Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện trong các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.83 KB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THOA

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN
CON NGƢỜI TOÀN DIỆN TRONG CÁC TRƢỜNG
CAO ĐẲNG CƠNG AN NHÂN DÂN PHÍA NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THOA

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN
CON NGƢỜI TOÀN DIỆN TRONG CÁC TRƢỜNG
CAO ĐẲNG CƠNG AN NHÂN DÂN PHÍA NAM HIỆN NAY
Chun ngành: Triết học
Mã số: 82 29 001

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN ĐÌNH HỊA



HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do chính tơi thực hiện, các số liệu được
trích dẫn trong luận văn là hoàn toàn trung thực, đáng tin cậy và là kết quả của quá
trình tham khảo chủ yếu từ các báo cáo tổng kết. Những nội dung và kết luận trong
luận văn mà tôi nghiên cứu chưa được công bố ở bất kể đâu. Tôi xin chịu hồn tồn
trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của mình.
Người làm luận văn

Nguyễn Thị Thoa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI
TỒN DIỆN: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN.......8
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện ............8
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 8
1.1.2. Những tiền đề tư tưởng - lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát triển con người toàn diện ..........................................................................11
1.1.3. Nhân tố chủ quan của bản thân Hồ Chí Minh ........................................20
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người tồn diện: Khái niệm và nội
dung cơ bản ...........................................................................................................24
1.2.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người tồn diện ....24
1.2.2. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện ....29
1.2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về con đường hình thành và phát triển con
người toàn diện .................................................................................................34

Chƣơng 2: PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TỒN DIỆN THEO TƢ TƢỞNG HỒ
CHÍ MINH TRONG CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG CƠNG AN NHÂN DÂN PHÍA
NAM HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.................................................42
2.1. Thực trạng phát triển con người tồn diện theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong
các trường cao đẳng Cơng an nhân dân phía Nam hiện nay.................................42
2.1.1. Khái quát đặc điểm, tình hình của các trường cao đẳng Công an nhân
dânhiện nay ......................................................................................................42
2.1.2. Những thành tựu và nguyên nhân...........................................................44
2.1.3. Một số hạn chế và nguyên nhân .............................................................57
2.2. Một số giải pháp tiếp tục phát triển con người tồn diện theo tư tưởng Hồ
Chí Minh trong các trường cao đẳng Cơng an nhân dân phía Nam hiện nay.......60


2.2.1. Nâng cao nhận thức của hệ thống chính trị trong các trường cao đẳng
Cơng an nhân dân phía Nam về tầm quan trọng của việc phát triển con người
toàn diện ...........................................................................................................60
2.2.2. Phải coi giáo dục - đào tạo và tự giáo dục - đào tạo là yêu cầu hàng đầu,
thường xuyên của người Công an cách mạng trong các trường cao đẳng Công
an nhân dân .......................................................................................................61
2.2.3. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo trong các trường cao đẳng
Công an nhân dân .............................................................................................65
2.2.4. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo tình hình trong nước và thế giới
để chủ động phát triển con người toàn diện đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới ......67
KẾT LUẬN ..............................................................................................................70
DANH MỤC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc, một chiến sỹ lỗi lạc
của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và là một danh nhân văn hóa thế giới.
Người là sự kết tinh những phẩm chất và giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc Việt
Nam và thời đại. Tuy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng sự nghiệp cách mạng
và những tư tưởng mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn quân, tồn dân ta là tài sản
vơ cùng q báu, có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng trước đây, hôm nay
cũng như mai sau. Vấn đề này đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam,
là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta” [16, tr.7 – 8].
Trong di sản tư tưởng của Người, tư tưởng về xây dựng con người phát triển
toàn diện là một bộ phận quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng
nước ta. Lấy con người làm trung tâm, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng
của mình, Hồ Chí Minh luôn đấu tranh chống áp bức, bất công, phấn đấu đem lại
cuộc sống tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng con người phát triển toàn diện, trong giai đoạn cách mạng hiện nay khi đất
nước đang tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hơn lúc nào hết,
Đảng ta luôn quan tâm và chú trọng đến việc xây dựng con người phát triển toàn
diện. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII cũng khẳng định: “Phát huy
nhân tố con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người
về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc” [16, tr. 53]. Phát huy
nhân tố con người nhằm tạo ra những con người phát triển về mọi mặt, đủ sức, đủ
tài để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn
định chính trị, trật tự, an tồn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng,
Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và tồn dân, trong đó Quân đội nhân dân và

1



Cơng an nhân dân là nịng cốt. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, nhiệm vụ này lại
càng trở nên hết sức to lớn, nặng nề và phức tạp. Do đó, việc xây dựng con người
phát triển tồn diện trong Công an nhân dân được xác định là nhiệm vụ then chốt,
có ý nghĩa quyết định đối với việc xây dựng lực lượng Cơng an nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, bảo đảm hoàn thành thắng lợi
những nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Để đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này,
Đảng ta xác định việc đẩy mạnh nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người tồn diện nói riêng
là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách.
Thực hiện sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng ủy Công an Trung ương, đồng thời
trên cơ sở nhận thức sâu sắc những giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về phát
triển con người tồn diện, trong những năm qua, các trường cao đẳng Công an nhân
dân phía Nam đã và đang tích cực vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vào
cơng tác xây dựng, đào tạo, phát triển con người tồn diện. Nhờ đó, bước đầu đã đạt
được nhiều kết quả quan trọng: Đội ngũ cán bộ, chiến sỹ và học viên ngày càng có
bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức, lối sống tốt; có trình độ chun
mơn nghiệp vụ cao; thể lực được đảm bảo, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao. Tuy nhiên, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người tồn diện tại các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam hiện nay vẫn
cịn nhiều hạn chế. Để góp phần đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng con người phát triển toàn diện
trong các trường cao đẳng Công an nhân dân, tôi chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về phát triển con người tồn diện trong các trường cao đẳng Cơng
an nhân dân phía Nam hiện nay” để nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm sâu sắc, toàn diện; là nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng nước ta. Chính vì vậy, đã có rất
nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học với những nội dung, mục tiêu, cấp độ khác

