Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

Giáo trình công nghệ xe ô tô điện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.84 MB, 115 trang )

GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

CÔNG NGHỆ XE ĐIỆN

Chữ viết tắt
AC
CARB

Alternating current : dòng điện xoay chiều
California air resources board: Hội đồng quản trị nguồn tài ngun
khơng khí California
Combined cycle gas turbine: Tua bin khí chu trình hỗn hợp
Compressed natural gas: khí nén tự nhiên
Catalytic partial oxidation:Xúc tác q trình oxy hóa khơng hồn tồn
Continuously variable transmission: sự truyền biến đổi liên tục
Direct current: dòng điện một chiều
Direct methanol fuel cell: Pin nhiên liệu methanol
Electronically controlled continuous variable transmission: hộp số tự

CCGT
CNG
CPO
CVT
DC
DMFC
ECCVT
động
ECM
Electronically commutated motor: Mạch điện tử có động cơ
EMF
Electromotive force: Sức điện động


EPA
Environmental protection agency: Cơ quan bảo vệ môi trường
EPS
Electric power steering: trợ lực lái điện
ETSU
Energy technology support unit (a government organisation in the
UK): tổ chức hỗ trợ cơng nghệ năng lượng (một tổ chức chính phủ tại Vương quốc
Anh)
EV
Electric vehicle: Xe điện
FCV
Fuel cell vehicle: Pin nhiên liệu xe
FHDS
Federal highway driving schedule: lịch trình đường cao tốc liên bang
FUDS
Federal urban driving schedule: lịch trình đường đơ thị liên bang
GM
General Motors: hãng xe GM
GM EV1 General Motors electric vehicle 1: xe điện đời thứ I General Motors
GTO
Gate turn off : Cổng tắt
HEV
Hybrid electric vehicle: xe lai
HHV
Higher heating value: Nhiệt trị cao hơn
IC
Internal combustion: Đốt trong
ICE
Internal combustion engine: động cơ đốt trong
IEC

International Electrotechnical Commission: Uỷ ban Điện tử quốc tế
IGBT Insulated gate bipolar transistor: Tranzito lưỡng cực cách điện

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

1


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

kph
Kilometres per hour: Kilômét một giờ
LHV
Lower heating value: nhiệt trị thấp/ công suất tỏa nhiệt
LH2
Liquid (cryogenic) hydrogen: hydro (đơng lạnh) dạng lỏng
LPG
Liquid petroleum gas: khí gas hóa lỏng
LSV
Low speed vehicle: Xe tốc độ thấp
MeOH
Methanol
mph
Miles per hour: Dặm / giờ
MEA
Membrane electrode assembly: Lắp ráp điện cực màng
MOSFET Metal oxide semiconductor field effect transistor: tranzito hiệu ứng
trường oxit kim loại bán dẫn
NASA
National Aeronautics and Space Administration: cơ quan Quản trị

hàng không và không gian quốc gia
NiCad
Nickel cadmium (battery): pin Niken-camit
NiMH
Nickel metal hydride (battery): ắc quy Nike-kim loại hydrua
NL
Normal litre, 1 litre at NTP: lít chuẩn, 1 lít ở NTP
NTP
Normal temperature and pressure (200C and 1 atm or 1.01325 bar):
nhiệt độ và áp suất chuẩn ( ở 200C và 1 atm hay 1.01325 bar)
NOX
Nitrous oxides: oxit Nitơ
OCV
Open circuit voltage: điện áp hở mạch
PEM
Proton exchange membrane or polymer electrolyte membrane:
different names for the same thing which fortunately have the same abbreviation
Màng trao đổi proton hoặc màng điện phân polymer: các tên khác nhau cho cùng
một điều mà chúng có cùng một chữ viết tắt
PEMFC
Proton exchange membrane fuel cell or polymer electrolyte membrane
fuel cell: pin nhiên liệu kiểu màng trao đổi proton hoặc pin nhiên liệu kiểu màng
điện polymer
PM
Permanent magnet or particulate matter: nam châm vĩnh cửu hoặc vật
chất dạng hạt
POX
Partial oxidation Q trình oxy hóa khơng hồn tồn
ppb
Parts per billion: Phần tỷ

ppm
Parts per million: Phần triệu
PROX
Preferential oxidation: quá trình oxy hóa ưu tiên
PWM
Pulse width modulation: sự điều biến độ rộng xung
PZEV
Partial zero emission vehicle Một phần khơng khí thải
SAE
Society of Automotive Engineers: Hiệp hội kỹ sư ô tô
SFUDS
Simplified federal urban driving schedule Đơn giản hóa lịch lái xe đơ
thị liên bang
SL
SOFC

Standard litre, 1 litre at STP: lít tiêu chuẩn, 1 lít ở STP
Solid oxide fuel cell: Pin nhiên liệu oxit rắn

