Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phương pháp dạy tiếng anh tìm hiểu một số phương pháp dạy học ngoại ngữ trong lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.27 KB, 16 trang )

Kim Thu secondary school
PHƯƠNG PHÁP DẠY TIẾNG ANH
Phần cuối cùng của mỗi đơn vị bài học là phần Language Focus, nhằm giúp
hệ thống hoá, củng cố và luyện tập sử dụng các chức năng ngôn ngữ, các điểm
ngữ pháp và từ vựng đã xuất hiện trong các bài đã học. Tuỳ theo nội dung từng
bài tập, giáo viên có thể lựa chọn những loại bài để học sinh thực hiện trên lớp
hay hướng dẫn cho các em về làm tại nhà. Tuy nhiên, phần hệ thống hoá, củng
cố và chữa bài là khâu quan trọng. Qua những bài tập này, giáo viên có thể rút ra
được những mặt mạnh và mặt yếu của học sinh và có kế hoạch củng cố, bồi
dưỡng thêm cho các em.
Khi thực hiện các bài tập ở phần này, cần cho học sinh liên hệ lại những tình
huống hay ngữ cảnh mà các mục ngữ pháp, hay chức năng ngôn ngữ này đã được
xuất hiện trong các mục trước của bài học để qua đó có thể làm rõ ý nghĩa các ngữ
liệu đó và hệ thống hoá được tốt hơn. Đây là lúc giáo viên có thể giải thích, tóm tắt
hay chốt lại các điểm ngữ pháp đã xuất hiện trong bài một cách kỹ lưỡng hơn.
Giới thiệu cấu trúc ngữ pháp
Đầu tiên GV giới thiệu bằng lời cấu trúc mới rồi ghi lên bảng. Cấu trúc ngữ
pháp đó phải nằm trong ngữ cảnh. Cách đơn giản nhất để trình bày một cấu trúc
là chỉ ra một cách trực tiếp, sử dụng các vật thể mà HS có thể nhìn thấy trong và
ngồi lớp, tranh ảnh, hình vẽ minh hoạ, bản đồ, biểu bảng, bản thân GV và HS
hoặc bằng hành động.
Một cách khác để chỉ ra ý nghĩa của một cấu trúc là đặt ra một tình huống ở
trong và ngồi lớp mà trong đó cấu trúc đó có thể sử dụng một cách tự nhiên.
Tình huống có thể có thực, tưởng tượng hoặc sáng tạo. Việc kết hợp các thủ pháp
khác nhau là cần thiết trong việc chỉ ra ý nghĩa của một cấu trúc mới bởi HS có
nhiều có nhiều cơ hội để tiếp thu nó một cách trọn vẹn hơn. Bên cạnh việc chỉ ra
một cấu trúc ngữ pháp được sử dụng và có ý nghĩa như thế nào thì GV cũng cần
phải chỉ ra hình thức của cấu trúc ấy. Có nhiều cách thể hiện hình thức cấu trúc
ngữ pháp:
·
Đọc cấu trúc và yêu cầu HS nghe và nhắc lại.


·
Viết cấu trúc lên bảng.
·
Yêu cầu một số HS (cá nhân) nhắc lại.
·
Giải thích cấu trúc ngữ pháp mới được hình thành như thế nào.
·
Yêu cầu cả lớp chép cấu trúc vào vở.
·
Đặt thêm ví dụ và tình huống để luyện tập.
Quy trình 3 bước của giờ dạy ngữ pháp
Theo giáo học pháp hiện đại, giờ lên lớp được xây dựng trên cơ sở một quy
trình 3 bước (The Three P's) gồm: Giới thiệu, Luyện tập và Vận dụng. Quy trình
đó có thể được mơ tả trong mơ hình sau:
Presentation → Practice → Performance/Production


Kim Thu secondary school

Dạy/Rèn kỹ năng Viết cho học sinh
Quy trình dạy Viết thực hiện theo 3 bước sau:
a) Trước khi viết (Pre-writing)
·
Giới thiệu bài viết mẫu (phần a).
·
Yêu cầu học sinh đọc kĩ để tìm hiểu cấu trúc của bài viết (lưu ý cách
diễn đạt ngôn ngữ trong văn bản viết).
·
GV cần làm rõ nghĩa từ mới và mẫu câu.
b) Trong khi viết (While-writing)

·
GV nêu yêu cầu bài viết (phần b) và có thể cho gợi ý.
·
HS thảo luận theo cặp hoặc nhóm, sau đó cá nhân HS tự viết.
·
HS cần bám sát bài viết mẫu, các gợi ý để viết theo yêu cầu.
·
GV gọi vài HS (đại diện nhóm) trình bày bài viết trước lớp (có thể ding
OHP).
·
GV sửa lỗi và đưa ra đáp án gợi ý.
c) Sau khi viết (Post-writing)
·
HS có thể trình bày lại bài viết (dưới dạng nói).
·
GV có thể yêu cầu HS viết một bài theo tình huống gợi ý tương tự (bài
viết mới liên hệ thực tế, mang tính sáng tạo và tự do hơn).
Nói tóm lại, các bài luyện viết thường bắt đầu bằng một bài mẫu ở mục a).
Thông qua hoạt động đọc hiểu, học sinh nắm bắt cách trình bày viết một bài viết
theo mục đích hay yêu cầu nhất định. Phần b) sẽ là phần học sinh thực hiện các
bài tập viết theo yêu cầu đề ra, có hướng dẫn, hoặc có gợi ý; sau đó là bài viết mở
rộng mang tính sáng tạo và tự do hơn.
- Để thực hiện bài này, giáo viên cần làm tốt phần hướng dẫn mẫu qua các bài
tập đọc và phát hiện, sau đó giải thích u cầu bài viết.
- Cần làm rõ tình huống và yêu cầu bài viết. Nên cho các gợi ý nếu cần. Để
làm tốt phần gợi ý, nên khai thác sự đóng góp ý kiến của cả lớp hay nhóm trước
khi học sinh làm việc cá nhân.
- Nhìn chung, để tiết kiệm thời gian trên lớp, các bài tập viết sau khi đã hướng
dẫn, đều có thể dành làm bài tập về nhà và chữa tại lớp.