nhau khai thác tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về

2


phát triển con người phát triển tồn diện đã có một số cơng trình, bài viết nghiên
cứu, tiếp cận trên những phương diện khác nhau:
Thứ nhất, những cơng trình, bài viết đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người và xây dựng con người. Về mảng nghiên cứu này đã có nhiều cơng trình
(sách, đề tài khoa học, bài báo) nghiên cứu. Một trong số đó là cuốn Tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng văn hóa và con người mới của Bùi Đình Phong, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2008), tác phẩm này phân tích khá sâu sắc tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa và vận dụng để xây dựng những phẩm chất của con người
mới phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Cuốn Hồ
Chí Minh với xây dựng con người mới, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội
(1995), tác phẩm này nêu lên những quan điểm của Hồ Chí Minh về con người và
vận dụng để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Cuốn Hồ Chí Minh với sự
nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện của Phó giáo sư, Tiến sĩ
Thành Duy, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội (2010), đã đề cập đến những
quan điểm cơ bản về mối quan hệ giữu văn hóa và xây dựng con người phát triển
toàn diện, nguồn gốc hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển
con người toàn diện; về đặc điểm, giải pháp và một số nội dung phát triển con
người Việt Nam toàn diện trong giai đoạn hiện nay. Hay cuốn Tư tưởng Hồ Chí
Minh về phát triển văn hóa và con người của Đặng Xuân Kỳ, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Hà Nội (2005), đề cập đến các khía cạnh về văn hóa và con người theo
quan điểm của Hồ Chí Minh và vận dụng quan điểm đó vào xây dựng văn hóa mang
bản sắc dân tộc Việt Nam. Tác giả Vũ Thiện Vương với cuốn Triết học Mác –
Lênin về con người và xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2001), trong đó trình bày
khái qt những quan điểm cơ bản của triết học Mác – Lênin về con người; trên cơ

sở đó, vận dụng vào việc luận giải tính tất yếu, tầm quan trọng, phương hướng và
giải pháp chủ yếu để xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trong giai đoạn
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Ngồi các cơng trình nêu trên, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người cịn được

3


nhiều tác giả khác nghiên cứu, viết thành những bài báo khoa học như: “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người và chiến lược con người, Tạp chí Cơng tác khoa giáo,
12/1997; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của
sự phát triển xã hội” của Lê Thị Hương, Tạp chí Triết học, số 9/2006; “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người và chính sách đối với con người” của tác giả Thành Duy,
Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12/2005; “Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng con người mới, văn hóa mới” của Nguyễn Trung Thu, Nxb Chính
trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội (2013); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển giáo
dục đào tạo nhân tài” của Chu Thái Thành, Tạp chí Cộng sản, số 18, tháng
9/2005… Các bài viết này đã đề cập tới những nội dung liên quan đến vấn đề con
người và phát triển con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, những cơng trình, bài viết có liên quan tới xây dựng lực lượng Công
an nhân dân. Có thể kể đến cuốn Một số vấn đề về xây dựng lực lượng Cảnh sát
nhân dân trong tình hình mới của Bộ Công an, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà
Nội (1998), tác phẩm đã nêu ra một số vấn đề về xây dựng lực lượng cảnh sát nhân
dân và đưa ra một số giải pháp để xây dựng lực lượng cảnh sát nhân dân ngày càng
phát triển, phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Cuốn Một số vấn đề về xây dựng
lực lượng Công an nhân dân của Trần Quốc Hồn, Nhà xuất bản Cơng an nhân dân,
Hà Nội (2004). Cuốn Công an nhân dân 65 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng
thành của Bộ Công an, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội (2010), tác phẩm
khái quát những chặng đường hình thành và phát triển lớn mạnh của lực lượng
Công an nhân dân. Cuốn Phát triển nguồn nhân lực Công an nhân dân trong quá

trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam của Vũ Đức Khiển - Nguyễn Tốt, Nhà xuất bản
Công an nhân dân, Hà Nội (2014), đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập quốc tế; đồng thời,
đề xuất những định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong lực lượng
Công an nhân dân. Tác phẩm Xây dựng đội ngũ trí thức trong Cơng an nhân dân
trong tình hình mới của Bộ Công an, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội
(2009), đề cập đến sự cần thiết và một số quan điểm, giải pháp xây dựng, phát triển

4


đội ngũ trí thức Cơng an nhân dân đáp ứng u cầu của tình hình mới. Cuốn Cơng
tác xây dựng lực lượng Công an nhân dân – Những vấn đề lý luận và thực tiễn của
Bộ Công an, Nhà xuất bản Cơng an nhân dân, Hà Nội (2011), trình bày về những
vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác xây dựng lực lượng trong Công an nhân
dân, đồng thời đưa ra một số đề xuất, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát triển con người toàn
diện đã được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Mỗi tác giả nghiên cứu vấn
đề trên từ nhiều góc độ, cách tiếp cận khác nhau nhằm khai thác những khía cạnh,
nội dung và giải quyết những nhiệm vụ mà mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu
của mỗi cơng trình đặt ra. Tuy nhiên, đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát triển con người tồn diện trong các trường cao đẳng Cơng an nhân dân phía
Nam hiện nay” vẫn chưa được tác giả nào nghiên cứu một cách hệ thống và có
chiều sâu. Vì vậy, ở luận văn này, tác giả sẽ kế thừa những thành tựu nghiên cứu
trước đây, đồng thời có sự bổ sung, phát triển nhằm góp phần làm sáng tỏ cũng như
mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về phát triển con người toàn diện ở các trường cao đẳng Cơng an nhân dân
phía Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát
triển con người tồn diện, luận văn phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng đó, đồng
thời đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát triển con người toàn diện theo tư
tưởng HCM trong các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở hình thành và nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát triển con người toàn diện.