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

2


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

SRM
Switched reluctance motor
STP
Standard temperature and pressure (= SRS): Nhiệt độ và áp suất tiêu

chuẩn (= SRS)
SULEV
Super ultra low emission vehicles: siêu xe có khí thải cực thấp
TEM
Transmission electron microscope: Kính hiển vi điện tử truyền qua
ULEV
Ultra low emission vehicle: xe có khí thải cực thấp
VOC
Volatile organic compounds: Các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi
VRLA
Valve regulated (sealed) lead acid (battery): Valve điều chỉnh (đóng
kín) chì axit (ắc quy)
WTT
Well to tank: khoang để bình
WTW
Well to wheel: khoang để bánh xe
WOT
Wide open throttle: Mở rộng bướm ga
ZEBRA
Zero emissions battery research association: hiệp hội nghiên cứu pin
không phát khí thải
ZEV
Zero emission vehicle: khí thải bằng khơng
Ký hiệu
Các kí tự được sử dụng để biểu trưng cho các biến, chẳng hạn như khối lượng, và
cũng như là biểu tượng hóa học trong phương trình hóa học. Có sự phân biệt rõ
ràng trong từng bối cảnh, nhưng thường là sử dụng cho các biến, và văn bản thông
thường cho các ký hiệu hóa học, do đó, H là viết tắt cho entanpy, trong khi đó H là
viết tắt của hydro. Trong trường hợp một kí tự có thể biểu trưng cho hai hoặc nhiều
biến, bối cảnh phải luôn luôn rõ ràng.

a
Acceleration: gia tốc
A
Area: Diện tích
B
Magnetic field strength: Cường độ từ trường
Cd
Drag coefficient Hệ số cản/kéo
C
Amphour capacity of a battery OR capacitance of a capacitor: điện
năng của một pin hoặc điện dung của một tụ điện
C3
Amphour capacity of a battery if discharged in 3 hours, the ‘3 hour
rate’: công suất của pin nếu thải ra trong 3 giờ, ‘suất 3 giờ’
Cp
Peukert capacity of a battery, the same as the Amphour capacity if
discharged at a current of 1 Amp Peukert: công suất của pin, giống như năng lượng
tạo ra từ dòng điện có cường độ 1Ampe.
CR
Charge removed from a battery, usually in Amphours: Sạc xả pin,
thường là trong Amphours
CS
Charge supplied to a battery, usually in Amphours: sạc cung cấp cho
pin, thường là trong Amphours

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

3



GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

d
Separation of the plates of a capacitor OR distance traveled: khoảng
cách giữa các tụ điện hoặc khoảng di chuyển
DoD
Depth of discharge, a ratio changing from 0 (fully charged) to 1
(empty): hệ số sạc, một tỷ số thay đổi từ 0 (sạc đầy) tới 1 (trống)
E
Energy, or Young’s modulus, or EMF (voltage) Năng lượng, hoặc
môđun Yong, hoặc EMF (điện áp)
Eb
Back EMF (voltage) of an electric motor in motion: Back EMF (điện
áp) của một động cơ điện trong chuyển động
Es
Supplied EMF (voltage) to an electric motor: Cung cấp EMF (điện áp)
cho một động cơ điện
e
Magnitude of the charge on one electron, 1.602 × 10−19 Coulombs: độ
lớn của 1 điện tử, 1,602 × 10-19 Coulombs
f
Frequency: Tần số, tần suất
F
Force or Faraday constant, the charge on one mole of electrons, 96
485 Coulombs: Lực hoặc hắng số Faraday, điện tích của 1 mol phân tử , 96485
Coulombs
Frr
Force needed to overcome the rolling resistance of a vehicle: Lực cần
cung cấp để vượt qua những lực cản lăn của xe
Fad

Force needed to overcome the wind resistance on a vehicle: Lực cần
cung cấp để vượt qua lực cản gió trên một chiếc xe
Fla
Force needed to give linear acceleration to a vehicle: Lực cần thiết để
cung cấp cho gia tốc tuyến tính để xe tăng tốc
Fhc
Force needed to overcome the gravitational force of a vehicle down a
hill: Lực cần cung cấp để thắng lực hấp dẫn khi xe xuống một ngọn đồi
Fωa
Force at the wheel needed to give rotational acceleration to the
rotating parts of a vehicle: Lực tại bánh xe cần để cung cấp cho gia tốc quay với
các bộ phận quay của một chiếc xe
Fte
Tractive effort, the forward driving force on the wheels: lực kéo, lực
dẫn động các bánh xe trước
g
Acceleration due to gravity: gia tốc trọng trường
G
Gear ratio OR rigidity modulus OR Gibbs free energy (negative
thermodynamic potential): tỉ số truyền hoặc hệ số cứng hoặc tỷ lệ năng lượng tự do
Gibbs (thế nhiệt động âm)
H
Enthalpy
I
Current, OR moment of inertia, OR second moment of area, the
context makes it clear: cường độ dòng điện, hoặc mơmen qn tính, hoặc mơ men
thứ hai của khu vực, thuộc tính làm rõ ràng
Im
Motor current: cường độ dịng điện của động cơ
J

Polar second moment of area: mô men cực thứ hai
KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