Dạy/Rèn kỹ năng Nghe hiểu cho học sinh
Các hoạt động dạy nghe hiểu được thực hiện theo 3 bước: trước, trong khi và
sau khi nghe cũng nhằm các mục đích giống tương tự như với kỹ năng đọc, với
một số điểm cụ thể cho các bài tập nghe.
a) Trước khi nghe (Pre-listening):
§ Giới thiệu nội dung chủ điểm/tình huống;


Kim Thu secondary school
§ Các câu hỏi đốn về nội dung sắp nghe;
§ Các câu hỏi tạo trí tị mị, gây hứng thú về nội dung sắp nghe;
§ Ra yêu cầu bài nghe.
§ Lưu ý: Giới thiệu một số từ mới hoặc cấu trúc ngữ pháp mới có liên quan
đến việc hiểu nội dung bài nghe; tuy nhiên không nên giới thiệu hết mọi từ mới
không quan trọng.
b) Trong khi nghe (While-listening):
§ Ra câu hỏi hướng dẫn, yêu cầu mục đích khi nghe;
§ Chia q trình nghe thành từng bước nếu cần. Ví dụ, nghe lần thứ nhất:
nghe ý chính, trả lời các câu hỏi đại ý; nghe lần thứ hai: nghe chi tiết nội dung; có
thể cho HS nghe thêm lần thứ ba để tự tìm hết đáp án hay tự sửa lỗi trước khi
giáo viên sửa lỗi và cho đáp án.
§ Lưu ý: Nên cho nghe hết cả nội dung bài, không dừng từng câu một (trừ
trường hợp câu khó muốn cho HS tìm thơng tin chi tiết chính xác)
c) Sau khi nghe (Post-listening):
§ Các bài tập ứng dụng, chuyển hoá tương tự như các bài tập sau khi đọc.
§ Cần phối hợp nhiều cách kiểm tra các đáp án như: để HS hỏi lẫn nhau, trao
đổi đáp án và chữa chéo, hay một HS hỏi trước lớp và chọn người trả lời trước
khi GV cho đáp án cuối cùng.

Dạy/Rèn kỹ năng Nói cho học sinh

Sau phần giới thiệu ngữ liệu (ở lớp 8 và lớp 9) là phần luyện tập nói (Speak),
với các hình thức bài tập và hoạt động ở mỗi bài có khác nhau nhằm luyện tập sử
dụng các trọng tâm cấu trúc ngữ pháp, hay từ vựng để diễn đạt các chức năng
ngôn ngữ theo các chủ đề và tình huống có liên quan đến bài học.
Quy trình luyện nói bao gồm:
a) Chuẩn bị nói (Pre-speaking)
· Giới thiệu bài nói mẫu (Những phát ngơn riêng lẻ hay một bài hội thoại).
· Yêu cầu học sinh luyện đọc (Chú ý cách phát âm và nghĩa của từ mới)
· Giáo viên dùng câu hỏi gợi mở để HS tự rút ra cách sử dụng từ và cấu trúc
câu.
· Giáo viên yêu cầu bài nói.
b) Luyện nói có kiểm sốt (Controlled practice)
· Học sinh dựa vào tình huống gợi ý (qua tranh vẽ, từ ngữ, cấu trúc câu cho
sẵn hoặc bài hội thoại mẫu) để luyện nói theo yêu cầu.
· HS luyện nói theo cá nhân/ cặp /nhóm dưới sự kiểm sốt của của GV (sửa
lỗi phát âm, lỗi ngữ pháp, gợi ý từ …)
· GV gọi cá nhân hoặc cặp HS trình bày (nói lại) phần thực hành nói theo yêu


Kim Thu secondary school
cầu.
c) Luyện nói tự do (Free practice/ Production)
· HS nói về kinh nghiệm bản thân, bạn bè, người thân trong gia đình hoặc về
quê hương, đất nước hay địa phương nơI mình ở.
· GV khơng nên hạn chế về ý tưởng cũng như ngôn ngữ ; nên để HS tự do
nói, phát huy khả năng sáng tạo của bản thân.
Để thực hiện mục này giáo viên cần lưu ý một số điểm sau:
Cần phối hợp sử dụng thường xun các hình thức luyện tập nói theo
cặp (pairs) hoặc theo nhóm (groups) để các em có nhiều cơ hội sử dụng tiếng
Anh trong lớp qua đó các em có thể cảm thấy tự tin và mạnh dạn hơn trong giao

tiếp.
Cần hướng dẫn cách tiến hành, làm rõ yêu cầu bài tập hoặc gợi ý hay cung
cấp ngữ liệu trước khi cho học sinh làm việc theo cặp hoặc nhóm. Việc hướng
dẫn và gợi ý cho phần luyện nói rất cần sự sáng tạo và thủ thuật phong phú của
giáo viên, không nên chỉ bám sát thuần tuý vào sách.
Ngữ cảnh cần được giới thiệu rõ ràng. Sử dụng thêm các giáo cụ trực quan
để gợi ý hay tạo tình huống.
Có thể mở rộng tình huống, khai thác các tình huống có liên quan đến chính
hồn cảnh của địa phương, khuyến khích liên hệ đến tình hình cụ thể của chính
cuộc sống thật của các em.

Kỹ thuật giới thiệu/dạy ngữ liệu mới
Giới thiệu ngữ liệu mới là làm rõ nghĩa, cách phát âm, cấu trúc hình thái, và
cách dùng của một mục dạy nào đó trong một ngữ cảnh nhất định. Mục dạy có thể
là các mẫu lời nói, từ vựng hay ngữ pháp, hoặc một nội dung chủ điểm nào đó,
thường được giới thiệu thơng qua một bài hội thoại hay một bài khố, hoặc những
tình huống có sự hỗ trợ của giáo cụ trực quan.
Với phương pháp dạy học mới, công việc giới thiệu ngữ liệu không cịn
thuần t chỉ là việc thày giải thích nghĩa của từ mới (mà phần lớn giáo viên
thường thực hiện bằng cách cho nghĩa tiếng Việt) và giải thích các quy tắc ngữ
pháp và các mẫu câu. ở phần này, người giáo viên còn cần phải đồng thời làm rõ
cách sử dụng của các mẫu câu hoặc từ mới đó trong ngữ cảnh. Chỉ khi được giới
thiệu trong ngữ cảnh, nghĩa và cách sử dụng của các ngữ liệu cần dạy mới được
làm sáng tỏ. Như vậy, nội dung cần giới thiệu ở bước giới thiệu ngữ liệu là:
§ Hình thái (Form: pronunciation; spelling; grammar)
§ Ngữ nghĩa (Meaning)
§ Cách sử dụng (Use)
Một đặc điểm nổi bật của phương pháp mới trong việc giới thiệu ngữ liệu là
phương pháp mới rất chú trọng tới việc phải làm sao cho học sinh tiếp thụ bài học
khơng chỉ qua nghe thụ động mà cịn được vận động trí óc, chủ động tham gia vào



