Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.84 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Lê Thị Mỹ Ly

TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Lê Thị Mỹ Ly

TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS: NGUYỄN TẤT VIỄN


HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, thông tin và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Thị Mỹ Ly


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM ........................................................... 5
1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm trẻ em ......................... 5
1.2. Phân biệt tội hiếp dâm trẻ em với một số tội phạm khác......................... 13
1.3. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm trẻ em ................................ 15
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM Ở TỈNH ĐỒNG
NAI.................................................................................................................. 27
2.1. Thực tiễn định tội danh tội hiếp dâm trẻ em ............................................ 27
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt tội hiếp dâm trẻ em ................................ 32
CHƢƠNG 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI
HIẾP DÂM TRẺ EM .................................................................................... 43
3.1. Yêu cầu áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội
hiếp dâm trẻ em ............................................................................................... 43
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của Bộ luật hình sự

2015 về tội hiếp dâm trẻ em ............................................................................ 49
KẾT LUẬN .................................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

:Bộ luật Hình sự

BLTTHS

:Bộ luật Tố tụng hình sự

HĐXX

:Hội đồng xét xử

TAND

:Tịa án nhân dân

TANDTC

:Tịa án nhân dân tối cao

TNHS

:Trách nhiệm hình sự


TTHS

:Tố tụng hình sự

VKSND

:Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

:Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình giải quyết vụ án hình sự về tội hiếp dâm trẻ em của
Tòa án tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2012 -2017
Bảng 2.2: Hình phạt được Tịa án tỉnh Đồng Nai áp dụng đối với bị cáo
phạm tội hiếp dâm


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là tương lai của đất nước. Do sự phát triển chưa đầy đủ về tâm lý và
thể chất, chưa có khả năng nhận thức và tự bảo vệ mình nên các em rất dễ bị tổn
thương về mọi mặt. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta ln có những chính sách quan
tâm, ưu tiên đối với trẻ em. Trong thời gian gần đây, các tội phạm xâm phạm tình
dục trẻ em đang diễn biến một cách phức tạp, trong đó là tội hiếp dâm trẻ em. Cho
tới nay, sau nhiều lần BLHS Việt Nam sửa đổi, bổ sung, các quy định pháp luật về
tội hiếp dâm trẻ em vẫn còn một số những vấn đề cần trao đổi thêm như chủ thể và

nạn nhân tội phạm, khái niệm giao cấu, hành vi quan hệ tình dục khác... Trước tình
hình thực tiễn hiện nay, việc đấu tranh phòng, chống của các cấp, các ngành tư
pháp đối với loại tội phạm này dù ngày càng được nâng cao song vẫn không tránh
khỏi những khó khăn khi thực tiễn áp dụng pháp luật cịn gặp nhiều vướng mắc.
Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc đó chủ yếu xuất phát từ những hạn
chế, thiếu sót trong quy định của pháp luật hình sự về tội này. Những quy định của
các điều luật về tội hiếp dâm trẻ em khi áp dụng vẫn gặp phải những quan điểm,
đường lối xử lý thiếu thống nhất, còn tùy nghi do cách hiểu, cách tiếp cận những
quy định luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong một số trường hợp,
các cơ quan bảo vệ pháp luật vẫn cịn lúng túng, chưa có quan điểm thống nhất
hoặc mắc phải thiếu sót trong việc giải quyết các vụ án về tội hiếp dâm trẻ em. Vì
vậy, để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật hình sự về tội hiếp dâm trẻ em, góp phần nâng cao hiệu quả của
hoạt động áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng các quy định của pháp luật về
tội này nói riêng, điều cần thiết hiện nay là tiếp tục hồn thiện các quy định của
pháp luật hình sự và bảo đảm áp dụng có hiệu quả các quy định của pháp luật hình
sự về tội này để có thể đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất
là khi BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có hiệu lực thi hành.
Đồng Nai là một tỉnh có đơng dân cư và địa bàn rộng thuộc miền Đông Nam
Bộ. Bên cạnh những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua, tình

1


hình tội phạm, trong đó có tội xâm phạm tình dục trẻ em, đặc biệt là tội hiếp dâm
trẻ em diễn biến phức tạp, nghiêm trọng, gây mất trật tự an tồn xã hội, bất bình
trong nhân dân, ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách chăm sóc và trẻ em. Mặc
dù các cơ quan tư pháp của Đồng Nai cũng như các cơ quan có trách nhiệm đã rất
cố gắng nhưng tình hình tội phạm vẫn chưa giảm một cách ổn định, thậm chí có
lúc, có nơi gia tăng. Để góp thêm căn cứ lý luận và thực tiễn đấu tranh chống tội

xâm xâm phạm tình dục trẻ em ở Đồng Nai trên phương diện pháp luật hình sự, học
viên đã lựa chọn đề tài: “Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội hiếp dâm trẻ em cho đến nay đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu
trên các phương diện, góc độ khác nhau. Trước đề tài này, đã có những cơng trình
sau: Trịnh Thị Thu Hương (2004), “Các tội phạm tình dục và đấu tranh chống các
tội này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội”
[7]; Nguyễn Minh Hương (2014), “Các tội xâm hại tình dục trẻ em trong Luật hình
sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội” [6];
Hoàng Thị Thanh Hà (2015), “Các tội xâm hại tình dục theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học
xã hội” [3]; Bùi Thị Hằng Nga (2016), “Tội hiếp dâm và hiếp dâm trẻ em theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sỹ luật học, Học
viện khoa học xã hội” [14].
Ngồi ra, cịn có một số bài đăng trên tạp chí khoa học khác là: “Về quy
định đối với các tội hiếp dâm – hiếp dâm trẻ em”, Trần Hà Bảo Khun, Tạp chí
Tịa án nhân dân số 11, năm 2015 [8]; “Bình luận các tội phạm về tình dục trong
chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người
trong dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi)”, Dương Tuyết Miên, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số chuyên đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, năm 2015 [13].
Tội hiếp dâm trẻ em còn được đề cập trong các cuốn sách chuyên khảo:
“Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - phần các tội phạm” do nhà xuất bản thành

2


phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2002 của thạc sỹ Đinh Văn Quế [20]. Hoặc trong
“Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017)” do Nhà xuất bản Hồng Đức xuất bản năm 2017 của PGS.TS.