4


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

kc
Copper losses coefficient for an electric motor: hệ số tổn hao đồng
cho một động cơ điện
ki
Iron losses coefficient for an electric motor: hệ số tổn hao kim loại sắt
trong một động cơ điện
kw
Windage losses coefficient for an electric motor: hệ số tổn hao do quạt
gió trong động cơ điện
KE
Kinetic energy: Động năng
Km
Motor constant: Động cơ không đổi
k
Peukert coefficient: hệ số Peukert
L
Length: Chiều dài
m
Mass: khối lượng
m
Mass flow rate: Lưu lượng chất
mb

Mass of batteries: Khối lượng của pin
N
Avogadro’s number, 6.022 × 1023 OR revolutions per second: hằng số
Avogadro hoặc số vòng / giây
n
Number of cells in a battery, OR a fuel cell stack, OR the number of
moles of substance
Số lượng phần tử trong một pin, hoặc một khối pin nhiên liệu, hoặc số mol của
chất
P
Power OR pressure: Công suất hoặc áp lực
Padw
Power at the wheels needed to overcome the wind resistance on a
vehicle: Công suất tại các bánh xe cần để vượt qua lực cản gió trên một chiếc xe
Padb
Power from the battery needed to overcome the wind resistance
on a vehicle: Năng lượng từ pin cần để vượt qua lực cản gió trên một chiếc xe
Phc
Power needed to overcome the gravitational force of a vehicle
down a hill: Năng lượng cần thiết để vượt qua lực hấp dẫn của một chiếc xe xuống
một ngọn đồi
Pmot-in
Electrical power supplied to an electric motor: năng lượng điện
cung cấp cho một động cơ điện
Pmot-out
Mechanical power given out by an electrical motor: năng lượng cơ
học được cung cấp bởi một động cơ điện
Prr
Power needed to overcome the rolling resistance of a vehicle:
Năng lượng cần thiết để vượt qua lực cản lăn của xe

Pte
Power supplied at the wheels of a vehicle: Công suất cung cấp
tại các bánh xe của một chiếc xe
Q
Charge, e.g. in a capacitor: Điện lượng,ví dụ: trong một tụ điện
q
Sheer stress: độ cong, uốn

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

5


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

R
Electrical resistance, OR the molar gas constant 8.314 JK −1
mol−1: Điện trở, hoặc các hằng số phân tử khí 8,314 JK-1 mol-1
Ra
Armature resistance of a motor or generator: điện trở phần ứng
của một động cơ hoặc máy phát điện
RL
Resistance of a load: điện trở của tải
r
Radius, of wheel, axle, OR the rotor of a motor, etc. Bán kính,
các bánh xe, trục, hoặc các cánh quạt của một động cơ, v.v..
ri , ro
Inner and outer radius of a hollow tube: bán kính trong và ngồi
của 1 trụ rỗng
S

Entropy
SE
Specific energy: Năng lượng riêng
T
Temperature, OR Torque, OR the discharge time of a battery in
hours: Nhiệt độ, hoặc Mô men, hoặc thời gian xả pin chỉ trong vài giờ
T1 , T2
Temperatures at different stages in a process: Nhiệt độ ở các giai đoạn
khác nhau trong một quy trình
Tf
Frictional torque, e.g. in an electrical motor: Mơ-men quay do
ma sát, ví dụ: trong một động cơ điện
ton , toff
On and off times for a chopper circuit: thời gian tắt, mở của một
bộ đảo mạch dòng điện
v
Velocity: Vận tốc
V
Voltage: Điện áp
W
Work done: Công việc thực hiện
z
Number of electrons transferred in a reaction: Số lượng các
electron chuyển trong phản ứng một
Total magnetic flux: Tổng số từ thông
δ
Deflection: Độ lệch, độ uốn
δt
Time step in an iterative process: khoảng thời gian trong một
quá trình lặp đi lặp lại

Change in . . ., e.g. = change in enthalpy: Thay đổi. . ., Ví dụ:
= Thay đổi trong entanpy
σ
Bending stress: ứng suất uốn
ε
Electrical permittivity: hằng số điện môi
η
Efficiency Hiệu suất
ηc
Efficiency of a DC/DC converter: Hiệu suất của một bộ chuyển
đổi DC/DC
ηfc
Efficiency of a fuel cell: Hiệu suất của pin
ηm
Efficiency of an electric motor: Hiệu suất của một động cơ điện
KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

6


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

ηg
Efficiency of a gearbox: Hiệu suất truyền của một hộp số
η0
Overall efficiency of a drive system: hiệu suất truyền chung của
một hệ thống dẫn động
θ
Angle of deflection or bend: Góc lệch hoặc bẻ cong
λ

