em bị xâm hại tình dục qua hoạt
động của đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em” năm 2008 của Trung tâm tư vấn và
dịch vụ truyền thông – Cục Bảo vệ, Chăm sóc trẻ em thuộc Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội định nghĩa: “XPTDTE là hành vi có chủ ý làm hài lịng, thỏa mãn
nhu cầu tình dục của một người đối với trẻ em, là sự tham gia của trẻ em vào một
hành vi tình dục mà các em chưa hiểu biết đầy đủ, không thể đồng ý, vi phạm pháp
luật và đạo lý xã hội. Hành vi này có thể bao gồm việc thuyết phục hoặc đe dọa trẻ
tham gia vào bất kỳ hành vi tình dục phi pháp nào; sử dụng trẻ em mang tính bóc lột

10


làm mại dâm hoặc các hoạt động tình dục phi pháp khác; sử dụng trẻ em trong các
ấn phẩm khiêu dâm, hiếp dâm trẻ em” [26, tr.3].
- Định nghĩa “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em”
Các tội XPTDTE được qui định trong BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009 là
nhóm tội phạm xâm phạm đến quyền tự do tình dục, sức khoẻ nhân phẩm, danh dự,
sự phát triển bình thường của trẻ em. Đối tượng tác động của tội phạm là trẻ em, tức
là những người dưới 16 tuổi. Các hành vi phạm tội được thực hiện nhằm thoả mãn
những ham muốn tình dục, những dục vọng thấp hèn của cá nhân xâm phạm đến
tình dục của trẻ em. Hành vi được biểu hiện ra bên ngồi dưới hình thức hành động,
bằng cách sử dụng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác để uy hiếp tinh thần, làm tê liệt
khả năng phản kháng hoặc tự vệ của nạn nhân. Hậu quả thiệt hại của tội phạm là
những mất mát rất lớn về tinh thần, sức khoẻ của nạn nhân là trẻ em, tác động tiêu

cực đến đời sống bình thường của trẻ em và gia đình họ. Tội phạm được thực hiện
với lỗi cố ý, người phạm tội nhận thức được tính nguy hiểm trong hành vi của mình
và thấy trước hậu quả khi thực hiện hành vi và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Chủ
thể thực hiện tội phạm ngoài các điều kiện chung của chủ thể, thường là người
thành niên (đủ 18 tuổi trở lên). Theo quy định tại Điều 12 BLHS 1999 thì người từ đủ
16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm..., ngoại lệ tại khoản 2 Điều luật này
quy định: “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Như vậy, qua phân tích nên trên có thể định nghĩa các tội XHTDTE là những
hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý
trực tiếp biểu hiện ở hành vi xâm hại tình dục đối với nạn nhân là trẻ em. Nghiên
cứu các tội XPTDTE có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của tội này như sau:
Thứ nhất, các tội XPTDTE là hành vi trực tiếp xâm phạm đến sự phát triển bình
thường về mặt tâm sinh lý, sinh học cũng như sự an toàn về tình dục của trẻ em. Đối
tượng tác động của các tội xâm phạm tình dục trẻ em là trẻ em dưới 16 tuổi.
Thứ hai, hành vi khách quan của tội này là hành vi xâm hại tình dục (bao
gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục
đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức) đối với trẻ em dưới 16 tuổi.

11


Thứ ba, người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý, khi thực hiện hành vi,
họ biết rõ người mà mình xâm hại là trẻ em dưới 16 tuổi. Đối với hành vi xâm hại
trẻ em chưa đủ 13 tuổi thì điều luật quy định mọi trường hợp giao cấu với trẻ em
chưa đủ 13 tuổi đều là hành vi hiếp dâm trẻ em. Sở dĩ được quy định như vậy vì nhà
làm luật coi việc lợi dụng độ tuổi để có được sự đồng ý của nạn nhân cũng là một
dạng cụ thể của thủ đoạn khác thủ đoạn lợi dụng tình trạng khơng có khả năng biểu
lộ ý chí đúng đắn của nạn nhân [3, tr.147].
Từ các phân tích trên, tác giả đưa ra định nghĩa pháp lý về “nhóm tội