Nguyễn Thị Phương Hoa và TS. Phan Anh Tuấn [5], v.v…
Mặc dù có khá nhiều các cơng trình nghiên cứu khoa học về tội hiếp dâm trẻ
em nhưng do mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu khác nhau nên chưa có cơng
trình khoa học nào nghiên cứu về: “Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai”. Chính vì vậy, đề tài này là một đề tài mới, lần
đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ luận văn Thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận
của luật hình sự về tội hiếp dâm trẻ em, trên cơ sở phân tích các yếu tố cấu thành
tội hiếp dâm trẻ em và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, đề xuất các
giải pháp thực hiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội phạm này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội hiếp dâm trẻ
em, các yếu tố cấu thành tội hiếp dâm trẻ em.
Thứ hai, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tội hiếp dâm trẻ em trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai, chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, bất cập xung quanh việc áp
dụng pháp luật và những nguyên nhân hạn chế của nó.
Thứ ba, đưa ra những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật
hình sự năm 2015 về tội hiếp dâm trẻ em.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tội hiếp dâm trẻ em trong Bộ luật hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

3



- Luận văn được nghiên cứu tội hiếp dâm trẻ em dưới góc độ Luật hình sự.
- Phạm vi khơng gian: địa bàn tỉnh Đồng Nai
- Phạm vi thời gian: Các số liệu thu thập được chủ yếu là các số liệu thống
kê từ Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai trong thời gian từ năm 2012 đến 2017.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp: phân
tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, quy nạp, diễn dịch, đánh giá...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận: Luận văn góp phần làm rõ thêm lý luận của luật hình sự về tội
hiếp dâm trẻ em.
Về thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo cho
việc hồn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội hiếp dâm trẻ em và cho việc
áp dụng pháp luật trong xử lý về hình sự tội hiếp dâm trẻ em.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương.
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội hiếp dâm trẻ em.
Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội
hiếp dâm trẻ em ở tỉnh Đồng Nai.
Chƣơng 3: Yêu cầu và các giải pháp thực hiện các quy định của Bộ luật
hình sự năm 2015 về tội hiếp dâm trẻ em.

4


CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM
1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm trẻ em
1.1.1. Khái niệm tội hiếp dâm trẻ em
Trẻ em là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn phát triển đầu tiên của cuộc đời
con người. Trong các Công ước quốc tế như Tuyên bố của Hội quốc liên về quyền
trẻ em (năm 1924), Tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (năm 1959),
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm 1968), Công ước 138 của Tổ chức
lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối thiểu làm việc (năm 1976), Công ước của Liên
hợp quốc về quyền trẻ em (năm 1989)… đã khẳng định việc áp dụng độ tuổi trẻ em
của mỗi quốc gia có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào luật của mỗi nước quy định độ
tuổi thành niên sớm hơn. Tại Nghị định thư của Liên Hiệp Quốc về phịng ngừa,
trấn áp và trừng trị bn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em đã được Đại hội
đồng Liên Hợp Quốc thơng qua, có hiệu lực từ ngày 25/12/2003 thì trẻ em được
xác định là người dưới 18 tuổi.
Riêng ở Việt Nam, căn cứ vào điều kiện thực tế và mức độ phát triển của
con người ở Việt Nam, theo Điều 1, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004, quy định: “Trẻ
em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Độ tuổi này tiếp
tục được đề cập trong Điều 1 Luật Trẻ em được Quốc hội thơng qua ngày 5/4/2016
trong đó quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”.
Mặc dù quy định về trẻ em, độ tuổi trẻ em trong các văn bản pháp luật nước
ta cũng như trong phạm vi quốc tế còn có những điểm khác biệt nhưng Cơng ước
của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em cũng chỉ ra rằng: “Căn cứ vào đặc điểm lịch
sử, phong tục tập quán và các điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia
để quy định độ tuổi của trẻ em, nhưng khơng được q 18 tuổi”. Do đó, căn cứ vào
quy định của pháp luật hiện hành cũng như Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em của Việt Nam quy định độ tuổi của trẻ em dưới 16 tuổi là không trái với quy
định trong Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em.