Stoichiometric ratio: Tỷ lệ cân bằng hóa học
μrr
Coefficient of rolling resistance: Hệ số cán kháng
ρ
Density: Mật độ
ψ
Angle of slope or hill: Góc dốc hoặc đồi
ω
Angular velocity: Vận tốc góc
I .GIỚI THIỆU
Các cuộc trình diễn đầu tiên của xe điện được thực hiện trong thập niên 1830, và
xe điện thương mại đã có mặt vào cuối thế kỷ 19. Những chiếc xe điện đã bước
vào thế kỷ thứ ba của nó như là một sản phẩm thương mại có sẵn và nó đã được rất
nhiều thành công, nhiều ý tưởng kỹ thuật khác đã đến, tồn tại và đi. Tuy nhiên, xe
điện đã không được hưởng những thành công to lớn của động cơ đốt trong (IC)
động cơ xe thơng thường có phạm vi dài hơn nhiều và rất dễ dàng để tiếp nhiên
liệu. Hôm nay mối quan tâm về môi trường, đặc biệt là tiếng ồn và khí thải, cùng
với những phát triển mới trong pin và các pin nhiên liệu có thể đưa sự cân bằng trở
lại những lợi ích của điện xe. Do đó, quan trọng là các nguyên tắc chính trong thiết
kế của xe điện, các cơng nghệ và mơi trường, các vấn đề có liên quan cần được
hiểu rõ.
1.1 LỊCH SỬ TÓM TẮT
1.1.1

Những ngày đầu:

Những chiếc xe điện đầu tiên của thập niên 1830 sử dụng pin không thể sạc lại.
Nửa thế kỷ đã trôi qua trước khi pin đã phát triển đầy đủ để sử dụng trong thương
mại điện xe. Đến cuối thế kỷ 19, với sự sản xuất hàng loạt pin sạc, xe điện đã được
sử dụng khá phổ biến. Xe ô tô tư nhân, mặc dù hiếm, đã được trang bị điện, cũng

như các phương tiện khác như taxi. Một taxi điện đã xuất hiện ở New York từ
1901, với Lily Langtree bên cạnh như trong hình 1.1. Thật vậy, nếu thực hiện được
yêu cầu, những chiếc xe điện được ưa thích hơn động cơ đốt trong hoặc của họ hỗ
trợ các đối thủ. Hình 1.2 là chiếc xe đầu tiên đạt tốc độ trên 60mph (dặm một giờ)
khi tay đua Bỉ Camille Jenatzy, lái xe chiếc xe điện được gọi là 'La Jamais

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

7


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

Contente ', lập kỷ lục tốc độ mới trên mặt đất 106 km/giờ (65.7mph). Điều này
cũng có nghĩa là chiếc xe đầu tiên vượt quá 100 km / giờ.

Hình 1.1 New York Taxi Cab trong khoảng năm 1901, một chiếc xe pin điện (Người
phụ nữ trong ảnh Lillie Langtry là, nữ diễn viên, người tình của Vua Edward VII)
(. Ảnh: Bảo tàng quốc gia Motor Beaulieu.)
Vào đầu thế kỷ 20 xe điện phải chú ý đến những đối thủ mạnh trong lĩnh vực vận
tải đường bộ trong tương lai. Những chiếc xe điện tương đối đáng tin cậy và bắt
đầu sử dụng ngay lập tức, trong khi các loại xe động cơ đốt trong được vào thời
điểm đó khơng đáng tin cậy, có mùi và cần tay quay để khởi động. Các đối thủ
khác, chiếc xe động cơ hơi nước, cần lửa và hiệu suất nhiệt của động cơ là tương
đối thấp.
Đến năm 1920 hàng trăm ngàn xe điện đã được sản xuất để sử dụng như xe hơi, xe
tải, taxi, xe giao hàng và xe buýt. Tuy nhiên, bất chấp những triển vọng của đầu xe
điện, một khi dầu giá rẻ đã được phổ biến rộng rãi và dùng khởi động cho động cơ

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005


8


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

Hình 1.2 Camille Jenatzy của 'La Jamais Contente. Xe điện này giữ kỉ lục thế giới
về vận tốc trên mặt đất vào năm 1899, và là chiếc xe đầu tiên vượt quá cả 60mph
và 100 km / giờ
đốt trong (phát minh năm 1911) đã đến, động cơ đốt trong đã chứng minh là một
lựa chọn hấp dẫn cho các phương tiện cung cấp năng lượng. Trớ trêu thay, thị
trường chính cho pin sạc có kể từ khi động cơ đốt trong được bắt đầu
1.1.2

Sự suy giảm tương đối của xe điện sau năm 1910

Những lý do cho sự thành công ngày càng lớn của các loại xe động cơ IC là dễ
hiểu khi một so sánh cụ thể của năng lượng của nhiên liệu dầu khí và của pin. Cụ
thể năng lượng từ nhiên liệu đối với động cơ IC tuy khác nhau, nhưng vào khoảng
9000 Whkg-1, trong khi năng lượng của pin axít chì là khoảng 30 Whkg -1. Một khi
hiệu suất của động cơ IC, hộp số và truyền dẫn (thường là khoảng 20%) đối với
một động cơ xăng theo tính tốn, có nghĩa là 1800 Whkg-1 là năng lượng hữu ích
(tại các trục hộp số) có thể đạt được. Với một động cơ điện có hiệu suất 90% thì
chỉ có 27Whkg-1 là năng lượng hữu ích (tại trục động cơ). Để minh họa rõ hơn điều
này, 4.5 lít (tương đương 1 gallon) xăng dầu có khối lượng khoảng 4 kg sẽ cung
cấp cho động cơ một chiếc xe một điển hình trong phạm vi 50 km. Để lưu trữ cùng
một lượng điện năng hữu ích địi hỏi một axit chì pin phải có một khối lượng
khoảng 270 kg. Để tăng gấp đơi năng lượng lưu trữ và phạm vi của chiếc xe động
cơ xăng thì cần hơn 4,5 lít nhiên liệu, với khối lượng chỉ khoảng 4 kg, trong khi
làm như vậy với một chiếc xe pin axít chì u cầu cần phải bổ sung một khối lượng

của pin khoảng 270 kg.