Kim Thu secondary school
quá trình của họat động này qua nhiều hoạt động ngơn ngữ khác nhau.
Có nhiều cách/ thủ thuật giới thiệu ngữ liệu. Sau đây là một số thủ thuật
giới thiệu ngữ liệu mà các giáo viên có thể tham khảo để ứng dụng cho bài dạy cụ
thể của mình.
Các thủ thuật tạo dựng tình huống. (setting up situations/ contexts)
a). Dùng môi trường, đồ vật thật trong lớp, trong trường;
b). Sử dụng những tình huống thật trong lớp;
c). Dùng các tình huống thật trong đời sống thật của hoc sinh;
d). Dùng các câu chuyện có thật, các hiện tượng thật trong thực tế;
e). Sử dụng các bảng biểu, bản đồ, bảng tin, báo chí;
f). Sử dụng tranh, ảnh, giáo cụ trực quan;
g). Sử dụng ngôn ngữ học sinh đã biết;
h). Sử dụng các bài hội thoại ngắn;
i). Sử dụng tiếng mẹ đẻ;
k). Phối hợp một hay nhiều cách trên.
Giới thiệu hình thái ngơn ngữ
Sau khi dùng ngữ cảnh để giới thiệu nghĩa và cách dùng của các mục dạy,
lúc này giáo viên có thể làm rõ hình thái cấu trúc, các quy tắc ngữ pháp nếu có để
học sinh nhớ được dễ hơn và hệ thống hoá được những ngữ liệu đã học. Giáo viên
có thể gợi ý cho học sinh tự nhận xét và lập thành mẫu câu hoặc lập ra các công
thức dễ nhớ.
Kiểm tra mức độ tiếp thu của học sinh. (Checking comprehension)
Sau khi giáo viên đã giới thiệu làm rõ nghĩa và cách sử dụng của ngữ liệu
mới, cần thực hiện việc kiểm tra mức độ tiếp thu bài của học sinh để qua đó biết
được học sinh đã thực sự hiểu bài chưa, mức độ hiểu đến đâu, để trên cơ sở đó có
thể kịp thời bổ xung bài giảng nếu cần.
Việc kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh ở phần giới thiệu ngữ liệu này có

thể được thực hiện thơng qua một số bài tập thực hành như:
§ Học sinh ứng dụng mẫu câu vừa học vào các tình huống tương tự khác
giáo viên đưa ra;
§ thực hiện một số bài tập lắp ghép;
§ xây dựng các bài hội thoại ngắn theo mẫu bằng cách lắp ghép những từ,
đoạn câu gợi ý;
§ thực hiện các bài tập hỏi /trả lời theo dạng câu hỏi đóng hoặc các câu hỏi
trắc nghiệm đúng sai (comprehensive questions, True/False questions)
§ dịch ra tiếng Việt (nếu phù hợp và cần thiết)
Tóm tắt các bước giới thiệu ngữ liệu mới
Các bước giới thiệu ngữ liệu mới có thể được tóm tắt theo một tiến trình
như sau:
1) Giới thiệu ngữ nghĩa và cách sử dụng của ngữ liệu: cấu trúc ngữ pháp/ từ


Kim Thu secondary school
mới/ mẫu câu chức năng qua tình huống, ngữ cảnh, mẫu hội thoại, tranh ảnh...
2) Nêu bật cấu trúc/ từ/ mẫu câu chức năng mới bằng cách đọc to cho học
sinh nghe nhắc lại hoặc bằng các thủ thuật khác nhằm hướng sự chú ý của học
sinh vào những mục dạy đó.
3) Viết các cấu trúc/ từ mới lên bảng, làm rõ hình thái cấu trúc, giải thích nếu
cần.
4) Làm rõ thêm nghĩa và cách sử dụng bằng cách tiếp tục đưa thêm các tình
huống hoặc các ví dụ khác.
5) Lặp lại tương tự bước 2 hoặc cho học sinh tái tạo theo gợi ý.
6) Kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh sử dụng các thủ thuật kiểm tra hiểu
như gợí ý ở mục 2.3.
Khi giáo viên nhận thấy học sinh đã làm tốt được bước 6. thì có thể chuyển
sang phần luyện tập sáng tạo hơn với các loại bài tập mang tính giao tiếp hơn.
Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng không phải lúc nào việc giới thiệu ngữ liệu

cũng phải tuân theo tuần tự tiến trình trên. Ví dụ, ngay sau bước 2. nếu giáo viên
cảm thấy học sinh đã hiểu và có thể làm tốt các bài tập tái tạo thì có thể chuyển
ngay sang bước 6. Hoặc cơng việc của bước 3. cũng có thể để lui lại để thực hiện
vào cuối bài ở bước củng cố bài, sau khi học sinh đã làm các bài tập thực hành.
Một số lưu ý khi giới thiệu/dạy từ vựng
Tiến trình giới thiệu ngữ liệu được trình bày ở trên có thể được coi là tiến
trình chung cho việc giới thiệu ngữ liệu mới. Tuy nhiên, cách giới thiệu từ vựng
cũng có những đặc thù riêng. Phần này sẽ trình bày một số điểm cần lưu ý khi
giới thiệu từ mới.
Chọn từ để dạy
Thơng thường trong một bài học sẽ ln ln có từ mới. Song không phải từ
mới nào cũng cần đưa vào dạy như nhau. Để lựa chọn từ để dạy, giáo viên cần
xem xét các câu hỏi sau:
a) Từ chủ động hay từ bị động?
§ Từ chủ động (active/ productive vocabulary) là những từ học sinh hiểu,
nhận biết và sử dụng được trong giao tiếp nói và viết.
§ Từ bị động (passive/ receptive vocabulary) là những từ học sinh chỉ hiểu
và nhận biết được khi nghe và đọc.
Cách dạy hai loại từ này có khác nhau. Từ chủ động liên quan đến cả 4 kỹ năng
nghe, nói, đọc, viết, cần đầu tư thời gian để giới thiệu và luyện tập nhiều hơn, đặc
biệt là cách sử dụng. Với từ bị động, giáo viên có thể chỉ dừng lại ở mức nhận biết,
không cần đầu tư thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần xác định xem
sẽ dạy từ nào như một từ bị động và từ nào như một từ chủ động. Với từ bị động,
giáo viên có thể khuyến khích học sinh tự tìm hiểu nghĩa từ (ví dụ: tra từ điển), hoặc
đốn từ qua ngữ cảnh.
b) Học sinh đã biết từ này chưa?
Giáo viên cần xác định rõ từ mình định dạy có thực sự là từ cần dạy hay không.