XPTDTE” quy định ở Điều 112, 114, 115, 116 BLHS năm 1999 như sau: XPTDTE
là nhóm hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện xâm hại tình dục đối với trẻ em dưới 16 tuổi, bao gồm các dạng hành vi:
hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích
mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức và phải chịu hình phạt theo quy định của
Bộ luật Hình sự.
Từ định nghĩa các tội XPTDTE, có thể rút ra các đặc điểm của các tội
XPTDTE như sau:
1. Các tội XPTDTE xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự của trẻ em và qua
đó có thể gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tinh thần, nhân phẩm, danh dự của
nạn nhân là trẻ em.
2. Đối tượng tác động của tội phạm là trẻ em, tức là những người dưới 16
tuổi. Đây thuộc nhóm yếu thế trong xã hội, khả năng tự vệ rất yếu nên được pháp
luật đặc biệt bảo vệ. Đặc biệt, khi nạn nhân càng nhỏ tuổi (dưới 13 tuổi) thì tính
nguy hiểm của hành vi XPTDTE càng được đánh giá là càng nguy hiểm hơn.
3. Các hành vi phạm tội được thực hiện nhằm thoả mãn những ham muốn
tình dục, những dục vọng thấp hèn của cá nhân xâm phạm đến quyền được bảo vệ
về tình dục của trẻ em. Hành vi được biểu hiện ra bên ngồi bằng hành vi xâm hại
tình dục nạn nhân để thỏa mãn nhu cầu tình dục của người phạm tội (tùy theo từng
loại CTTP cụ thể).
4. Hậu quả tác hại của tội phạm là những mất mát rất lớn về tinh thần, sức

12


khoẻ, nhân phẩm, danh dự của nạn nhân, tác động tiêu cực đến đời sống, sự phát
triển bình thường của nạn nhân và gia đình họ.
Các tội phạm xâm hại tình dục được quy định trong Bộ luật hình sự 1999 tại
Chương XII, gồm 06 điều luật từ Điều 111 đến Điều 116, trong đó có 04 điều quy
định về tội phạm xâm hại tình dục trẻ em (Điều 112, Điều 114, Điều 115 và Điều

116).So với Bộ luật hình sự 1999, Bộ luật hình sự 2015 đã bổ sung thêm một tội
danh trong nhóm tội phạm tình dục trẻ em là “Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào
mục đích khiêu dâm” (Điều 147, BLHS 2015).
Quy định mới này nhằm bảo vệ trẻ em khỏi những hành vi phạm tội ở mọi
cấp độ. Điều 147 BLHS 2015 xác định hành vi sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục
đích khiêu dâm thể hiện ở các dấu hiệu: lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi
trình diễn khiêu dâm hoặc trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm dưới mọi
hình thức. Trong xã hội hiện nay, đã xuất hiện rất nhiều hình thức khiêu dâm thiếu
lành mạnh, đặc biệt xuất hiện cả hiện tượng sử dụng trẻ em vào mục đích khiêu dâm
này, ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển tâm lý lành mạnh cho trẻ sau này, đây là
một hành vi nguy hiểm, gây hậu quả xấu cho cả nạn nhân, gia đình và xã hội. Trước
đây, Bộ luật hình sự 1999 đã quy định về tội dâm ô đối với trẻ em, tuy nhiên, các tội
xâm phạm tình dục trẻ em khơng bao gồm hành vi sử dụng trẻ em vào mục đích
khiêu dâm.Chính vì vậy, việc bổ sung thêm các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong
Bộ luật hình sự 2015 là hoàn toàn phù hợp, bảo đảm cơ sở pháp lý để xử lý nghiêm
minh và ngăn chặn mọi hành vi xâm phạm tình dục trẻ em.
Có thể nói rằng trong nhóm các tội XPTDTE, so với Bộ luật hình sự năm
1999, Bộ Luật hình sự năm 2015 đã có những quy định chặt chẽ hơn để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em.
Các dấu hiệu pháp lý
Thứ nhất, về khách thể của tội phạm
“Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại” [16, tr. 86]. Như vậy, khách thể của tội phạm là những quan hệ xã
hội bị tội phạm xâm hại, nhưng không phải mọi quan hệ xã hội bị xâm hại đều là