5


- Phân tích, làm rõ thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển
con người tồn diện trong các trường cao đẳng Cơng an nhân dân phía Nam trong
thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp tiếp tục phát triển con người toàn diện theo tư tưởng
Hồ Chí Minh trong các trường cao đẳng Cơng an nhân dân phía Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề phát triển con người toàn diện theo tư tưởng Hồ
Chí Minh trong các trường cao đẳng Cơng an nhân dân phía Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu trong giới hạn vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh để xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sỹ và học viên phát triển toàn diện ở các
trường cao đẳng Cơng an nhân dân phía Nam (Trường Cao đẳng An ninh nhân dân II
và Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân II) trong giai đoạn hiện nay.
5.Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở: Quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là di sản lý luận của Hồ

Chí Minh về phát triển con người toàn diện; đồng thời luận văn cũng kế thừa, chọn
lọc và phát triển những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước có liên
quan trực tiếp đến đề tài luận văn.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích và tổng hợp, lịch sử
và lơgic, so sánh, đối chiếu...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận

6


Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về ý nghĩa to lớn của tư tưởng Hồ Chí
Minh trong việc xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ, chiến sỹ phát triển tồn diện
trong các trường cao đẳng Cơng an nhân dân hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao hiệu quả vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người tồn diện trong cơng tác giáo dục, đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, chiến sỹ trong các trường cao đẳng Cơng an nhân
dân phía Nam hiện nay. Đồng thời, luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho cán bộ, chiến sỹ trực tiếp làm công tác tham mưu, tổ chức, xây dựng lực
lượng trong lực lượng Công an nhân dân hoặc những người làm công tác nghiên
cứu khoa học, giảng dạy trong và ngồi ngành Cơng an.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 02 chương, 04 tiết.

7



Chƣơng 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI
TỒN DIỆN: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN
1.1. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phát triển con ngƣời tồn diện
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
- Điều kiện kinh tế - xã hội thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Bất kỳ tư tưởng, lý luận nào được hình thành cũng gắn với những điều kiện
lịch sử - xã hội nhất định. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người tồn diện
nói riêng và tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung hình thành gắn liền với bối cảnh thế
giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đầy biến động.
Từ những năm 1860 – 1870, chủ nghĩa tư bản đã chuyển dần từ giai đoạn tự
do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn độc quyền – chủ nghĩa đế quốc và trở thành
một hệ thống thế giới. Nhờ sự vận dụng những thành tựu của các cuộc cách mạng
công nghiệp diễn ra ở cuối thế kỷ XVIII, các nước tư bản chủ nghĩa đã nhanh chóng
phát triển lực lượng sản xuất, từ đó tạo ra một khối lượng hàng hóa khổng lồ. Trong
“Tun ngơn của Đảng Cộng sản”, Mác viết “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống
trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ
sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại” [10, tr. 599]. Để
xử lý nguồn hàng hóa dư thừa này các nước tư bản đã tiến hành tìm kiếm, mở rộng
thị trường mới bằng cách đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa, gây chiến tranh để chia
lại thị trường thế giới và thâu tóm thuộc địa. Hậu quả là trong lịng xã hội tư bản,
bên cạnh những mẫu thuẫn vốn đã tồn tại,xuất hiện nhiều mâu thuẫn mới như: Mâu
thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc và mâu thuẫn
giữa các nước tư bản, đế quốc với nhau. Những mâu thuẫn đó trở thành những mâu
thuẫn sâu sắc của thời đại. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa với cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản quốc tế chống giai cấp tư sản ở chính quốc trở thành cuộc đấu
tranh chung.

8



Trước sự tăng cường áp bức, bóc lột nhân dân chính quốc và thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở
các nước tư bản diễn ra sôi nổi, tạo ra những cao trào cách mạng mới, đỉnh cao là
cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Cuộc cách mạng này thành cơng có ý
nghĩa to lớn khơng chỉ đối với nước Nga, mà còn nêu một tấm gương sáng về giải
phóng cho các dân tộc bị áp bức, “mở ra trước mắt họ thời đại chống đế quốc, thời
đại giải phóng dân tộc” [38, tr.562], mở ra con đường mới trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộccủa các dân tộc thuộc địa, trong đó có Việt Nam nói chung và Nguyễn
Ái Quốc nói riêng. Với sự nhạy bén về chính trị và quyết tâm cứu nước, Người đã
nhanh chóng tiếp cận ánh sáng của Cách mạng tháng Mười Nga và đặt trọn niềm tin
theo ánh sáng của Cách mạng tháng Mười.
Từ sau sự tan rã của Quốc tế II và sự ra đời của Quốc tế III (tháng 3/1919),
phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa phương Đơng ngày càng có mối
quan hệ khăng khít hơn với phong trào công nhân các nước tư bản phương Tây.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trở thành một bộ phận của của
cách mạng vô sản thế giới. Điều này được thể hiện rất rõ nét trong tác phẩm “Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” doV.I.Lênin
soạn thảo. Nguyễn Ái Quốc coi đây là cái cẩm nang thần kỳ để giải phóng cho dân
tộc Việt Nam, sau này Người viết: Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động,
phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tơi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một
mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi
đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta!" [42, tr.562]. Từ đây, Người đã kiên quyết về con đường giải
phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản. Người bỏ phiếu tán thành Quốc tế III
và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, đây là một dấu mốc quan trọng đánh dấu
sự thay đổi lập trường tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc: Từ người thanh niên
yêu nước trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Từ đây những tư tưởng của
Người được hình thành trên một thế giới quan mới, khoa học, biện chứng hơn.

- Điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

9


Bước sang cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam về cơ bản vẫn là một xã
hội phong kiến, nơng nghiệp lạc hậu. Chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản
động của triều đình Nguyễn đã làm đất nước dần lâm vào khủng hoảng và suy yếu.
Đây là cơ hội cho các nước thực hiện âmmưu xâm chiếm Việt Nam. Ngày 1/9/1858,
thực dân Pháp đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà – Đà Nẵng mở đầu cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam.Triều đình nhà Nguyễn từng bước đầu hàng, làm tay sai cho thực
dân trong việc đàn áp, bóc lột nhân dân, biến nước ta trở thành một nước thuộc địa
nửa phong kiến bằng các Hiệp ước Nhâm Tuất - 1862, cắt đứt 3 tỉnh miền Đông
dâng cho giặc; Hiệp ước Giáp Tuất, 1874 dâng 6 tỉnh Nam Kỳ cho Pháp; Hiệp ước
Quý Mùi - 1883, thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc kỳ và Trung kỳ; và Hiệp
ước Patơnốt 1884, thừa nhận sự bảo hộ hoàn toàn của Pháp ở Việt Nam. Như vậy,
chỉ với 4 bản hiệp ước triều đình nhà Nguyễn cuối cùng đã dâng toàn bộ lãnh thổ
cho thực dân Pháp.
Trong gần một thế kỷ, thực dân Pháp đã câu kết với giai cấp địa chủ, phong
kiến thống trị nước ta một cách vô cùng tàn bạo. Nước ta vốn là quốc gia thống
nhất, nay chúng chia cắt thành 3 kỳ với 3 chế độ thống trị khác nhau để dễ bề cai trị
và đàn áp. Sau khi chính thức đặt nền bảo hộ trên tồn cõi Việt Nam, với chính sách
chuyên chế về chính trị, độc quyền về kinh tế, nơ dịch về văn hóa… cuộc khai thác
của Pháp khiến cho xã hội nước ta có sự biến chuyển và phân hóa sâu sắc. Dưới sự
thống trị của thực dân Pháp, Việt Nam từ xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc
địa, nửa phong kiến. Kết cấu xã hội Việt Nam xuất hiện thêm những giai cấp mới:
Giai cấp tư sản, giai cấp công nhân và tầng lớp tiểu tư sản. Trong xã hội Việt Nam
lúc này cũng nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ và
phong kiến, trong đó mâu thuẫn giữa tồn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp

được coi là mâu thuẫn chủ yếu
Cùng lúc đó, các “Tân thư”, “tân văn”, “tân báo” và những ảnh hưởng của trào
lưu cải cách ở Nhật Bản, Trung Quốc tràn vào Việt Nam, tác động làm phong trào
yêu nước của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản. Các phong

10


trào này chỉ rộ lên một thời gian ngắn rồi lần lượt bị dập tắt, một phần vì chưa lơi
cuốn được tầng lớp nhân dân, phần khác các phong trào ấy vẫn do các sĩ phu phong
kiến dẫn dắt nên không tránh khỏi hạn chế và thất bại. Điều này chứng tỏ rằng con
đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã rơi vào bế tắc. Bế tắc là
do khơng có đường lối chính trị rõ ràng, đúng đắn; do khơng có phương pháp cách
mạng; do không thấy được sức mạnh trong dân.
Như vậy, con đường cứu nước của dân tộc lúc này rơi vào khủng hoảng như
đêm tối khơng có đường ra. u cầu của lịch sử là phải tìm ra một con đường cứu
nước mới cho dân tộc. Nhưng đó là con đường nào? Câu hỏi đó đặt lên vai thế hệ
thanh niên như Nguyễn Tất Thành. Những biến cố to lớn của thế giới đã mang lại
một nguồn ánh sáng mới về con đường giải phóng dân tộc, đồng thời tạo ra những
điều kiện thuận lợi, cơ hội mới để tiếp thêm động lực góp phần thơi thúc Người ra
đi tìm đường cứu nước, từ đó hình thành một hệ thống quan điểm sâu sắc, toàn diện
về con đường cứu nước và về con đường cách mạng Việt Nam sau này.
1.1.2. Những tiền đề tư tưởng - lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về phát triển con người tồn diện
- Giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về phát triển con người toàn diện
Dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo
lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những giá trị
truyền thống tốt đẹp và cao quýnhư: Tinh thần yêu nước, tương thân tương ái, đoàn
kết, lạc quan, cần cù, sáng tạo... Nổi bật là chủ nghĩa u nước – khởi nguồn đầu

tiên góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Tinh thần yêu nước đã trở thành
đạo lý sống, niềm tự hào và là một nhân tố được xếp ở vị trí đầu tiên trong bảng giá
trị tinh thần của Việt Nam. Từ truyền thống yêu nước của dân tộc, Người tổng kết:
“Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một
làn sóng vơcùng mạnh mẽ, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước” [37, tr.
38]. Người không chỉ tự hào về truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà cịn ln phát