Kim Thu secondary school

Vốn từ của học sinh luôn luôn được mở rộng bằng nhiều con đường, và cũng có thể bị
quên bằng nhiều lý do khác nhau. Để tránh tình trạng giới thiệu những từ khơng cần
thiết và mất thời gian, giáo viên có thể dùng những thủ thuật nhằm phát hiện xem các
em đã biết những từ đó chưa và biết đến đâu. Giáo viên có thể dùng các thủ thuật
như eliciting; brainstorming; các thủ thuật dùng ở các bước 5) và 6) trong tiến trình
giới thiệu ngữ liệu mới; hoặc có thể hỏi trực tiếp học sinh những từ nào là từ mới và
khó trong bài.
Những thủ thuật làm rõ nghĩa từ
Ngoài những thủ thuật giới thiệu nghĩa trong ngữ cảnh đã đề cập ở phần giới
thiệu ngữ liệu chung, có thể sử dụng một số thủ thuật đặc thù cho từ vựng như:
a)
Dùng trực quan như: đồ vật thật trên lớp, tranh ảnh, hình vẽ phác hoạ
(hình que), hình cắt dán từ tạp chí, cử chỉ điệu bộ v.v.
b)
Dùng ngơn ngữ đã học:
§
Định nghĩa, miêu tả;
§
Dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa;
§
Dựa vào các quy tắc hình thành từ, tạo từ;
§
Tạo tình huống;
§
Đốn nghĩa của từ trong ngữ cảnh
c)
Dịch sang tiếng mẹ đẻ.
Các bước tiến hành giới thiệu từ mới cũng tương tự như các bước giới thiệu
ngữ liệu nói chung, song có thể được phối hợp nhanh hơn.Cụ thể là sau khi đã
làm rõ nghĩa và cách sử dụng từ, giáo viên sẽ tạo điều kiện cho học sinh thực

hành ngay qua các bài tập ứng dụng phối hợp với các mẫu cấu trúc hoặc mẫu câu
chức năng. Qua các bài tập thực hành này giáo viên đã cùng lúc kiểm tra được
mức độ tiếp thu bài của học sinh.
Tăng cường sự tham gia của học sinh ở bước giới thiệu ngữ liệu mới
Như đã đề cập, điểm nổi bật ở phương pháp mới là tạo cho học sinh được
tham gia vào quá trình giới thiệu ngữ liệu mới.
Trong giai đoạn giới thiệu ngữ liệu mới, thơng thường giáo viên đóng vai trị
chính, vai trị truyền thụ, học sinh đóng vai tiếp nhận, thụ động là chủ yếu. Tuy
nhiên, nếu giáo viên tạo được điều kiện cho học sinh tham gia vào quá trình này,
kết quả tiếp thu bài của các em sẽ tốt hơn nhiều.
Để làm được điều đó, giáo viên cần tìm kiếm và sử dụng những thủ thuật
phát huy sự chủ động suy đốn, tự phát hiện của học sinh. Ví dụ, phát hiện và
nhận biết cấu trúc hay từ mới và tự rút ra mẫu cấu trúc của các mục ngữ pháp,
hoặc đốn nghĩa từ trong ngữ cảnh, tự giải thích nghĩa từ bằng vốn từ có sẵn, cho
từ đồng nghĩa, hoặc trái nghĩa,v.v.
Sử dụng phối hợp các kỹ năng trong khi giới thiệu ngữ liệu mới
Trong quá trình giới thiệu ngữ liệu, giáo viên nên phối hợp nhiều các kỹ


Kim Thu secondary school
năng với nhau để giới thiệu mục dạy, ví dụ giới thiệu qua nói, sau đó học sinh
nghe và nhắc lại; học sinh nhìn mẫu được viết trên bảng, hoc sinh tái tạo qua nói,
nghe, viết , đọc; học sinh xây dựng các bài hội thoại theo mẫu qua nói nghe trong
nhóm sau đó viết lại hoặc ngược lại, chuẩn bị qua viết, sau đó nói lại; học sinh
viết các câu trả lời trên giấy trong/ bảng con, sau đó đưa ra trước lớp để được
nhận xét, v.v.
Dạy/Rèn kỹ năng Đọc hiểu cho học sinh
Khi tiến hành một bài dạy kỹ năng, ví dụ như một bài đọc hoặc bài nghe…
(trong chương trình lớp 8 và lớp 9) cần tiến hành theo 3 bước: trước khi vào bài,
trong khi thực hiện bài và sau khi thực hiện xong bài (pre-task, while-task and

post-task). Những yêu cầu hoạt động được thiết kế theo các bước này sẽ giúp học
sinh hiểu bài và thực hành được các kỹ năng lời nói một cách thấu đáo và có suy
nghĩ hơn, trên cơ sở đó sẽ khắc sâu bài lâu bền hơn.
Mục đích của từng bước
a) Các hoạt động trước khi vào bài:
Các hoạt động trước khi vào bài giúp học sinh hình dung trước nội dung chủ
điểm hay nội dung tình huống của bài các em sẽ nghe, đọc, nói về hoặc viết về
chúng.
Các hoạt động cho bước này sẽ được lựa chọn tuỳ theo từng kỹ năng cụ thể
và tuỳ theo từng nội dung và yêu cầu cụ thể của bài. Các hoạt động đó có thể là:
§ Trao đổi, thu thập các ý kiến, những hiểu biết và kiến thức hoặc quan
điểm của học sinh về chủ điểm của bài trước khi các em nghe, nói đọc, viết về nó
qua các hoạt động dạy học hay thủ thuật như brainstorming, discussions ...
§ Đốn trước nội dung sắp học bằng các câu hỏi đoán về nội dung bài
hoặc về từ vựng sẽ xuất hiện trong bài;
§ Trả lời các câu hỏi về nội dung bài qua các câu hỏi đặt trước;
§ Giới thiệu trước từ vựng hay kiến thức ngữ pháp có liên quan đến bài
sắp học.
§ Thực hiện các bài tập thông qua một trong những kỹ năng để từ đó có
thể thực hiện các kỹ năng khác (ví dụ, nghe trước khi nói về một chủ điểm nào
đó; nói trước khi viết, hoặc đọc trước khi viết v.v…)
b) Các hoạt động trong khi thực hiện bài:
Các hoạt động ở bước này gồm các yêu cầu bài tập giúp học sinh thực hành
các kỹ năng đặt ra. Các yêu cầu bài tập có thể là các câu hỏi đọc hiểu hay nghe
hiểu; sắp xếp trật tự nội dung; những bài tập chuyển hoá, bài tập viết theo mẫu
v.v.
c) Các hoạt động sau khi thực hiện bài:
Các hoạt động sau khi thực hiện bài thường gồm những bài tập ứng dụng
mở rộng dựa trên bài vừa học, thông qua các kỹ năng nói hoặc viết.



