Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.8 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Hướng dẫn kỹ thuật nuôi rắn Ri Voi</b>
<b>I. Giới thiệu</b>
- Rắn ri voi (ri tượng) có tên khoa học là Enhydris Bocourti, thuộc loài rắn nước, nhưng chúng to
hơn các lồi rắn nước khác, có con nặng tới 7 - 8kg. Đặc biệt, thịt rắn thơm và tỷ lệ thịt trên một đơn
vị trọng lượng cơ thể của rắn ri voi cao hơn nhiều so với các lồi rắn nước khác. Vì vậy, chúng ln
là một đối tượng khoái khẩu đối với thực khách, nhất là dân nhậu.
- Ở khu vực ĐBSCL trước đây, rắn ri voi rất nhiều, do khí hậu ấm áp, thích hợp với điều kiện sinh
sống và phát triển của các lồi rắn nước, trong đó có lồi rắn ri voi. Nhiệt độ thích hợp cho sự sống
và phát triển của rắn từ 23 – 32 độ C, rắn sống ở vùng nước ngọt khơng thích vùng nước lợ.
Rắn ri voi khơng có nọc độc, nhưng rất nguy hiểm vì bản tính hung dữ và khả năng phản xạ rất
nhanh khi gặp con mồi hoặc kẻ thù. Vì vậy, chúng ta nuôi rắn phải hết sức chú ý tới đặc điểm này
nhằm đề phịng chúng tấn cơng, vì khi chúng tấn cơng thì rất khó tránh khỏi bị cắn. Vết cắn của
chúng vừa sâu vừa buốt làm máu ra nhiều. Hơn nữa, răng rắn bị gẫy và nằm ngay trong vết cắn, cần
gắp răng rắn ra và sát trùng để tránh bị nhiễm trùng. Rắn tấn công và ăn cả những con mồi lớn hơn
chúng 1,5 lần, do miệng của chúng có thể há rộng rất lớn, vì xương hàm trên và hàm dưới ở rắn
không ngoắc vào với nhau. Miệng cứ giãn ra mãi và con mồi bị nuốt dần vào bụng. Con mồi bị nuốt
tới đâu, ta nhìn thấy rõ tới đó. Sau khi nuốt xong con mồi, rắn sẽ tìm nơi kín đáo ẩn nấp nằm chờ
tiêu hóa con mồi, có khi nó nằm tới cả tuần. Khi con mồi đã được tiêu hết nó mới tiếp tục đi tìm mồi
mới. Nhiều nghiên cứu cho thấy, rắn tiêu hóa con mồi trong mơi trường nước nhanh hơn trên cạn, vì
vậy khi ni rắn ri voi cần hạn chế nhốt chúng ở trên cạn. Rắn ri voi thường bắt mồi về đêm, chúng
cũng dễ dàng thích ứng với điều kiện cho ăn vào ban ngày khi nuôi nhốt. Thức ăn chính của rắn ri
voi là các loại cá da trơn. Đôi khi, do quá thiếu thức ăn, rắn ăn cả các loại cá có vẩy. Ở miền Nam
nước ta, rắn ri voi hoạt động mạnh vào mùa hè và mùa thu.
khơng ăn, lồi rắn này có thể nhịn ăn tới 9 tháng (nhưng phải có nước uống đầy đủ). Tuy nhiên,
chúng vẫn sống bình thường do cơ thể sử dụng lượng mỡ tích lũy được từ mùa hè.
- Trong q trình sinh trưởng và phát triển, rắn phải lột xác để lớn lên. Lúc nhỏ, rắn lột xác định kỳ
- Sau khi lột xác xong, rắn mang trên mình một bộ da mới sáng bóng và mềm mại. Nó thích leo lên
bờ để sưởi nắng vào đầu giờ sáng (từ 7 - 9h). Khoảng 7 - 10 ngày sau da của chúng mới trở lại bình
thường. Lúc này, chúng bắt đầu ăn mạnh, lớn nhanh. Nhiệt độ, thời tiết và thức ăn rất ảnh hưởng tới
tốc độ lớn của rắn. Rắn ri voi có thể sống được 10 năm. Nếu ni tốt, rắn có thể nặng tới 7 -
9kg/con.
- Rắn ri voi là một loài động vật sống hoang dã rất phổ biến ở ĐBSCL. Nhưng từ khi mọi vùng đất
nông nghiệp chuyển sang trồng 2 - 3 vụ lúa/năm cộng với việc săn bắt quá mức của người dân thì số
lượng rắn giảm đi rất nhanh.
- Thịt rắn ri voi rất ngon, có thể chế biến nhiều món ăn bổ dưỡng, giá rắn ri voi hiện nay trên thị
trường rất hấp dẫn (270 - 300 ngàn đ/kg). Chính vì vậy mà mấy năm nay nuôi rắn ri voi phát triển
khá mạnh trong các hộ gia đình ở các tỉnh Vĩnh Long, Sóc Trăng, Hậu Giang... Rắn ri voi rất dễ
ni, có thể ni trong ao, trong vèo, trong bể hay lu khạp.
<b>II. Kỹ thuật nuôi</b>
<b>2.1 Chọn con giống</b>
- Chọn loại con giống nhỏ, mới đẻ cỡ 50 con/kg, thường
có vào khoảng tháng 3- Âm lịch. - Có thể bắt giống rắn con tự nhiên vào đầu mùa mưa. Rắn con
được chăm sóc riêng với mật độ 30 – 40 con/m2.