11


huy lòng yêu quê hương đất nước nồng nàn bằng những hành động cụ thể trong
cuộc sống thực tiễn: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được
trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất
giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của
quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên
truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được
thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến” [37, tr. 38]. Trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người đã làm phong phú thêm nội dung
của chủ nghĩa yêu nước. Theo Người, yêu nước là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân gắn
liền với yêu chủ nghĩa xã hội, bởi có chủ nghĩa xã hội thì Tổ quốc mới giàu mạnh,
nhân dân mới được ấm no, hạnh phúc. Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã cống hiến
cho dân, cho nước, cho nhân loại cần lao. Người đã phát triển thêm những nội dung
mới của chủ nghĩa yêu nước trên cơ sở quan điểm giai cấp, yêu nước mở rộng ra
thành tình u vơ cùng rộng lớn đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động,
những người cùng khổ trên khắp thế giới. Điều này thể hiện chủ nghĩa nhân văn sâu
sắc ở Hồ Chí Minh. Trong bài “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Hồ Chí
Minh đã nói rõ: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa
cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” [42, tr. 563].Yêu nước
gắn liền với ý thức sâu sắc về độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, đây là biểu

hiện cao nhất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Người đã thấu cảm sâu sắc với vạn
điều cay đắng từ hàng ngàn năm bị mất tự do của dân tộc. Với hành trang là tinh
thần yêu nước quật cường, ý chí đấu tranh bất khuất, ngày 5/6/1911 người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, sang phương Tây bắt đầu cuộc
hành trình tìm đường cứu nước, cứu dân. Tóm lại, chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam là cơ sở, là động lực và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của Người. Đây là một trong những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người tồn diện nói riêng.
Ngồi truyền thống u nước, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống nhân ái, thì
đồn kết cũng là một trong những nét hết sức đặc sắc trong các giá trị truyền thống

12


Việt Nam. Hồ Chí Minh đã thấm nhuần, kế thừa truyền thống ấy của dân tộc và
nâng lên cao đẹp hơn thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn
biển một nhà; lòng yêu thương, quý trọng con người hình thành nên tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh, trước hết đó là tình thương u dành cho nhân dân lao động, cho
những người cùng khổ bị đọa đày áp bức, từ tình yêu thương đồng bào mình, Người
mở rộng lịng u thương đó ra phạm vi thế giới. Theo Người, “dù màu da có khác
nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: Giống người bóc lột và giống người bị
bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vô sản” [31,
tr. 287]. Nếu như tư tưởng đại nhân ở Hồ Chí Minh là phấn đấu vì sự nghiệp giải
phóng, vì tự do, hạnh phúc của con người, tin vào lý trí, phẩm giá con người, tạo
điều kiện cho con người phát triển tự do và toàn diện, thì tư tưởng đại nghĩa ở Hồ
Chí Minh là cứu nước, là độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh giá trị truyền thống về lòng yêu nước, nhân nghĩa, đồn kết hay
tương thân tương ái, Hồ Chí Minh còn kế thừa tư tưởng giáo dục đạo lý làm người
của ơng cha ta – đó là giáo dục con người sống có lý tưởng bản lĩnh, có ý chí vươn
lên để tự hồn thiện mình về mọi mặt đức, trí, thể, mỹ... đem hết tài đức của mình

để xây dựng một xã hội “thái bình, thịnh trị”. Triết lý và nội dung giáo dục đào tạo,
phát triển con người của cha ơng ta đã góp phần quan trọng tạo ra những thế hệ
người Việt Nam có đủ sức khỏe, đức và tài, góp phần to lớn vào sự trường tồn và
phát triển không ngừng của dân tộc Việt Nam, làm rạng danh dân tộc, vẻ vang
giống nòi, như những trang sử thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung...
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có nền nếp giáo dục cơ bản, với những hiểu
biết sâu sắc về những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc cũng như những tư
tưởng giáo dục, đào tạo và phát triển con người của cha ông, Người cho rằng, cần
phải kế thừa một cách sáng tạo những giá trị ấy vào sự nghiệp xây dựng và phát
triển con người. Trong tư tưởng phát triển con người của mình, vấn đề giáo dục đạo
lý làm người được Hồ Chí Minh rất quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, con người dù bất
kỳ ở đâu cũng phải sống có đạo lý. Đối với dân tộc Việt Nam vấn đề này càng có ý
nghĩa quan trọng. Người cho rằng, nếu con người thiếu nhân cách, sống không đạo

13


lý thì dù tài giỏi đến đâu cũng khơng giúp ích được cho cộng đồng, xã hội, thậm chí
còn gây hại cho đất nước, cho nhân dân. Vì vậy, việc chăm lo giáo dục là việc làm
cần thiết, thường xuyên. Hiếm có một vị lãnh tụ nào trên thế giới như Hồ Chí Minh,
Người đã hy sinh hạnh phúc cá nhân, dành trọn vẹn cuộc đời cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, Người luôn chăm lo bồi dưỡng đức tài cho thế hệ trẻ. Vì một điều dễ
hiểu rằng, khơng có một cuộc cách mạng nào có thể chiến thắng nếu khơng chuẩn
bị, đào tạo được những con người có tính tiên phong, mang trong mình lý tưởng và
đường lối của cuộc cách mạng ấy, có đạo đức và có khả năng dẫn dắt quần chúng
tiến lên xây dựng xã hội mới, tiến bộ hơn. Cho đến ngày nay, bài học bồi dưỡng thế
hệ cách mạng cho đời sau đã trở thành bài học quan trọng, bởi nó là nền móng của
sự phát triển hiện tại và mai sau.
Như vậy, có thể thấy, chính những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đặc
biệt là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và những tư tưởng về giáo dục của cha ơng đã