Kim Thu secondary school
Ba bước luyện đọc hiểu
a) Trước khi đọc (Pre-reading):
Các hoạt động trước khi đọc gồm những hoạt động nhằm đạt được những
mục đích sau:
§ Gây hứng thú;
§ Giới thiệu ngữ cảnh, chủ đề;
§ Tạo nhu cầu , mục đích đọc;
§ Đốn trước nội dung bài đọc;
§ Nêu những điều muốn biết về nội dung sắp đọc;
§ Giới thiệu trước từ vựng, ngữ pháp mới giúp cho học sinh hiểu được bài
đọc;
b) Trong khi đọc (While-reading):
Các hoạt động luyện tập trong khi đọc nhằm giúp học sinh hiểu bài đọc. Tuỳ
theo mục đích nội dung của từng bài đọc, sẽ có những dạng câu hỏi và bài tập
khác nhau. Những dạng bài tập phổ biến gồm:
§ Check/tick the correct answers;
§ True/ false
§ Complete the sentences;
§ Fill in the chart;
§ Make a list of...
§ Matching;
§ Answer the questions on the text;
§ What does...mean?
§ What does ... stand for/ refer to?
§ Find the word/ sentence that means ;
§ etc.
c) Sau khi đọc (Post-reading):
Các hoạt động và bài tập sau khi đọc là những bài tập cần đến sự hiểu biết

tổng quát của toàn bài đọc, liên hệ thực tế, chuyển hố nội dung thơng tin và kiến
thức có được từ bài đọc, qua đó thực hành luyện tập sử dụng ngơn ngữ đã học.
Các hình thức bài tập có thể là:
§ Summarize the text;
§ Arrange the events in order;
§ Give the title of the reading text;
§ Give comments, opinions on the characters in the text;
§ Rewrite the stories from jumbled sentences/ words/visual cues;
§ Role- play basing on the text;
§ Develop another story basing on the text;
§ Tell a similar event on...
§ Personalized tasks (write/ talk about your own school...)
Tìm hiểu một số phương pháp dạy học ngoại ngữ trong lịch sử


Kim Thu secondary school
Lịch sử dạy học ngoại ngữ đã trải qua nhiều phương pháp khác nhau như:
phương pháp Ngữ pháp–Dịch, phương pháp Nghe–Nhìn, phương pháp Nghe Nói, phương pháp Giao tiếp, v.v.
Phương pháp Ngữ pháp – Dịch
Phương pháp này có tên tiêng Anh là “Grammar – Translation Method” hay
cịn gọi là phương pháp Truyền thống được áp dụng mạnh mẽ ở Việt Nam vào
những năm 1970 cho đến tận những năm 1990. Nếu theo phương pháp này, chương
trình tập trung chủ yếu vào phát triển kỹ năng đọc hiểu, học thuộc lòng từ vựng, dịch
văn bản, viết luận (composition) và phân tích ngơn ngữ (học để nắm chắc quy tắc
ngơn ngữ). Quy trình thực hiện: Các bài khóa (texts) được biên soạn và chia ra thành
từng đoạn ngắn. Việc giảng giải quy tắc ngôn ngữ là cơ bản. Học sinh được học về
ngữ pháp rất kỹ trên cơ sở các hiện tượng ngữ pháp cơ bản được rút ra từ các bài
khóa. Để kiểm tra sự thơng hiểu về nội dung bài khóa (nội dung văn hóa, đất nước
học nói chung) và các quy tắc ngơn ngữ, HS bắt buộc phải dịch các bài khóa sang
tiếng mẹ đẻ. HS khơng được phép mắc lỗi ngơn ngữ, nếu có phải sửa ngay.

Ưu điểm:
- HS được rèn luyện rất kỹ về ngữ pháp và tiếp thu lượng từ vựng khá lớn.
- HS nắm được tương đối nhiều các cấu trúc câu cơ bản, thuộc lịng các đoạn
văn hay hoặc bài khóa mẫu.
- HS có thể đọc hiểu nhanh các văn bản.
Hạn chế:
- Không giúp HS “giao tiếp” được. Hoạt động chủ yếu trong lớp là người
thầy; nghĩa là người thầy giảng giải, nói nhiều, HS thụ động ngồi nghe và ghi
chép, khơng có ý kiến phản hồi hoặc khơng tham gia giao tiếp (nói) với thầy và
bạn bè.
- Hoạt động dạy học chỉ diễn ra một chiều - HS hoàn toàn bị động, khơng có
cơ hội thực hành giao tiếp trong lớp; khả năng sáng tạo và đặc biệt kỹ
năng nói của HS bị hạn chế nhiều.
Phương pháp Nghe – Nói
Phương pháp Nghe - Nói (Audiolingual Method or Audio-Oral Method)
nhấn mạnh vào việc dạy kỹ năng nói và kỹ năng nghe trước kỹ năng đọc và kỹ
năng viết. Khác với phương pháp Ngữ pháp – Dịch, phương pháp này đáp ứng
đúng mục tiêu cần đạt của người học là hình thành và phát triển cả bốn kỹ năng,
nhưng ưu tiên phát triển nói, nghe trước đọc và viết. Việc cung cấp kiến thức
ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) được thực hiện xen lồng trong quá trình
dạy học. Phương pháp Nghe-Nói khơng cho phép việc dùng tiếng mẹ đẻ trong
lớp; khuyến khích tối đa dùng tiếng Anh trong q trình dạy học. Khi thực hiện,
người ta nhấn mạnh việc phát triển hai kỹ năng nói và nghe là chủ yếu. Việc dạy
học thông qua thực hành cấu trúc câu (structures) và qua các bài tập ứng dụng,