13


khách thể của tội phạm. Theo luật Hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội được
coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội được xác định

trong Điều 8 BLHS năm 1999. Hành vi bị coi là tội phạm theo luật hình sự Việt
Nam là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho một trong những quan hệ
xã hội đã được xác định đó “Khách thể của tội phạm bao gồm: khách thể chung,
khách thể loại và khách thể trực tiếp của tội phạm”. Khách thể chung của tội phạm
là tổng hợp các mối quan hệ xã hội được luật hình sự ghi nhận và bảo vệ; khách thể
loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất được nhóm các quy phạm
pháp luật hình sự ghi nhận và bảo vệ; khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã
hội cụ thể bị hành vi phạm tội cụ thể xâm hại. Khách thể loại của các tội XPTDTE
là quyền được tôn trọng nhân phẩm, danh dự và quyền bất khả xâm phạm về tình
dục của trẻ em.
Như vậy, khách thể loại của các tội phạm XPTDTE là quyền bất khả xâm
phạm về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm danh dự và sự phát triển bình thường và
thể chất và tinh thần của trẻ em. Đối tượng tác động của tội XPTDTE là con người,
mà cụ thể là trẻ em.
Thứ hai, mặt khách quan của tội phạm
“Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm những
biểu hiện tội phạm diễn ra hoặc tồn tại trong thế giới khách quan” [16, tr. 99]. Bất cứ
tội phạm nào khi xảy ra cũng đều có những biểu hiện ra hoặc tồn tại bên ngồi mà
con người có thể nhận biết được, đó là hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội;
hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu
quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (Công cụ, phương
tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, thời gian, địa điểm…)[16, tr. 99].
Đối với mỗi loại tội phạm trong nhóm các tội XPTDTE có các hành vi khách
quan khác nhau, trong đó, hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể là hành vi xâm hại
tình dục hoặc hành vi có tính chất dâm dục đối với trẻ em. Theo tác giả, hành vi có
tính chất dâm dục là hành vi như khiêu dâm, kích dục. Dạng hành vi này đã được
định nghĩa tại Điều 3 Thông tư 09/2010/TT-BVHTTDL ngày 24/08/2010 của Bộ