được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển, tạo thành cơ sở, nền tảng trong quan điểm
về phát triển con người toàn diện, là động lực và sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người.
- Tinh hoa văn hóa nhân loại với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát triển con người tồn diện
Văn hóa phương Đơng:
Với truyền thống chú trọng văn hóa, nhân văn nên nhìn chung tư tưởng
phương Đơng đều hướng đến mục tiêu xây dựng và phát triển những con người tốt
đẹp. Các học thuyết đóng vai trị quan trọng trong việc định hướng tu dưỡng và
phấn đấu của mỗi con người.
Nho giáo chứa đựng những mặt tích cực mang tính nhân văn và nhân đạo sâu
sắc. Trước hết là ở chủ trương xây dựng một “thế giới đại đồng”, một “xã hội bình
trị” làm theo năng lực – hưởng theo nhu cầu, đây là một xã hội mà mọi người mơ
ước: Con người được sống bình yên, hạnh phúc với những quan hệ tốt đẹp. Nho
giáo có ưu thế hơn hẳn các học thuyết, tôn giáo khác bởi nó có một hệ thống phạm
trù, khái niệm khá hoàn chỉnh để giáo dục, đào tạo, phát triển con người, trong đó

14


nhấn mạnh yêu tố tự giác, “tu thân” của mỗi con người. Nho giáo xây dựng được
mẫu người lý tưởng cho xã hội phong kiến, đó là những người “quân tử”, những “kẻ
sĩ”, mà ở họ các năng lực, phẩm chất về mặt tinh thần như đạo đức… được coi
trọng. Người quân tử là người xả thân vì Nhân, vì Nghĩa. Hồ Chí Minh cho rằng
điều này phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội cũng như tư tưởng, tâm lý của dân
tộc Việt Nam vốn đề cao đạo làm người, tơn vinh tinh thần xả thân vì Tổ quốc và
nhân dân của các thành viên trong cộng đồng. Mục tiêu cuối cùng của việc tu dưỡng
bản thân là bình thiên hạ, thể hiện mong muốn xây dựng, phát triển con người tồn
diện Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Theo Người: “Tuy trong học thuyết của Khổng Tử
có nhiều điều khơng đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học” [38,

tr. 356]. Hồ Chí Minh đã phát triển “trung, hiếu” của Nho giáo lên một tầm cao
mới: Trung là trung với Tổ quốc, hiếu là hiếu với nhân dân. Nếu Nho giáo hướng
đạo đức của người quân tử vào việc bảo vệ chế độ phong kiến, đòi hỏi lòng trung
thành tuyệt đối với nhà vua, coi nhân dân là đối tượng để chăn dắt và sai khiến, thì
Hồ Chí Minh lại hướng đạo đức của cán bộ và nhân dân vào việc lật đổ chế độ
phong kiến, giải phóng người lao động khỏi áp bức, bóc lột. Đối với Hồ Chí Minh,
tu thân là trước hết rèn luyện đạo đức cách mạng và ra sức học tập, tu thân không
phải để làm quan, để đè đầu cưỡi cổ nhân dân, mà đòi hỏi người cán bộ phải coi
mình như người đầy tớ trung thành của nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân vùng lên, tự giải phóng mình,
tự làm chủ bản thân và làm chủ đất nước.
Phật giáo: Bên cạnh ảnh hưởng của Nho giáo thì tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát triển con người toàn diện cũng chịu ảnh hưởng các quan điểm của Phật giáo.
Vốn là một tôn giáo nên Phật giáo không tránh khỏi những hạn chế nhất định, như
thần bí, bi quan, yếm thế... Hồ Chí Minh đã loại bỏ những điểm hạn chế, tiếp thu và
kế thừa những mặt tích cực của Phật giáo, đó là tư tưởng về xây dựng một cuộc
sống bình đẳng, no ấm cho dân chúng; tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái; là nếp sống có
đạo đức, trong sạch, giản dị; là tinh thần bình đẳng, dân chủ, khơng phân biệt đẳng
cấp, đề cao sự tự rèn luyện, tu dưỡng bản thân của mỗi người. Có thể nói, Hồ Chí

15


Minh đã tiếp thu và phát triển triết lý của Phật giáo về tinh thần chịu đựng gian khổ,
tự rèn luyện bản thân, loại trừ tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, đấu tranh khơng khoan
nhượng vì hạnh phúc, ấm no, tự do của nhân dân; đặc biệt là tinh thần hy sinh cao
cả, lòng nhân ái bao la, sự khoan dung, độ lượng của Đức Phật. Đối với Người sự
cần thiết phải xây dựng một xã hội tươi đẹp, đem lại cuộc sống ấm no cho mọi công
dân “ở nơi hạ giới”, chứ không phải trên cõi “Niết bàn” như lời khun của Đức
Phật. Điều đó thể hiện tính cách mạng hiện thực và triệt để trong tư tưởng Hồ Chí