Kim Thu secondary school
người học tự phát hiện và tìm hiểu những điểm giống nhau (so với tiếng mẹ đẻ)
về cấu trúc câu, cách phát ngôn và đưa ra các qui tắc ngôn ngữ. Yêu cầu người
học bắt trước mẫu do người dạy cung cấp, ví dụ: các bài/mẩu đối thoại mẫu

(dialogues) có chứa cấu trúc câu hoặc hiện tượng ngơn ngữ cần truyền đạt. HS
luyện tập mẫu đó thực chất là hình thành một thói quen ngơn ngữ theo các hình
thức như: hỏi và trả lời về bài đối thoại mẫu, thực hành thêm một số bài tập cấu
trúc (thay thế, bổ sung, chuyển đổi …). …
Ưu điểm:
- Có hiệu quả đối với những người mới học, đặc biệt là HS tiểu học hoặc HS
ở đầu cấp THCS. HS cảm thấy phấn khởi và tự tin khi được nghe và tập bắt
chước theo giáo viên, ví dụ: HS làm theo lệnh của GV hoặc hát các bài hát tiếng
Anh đơn giản.
Hạn chế:
- HS có trình độ ngoại ngữ cao rất dễ nhàm chán với phương pháp này nếu
khơng có sự điều chỉnh phương thức dạy học cần thiết.
- HS áp dụng những gì đã được lĩnh hội trong lớp học vào thực tiễn giao tiếp ngơn
ngữ là khó. Các em khơng thể vận dụng các hình thức ngơn ngữ (các mẫu lời nói) được
luyện tập trên lớp một cách tự nhiên vì tuy HS có khả năng nghe hiểu, nhớ và bắt chước
(nói theo) ngay tại chỗ trong lớp học, song các em cũng rất chóng quên và cảm thấy bị
“tắc” khi gặp tình huống tương tự trong giao tiếp thực; tức là khơng diễn đạt được
những gì định nói mặc dù sau một thời gian dài học tập.
Phương pháp Giao tiếp
Phương pháp Giao tiếp hay Đường hướng Giao tiếp ((Communicative Approach)
được xem như phương pháp dạy học ngoại ngữ phổ biến nhất và hiệu quả nhất hiện
nay. Hầu hết các giáo trình, SGK phổ thơng tiếng Anh trên thế giới và ở Việt Nam hiện
nay đều được biên soạn dựa theo quan điểm của phương pháp này. Qua đó, coi mục
tiêu cuối cùng của dạy học ngoại ngữ là phát triển kỹ năng giao tiếp/kỹ năng ngôn ngữ
(linguistic skills), năng lực giao tiếp (communicative competence). Để giao tiếp
được, phương pháp này địi hỏi phải tính đến phương diện xã hội, văn hóa của
ngơn ngữ, các điều kiện xã hội của q trình sản sinh ngơn ngữ, và tính đến ngơn
ngữ được dùng trong cuộc sống hàng ngày. Ngồi ra, phương pháp Giao tiếp còn
chú ý tới phương diện nghĩa của ngơn ngữ, hay nói một cách khác cần lưu ý tới ý
định giao tiếp (intention of communication). Khái niệm này về sau các nhà ngôn

ngữ gọi là chức năng ngôn ngữ (language function). Như vậy, theo Phương pháp
Giao tiếp ngôn ngữ không chỉ là phương tiện diễn đạt tư duy mà cịn là phương
tiện giao tiếp. Mục đích cuối cùng của người học ngoại ngữ không chỉ tiếp thu và
nắm chắc kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) mà cần phải đạt được
năng lực (khả năng) giao tiếp; tức là phát triển được tất cả 4 kỹ năng ngơn ngữ
(nghe, nói, đọc, viết) và sử dụng được ngơn ngữ để giao tiếp. Vì vậy, các tài liệu
dạy học hiện đều hướng đến giúp người học có thể thực hiện được các chức năng


Kim Thu secondary school
ngôn ngữ khác nhau, chẳng hạn như xin phép, đề nghị, yêu cầu ai đó làm việc gì;
mơ tả sự vật; bày tỏ sự quan tâm, thích thú hoặc khơng thích v.v …. Hơn nữa, để
giao tiếp hiệu quả, người học cần phải sử dụng các hình thức ngơn ngữ thích hợp
với tình huống giao tiếp (situations), trong đó yêu cầu người tham gia giao tiếp
phải thể hiện được ý định giao tiếp(intention) thông qua việc thực hiện các nhiệm
vụ khác nhau (tasks).
Với phương pháp này, trong giờ dạy giáo viên thực hiện theo 5 bước:
+ Giới thiệu ngữ liệu (presentation)
+ Thực hành bài tập (Exercises)
+ Hoạt động giao tiếp (Communicative activities)
+ Đánh giá (Evaluation)
+ Củng cố (Consolidation).
Ưu điểm: Phương pháp Giao tiếp có ưu điểm hơn hẳn các phương pháp khác
là nó bao trùm mọi phương diện của q trình dạy học ngoại ngữ: đó là các yếu tố
ngơn ngữ, văn hóa, xã hội, các yếu tố ngồi ngơn ngữ… nhằm rèn luyện kỹ năng
giao tiếp hồn chỉnh. Đặc biệt Phương pháp Giao tiếp coi hình thành và phát triển
bốn kỹ năng giao tiếp như nghe, nói, đọc và viết là mục đích cuối cùng của q
trình dạy học. Các kiến thức ngơn ngữ như ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp là
phương tiện, điều kiện hình thành và phát triển các kỹ năng giao tiếp. Vì vậy,
phương pháp Giao tiếp thực sự giúp cho HS có khả năng sử dụng được tiếng Anh