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

9


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

Điều này được minh họa trong hình 1.3. Trên thực tế điều này sẽ khơng tăng gấp
đôi phạm vi hoạt động của xe điện, một số lượng đáng kể năng lượng bổ sung là
KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

10


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

dùng để tăng tốc và giảm tốc trong 270 kg của pin và thực hiện việc leo dốc. Một
phần năng lượng này có thể được lấy lại thông qua việc tái tạo, một hệ thống nơi
mà động cơ hoạt động như một máy phát điện, phanh các xe và chuyển đổi năng
lượng động học của chiếc xe thành năng lượng điện và được lưu trữ về pin, từ đó
nó có thể được tái sử dụng. Trong thực tế, khi hiệu suất sự phát điện, điều khiển,
lưu trữ pin và đi qua các điện trở lại thơng qua động cơ và điều khiển được chiếm
ít hơn một phần ba năng lượng có thể được phục hồi.
Kết quả là phanh tái sinh có xu hướng được sử dụng nhiều như một cách phanh
thuận tiện xe tải nặng, cái mà xe điện thường dùng, để đạt hiệu quả về năng lượng.
Đối với pin axít chì để có năng lượng có ích như của 45 lít (10 gallon) xăng, cần có
khối lượng đáng kinh ngạc của pin là 2,7 tấn.
Một vấn đề lớn đặt ra với pin là thời gian cần để sạc chúng. Ngay cả khi nguồn

điện đầy đủ thì cần thời gian tối thiểu, thơng thường là vài giờ, để sạc lại một pin
axít chì, trong khi 45 lít xăng có thể được đưa vào một chiếc xe trong khoảng một
phút. Thời gian sạc của một số các mới pin đã được giảm xuống một giờ, nhưng
điều này vẫn khơng là gì so với việc bơm đầy một bình xăng.
Tuy nhiên, có một số hạn chế với các loại xe điện này là pin rất đắt, do đó, bất kỳ
pin điện nào cũng khơng chỉ giới hạn trong một phạm vi, nhưng như vậy thì nó lại
đắt hơn một chiếc xe động cơ đốt trong có kích thước và kết cấu tương tự.
Ví dụ, 2,7 tấn của pin axít chì mà cho cùng một năng lượng có ích như là 45 lít (10
gallon Anh) xăng sẽ có giá khoảng £ 8000 ở thời điểm hiện nay. Các pin này cũng
có một tuổi thọ hạn chế, khoảng 5 năm, có nghĩa là phải mất thêm một khoảng đầu
tư lớn theo định kì cần để thay mới pin.
Đây là những yếu tố giải thích cho ưu thế và sự thống trị của các loại động cơ đốt
trong ở phần lớn thế kỷ 20.
Kể từ thế kỷ 19 cách khắc phục hạn chế trong việc lưu trữ năng lượng của pin được
tiến hành. Việc đầu tiên là cung cấp năng lượng điện qua những đường ray cung
cấp, ví dụ tốt nhất là xe buýt chạy điện. Nó đã được sử dụng rộng rãi trong thế kỷ
20 và những chiếc xe buýt không gây ồn và không gây ô nhiễm được sử dụng tại
các thị trấn và thành phố. Khi xa rời nguồn cung cấp điện, xe buýt có thể tự chạy
bằng pin của nó. Nhược điểm là, tất nhiên, các đường ray cung cấp điện rất đắt tiền

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

11


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

mà cần thiết vì vậy hầu hết các xe điện và xe đẩy có hệ thống xe buýt bị xoá khỏi
dịch vụ. Sử chuyển giao hệ thống quy nạp điện hiện đại có thể khắc phục vấn đề
này.

Thuở đầu phát triển của xe điện , khái niệm xe lai cũng đã được phát triển, trong đó
một động cơ đốt trong dẫn động một máy phát điện được sử dụng trong kết hợp
với một hoặc nhiều động cơ điện. Đây là những cố gắng trong thế kỷ 20, nhưng
gần đây có rất nhiều điều trở lại lúc trước. Chiếc xe hybrid là một trong những ý
tưởng hứa hẹn sẽ làm thay đổi ảnh hưởng của xe điện. Các xe Toyota Prius (như
trong hình 1.11) là một xe lai hiện đại, người ta nói, đã tăng gấp đôi số lượng xe ô
tô điện trên các tuyến đường. Điều này hứa hẹn tiềm năng đáng kể cho sự phát
triển của các xe lai và ý tưởng về xe lai trong tương lai. Ta tiếp tục xem xét điều
này trong mục 1.3.2 dưới đây.
1.1.3