Minh. Tư tưởng “giải thốt” của Đức Phật được Người nâng lên thành tư tưởng
“giải phóng” con người, giải phóng xã hội.
Chủ nghĩa Tam dân của Tơn Trung Sơn có dấu ấn khá sâu đậm trong tư tưởng
Hồ Chí Minh. Sinh thời Hồ Chí Minh có từng khẳng định: “Chủ nghĩa Tơn Dật
Tiên có cái hay là phù hợp với nước chúng ta”. Hồ Chí Minh đã nói rằng, “Người
cố gắng làm người học trị nhỏ của Tơn Trung Sơn cũng như của Khổng Tử, Giêsu,
Các Mác” [59, tr. 41]. Chủ nghĩa Tam dân bao gồm: Dân tộc độc lập, dân quyền tự
do, dân sinh hạnh phúc. Trong tư tưởng của mình, đặc biệt là những vấn đề dân
sinh, dân chủ, vấn đề nhà nước của dân, do dân, vì dân, Hồ Chí Minh đã kế thừa,
phát triển nhiều nội dung tư tưởng của Tôn Trung Sơn. Người đã chủ trương xây
dựng một nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có độc lập, tự do, hạnh phúc. Ham
muốn tột bậc của Người là đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành. Người mong mỏi độc lập cho nhân dân, tự do cho đồng bào. Có tự do cho dân
tộc thì mới có tự do cho mỗi người. Độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân
dân trở thành lý tưởng sống, chiến đấu, là mục tiêu cao cả mà Hồ Chí Minh phấn đấu.
Chủ nghĩa nhân văn phương Tây:
Là một người phương Đông, song gần một phần ba thế kỷ sống và hoạt động ở
phương Tây, với vốn ngoại ngữ phong phú, Người đã nhanh chóng chiếm lĩnh được
tri thức của nhân loại. Hồ Chí Minh đi đến các nước phương Tây và tiếp thu những
giá trị tích cực, tiến bộ và phù hợp nhất, trước hết là tư tưởng về tự do dân chủ, về
xây dựng một nhà nước pháp quyền... Hồ Chí Minh sớm hịa mình trong cách mạng
dân chủ, tự do, vì vậy, am hiểu sâu sắc văn hóa phương Tây. Hạt giống tự do, dân

16


chủ và tiến bộ chưa hề có trong xã hội phong kiến Việt Nam và cũng chỉ có ở
phương Tây với ý nghĩa đích thực của nó từ khi gắn với thế kỷ ánh sáng Pháp - thế
kỷ XVIII. Do vậy, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận tư tưởng đó như là hạt nhân cho lý
tưởng cứu nước và giải phóng các dân tộc.

Đồng thời, các cuộc đại cách mạng xã hội trên thế giới cũng có tác động
khơng nhỏ tới việc hình thành những tư tưởng của Hồ Chí Minh về mục tiêu giải
phóng dân tộc, giải phóng và phát triển con người toàn diện. Độc lập tự do là mục
tiêu chiến lược trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng này có nguồn gốc sâu xa
từ Tun ngơn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của đại cách mạng Pháp năm 1789. Năm 1945, mở đầu bản Tuyên ngôn độc
lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh trích dẫn những
tun ngơn của cuộc cách mạng tư sản Pháp và Mỹ. Đó là sự cơ đúc chủ nghĩa nhân
văn phương Tây và khẳng định quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền
mưu cầu hạnh phúc cho tất cả mọi người, tất cả các dân tộc. Có thể nói rằng, đến
những năm 20 của thế kỷ XX chưa một người Việt Nam nào vượt Nguyễn Ái Quốc
về sự hiểu biết, về tình thương yêu giai cấp và viết nhiều nhất về các dân tộc bị áp
bức theo đúng nghĩa.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về phát
triển con người toàn diện
Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin như một “cuộc hẹn hị lịch
sử”. Có thể coi đây là bước ngoặt vĩ đại trong cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người. Trước khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
và thuộc địa của V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc vẫn còn đứng trên lập trường của một
người dân thuộc địa khao khát đi tìm con đường giải phóng dân tộc. Trước khi đến
với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã có đến 10 năm học tập kinh sách Nho giáo,
tiếp thu những quan điểm của các học thuyết phương Đông về con người, bản chất
con người và phát triển con người. Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp
Người có cơ sở khoa học để xây dựng nên tư tưởng nhân văn đặc sắc của mình,
tránh được sự duy tâm chủ quan trong tư tưởng về con người. Chính chủ nghĩa Mác

17


– Lênin đã trang bị cho Người thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn về bản

chất con người, cho phép Nguyễn Ái Quốc thấy rõ hơn quy luật hình thành và phát
triển nhân cách, từ đó định ra con đường và phương hướng đúng đắn nhằm xây
dựng, phát triển con người tồn diện. Cái đích của cách mạng vô sản là xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, từ đó mới giải quyết được triệt để vấn đề giải
phóng con người. Người viết: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai
giống người: Giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một
mối tình hữu ái là thật mà thơi: Tình hữu ái vơ sản” [31, tr.287]; “Chỉ có chủ nghĩa
cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và
nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đồn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho
mọi người và vì mọi người, niềm vui, hịa bình, hạnh phúc” [31, tr. 496].
Tiếp nối và phát triển những lý luận của học thuyết Mác, V.I.Lênin đã nêu lên
lý luận về quá trình giáo dục, đào tạo, phát triển con người trong thời kỳ đầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Ông nhấn mạnh cả hai mặt: Lý tưởng, đạo đức,
nhiệt tình cách mạng và trình độ chun mơn nghiệp vụ, năng lực sáng tạo. Con
người toàn diện từ lý luận đã từng bước trở thành hiện thực trong xã hội mới. Tuy
nhiên, do điều kiện khách quan của lịch sử nên từ sau khi V.I.Lênin mất lý luận về
phát triển con người toàn diện vẫn chỉ dừng lại ở những nét chung.
Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển một cách sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin về giáo dục, đào tạo, phát triển con người toàn diện vào điều
kiện cụ thể nước ta. Do đặc điểm là nước thuộc địa nửa phong kiến, trình độ dân trí,
kinh tế cịn thấp, Người đã chỉ ra những phẩm chất cần có của con người ở từng
thời kỳ phát triển, từng đối tượng cụ thể. Quá trình xây dựng con người phát triển
toàn diện ở Việt Nam là q trình Hồ Chí Minh vận dụng quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa những phẩm chất, năng lực
của con người tồn diện nói chung. Nói cách khác, Người đã vận dụng thành công
lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về phát triển con người toàn diện vào điều kiện
cụ thể của nước ta. Điều này chứng tỏ Hồ Chí Minh hiểu biết sâu sắc những quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về phát triển con người toàn diện và cũng chứng tỏ