5


Tóm lại, khái niệm "trẻ em" trong pháp luật Việt Nam được coi là người
chưa đủ 16 tuổi, là đối tượng được pháp luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và giúp đỡ
đặc biệt.
Trẻ em là tương lai của nhân loại, của thế giới, của mỗi dân tộc, mỗi cộng
đồng và mỗi gia đình. Tại Việt Nam, các hành vi xâm hại trẻ em đều bị lên án và
trừng trị nghiêm khắc. Điều này đã được cụ thể hóa trong BLHS quy định về tội
hiếp dâm trẻ em.
Theo từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam năm 2005, hành vi
hiếp dâm được hiểu là dùng sức mạnh cưỡng bức người khác để thỏa mãn nhu cầu
tình dục của mình. Trong Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm
(số 329-HS2 ngày 11 tháng 5 năm 1967) của TAND tối cao đã đưa ra định nghĩa về
khái niệm tội hiếp dâm như sau: “Hiếp dâm là hành động bắt buộc người phụ nữ
phải chịu sự giao cấu trái ý muốn hoặc khơng có ý muốn của người đó bằng cách
dùng bạo lực về thể chất, hay là uy hiếp về tinh thần, hay là lợi dụng hoặc gây ra
tình trạng khơng thể tự vệ hoặc biểu lộ ý chí của người đó” [22]. Theo quan điểm
trên thì hành vi hiếp dâm trẻ em khác hành vi hiếp dâm nói chung ở đối tượng bị
xâm hại đó là trẻ em.
Trên cơ sở nghiên cứu có kế thừa, khái niệm về hiếp dâm trẻ em được đưa ra
như sau: hiếp dâm trẻ em là hành vi dùng sức mạnh cưỡng bức hoặc lợi dụng sự
phát triển chưa hồn thiện về thể chất và trí tuệ của trẻ em để xâm hại đến quyền
bất khả xâm phạm về tình dục, danh dự, nhân phẩm, sức khỏe và gây ảnh hưởng
đến sự phát triển bình thường của trẻ em.
Trước khi đưa ra được khái niệm về tội hiếp dâm trẻ em, cần xuất phát từ cái
chung nhất đó là khái niệm tội phạm. Theo quy định tại Điều 8 BLHS năm 1999
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ

chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,

6


nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.” [19, Tr.51]
Tội hiếp dâm trẻ em thuộc nhóm tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm con
người, đồng thời xâm phạm tính mạng, sức khỏe và sự phát triển bình thường về
thể chất và tâm, sinh lý của trẻ em. Như vậy khái niệm tội phạm Hiếp dâm trẻ em
được xác định như sau: “Tội phạm Hiếp dâm trẻ em là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiên một cách cố ý bằng cách dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình
trạng khơng thể phòng vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác để giao cấu
với người dưới 16 tuổi”.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm trẻ em
Tội hiếp dâm trẻ em được cấu thành bởi bốn yếu tố, đó là: khách thể, mặt
khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Nghiên cứu bốn yếu tố này của tội hiếp dâm trẻ
em giúp làm rõ đặc điểm pháp lý của tội phạm, có tác dụng định tội cho tội phạm
xảy ra và để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác.
*Khách thể của tội hiếp dâm trẻ em
“Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
và bị hành vi phạm tội xâm hại”. [16]
Theo Luật Hình sự Việt Nam, những quan hệ được coi là khách thể bảo vệ
của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định trong BLHS, bao gồm:
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ Quốc, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, sở hữu, các quyền và lợi ích
hợp pháp khác của công dân,...

Đối với tội hiếp dâm trẻ em, khách thể trực tiếp là quyền được tôn trọng
nhân phẩm, danh dự và quyền bất khả xâm phạm về tình dục của trẻ em. Ngồi ra
tội phạm cịn có thể xâm phạm đến quyền được tơn trọng và bảo vệ tính mạng, sức
khỏe của trẻ em. Tội hiếp dâm trẻ em xâm phạm nghiêm trọng đến đạo đức xã hội,
đạo đức truyền thống tốt đẹp, xâm phạm Công ước về quyền trẻ em mà Việt Nam
đã phê chuẩn tham gia gây ra nhiều sự bất bình cho quần chúng nhân dân.

7


Đối tượng tác động của tội phạm là một yếu tố quan trọng phải nhắc đến khi
tìm hiểu về khách thể của tội phạm. Độ tuổi của đối tượng tác động cũng là dấu
hiệu để xác định tội hiếp dâm trẻ em. Nạn nhân của tội hiếp dâm trẻ em là người
dưới 16 tuổi. Điều 112 BLHS 1999 quy định về tội hiếp dâm trẻ em có hai trường
hợp:
Trường hợp thứ nhất, đối với nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi. Mặc dù ở đây điều luật khơng quy định rõ nhưng có thể hiểu rằng người phạm
tội đã có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng khơng tự vệ
được của trẻ em hoặc dùng thủ đoạn khác để giao cấu trái ý muốn với trẻ em.
Trường hợp thứ hai, đối với nạn nhân là trẻ em dưới 13 tuổi thì mọi trường
hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em…”. Như vậy,
mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi đều phạm tội hiếp dâm trẻ em
không kể có sự đồng ý hay khơng đồng ý của nạn nhân.
Đối tượng tác động là một trong những dấu hiệu được mô tả trong cấu thành
tội hiếp dâm trẻ em, nó có ý nghĩa trong việc phân biệt tội hiếp dâm trẻ em với tội
danh khác cũng như xác định khung hình phạt và quyết định hình phạt.
* Mặt khách quan của tội hiếp dâm trẻ em
“Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm
những biểu hiện tội phạm diễn ra hoặc tồn tại trong thế giới khách quan” [31,
Tr.99]. Đó là hành vi khách quan của tội phạm; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối

quan hệ nhân nhân quả giữa hành vi khách quan của tội phạm và hậu quả nguy hiểm
cho xã hội; những biểu hiệu khác của mặt khách quan của tội phạm như công cụ,
phương tiện phạm tội, thời gian phạm tội, địa điểm phạm tội… Không phải tất cả các
biểu hiện của mặt khách quan đều được phản ánh trong cấu thành tội phạm là dấu
hiệu bắt buộc ngoài hành vi khách quan là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội
phạm.
Mặt khách quan của tội hiếp dâm trẻ em bao gồm các dấu hiệu sau đây:
- Dấu hiệu thứ nhất, người phạm tội có thể có một trong các hành vi như
dùng vũ lực, hành vi đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được
của nạn nhân, thủ đoạn khác giao cấu trái với ý muốn của trẻ em.