14



Văn hóa - Thể thao và Du lịch (đã hết hiệu lực kể từ ngày 01/01/2014) như sau:
Khiêu dâm được hiểu là hành vi dùng hình ảnh, ngơn ngữ, âm thanh, hành động
khêu gợi, kích thích dâm ơ, ham muốn tình dục trái với truyền thống đạo đức, thuần
phong mỹ tục dân tộc Việt Nam bao gồm: mô tả bộ phận sinh dục, khoả thân, mô tả
khoả thân hoặc không khoả thân nhưng kích thích tình dục, mơ tả nhu cầu tình dục,
thủ dâm dưới mọi hình thức. Đối với nhóm tội XPTDTE, mặt khách quan của tội
phạm bao gồm:
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội: người phạm tội có thể thực hiện những hành
vi như hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục
đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức. Trẻ em trong trường hợp này là người
dưới 16 tuổi. Nếu từ đủ 16 tuổi trở lên, thì khơng thuộc nội hàm của khái niệm “trẻ
em” theo quy định của nhóm tội XPTDTE.
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: việc xác định hậu quả nguy hiểm cho xã hội
có ý nghĩa rất quan trọng trong định tội danh và quyết định hình phạt. Hậu quả nguy
hiểm cho xã hội ở đây được hiểu là trẻ em sẽ bị tổn thương về sức khỏe, thậm chí là
tính mạng; nghiêm trọng hơn, hành vi phạm tội còn gây ảnh hưởng đến sự phát triển
bình thường về tâm sinh lý của trẻ em, dẫn đến các em có thể sẽ có những sự ám
ảnh hoặc lệch lạc nhất định trong tình dục cũng như cuộc sống; ngồi ra cịn có thể
gây ra những tổn thương nặng nề tại bộ phận sinh dục hoặc tổn thương khác, bị
nhiễm các bệnh xã hội lây qua đường tình dục như HIV/AIDS, trẻ em là nữ có thể
mang thai ngồi ý muốn…[37].
Thứ ba, mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội
bao gồm lỗi, động cơ, mục đích phạm tội.
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm tội biết hành vi của mình là
trái ý muốn của trẻ em hoặc biết trẻ em dưới 13 tuổi chưa có khả năng thể hiện đúng
ý chí của mình cũng như chưa nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi, nhưng
vẫn mong muốn thực hiện hành vi xâm hại tình dục trẻ em. Thực tế xét xử có
trường hợp khó xác định người phạm tội có cố ý thực hiện tội phạm hay không.


15


Người phạm tội thường bào chữa rằng, tưởng người bị hại đồng ý nên mới giao cấu
và khẳng định là người bị hại đồng ý nhưng sau đó lại tố cáo với cơ quan pháp luật.
[30, tr.105]. Do đó cơ quan tiến hành tố tụng khi xét xử cần phải xem xét toàn diện
mọi yếu tố, tránh phiến diện, chỉ căn cứ vào lời khai một phía của người bị hại hay
người phạm tội.
Đối với nhóm tội danh này thì động cơ mục đích của người phạm tội là để
thỏa mãn ham muốn tình dục và thỏa mãn nhu cầu sinh lý của chính bản thân họ.
Thứ tư, chủ thể của tội phạm
Luật hình sự khơng quy định rõ chủ thể của nhóm tội XPTDTE là nam giới
hay nữ giới và cũng chưa có văn bản hướng dẫn thi hành bộ luật hình sự giải thích
chính thức về vấn đề này. Luật quy định “người nào” như vậy có thể hiểu là nam
hay cả nữ, tuy nhiên vấn đề này vẫn có nhiều quan điểm.
Quan điểm thứ nhất: cho rằng chỉ có nam giới mới có thể trở thành chủ thể
của loại tội này vì xuất phát từ đặc điểm sinh học, chỉ có nam giới mới có thể thực
hiện được hành vi giao cấu trái ý muốn với nữ giới. Cịn trong trường hợp nam giới
khơng mong muốn, nữ giới không bao giờ thực hiện được hành vi này. Do đó, tội
hiếp dâm có chủ thể đặc biệt là nam giới. Quan điểm này đã từng được áp dụng
trong thực tiễn xét xử, tuy nhiên hiện nay khơng cịn áp dụng nữa vì trên thực tế vẫn
xảy ra các trường hợp chủ thể phạm tội này là nữ giới.
Quan điểm thứ hai: cho rằng việc giao cấu là là hành vi giữa nam và nữ trong
đó vai trị chủ động và chi phối là nam giới và chỉ có nam giới với cấu tạo sinh học
mới có thể thự hiện được hành vi giao cấu với nữ giới mà không cần sự tự nguyện
của nữ giới là định kiến. Nữ giới vẫn có thể thực hiện được hành vi giao cấu trái ý
muốn của nam giới trong trường hợp nữ giới lợi dụng nam giới có nhược điểm về
tinh thần để dụ dỗ và giao cấu hoặc nam giới đang trong tình trạng khơng có khả
năng biểu lộ ý chí đúng đắn (như chịu tác động ở mức độ cao của thuốc kích dục)

để giao cấu, tuy nhiên, thực tiễn cho thấy đây là những trường hợp cá biệt ít xảy ra
nên thực tiễn chưa xét xử. Hiện nay, với sự trợ giúp của thuốc kích dục thì việc nữ
giới giao cấu trái ý muốn với nam giới là hồn tồn có thể thực hiện dễ dàng.