để giao tiếp.
Hạn chế: Phương pháp Giao tiếp nhấn mạnh vào việc hình thành và phát triển
4 kỹ năng ngơn ngữ: nghe, nói, đọc, viết trong q trình dạy học, trong đó kiến
thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp) không được quan tâm một cách
thích đáng. Kết quả là một số HS cảm thấy khó có thể “giao tiếp” vì HS làm sao có
thể nghe, nói, đọc, viết được một khi các em không nắm chắc hệ thống qui tắc
ngôn ngữ. Mặt khác, theo quan điểm của phương pháp này, quan hệ giữa ý định
giao tiếp (bao gồm các hành động lời nói hay là các chức năng ngơn ngữ học được)
và hiện thực là quá phức tạp, không rõ ràng. Nói cách khác, người ta khó có thể lựa
chọn các phát ngôn theo chức năng phù hợp với nhu cầu giao tiếp thực tế đa dạng
và rất phức tạp.
Trong q trình dạy học, giáo viên giữ vai trị là người hướng dẫn, tổ chức
thực hiện; HS đóng vai trị chủ đạo trong quá trình dạy học; tức là phải phát huy
cao độ tính tích cực của các em trong luyện tập thực hành. Ở trường THCS (lớp 8
và lớp 9), HS cần tập trung rèn luyện sâu từng kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Muốn
thực hiện được, cá nhân HS phải tích cực và tự giác tham gia thực hành, không sợ
mắc lỗi, và cần lưu ý rằng độ lưu lốt/trơi chảy (fluency) trong giai đoạn này là rất
quan trọng. Điều kiện tối thiểu để HS thực hành kỹ năng ngôn ngữ là mỗi lớp học
không quá đông (khoảng 35 HS/lớp); có đầy đủ thiết bị nghe nhìn, băng/đĩa CD,
tranh tình huống. Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập nên nhấn mạnh vào 4 kỹ
năng, và một phần nhỏ kiến thức ngôn ngữ. Kiểm tra kỹ năng ngôn ngữ luôn luôn


Kim Thu secondary school
được ưu tiên trong bất kỹ hình thức nào.
Để thực hiện thành công giờ dạy theo phương pháp này, giáo viên cần:
+ Giảm tối đa thời gian nói của mình trên lớp, tăng thời gian sử dụng ngôn
ngữ cho HS.
+ Dạy học theo cách gợi mở - GV chỉ gợi mở và dẫn dắt để HS tự tìm ra lời
giải đáp hoặc con đường đi của mình.

+ Khai thác kiến thức sẵn có/kiến thức nền về văn hố, xã hội cũng như
ngơn ngữ của HS trong luyện tập ngơn ngữ.
+ Có thái độ tích cực đối với lỗi ngôn ngữ của HS. Chấp nhận lỗi như một
phần tất yếu trong quá trình học ngoại ngữ, giúp HS học tập được từ chính lỗi của
bản thân và bạn bè.
+ Không chỉ chú ý đến sản phẩm cuối cùng của bài luyện tập (product) mà
còn chú trọng đến cả quá trình (process) luyện tập và phương pháp học tập của
HS.
Một số ví dụ minh họa
Phương pháp Giao tiếp địi hỏi người học phải sử dụng các hình thức ngơn ngữ
thích hợp với tình huống giao tiếp (situations), trong đó yêu cầu người tham gia giao
tiếp phải thể hiện được ý định giao tiếp (intention) thông qua việc thực hiện
các nhiệm vụ khác nhau (tasks). Ví dụ, trong phần giới thiệu ngữ liệu của Unit 4 lớp
9; Mục 2. Listen and Read, HS được giới thiệu cả về chủ đề bài học (kinh nghiệm
học ngoại ngữ) và kiến thức ngôn ngữ (tường thuật câu nói từ trực tiếp sang gián tiếp:
dạng câu khẳng định và câu hỏi) trong tình huống đối thoại (Lan nói chuyện với
Paola, một nữ sinh ngoại quốc về bài thi nói tiếng Anh mà Lan vừa tham dự). Nhiệm
vụ (task) mà HS phải thực hiện là Nghe, luyện đọc bài hội thoại và tìm ra các câu hỏi
gián tiếp mà ban giám khảo hỏi Lan (phần a.). GV dùng tình huống trong bài đối
thoại để làm rõ nghĩa dạng câu hỏi theo cách nói gián tiếp của 2 loại tường thuật câu
hỏi, ví dụ:
- She asked me what my name was, and where I came from.
- She asked me if I spoke any other languages.
Bước tiếp theo, GV cho HS luyện tập qua việc yêu cầu HS đọc bảng danh
sách câu hỏi trực tiếp (thi vấn đáp tiếng Anh) của ban giám khảo để so sánh và
xác định với các câu hỏi gián tiếp trong bài đối thoại (phần b.); sau đó HS luyện
tập đối thoại trực tiếp theo cặp (đóng vai Lan và người giám khảo). Mục đích là
củng cố hình thái loại câu hỏi trực tiếp cho HS trước khi cho các em luyện tập đổi
sang câu hỏi gián tiếp.
Bước tiếp theo là hoạt động giao tiếp mang tính tự do hơn. GV có thể yêu

cầu HS dựa vào bài đối thoại giữa Lan và người giám khảo để đóng vai Lan và
Paola tập nói lại nội dung các câu hỏi trực tiếp đó ở dạng câu hỏi gián tiếp (như
bài đối thoại trong phần giới thiệu ngữ liệu).
Để tăng cường giao tiếp ở mức hồn tồn tự do (mang tính sáng tạo), GV có


Kim Thu secondary school
thể yêu cầu HS luyện tập phỏng vấn theo cặp theo các tình huống do giáo viên
gợi ý; sau đó HS đại diện cho mỗi cặp tường thuật lại các câu hỏi ở dạng gián
tiếp.
Như vậy, ví dụ trên cho thấy việc dạy kiến thức ngôn ngữ (câu hỏi gián tiếp)
được giới thiệu thơng qua tình huống giao tiếp, vừa đảm bảo việc truyền tải được
hiện tượng ngơn ngữ theo văn cảnh có nghĩa, vừa bám sát nội dung chủ đề của
bài học. Điều quan trọng là HS được luyện tập và có thể vận dụng vào các tình
huống giao tiếp tương tự.
.
Giới thiệu về Kỹ thuật mở bài - tạo khơng khí lớp học
Để có được một giờ dạy thành công, ngay ở bước hoạt động đầu tiên của
một giờ dạy là bước mở bài, giáo viên cần tạo ra được một khơng khí học tập
thuận lợi về cả mặt tâm lý lẫn nội dung cho hoạt động dạy học tiếp theo đó.
Những hoạt động gây khơng khí học tập này thường rất ngắn (5 -7 phút)
nhưng vô cùng quan trọng. Vậy mở bài nên làm những gì và làm thế nào để có
thể thực hiện được các mục đích đó.
Các hoạt động mở bài
Các hoạt động mở bài nhằm một số mục đích sau:
·
ổn định lớp, cho phép học sinh có một thời gian để thích nghi với
bài học mới;
·
tạo mơi trường thuận lợi cho bài học mới;