Sử dụng xe điện vẫn phổ biến

Mặc dù những vấn đề trên, xe điện vẫn được sử dụng từ đầu thế kỉ 20. Chúng có
lợi thế hơn động cơ đốt trong, chủ yếu là khơng có khí thải thải trực tiếp ra mơi
trường, và thứ hai là sự yên tĩnh vốn có. Điều này làm cho chiếc xe điện trở nên lý
tưởng đối với môi trường như một nhà kho, bên trong tòa nhà và trên các sân golf,
nơi mà sự ô nhiễm và tiếng ồn không thể tồn tại.
Một số ứng dụng của pin điện cho các thiết bị di động cho người già và tàn tật.
Thật vậy, ở châu Âu và Hoa Kỳ các loại xe thể hiện trong hình 1.4 là một trong
những mẫu phổ biến nhất. Nó có thể chạy được trên vỉa hè, vào cửa hàng, và trong
nhiều tịa nhà. Thơng thường chúng đủ chạy được khoảng 4 dặm nhưng nếu dài
hơn phạm vi cho phép người tàn tật phải tắp vào dọc đường. Một chiếc xe của
dòng này được thể hiện trong hình 11.2 của chương cuối cùng.
Họ cũng giữ lại hiệu quả của họ trong start-stop lái xe, khi một động cơ đốt trong
trở nên không hiệu quả và gây ô nhiễm. Điều này làm cho các xe điện trở nên hấp
dẫn và được sử dụng làm phương tiện giao hàng như sữa trôi nổi tiếng của Anh. Ở
một số nước điều này thật hữu ích bởi một thực tế là để lại một chiếc xe tự động
với động cơ đang chạy, ví dụ như khi lấy một cái gì đó từ cửa một ngơi nhà, là bất
hợp pháp.

1.2 PHÁT TRIỂN HƯỚNG TỚI CUỐI THẾ KỶ 20

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

12


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

Trong phần sau của thế kỷ 20 đã có những thay đổi có thể làm xe điện một đề nghị
hấp dẫn hơn. Thứ nhất có những mối quan tâm ngày càng tăng về môi trường, cả
về lượng phát thải tổng thể của khí carbon dioxide cũng như sự phát tán cục bộ của
khí thải, làm cho thị xã, thành phố đơng đúc trở nên khó thở. Thứ hai đã có những
phát triển kỹ thuật trong thiết kế xe và cải tiến để sạc pin, động cơ và điều khiển.
Thêm vào đó, các loại pin có thể được tiếp nhiên liệu và pin nhiên liệu, phát minh
đầu tiên bởi William Grove năm 1840, đã được phát triển cho điểm mà họ đang
được sử dụng trong các xe điện.

Hình 1.4 Ghế xe lăn điện
Vấn đề mơi trường cũng có thể là yếu tố quyết định trong việc sử dụng các xe điện
cho thị trấn và thành phố. Xăng pha chì đã bị cấm, và đã có một số thành phố nỗ

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

13


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

lực để giới thiệu xe khơng khí thải. Tình trạng của California đã khuyến khích các

nhà sản xuất xe cơ giới sản xuất xe điện với Chương trình xe giảm khí thải. Bản
chất khá phức tạp của các quy định trong nhà nước đã dẫn đến sự phát triển rất thú
vị trong pin nhiên liệu, pin, điện và xe hybrid. (Các kết quả quan trọng của chương
trình lập pháp ở California được thể hiện rõ hơn nữa trong Chương 10).
Xe điện không nhất thiết phải giảm tổng năng lượng sử dụng, nhưng chúng đi với
năng lượng tạo ra từ trên bo IC động cơ được trang bị cho xe và chuyển các vấn đề
đến các máy phát điện, mà có thể sử dụng nhiều loại nhiên liệu và nơi khí thải có
thể được xử lý. Trường hợp nhiên liệu hóa thạch được đốt cháy để cung cấp điện
và năng lượng có ích cho ơ tơ là không nhất thiết phải tốt hơn so với sử dụng một
động cơ diesel hoặc động cơ xăng hiện đại hơn có hiệu quả cao. Tuy nhiên có
nhiều tính linh hoạt trong việc lựa chọn các loại nhiên liệu tại các nhà máy điện.
Ngoài ra một số hoặc tất cả các năng lượng có thể thu được từ các nguồn năng
lượng thay thế như gió, thủy điện hoặc thủy triều, sẽ đảm bảo khơng phát khí thải.
Trong số những phát triển kỹ thuật, pin đã có những cải tiến, mặc dù không được
đáng giá cao như nhiều người từng mơ ước. Giá trị thương mại của pin như loại
nickel cadmium hay nickel metal hydride ở mức tốt nhất có thể gấp đơi năng lượng
của pin axít chì, và nhiệt độ cao Sodium niken clorua hoặc pin Zebra gần ba lần.
Đây là một cải tiến hữu ích, nhưng vẫn khơng cho phép các thiết kế của xe chạy
với một giới hạn dài. Trong thực tế, pin sạc năng lượng cao nhất là pin lithium
polymer với một năng lượng riêng gấp khoảng ba lần so với axit chì. Mặc dù vẫn
cịn đắt nhưng có những dấu hiệu cho thấy giá sẽ giảm đáng kể trong tương lai. Pin
kẽm khơng khí có điện áp gấp bảy lần so với năng lượng của pin axít chì và các pin
nhiên liệu là chứng minh đáng kể cho lời hứa. Vì vậy, ví dụ, để thay thế cho 45 lít
(10 gallon) xăng mà sẽ cung cấp cho một chiếc xe chạy 450 km (300 dặm), một
khối lượng 800 kg của pin lithium sẽ đáp ứng được yêu cầu, một sự cải thiện về
khối lượng so với 2700 kg của pin axít chì, nhưng vẫn cịn khá nặng. Công nghệ
pin được đề cập chi tiết hơn trong chương 2, và pin nhiên liệu được mô tả trong
chương 4.
Đã có sử gia tăng nỗ lực để chạy xe điện từ pin quang điện. Xe đã vượt qua cuộc
thi ở Australia trong World Solar Challenge với tốc độ vượt quá 85 km / giờ