18



được năng lực tuyệt vời của Người trong việc vận dụng lý luận đó của chủ nghĩa
Mác – Lênin một cách tài tình, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Muốn xây dựng, phát triển con người toàn diện, theo chủ nghĩa Mác – Lênin,
cần đặc biệt chú ý đến giáo dục trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và đạo đức cho con người.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, giáo dục trí tuệ, giáo dục kỹ
thuật tổng hợp cho con người là yếu tố chủ yếu nhất nhằm nâng cao năng suất lao
động xã hội, còn thể lực giúp con người có thể đáp ứng được yêu cầu lao động và
khả năng cảm nhận thẩm mỹ. Trước những khó khăn và thử thách, địi hỏi con
người phải ln có bản lĩnh chính trị vững vàng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì Tổ
quốc. Vì vậy, V.I.Lênin còn nhấn mạnh việc giáo dục đạo đức cho con người, coi
đây là nội dung hàng đầu trong phát triển con người toàn diện trong xã hội mới.
Vận dụng những quan điểm, lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã đề
ra một chương trình giáo dục mang tính khoa học, hiệu quả. Nội dung giáo dục
được Người nêu ra thông qua các tác phẩm như Đường cách mệnh (1927), Thư gửi
học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
(1945), Bức thư cuối cùng Bác gửi cho ngành giáo dục (1968), hay trong bản Di
chúc cuối đời của Người. Căn cứ vào sự phát triển, những đặc điểm cụ thể của con
người Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng một chương trình giáo dục, đào tạo phù
hợp với từng giai đoạn phát triển và các đối tượng người khác nhau. Đồng thời, nội
dung này luôn được điều chỉnh, bổ sung để phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của
thời kỳ mới.
Nếu như các học giả phương Tây đến với chủ nghĩa Mác - Lênin chủ yếu như
đến với một học thuyết nhằm giải quyết những vấn đề tư duy hơn là hành động, thì
Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là để tìm kim chỉ nam cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, Người bắt gặp ở đó tư tưởng giải phóng con người, giải
phóng xã hội khỏi những áp bức, bóc lột và bất cơng. Từ đó tiếp thu, vận dụng và
phát triển sáng tạo để hình thành nên tư tưởng nhân văn cao cả, đó là giải phóng con
người, tất cả vì con người, vì sự phát triển tồn diện của con người. Trong những

năm qua, thực hiện những tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn

19


diện, chúng ta đã thu được những kết quả to lớn. Con người phát triển tồn diện
từng bước hình thành, đã và đang đóng góp hết sức mình vào thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.3. Nhân tố chủ quan của bản thân Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người tồn diện là sản phẩm tinh
thần của một con người cụ thể, vì vậy tất yếu mang dấu ấn con người Hồ Chí Minh.
Ở đó là sự thống nhất tồn vẹn giữa con người, cuộc đời và sự nghiệp, sự thống
nhất giữa khả năng tư duy trí tuệ và những phẩm chất đạo đức cũng như năng lực
hoạt động thực tiễn Hồ Chí Minh. Nói cách khác, đó chính là nhân tố chủ quan góp
phần hình thành nên những tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển con người tồn diện.
- Xuất thân từ gia đình có truyền thống
Hồ Chí Minh sinh ra, lớn lên và được nuôi dưỡng trong một gia đình có truyền
thống Nho học. Cụ Nguyễn Sinh Sắc học rộng, đỗ đạt cao, biết dùng kiến thức của
mình để cứu nhân độ thế. Cụ là người thầy đầu tiên của Nguyễn Sinh Cung - dạy
chữ, dạy làm người, giáo dục lòng yêu nước và là tấm gương ngời sáng cho
con.Tấm gương của cụ Nguyễn Sinh Sắc đã góp phần hình thành ở Người tư tưởng
u nước thương dân, tư tưởng thân dân, lấy dân làm hậu thuẫn cho các cuộc cải
cách chính trị - xã hội. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan là người am hiểu sâu sắc
các giá trị văn hóa dân gian. Bà là tấm gương ngời sáng về lòng nhân hậu, yêu
thương con người. Bà Hồng Thị Loan đã có tác động tích cực đến các con bằng
tính tình giản dị, khiêm tốn, đức hy sinh cao cả. Bà đã giáo dục con ngay từ thủa
trong nôi qua những lời ru bằng làn điệu dân ca xứ Nghệ, bằng tục ngữ, ca dao... Bà
đã dành nhiều tâm sức để truyền thụ cho con những hiểu biết ban đầu về cuộc sống,
dạy con biết yêu thương con người. Tuổi thơ của Nguyễn Sinh Cung như tờ giấy
trắng mà bà Loan là người đã viết những dòng đầu tiên, định hướng nhân cách, toả

sáng tâm hồn, bồi đắp lịng bác ái, tình nghĩa đồng bào.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, ảnh hưởng bởi truyền thống giáo dục và
những tư tưởng của người thân trong gia đình đã đặt nền móng quan trọng góp phần
hình thành tư tưởng nhân văn cao quý ở Hồ Chí Minh, là cơ sở để từ đó xây dựng

20


×