·
gây hứng thú cho bài học mới;
·
giúp học sinh liên hệ những điều đã học với bài học mới;
·
chuẩn bị về kiến thức cần cho bài học mới;
·
tạo tình huống, tạo ngữ cảnh cho phần giới thiệu bài tiếp theo;
·
tạo nhu cầu giao tiếp, hay tạo mục đích cho một hoạt động giao
tiếp kế tiếp.
Các hình thức và thủ thuật vào bài
Tuỳ theo mục đích và đặc thù của giờ dạy, đồng thời tuỳ theo đối tượng học
sinh cụ thể của mình, giáo viên có thể lựa chọn những hoạt động hay thủ thuật
vào bài cho phù hợp.
Giáo viên có thể tham khảo một số gợi ý sau:
1. Tạo môi trường thuận lợi cho bài học
a) Thiết lập khơng khí dễ chịu giữa thày và trị ngay giờ phút vào lớp:
·
chào hỏi học sinh;
·
tự giới thiệu về mình;
·
hỏi chuyện thông thường tự nhiên;
·
kể chuyện vui...
b) Tạo thế chủ động, tự tin cho học sinh:


Kim Thu secondary school

·
thăm hỏi học sinh;
·
tạo cơ hội cho học sinh được giới thiệu/nói về mình, hỏi các câu
hỏi đáp lại
c) ổn định lớp, tập trung sự chú ý, gây hứng thú bằng cách bắt đầu ngay
bằng một hoạt động học tập nào đó liên quan đến bài học, ví dụ:
·
A short listening task;
·
Observing a picture then ask and answer about the picture;
·
A riddle
·
A language game (crosswords, noughts and crosses, etc)
·
A challenging task on vocabulary,
2. Chuẩn bị tâm lý và kiến thức cho bài học mới
a) Khai thác kiến thức đã biết của học sinh bằng thủ thuật gợi mở
(eliciting), hay nêu vấn đền để cả lớp đóng góp ý kiến (brainstorming).
b) Liên hệ những vấn đề của bài cũ có liên quan đến bài mới, có thể bằng
các hình thức khác nhau như:
·
hỏi các câu hỏi có liên quan;
·
ra bài tập về các nội dung đã học có liên quan;
·
sử dụng một trong những hoạt động gây hứng thú và ổn định lớp
(kể trên), dùng vốn kiến thức và nội dung bài cũ;
c) Tạo ngữ cảnh, tình huống hoặc các cớ/lý do giao tiếp (Communicative

needs) cho các hoạt động tiếp theo của bài. Có thể dùng các hình thức như:
·
giáo cụ trực quan (đồ vật, tranh, bưu ảnh..)
·
các mẩu chuyện có thật hoặc tự tạo
·
các bài đọc ngắn
·
các bài tập hoặc câu hỏi, vv
Một số lưu ý:
Trong thực tế, những hoạt động và thủ thuật dùng cho phần mở bài có thể
cùng một lúc đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau . Vì vậy, giáo viên nên tìm
cách sáng tạo để có được một cách vào bài sao cho cùng một lúc có thể đáp ứng
được nhiều nhiệm vụ đặt ra ở phần mở bài. Ví dụ, ngay khi bước vào lớp, giáo
viên có thể bắt đầu bài bằng một hoạt động nêu vấn đề và giải quyết vấn đề
(problem- solving), hoặc khai thác vốn kiến thức có sẵn của cả lớp về một nội
dung có liên quan đến bài cũ và bài mới (brainstorming). Bằng cách đó, giáo viên
đã cùng một lúc gây được sự chú ý, gây hứng thú cho bài học, ổn định được lớp,
kiểm tra, ôn lại được bài cũ, đồng thời cũng đã giúp cho học sinh chuẩn bị được
tâm lý và kiến thức cần thiết cho bài mới.
Như đã đề cập, mục đích của các hoạt động mở bài là để học sinh làm quen
và cảm thấy hứng thú với chủ đề sắp học trong bài, đồng thời ôn luyện lại những
kiến thức đã học có liên quan đến bài mới hoặc để giáo viên tạo những nhu cầu
giao tiếp cần thiết cho các hoạt động của bài mới. Với ý nghĩa đó, phần mở bài
đơi khi khơng có ranh giới cụ thể mà luôn được tiến hành phối hợp với phần giới


Kim Thu secondary school
thiệu ngữ liệu.
Các hoạt động mở bài trong chương trình sách giáo khoa mới

Trong chương trình sách giáo khoa mới, giáo viên có thể sử dụng các thủ
thuật và bài tập có sẵn trong sách giáo khoa (ví dụ như đối với sách chương trình
lớp 8 và lớp 9) hoặc GV tự sáng tạo (ví dụ, với chương trình lớp 6 và lớp 7). Có
thể sử dụng các thủ thuật như:
Dựa vào tranh ở mục đầu của bài, hỏi, gợi ý về chủ đề mới:
Sử dụng tranh ảnh, bản đồ, vật thực tự chuẩn bị thay cho tranh trong
sách để gây hấp dẫn.
Hỏi các kiến thức bài cũ có liên quan đến bài mới.
Khai thác các kiến thức có sẵn của học sinh.
Liên hệ đến thực tế của chính học sinh, của địa phương hay các tình
huống gần gũi với học sinh và thay thế các tình huống trong sách nếu cần.
Khi tiến hành phần này, giáo viên cần chú ý một số điểm sau:
·
Có thể sử dụng cả tiếng Anh và tiếng Việt.
·
Cần tạo cơ hội cho học sinh hỏi lại giáo viên hoặc hỏi lẫn nhau để
gây hứng thú, phát huy tính tích cực của học sinh.
·
Luôn quan tâm đến tâm lý lứa tuổi và sở thích của học sinh để đưa
ra những thủ thuật phù hợp, ví dụ như kích thích trí tị mị, yêu cầu đoán tranh,
đoán câu trả lời v.v...
·
Cần chú ý thay đổi hình thức mở bài để gây hứng thú cho học sinh.



×