- Chọn rắn Ri voi cha mẹ cỡ 0,4 - 0,6 kg/con trở lên. Mật độ nuôi từ 5 - 10 con/m2. Nuôi dưỡng
chúng từ mùa khô, đầu mùa mưa rắn mang bầu, vào tháng 4 - 5 dương lịch rắn mẹ đẻ ra rắn con
- Lưu ý: Cchọn rắn phải đồng cỡ, khoẻ mạnh, khơng có sẹo vết, loại bỏ những con bị gãy xương
sống.
<b>2.2 Hình thức ni</b>
ni thích hợp nhất. Xin giới thiệu một số cách nuôi sau:
- Nuôi rắn ở bể xi măng, lu, khạp: Đáy bể và thành bể được trát láng xi măng. Trong bể cho vào 0,1
- 0,2m là đất thịt, đất bùn. Diện tích ½ bể được thả lục bình, diện tích cịn lại để trống là bãi để mồi
cho rắn ăn, trong bể tùy nơi rộng hẹp mà cho một số đống lá chuối khơ, lá chuối có thể thả lên bè tre
hoặc can nhựa để lá chuối không bị ngập sâu vào nước. Cho nước vào bể 0,2-0,3m. thả rắn vào ni.
- Ni trong ao: diện tích nên từ 50m trở lên. Sâu 1,3 -
1,5m. Ao cần phải dọn bớt bùn sình, cây cỏ thối mục. Lớp bùn đáy ao dày 10 - 20cm. Mặt ao, thả
bèo hoặc lục bình, rau muống, rau ngổ. Diện tích thả, chiếm khơng q 4/5 diện tích mặt ao. Bít chặt
các hang mọi. Dùng tấm chắn bọng thoát nước, bịt lưới kỹ, đặt cách đáy ao 0,3 m. Cặp mé ao có thể
dùng Fibroximăng phẳng khép khít vào nhau bao vịng quanh mé ao. Tấm Fibroximang phải được
cắm sâu dưới đáy ao, phía trên cịn lại so với mặt bờ mực nước cao nhất tối thiểu 0,5m. Tường
Fibroximang được cắm thẳng đứng, phía trên tường có lưới rộng 0,3m, dầy, chắn độ nghiêng 250 về
phía trong để rắn khơng bị ra ngồi được. Cần lưu ý khơng để bờ đất còn lại nhiều, rắn sẽ vào trú
trong hang không ra ăn, rắn chậm lớn. Thả lá chuối khô thành đống cao khỏi mặt nước 0,3 - 0,5m, lá
chuối thả mé bờ. Nếu mé bờ bị nước ngập, đóng bè chuối bè tre, thả từng đống tàu lá chuối khơ vào
để rắn trú sau khi ăn, ít đánh nhau gây thương tích, khoảng trống cịn lại là nơi làm bãi cho rắn ăn,
cho vào ao 0,5 - 0,8m.
- Nuôi thương phẩm (nuôi vỗ béo): Cách nuôi này được nhiều hộ áp dụng, thời gian nuôi ngắn, lãi
cao, mau thu đồng vốn.
+ Thu mua rắn Ri voi, trọng lượng từ 200 - 300g/con mang về để nuôi vỗ.
+ Nuôi khoảng 2 - 3 tháng trọng lượng trung bình của rắn đạt 600 - 800kg/con thậm chí 1kg/con nếu
người ni theo dõi chăm sóc và quản lý tốt.
+ Tiến hành bán thu tỉa bán rắn thương phẩm (nếu chăm sóc tốt có thể bán đồng loạt) chuẩn bị nuôi
vụ kế.
<b>2.3 Thức ăn</b>
Rắn ri voi thích ăn nhất là động vật tươi sống, khơng ương thối như nòng nọc, ếch nhái, lươn con,
trùng, các loại cá khơng vảy hoặc vảy nhỏ. Cứ bình qn 3 - 4 kg thức ăn rắn tăng trọng 1 kg.
Lượng thức ăn hằng ngày khoảng 3 - 5% trọng lượng rắn trong ao, cho ăn hằng ngày. Tùy theo khả
năng tăng trọng của rắn mà tăng hoặc giảm khẩu phần thức ăn. Không nên để thức ăn dư thừa, làm
thối nước.
Cần chuẩn bị nguồn thức ăn sẵn từ các ao mương hiện có. Có thể ni thêm lươn, cá sặc, cá trê,
nhái... trong ao, vừa tận dụng thức ăn thừa, bớt ô nhiễm, vừa làm thức ăn tại chỗ cho rắn.
Thức ăn được làm vừa cỡ cho rắn ăn, rải đều nơi có rắn. Cần cho rắn ăn đủ và đều để rắn mau lớn.
<b>2.4 Chăm sóc</b>
- Khoảng 1 - 2 tuần, thay nước một lần
- Rắn sắp lột da cá thì màu vảy trắng và mặt đục.
- Bổ sung ủ lá chuối khô để sau khi ăn xong rắn vào trú, ít đánh nhau và rắn mau lớn.
- Rắn bệnh hay bị thương tích được ni chăm sóc riêng, khi khoẻ ni chung.
- Rắn biếng ăn, cần thay đổi thức ăn và bổ sung kích thích tăng trưởng như B complex, vitamin C để
<b>2.5 Phịng và trị bệnh rắn</b>
- Rắn có thế bị xây xát hoặc lở miệng do vi khuẩn tấn công. Dùng Streptomycine pha với nước cất
bôi vào vết thương cho rắn. Xử lý nguồn nước bằng muối.
Rắn bị đường ruột sình bụng, bỏ ăn dùng Sulfa Guanidin tán vào nồi để khô rồi cho rắn ăn.
- Rắn bị nấm miệng dùng Mycostatine sử dụng theo hướng dẫn trên nhãn thuốc.
<b>III. Thu hoạch</b>