8


- Dấu hiệu thứ hai, việc giao cấu phải trái với ý muốn của trẻ em.
Cần tìm hiểu từng hành vi cụ thể để hiểu rõ hành vi khách quan của tội
phạm này:
- Hành vi dùng vũ lực: là dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của
trẻ em như; đánh, đấm, vật ngã, trói buộc… nhằm đè bẹp sự kháng cự của trẻ em
để thực hiện hành vi giao cấu.
- Hành vi đe dọa dùng vũ lực: là dùng lời nói, cử chỉ, hành động đe dọa sẽ
dùng sức mạnh vật chất xâm hại tính mạng, sức khỏe của nạn nhân làm họ tê liệt ý
chí để họ giao cấu trái ý muốn của họ.
- Hành vi lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ của nạn nhân: là lợi dụng tình
trạng sẵn có khi nạn nhân bị ốm đau, bệnh tật, tai nạn bị ngất, hay bị mê man bất
tỉnh, bị tiêm thuốc ngủ chưa tỉnh, bị tâm thần… không thể chống cự được để thực
hiện hành vi giao cấu trái ý muốn của họ. Cần lưu ý trong trường hợp này nạn nhân
ở trong tình trạng khơng thể chống cự được là ngẫu nhiên, đó là tình trạng sẵn có,
khơng phải người phạm tội đưa nạn nhân vào tình trạng đó, mà họ chỉ lợi dụng tình
trạng này để thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn với nạn nhân.

- Hành vi dùng thủ đoạn khác giao cấu trái ý muốn trẻ em: là ngồi những
thủ đoạn nêu trên người phạm tội có những hành vi khác làm nạn nhân lâm vào tình
trạng khơng thể kháng cự như cho uống thuốc mê, thuốc ngủ… để thực hiện hành
vi giao cấu.
- Hành vi giao cấu trái ý muốn: Để hiểu rõ hành vi khách quan này thì cần
tìm hiểu hai vấn đề sau:
Vấn đề thứ nhất: Hành vi giao cấu
Trong BLHS không mô tả rõ thế nào là hành vi giao cấu nhưng ở nước ta từ
trước tới nay, trong lý luận cũng như trong thực tiễn xét xử đều thừa nhận hành vi
giao cấu theo hướng dẫn tại Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp
dâm và một số tội phạm khác về mặt tình dục số 329-HS2 ngày 11 tháng 05 năm
1967 của TANDTC. Theo đó, “hành vi giao cấu được hiểu là sự cọ xát trực tiếp
dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ với ý thức ấn sâu vào trong

9


không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, khơng kể có xuất tinh hay
khơng”. Cho đến nay hành vi giao cấu luôn được hiểu theo nghĩa truyền thống và
vẫn chưa có văn bản nào thay thế văn bản này giải thích về hành vi giao cấu. Do
đó, trong thực tiễn xét xử, hành vi giao cấu vẫn được hiểu theo hướng dẫn tại văn
bản này.
Tuy nhiên, khái niệm trên khơng cịn phù hợp với thực tiễn hiện nay nữa bởi
lẽ khi xã hội ngày càng phát triển và có nhiều sự thay đổi về điều kiện kinh tế, đời
sống văn hóa, giáo dục,... thì hành vi tình dục của con người cũng thay đổi theo
nhiều xu hướng khác chứ khơng dừng lại như những hình thức đã thực hiện trước
đây. Hơn nữa hành vi tình dục của con người ngày nay rất đa dạng không những
nhằm mục đích thực hiện chức năng sinh sản mà cịn nhằm thỏa mãn nhu cầu tình
dục bản thân. Hành vi tình dục khơng chỉ diễn ra ở bộ phận sinh dục mà cịn có thể
ở những bộ phận khác trên cơ thể như miệng, hậu mơn... và hành vi tình dục cịn có

thể được thực hiện khi kết hợp sử dụng các dụng cụ tình dục. Thực tế ở nước ta đã
từng xảy ra nhiều trường hợp người nam giới dùng vũ lực có hành vi đưa dương
vật vào miệng nạn nhân, vào hậu môn nạn nhân hoặc đưa tay, đưa dụng cụ tình dục
vào âm đạo, hậu mơn nạn nhân...[1, Tr.52]. Mặc dù những hành vi tình dục này
khơng phải là hành vi giao cấu theo cách hiểu thông thường hiện nay nhưng những
hành vi tình dục này thâm nhập thực tế cũng xâm hại và gây hậu quả cho nạn nhân
tương đương như hành vi giao cấu đơn thuần thậm chí nhiều trường hợp cịn nguy
hiểm hơn. Bên cạnh đó quan điểm trước đây về hành vi giao cấu phải được thực
hiện giữa nam và nữ và phải có sự tiếp xúc giữa bộ phận sinh dục nam và nữ. Việc
hiểu hành vi giao cấu như vậy sẽ khơng bao hàm được những trường hợp có hành
vi quan hệ tình dục giữa những người đồng giới, hoặc giữa cơ quan sinh dục với
miệng hoặc hậu môn. Đối với những hành vi này thì theo quy định của BLHS hiện
hành không đủ cơ sở pháp lý để giải quyết đúng theo tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi.
Vấn đề thứ hai: Yếu tố trái ý muốn với nạn nhân:
Yếu tố trái ý muốn với nạn nhân là một dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành

10


tội hiếp dâm trẻ em. Việc xác định trái ý muốn hay không cần dựa vào thực tế
người phạm tội có dùng vũ lực hay thủ đoạn khác hay khơng, thái độ của người bị
hại trước, trong và sau khi bị hiếp dâm. Để xác định việc giao cấu trái ý muốn của
nạn nhân người ta thường căn cứ vào nhiều yếu tố khác như: mối quan hệ giữa hai
người, thủ đoạn thực hiện tội phạm, hoàn cảnh cụ thể xảy ra việc giao cấu, nhân
thân của cả hai người, ý kiến của cơ quan, tổ chức xã hội, dân cư nơi hai người
sống, bạn bè, cha mẹ và các tình tiết khác có liên quan đến vụ án.
Về hậu quả thiệt hại: hành vi khách quan của tội hiếp dâm trẻ em gây ra
không chỉ thiệt hại về thể chất mà còn thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, sức khỏe
của nạn nhân, đồng thời gây ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của trẻ cũng

như gây ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ xã hội khác được pháp luật hình sự
bảo vệ, đó là trật tự an toàn xã hội. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội khơng phải là
dấu hiệu bắt buộc nhưng lại có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức độ nguy
hiểm của hành vi, cũng như xác định khung hình phạt của tội phạm.
Về những dấu hiệu như công cụ, phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm,
hoàn cảnh phạm tội... Tuy những dấu hiệu này không phải là dấu hiệu bắt buộc
trong cấu thành tội phạm nhưng những dấu hiệu này góp phần xác định tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, xác định được những nguyên nhân và
điều kiện phạm tội. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án.
*Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và
đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Tuổi chịu TNHS theo quy định của luật hình sự Việt Nam là từ đủ 14 tuổi và
đủ 16 tuổi. Theo quy định của BLHS, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải
chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiệm
trọng. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm. Do tính chất
và mức độ nghiêm trọng của hành vi hiếp dâm trẻ em, chủ thể của tội hiếp dâm trẻ
em là người đạt từ đủ 14 tuổi trở lên.

11


Trong lý luận từ trước tới nay đều thừa nhận chủ thể của tội hiếp dâm trẻ em
là chủ thể đặc biệt - nam giới, cịn nữ giới chỉ có thể tham gia với vai trò đồng
phạm (người tổ chức, người xúi giục hoặc người giúp sức). Tuy nhiên, trong thực
tế hiện nay có nhiều trường hợp người thực hiện hành vi xâm hại tình dục khơng
phải là nam giới mà là những đối tượng khác như nữ giới, người chuyển đổi giới
tính hoặc người thực hiện hành vi xâm hại tình dục là nam giới nhưng đối tượng bị
xâm hại cũng là nam giới. BLHS hiện hành chưa có quy định nào đề cập tới những

trường hợp này. Điều đó có nghĩa là khi xảy ra những trường hợp này trên thực tế
thì khơng có cơ sở pháp lý để giải quyết hoặc giải quyết theo hướng khác không
phù hợp với bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm.
*Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến tâm lý bên trong của người phạm
tội [31, Tr.200], bao gồm những nội dung cụ thể sau: lỗi, động cơ và mục đích
phạm tội. Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố
ý hoặc vơ ý” [31, Tr.201]. Lỗi là dấu hiệu quan trọng nhất, được phản ánh trong tất
cả các cấu thành tội phạm. Lỗi của người phạm tội hiếp dâm trẻ em đều là lỗi cố ý
trực tiếp. Người phạm tội biết hành vi giao cấu của mình là hành vi nguy hiểm cho
xã hội và trái với ý muốn của nạn nhân nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi
đó bằng những thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng khơng
thể tự vệ của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định
hay chứng minh ý thức chủ quan của người phạm tội đối với trẻ em còn phức tạp.
Hiện nay, nhiều trẻ em có thể chất phát triển tốt, có bề ngồi, vóc dáng, xử sự có vẻ
giống như người lớn. Mặt khác với sự phát triển khoa học công nghệ, trẻ em dễ
dàng tiếp cận nhiều thông tin nhạy cảm, bắt chước người lớn, tị mị nhưng lại
khơng được giáo dục và hướng dẫn đúng cách. Một số trường hợp nạn nhân cố tình
nói sai độ tuổi làm cho người phạm tội lầm tưởng nạn nhân là người đã thành niên
và để cho người phạm tội có cơ hội thực hiện hành vi giao cấu. Với những trường

12


hợp trên, thực tiễn cho thấy việc xác định tội danh giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng không thống nhất hay đồng quan điểm về tội danh đối với người phạm tội.
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện
hành vi phạm tội cố ý. Thông thường động cơ phạm tội của những người phạm tội
hiếp dâm trẻ em thường do ham muốn, nhu cầu tình dục hoặc do những mâu thuẫn

cá nhân hoặc các động cơ khác. Tuy nhiên, khi truy cứu TNHS đối với những
người phạm tội này, động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc để định tội.
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt
ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích phạm tội của những
người phạm tội hiếp dâm trẻ em thơng thường là muốn thỏa mãn nhu cầu tình dục
của bản thân.
* Đường lối xử lý đối với tội hiếp dâm trẻ em nhìn chung rất nghiêm khắc.
Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 đều quy định xử lý rất nghiêm
khắc tội hiếp dâm trẻ em với mức hình phạt cao nhất là tử hình. Bộ luật hình sự
năm 2015 tiếp tục quy định hình phạt cao nhất là tử hình đối với các trường hợp
đặc biệt nghiêm trọng như hiếp dâm có tổ chức; hiếp dâm có tính chất loạn ln;
nhiều người hiếp một người; hiếp dâm trẻ em dưới người dưới 10 tuổi; gây thương
tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên; người phạm tội biết mình bị nhiễm HIV
mà vẫn phạm tội; hiếp dâm trẻ em làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
1.2. Phân biệt tội hiếp dâm trẻ em với một số tội phạm khác
Các tiêu chí