(50mph) sử dụng năng lượng hoàn toàn thu được từ bức xạ mặt trời. Mặc dù các
pin năng lượng mặt trời đắt tiền và năng lượng hạn chế (100Wm -2 thường đạt được
trong ánh sáng mặt trời mạnh), chúng có thể có một số tác động trong tương lai.
KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

14


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

Giá của các pin quang điện liên tục giảm, trong khi hiệu quả ngày càng tăng.
Chúng cũng có thể trở nên hữu ích, đặc biệt đối với xe dùng pin sạc đi sạc lại và
như vậy là xứng đáng để xem xét.
1.3 CÁC LOẠI XE ĐIỆN SỬ DỤNG HIỆN NAY
Phát triển các ý tưởng từ thế kỷ 19 và 20 để sản xuất một loạt mới các xe điện và
bắt đầu có những tác động.
Có sáu loại có ảnh hưởng cơ bản của chiếc xe điện, có thể được xếp như sau:







Thứ nhất là pin xe điện truyền thống, đó là loại mà thường phải để tâm khi
mọi người nghĩ về xe điện.
Tuy nhiên, loại thứ hai, các xe điện hybrid, kết hợp pin và động cơ một vi
mạch, rất có khả năng trở thành loại phổ biến nhất trong những năm tới.
Thứ ba là có xe sử dụng nhiên liệu thay thế như là nguồn năng lượng bằng
cách sử dụng pin nhiên liệu hoặc pin khơng khí kim loại.

Thứ tư có xe được cung cấp bởi đường dây điện.
Năm là có xe điện sử dụng năng lượng trực tiếp từ bức xạ mặt trời.
Sáu là có xe đó lưu trữ năng lượng bằng cách thay thế như bánh đà hoặc siêu
tụ điện, trong đó gần như ln ln có tổ hợp sử dụng một số nguồn năng
lượng khác.

Các loại khác có thể được đề cập là tàu đường sắt và tàu, và thậm chí cả máy bay
điện. Tuy nhiên, cuốn sách này tập trung vào các phương tiện tự động sử dụng
bánh.
1.3.1 Pin xe điện
Khái niệm về chiếc xe pin điện cơ bản được thể hiện trong hình 1.5. Xe bao gồm
một pin điện để lưu trữ năng lượng, động cơ điện, và một bộ điều khiển. Pin
thường sạc lại từ nguồn điện thông qua một phích cắm và một bộ sạc pin có thể
được thực hiện trên máy bay hoặc trang bị tại các điểm sạc. Bộ điều khiển, thơng
thường sẽ kiểm sốt các nguồn cung cấp đến động cơ cũng như tốc độ xe khi đi tới
và lùi. Điều này thường được biết đến như một bộ điều khiển 2 góc phần tư, phía
trước và phía sau. Nó thường được sử dụng cùng với cả hai phanh tái sinh để thu
lại năng lượng và hình thức như là một phanh khơng ma sát. Khi thêm bộ điều

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

15


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

khiển cho phanh tái sinh ở phía trước và hướng ngược lại nó được gọi là một bộ
điều khiển 4 góc phần tư.
Có một loạt các xe điện của loại hình này hiện đang có sẵn trên thị trường. Đơn
giản nhất là các xe đạp điện và xe ba bánh nhỏ và xe đi lại nhỏ. Trong thị trường

giải trí có xe đẩy điện sân golf. Có một loạt các đầy đủ các kích thước xe điện,
trong đó bao gồm xe điện, xe tải giao hàng và xe buýt. Quan trọng nhất là được
dùng để hỗ trợ việc di chuyển, như trong hình 1.4 và hình 11.2 (trong chương cuối
cùng), và cũng như xe phân phối và xe đạp điện. Một số ví dụ điển hình của loại xe
điện sử dụng pin có thể sạc lại được thể hiện trong hình 1.6 tới 1.9. Tất cả những
xe có một kích cỡ giới hạn và hiệu suất, nhưng chúng là thỏa mục đích cần ban
đầu.