16


Quan điểm thứ ba: cho rằng bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình
sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự cũng có thể trở thành chủ thể của tội hiếp
dâm. Bởi vì, về lý thuyết, nữ giới cũng có thể phạm tội hiếp dâm thơng qua hành vi
giao cấu trái ý muốn hoặc khơng có ý muốn của nam giới bằng thủ đoạn tạo ra tình
trạng không thể tự vệ hoặc không thể biểu lộ được ý chí của nạn nhân như cho uống
thuốc mê, thuốc kích thích, hơn nữa luật hình sự cũng quy định chủ thể của các tội
này là "người nào..." tức là tính cả nam và nữ.
Một vấn đề nữa cần được đặt ra cần nghiên cứu là hành vi tình dục giữa
những người cùng giới tính và giữa người chuyển đổi giới tính. Một số nước đã quy
định hành vi tình dục đồng giới trái ý muốn là phạm tội hiếp dâm hoặc cưỡng dâm. Ở
Việt Nam trước đây, trường hợp này chỉ có thể định tội là làm nhục người khác bởi vì
chế tài hiện đang cịn thiếu khuyết. Tuy nhiên hiện nay BLHS 2015 đã khắc phục
hoàn toàn hạn chế nàybằng việc quy định thêm hành vi “quan hệ tình dục khác”.
Thứ năm, hình phạt
Trong từng trường hợp phạm tội, tùy thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể,
tương ứng với mỗi tội danh của nhóm tội XPTDTE mà Bộ luật Hình sự hiện hành
quy định mức hình phạt khác nhau:
- Điều 112 BLHS 1999: Tội hiếp dâm trẻ em sẽ bị phạt tù từ 07 - 15 năm
(nếu phạm tội trong trường hợp thuộc Khoản 2 Điều này sẽ bị phạt tù từ 12 đến 20
năm; Khoản 3 Điều này sẽ bị phạt tù 20 năm, tù chung thân, hoặc tử hình).
- Điều 114 BLHS 1999: Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
sẽ bị phạt tù 05 - 10 năm (nếu phạm tội trong trường hợp thuộc Khoản 2 Điều này
sẽ bị phạt tù từ 07 - 15 năm; Khoản 3 Điều này sẽ bị phạt tù từ 12 đến 20 năm hoặc

tù chung thân).
- Điều 115 BLHS 1999: Tội giao cấu với trẻ em
Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi, thì bị phạt tù từ 01 - 05 năm. Nếu phạm tội trong trường hợp thuộc Khoản 2
Điều này sẽ bị phạt tù từ 03 - 10 năm; Khoản 3 Điều này sẽ bị phạt tù từ 07 - 15 năm.
- Điều 146 BLHS 2015. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Mới)