Tội Hiếp dâm

Tội Cƣỡng

Tội giao cấu

Tội dâm ô trẻ

trẻ em

dâm trẻ em


với trẻ em

em

Trẻ em từ đủ

Trẻ em từ đủ

13 tuổi đến

13 tuổi đến

dưới 16 tuổi.

dưới 16 tuổi.

Sức khỏe, tính

Quyền tự do

Danh dự, nhân

Danh dự, nhân

mạng, danh dự,

tình dục, sức

phẩm, quyền


phẩm, quyền

nhân phẩm và

khỏe, tính

bất khả xâm

bất khả xâm

Đối tượng tác

Trẻ em dưới 16

động

tuổi.

Khách thể

13

Trẻ em dưới 16
tuổi.


quyền bất khả

mạng của trẻ


phạm về tình

phạm về tình

xâm phạm về

em.

dục.

dục.

tình dục của trẻ
em.
- Dùng vũ lực,
đe dọa dùng vũ
lực, lợi dụng
tình trạng
khơng thể
chống cự được
của nạn nhân
hoặc thủ đoạn
khác để giao
Mặt khách

cấu trái ý muốn

quan

của họ.

- Riêng
đối với đối
tượng tác động
là trẻ em dưới
13 tuổi thì

- Hành vi của
người đã thành

- Hành vi lợi
dụng sự lệ

- Hành vi của

niên sờ mó,

thuộc của

người đã thành

hơn hít,... bộ

người khác vào

niên giao cấu

phận sinh dục

mình hoặc


với trẻ em có

của trẻ em

người khác

độ tuổi từ 13

hoặc bắt trẻ em

đang ở trong

đến dưới 16

làm những việc

tình trạng quẫn

tuổi và có sự

đồi bại với

bách phải miễn

thuận tình của

mình như hơn

cưỡng giao


các em.

bộ phận sinh

cấu.

dục của
mình,….

hành vi khách
quan của tội
phạm là giao
cấu.

Chủ thể

Bất kỳ người

Bất kỳ người

Bất kỳ người

Bất kỳ người

nào từ đủ 14

nào từ đủ 14

nào đã thành


nào đã thành

tuổi trở lên có

tuổi trở lên có

niên (từ đủ 18

niên (từ đủ 18

năng lực trách

năng lực trách

tuổi trở lên) có

tuổi trở lên) có

nhiệm hình sự.

nhiệm hình sự.

năng lực trách

năng lực trách

14


Mặt chủ quan


nhiệm hình sự

nhiệm hình sự

Thực hiện với

Thực hiện với

Thực hiện với

Thực hiện với

lỗi cố ý trực

lỗi cố ý trực

lỗi cố ý trực

lỗi cố ý trực

tiếp

tiếp

tiếp

tiếp

Trái với ý

muốn của nạn
Ý chí của nạn

nhân là trẻ em

nhân đối với

từ 13 tuổi đến

hành vi giao

dưới 16 tuổi.

cấu

Trẻ em dưới 13

Không xem xét
Miễn cưỡng

Có sự thuận

đến ý chí của

chấp nhận giao

tình của nạn

nạn nhân có


cấu

nhân.

mong muốn
hay khơng.

tuổi thì khơng
xem xét.

1.3. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm trẻ em
1.3.1. Tội hiếp dâm trẻ em trong pháp luật hình sự phong kiến
Xuyên suốt thời Hậu Lê (1428 - 1789) đến thời Nguyễn (1802 - 1945), mặc
dù bộ luật Quốc triều hình luật (hay Lê triều hình luật, luật Hồng Đức) ra đời thời
vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) cho đến bộ Hồng Việt luật lệ (cịn gọi là luật
Gia Long) ra đời thời vua đầu triều Nguyễn Gia Long (1802 - 1820), Hai bộ luật
của hai triều đại có nhiều nội dung khác nhau, nhưng ta lại thấy có điểm chung
trong vấn đề thực hiện bảo vệ trẻ em trước nạn xâm hại tình dục
Trong Quốc triều hình luật quy định hình phạt rất nghiêm khắc và nặng khi
có sự xâm phạm tới thân thể, sức khỏe của người phụ nữ, trẻ em được quy định tại
Chương Thông gian, gồm 10 điều từ Điều 401 đến Điều 410, đặc biệt về trẻ em
được quy định tại Điều 404: “Gian dâm con gái nhỏ 12 tuổi trở xuống, dù có thuận
tình vẫn xử như hiếp dâm”, theo quy định tại Điều 403 tội hiếp dâm thì xử lưu hay
chết. Như vậy, Luật pháp thời Lê chỉ rõ rằng, dù trẻ em gái dưới 12 tuổi có thuận
tình mà nghe theo sự dụ dỗ của kẻ phạm tội, thì kẻ phạm tội vẫn bị khép vào tội
gian dâm và xử với mức án của tội hiếp dâm, tức là sẽ bị xử tội thấp nhất ở mức