17


Người nào đã thành niên mà có hành vi dâm ô đối với trẻ em, thì bị phạt tù
từ 06 tháng - 03 năm.Nếu phạm tội trong trường hợp thuộc Khoản 2 Điều này sẽ bị
phạt tù từ 03 - 07 năm; Khoản 3 Điều này sẽ bị phạt tù từ 07 - 12 năm.
Việc phân biệt này đã đáp ứng được u cầu về phân hóa trách nhiệm hình
sự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.1.2. Phân biệt các tội xâm phạm tình dục trẻ em
1.1.2.1. Phân biệt tội hiếp trẻ em với tội hiếp dâm (Điều 111, 112 BLHS 1999)
Thứ nhất, mặt khách quan: Mặt khách quan của 02 tội này có các dấu hiệu
sau đây:
+ Có hành vi dùng vũ lực. Được hiểu là dùng sức mạnh vật chất như trói, gây
thương tích, vật ngã, xé quần áo, bóp cổ, khố chân tay… nhằm đè bẹp sự kháng cự
của người bị hại để giao cấu.
+ Có hành vi đe doạ dùng vũ lực. Như đe doạ gây thương tích, đe doạ giết
người thân, đe doạ trả thù, đốt nhà hoặc doạ sẽ giết bị hại… nhằm uy hiếp tinh thần
làm cho nạn nhân khiếp sợ, bị tê liệt ý chí phản kháng. Cũng có thể người phạm tội
lợi dụng vào tình trạng khơng thể tự vệ được của bị hại để hiếp dâm (như người bị
hại đang bị mê man, bất tỉnh, bị ngất xỉu vì bệnh lý, bị tật động kinh…)
+ Có hành vi dùng thủ đoạn khác để giao cấu với nạn nhân. Được hiểu là các
thủ đoạn (ngoài các hành vi nêu ở trên) của chính người phạm tội thực hiện làm cho
nạn nhân khơng biết hoặc rơi vào tình trạng khơng có khả năng nhận thức tạm thời

như cho nạn nhân uống thuốc mê, thuốc kích dục, cho uống rượu say… để giao cấu
với nạn nhân mà không được sự đồng ý của họ
Cần lưu ý:
+ Giao cấu trái với ý muốn người bị hại được hiểu là khơng có sự đồng ý cho
giao cấu của nạn nhân. Để xác định việc có hay khơng sự đồng ý cho giao cấu, đặc
biệt là trong tội hiếp dâm cần phải xem xét các yếu tố sau:
– Bạo lực hoặc hành vi khác mà người phạm tội sử dụng để thực hiện hiếp
dâm có đạt đến mức độ làm tê liệt ý chí phản kháng của nạn nhân hay khơng?

18


– Thái độ phản kháng của nạn nhân trước, trong và sau khi bị hiếp dâm (như
có biểu hiện chửi mắng, kêu khóc, gào thét, vật lộn, cấu xé, đánh lại…) được biểu
hiện như thế nào?
– Hiện trường người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm có yếu tố bất bình
thường hay khơng?
+ Trong trường hợp người phạm tội do không thể tiếp tục thực hiện hành vi
phạm tội mà phải từ bỏ việc phạm tội như bị trẻ em chống trả quyết liệt, có nguy cơ
bị phát hiện…, thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự (thuộc trường hợp phạm tội
chưa đạt).
+ Trong trường hợp người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm
tội hiếp dâm, thì người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những hành vi
thực tế đã gây ra (như làm nhục người khác, cố ý gây thương tích…).
Thứ hai, khách thể:
- Hành vi phạm tội đã xâm phạm quyền được bảo vệ thân thể, nhân phẩm,
danh dự của nạn nhân.
- Hành vi hiếp dâm nêu trên xâm phạm đến sức khoẻ, tính mạng của nạn
nhân làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến thuần
phong mỹ tục.

Thứ ba, mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện các tội xâm phạm tình dục trẻ
em với lỗi cố ý.
Thứ tư, chủ thể: Chủ thể của tội phạm là bất kỳ người nào có năng lực trách
nhiệm hình sự (có thể là nam nhưng cũng có thể là nữ). Thơng thường, người phạm
tội là nam, tuy nhiên nữ giới vừa có thể là người thực hành, vừa có thể là đồng
phạm hiếp dâm với vai trò tổ chức, giúp sức hoặc xúi giục thực hành.
Thứ năm, về hình phạt: Có 3 mức hình phạt khác nhau tùy theo mức độ và
tính chất tội phạm, Người phạm tội cịn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

19


×