15



“tội lưu” (lưu đày đi nơi xa) cho đến mức án cao nhất là xử “tội chết”. – quy định
này nhằm bảo vệ thân thể, tính mạng, danh dự của trẻ em gái. Thời đó nhà Lê đã
đưa ra quy định gần giống như ngày nay, đó là phân biệt rõ tội hiếp dâm và hiếp dâm
trẻ em. Như vậy, dù ra đời trong xã hội phong kiến, bị tác động, ảnh hưởng và chi
phối bởi những hạn chế của lễ nghi phong kiến nhưng xét cả về mặt kỹ thuật lập
pháp và nội dung thì Quốc triều hình luật là văn bản pháp lý có tính tiến bộ vượt
lên trên các văn bản pháp luật cùng thời kỳ đó. Đó chính là ý nghĩa nhân văn cao
cả, nó có giá trị trường tồn mãi mãi, không chỉ ở quá khứ mà cả hiện tại và tương
lai.
Trong Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long) quy định cụ thể về tội phạm đối
với trẻ em tại Điều 330 chương Phạm gian Luật Gia Long: “cưỡng gian bé gái
dưới 10 tuổi thì bị chém ngay, còn cưỡng dâm bé trên 10 tuổi dưới 12 tuổi, nếu việc
cưỡng gian đã thành thì treo cổ, nếu việc cưỡng gian khơng thành thì phạt trăm
trượng, lưu ba năm ngàn dặm”. Quan điểm của nhà làm luật thời phong kiến cho
rằng con gái dưới 12 tuổi chuyện tình chưa nảy nở, chưa có khả năng hoạt động
tình dục, lại khơng có lịng dâm, dễ bị lừa, khống chế, thêm vào đó là hiểu biết về
tình dục chưa đầy đủ hoặc chưa biết, cũng như chưa phát triển đủ về thế chất, lại
thêm có thể bị kẻ xâm hại dụ dỗ, lừa dối, thậm chí là cưỡng ép, dọa nạt nên sợ mà
buộc làm theo. Vì thế cho dù các bé gái có đồng ý thì người thực hiện hành vi giao
cấu cũng đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của bé gái. Vì vậy, người
nào có hành vi xâm phạm em gái ở tuổi này thì bị xử lý như tội cưỡng gian, phải bị
trừng phạt nghiêm khắc.
1.3.2. Tội hiếp dâm trẻ em trong pháp luật hình sự của nhà nước ta từ
năm 1945 đến nay
1.3.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm
1985
Ngay sau khi giành được chính quyền và khai sinh ra nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ngày 02 tháng 09 năm 1945, chính quyền thời này cịn non trẻ đối
mặt với rất nhiều khó khăn: nền kinh tế - xã hội lạc hậu bị chiến tranh tàn phá nặng


16


nề, tài chính cạn kiệt, thù trong giặc ngồi nên nhà nước ta chưa có đủ điều kiện để
ban hành ngay các văn bản quy phạm pháp luật và xây dựng một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh. Tuy nhiên, do tình hình hết sức khẩn trương, xã hội cần có pháp
luật, mà lại không thể ban hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật nói chung, văn
bản quy phạm pháp luật hình sự cần thiết nói riêng nên ngày 10 tháng 10 năm
1945, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL cho tạm thời giữ các luật lệ cũ,
trong đó có Bộ “Luật hình An Nam”, Bộ “Hồng Việt hình luật” và Bộ “Hình luật
pháp tu chính” với điều kiện “không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam
và chính thể dân chủ cộng hịa”. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, các Tịa án
vẫn xử theo luật hình cũ được tạm thời giữ lại và nó thực sự cần thiết trong điều
kiện lúc bấy giờ.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, miền Bắc hồn tồn giải phóng và đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ nên điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở miền Bắc đã có những
thay đổi căn bản, các luật lệ của chế độ cũ mặc dù đã được áp dụng với tinh thần
mới nhưng nó vẫn khơng cịn thích hợp nữa. Do đó, Thơng tư số 19-VHH/HS ngày
30 tháng 6 năm 1955 của Bộ Tư pháp đã u cầu các Tịa án khơng nên áp dụng luật
lệ của chế độ cũ nữa. Tuy nhiên, đến năm 1955, Nhà nước ta vẫn chưa ban hành văn
bản pháp luật hình sự quy định cụ thể về tội Hiếp dâm (bao gồm tội hiếp dâm trẻ em)
nên khi tồn bộ các luật cũ khơng cịn được áp dụng nữa, các Tịa án xử theo đường
lối chính sách của Đảng và Chính phủ, án lệ của các Tịa án, của Tòa án tối cao. Việc
này dẫn đến sự xét xử tùy tiện.
Trước tình hình thiếu thốn quy định và thực trạng gia tăng tội hiếp dâm (bao
gồm tội hiếp dâm trẻ em) này, năm 1960 Tòa án nhân dân tối cao ra Chỉ thị số 1024
ngày 15 tháng 6 năm 1960 hướng dẫn việc xử lý tội hiếp dâm nhằm khắc phục
khuynh hướng coi nhẹ tính chất nghiêm trọng của loại tội phạm này, nhất là
khuynh hướng coi nhẹ tội hiếp dâm trẻ em [1, Tr.56]. Có thể nói đây là văn bản đầu

tiên đặt nền móng cho việc hoàn thiện các quy định về các tội phạm về tình dục.
Để các quy định của pháp luật được đầy đủ và toàn diện hơn đồng thời giúp
cho việc xét xử trên thực tiễn được dễ dàng và thuận lợi. Năm 1967, dựa trên cơ sở

17


kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xét xử, một văn bản có ý nghĩa quan trọng trong
việc xử lý các tội phạm về tình dục, đó là Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét
xử tội hiếp dâm và các tội phạm khác về mặt tình dục (số 329-HS2 ngày 11 tháng 5
năm 1967) của TAND tối cao đề cập một cách tồn diện bốn hình thức phạm tội:
hiếp dâm (bao gồm cả hiếp dâm trẻ em), cưỡng dâm (tức cưỡng bách giao cấu),
giao cấu với người dưới 16 tuổi và dâm ô (trái ý muốn và không có giao cấu). Như
vậy hiếp dâm trẻ em được ghi nhận thuộc nhóm tội xâm phạm tình dục và là một
hình thức phạm tội hiếp dâm. Văn bản này đã chính thức thay thế Chỉ thị số 1024
năm 1960 và nhiều quy định trong bản tổng kết này vẫn được vận dụng cho đến
ngày nay.
Bản tổng kết số 329/HS2 đã chỉ ra đường lối xử lý đối với hành vi xâm
phạm tình dục trẻ em nói chung cũng như hành vi hiếp dâm trẻ em nói riêng theo
hướng xử nặng. Bản tổng kết chỉ rõ những trường hợp cần xử nặng, những trường
hợp cần xử nhẹ hơn so với trường hợp bình thường, cụ thể: xử nặng đối với hành vi
hiếp dâm người dưới 18 tuổi, hiếp dâm người thân về trực hệ, hiếp dâm nhiều
người vì động cơ đê hèn,...và xử nhẹ hơn đối với những trường hợp phạm tội chưa
đạt, tác hại còn hạn chế, bị cáo còn ít tuổi, có tình tiết về nhân thân bị can như có
cơng hiến, thái độ hối cải...
Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm
khác về mặt tình dục số 329-HS2 ngày 11 tháng 5 năm 1967 của TAND tối cao (sau
đây gọi tắt là Bản tổng kết 329) đã khẳng định rằng chế độ ta là chế độ luôn luôn tạo
điều kiện và bảo đảm cho mọi công dân được thực sự bảo vệ và tôn trọng về mặt sức
khỏe, tính mạng cũng như về mặt danh dự. Những hành vi xâm phạm đến sự trưởng

thành bình thường của các em thiếu nhi cần được coi là những hành vi rất nguy hiểm
cho xã hội, vì khơng những nó chà đạp lên nhân phẩm, danh dự của người bị nạn, tác
hại đến sức khỏe, có khi đến cả tính mạng của họ mà cịn có ảnh hưởng rất xấu cho
đạo đức xã hội chủ nghĩa và cho nền trật tự an ninh chung. Có thể nói, sự ra đời của
Bản tổng kết 329 với những quy định về hành vi và thủ đoạn phạm tội của các tội
phạm về mặt tình dục mặc dù cịn rất đơn giản, chỉ mang tính chất liệt kê nhưng đã

18


đánh dấu một bước phát triển trong lịch sử lập pháp của Nhà Nước ta, tạo cơ sở cho
những quy định tiếp theo về các tội phạm về tình dục [1, Tr.59].
Ngay sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, ngày 15/03/1976 Hội
đồng chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Sắc
luật số 03/SL-1976 (sau đây gọi tắt là Sắc luật 03) quy định các tội phạm và hình
phạt được áp dụng ở Miền Nam Việt Nam, trong đó tại Điều 5 của Sắc luật 03 quy
định các tội xâm phạm đến thân thể và nhân phẩm của cơng dân có nêu: “Phạm tội
hiếp dâm, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 5 năm. Hiếp dâm vị thành niên thì bị phạt tù
từ 3 năm đến 7 năm. Trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm,
tù chung thân hoặc bị xử tử hình. Phạm các tội khác xâm phạm thân thể và nhân
phẩm của cơng dân thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm”.
Để nhận thức nội dung Sắc luật 03 được đúng đắn và để việc áp dụng được
thống nhất, tháng 4 năm 1976, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 03-BTP/TT
(sau đây gọi tắt là Thông tư 03) hướng dẫn thi hành Sắc luật quy định các tội phạm
và hình phạt.
Nhìn chung, pháp luật trong giai đoạn này còn thiếu, các Tịa án chủ yếu xét
xử theo chính sách của Đảng và Chính phủ, theo án lệ thơng qua các bản tổng kết
và hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao nhưng cũng mới chỉ tập trung vào các
tội phạm về tình dục tội hiếp dâm cũng như tội hiếp dâm trẻ em được quy định trên
văn bản dưới luật. Do đó, giá trị pháp lý của các văn bản này chưa cao, quy định

còn chưa cụ thể, thiếu thống nhất mà chỉ mang tính chất tạm thời nên việc áp dụng
các hướng dẫn này trong thực tiễn xét xử còn gặp nhiều vướng mắc, làm ảnh hưởng
đến chất lượng xét xử cũng như hiệu quả của cuộc đấu tranh chống tội phạm này.
Vì thế, nhu cầu được đặt ra đó là phải có một văn bản tổng hợp tồn diện,
thống nhất các văn bản pháp luật hình sự nói chung và các quy định về hành vi hiếp
dâm trẻ em nói riêng. Văn bản đó chính là BLHS năm 1985.
1.3.2.2. Tội hiếp dâm trẻ em trong Bộ luật hình sự năm 1985
BLHS năm 1985 được Quốc hội khóa VII thông qua ngày 27 tháng 06 năm
1985 tại kỳ họp thứ 9 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1986. Bộ luật hình sự

19


×