Hình 1.5 Khái niệm về chiếc xe có thể sạc lại pin điện

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

16


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

Hình 1.6 Một chiếc xe điện cổ, một pin hỗ trợ thành phố xe (Ảnh được cung cấp
bởi Công ty TNHH Ford Motor)
1.3.2 Xe điện lai
Một chiếc xe hybrid có hai hoặc nhiều hơn các nguồn năng lượng, và có một số
lượng lớn nhất các sự biến đổi. Các loại phổ biến nhất của chiếc xe hybrid là kết
hợp một động cơ đốt trong động cơ với một pin và một động cơ điện với máy phát
điện.
Có hai sự sắp xếp cơ bản cho các loại xe hybrid, lai nối tiếp và lai song song, được
minh họa trong hình 1.9 và 1.10. Trong chuổi nối tiếp xe lai được dẫn động bởi
một hoặc nhiều động cơ điện cung cấp hoặc từ pin hoặc từ động cơ điều khiển máy
phát điện, hoặc từ cả hai. Tuy nhiên, cũng có trường hợp các lực dẫn động đến
hồn toàn từ các động cơ điện hoặc động cơ.
Xe lai song song có thể được dẫn động bởi động cơ IC làm việc trực tiếp thông qua

một hệ thống truyền động đến các bánh xe, hoặc bằng một hoặc nhiều động cơ
điện, hoặc bằng cách cả hai động cơ điện và động cơ IC cùng một lúc.

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

17


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

Trong cả hai loại nối tiếp và song song, pin có thể nạp điện từ động cơ và máy phát
điện trong khi di chuyển, và do đó, pin khơng cần bất cứ điều gì to lớn như trong
một chiếc xe pin thuần túy. Ngoài ra, cả hai loại đều dùng được phanh tái sinh, cho
việc lái xe có động cơ để làm việc như một máy phát điện và đồng thời vừa làm
chậm xe vừa sạc pin.

Hình 1.7 Xe đạp điện là một trong những xe điện được sử dụng rộng rãi

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

18


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

Các xe lai nối tiếp có xu hướng chỉ được sử dụng trong các ứng dụng chun mơn.
Ví dụ, động cơ xe lửa diesel là loại lai nối tiếp, như một số tàu thủy. Một số xe
vượt địa hình đặc biệt là xe lai nối tiếp, với một mô-tơ điện điều khiển riêng biệt ở
mỗi bánh xe. Những bất lợi chính của lai nối tiếp là tất cả các năng lượng điện phải
đi qua cả máy phát điện và động cơ.

Các xe lai song song thì khác, có phạm vi ứng dụng rất rộng rãi. Các máy điện có
thể nhỏ hơn và rẻ hơn, như là chúng khơng có chuyển đổi tất cả các năng lượng.

Hình 1.8 Xe giao hàng ln ln có được một vị trí quan trọng đối với xe pin điện
Có nhiều cách khác nhau trong việc sử dụng một chiếc xe lai song song. Đơn giản
nhất là nó có thể chạy bằng điện từ pin, ví dụ, trong một thành phố nơi mà khí thải
khơng được ưa chuộng, hoặc nó có thể được hỗ trợ chỉ bằng vi mạch động cơ, ví
dụ, khi đi du lịch bên ngồi thành phố. Ngồi ra, cịn những hữu ích như, một chiếc
xe lai song song có thể sử dụng kết hợp động cơ IC và pin, liên tục tối ưu hóa hiệu
quả của động cơ đốt trong.
Một sự sắp xếp phổ biến là để có được năng lượng cơ bản để chạy xe, thơng
thường khoảng 50% nhu cầu năng lượng cao nhất là từ động cơ IC, và năng lượng
còn lại là từ các động cơ điện và pin, sạc pin từ máy phát điện động cơ khi
pin không được sử dụng. Sử dụng kỹ thuật điều khiển hiện đại, tốc độ động cơ và
mơ-men xoắn có thể được kiểm sốt để giảm thiểu khí thải và tiết kiệm nhiên liệu

KIM SOM BƠ - MSSV :0851130005

19


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

tối đa. Các nguyên tắc cơ bản là giữ cho động cơ IC làm việc khá thường xuyên, ở
tốc độ vừa phải, và ngược lại tắt hồn tồn.

Hình 1.9 Bố trí xe lai nối tiếp

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005


20


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

Hình 1.10 Bố trí xe lai song song
Trong các hệ thống xe lai song song là cần thiết phải xác định một tỉ lệ được gọi là
"mức độ lai" như sau:

Với mức độ lai càng lớn, phạm vi sử dụng một động cơ IC càng nhỏ, và nó hoạt
động với hiệu quả gần như tối ưu cho một tỷ lệ lớn hơn. Tại thời điểm này có một
văn bản rất quan trọng của Bộ Tài ngun khơng khí California (CARB) xác định
ba mức độ lai, như trong Bảng 1.1. Hàng cuối cùng chỉ ra các "giá trị môi trường"
của xe, và vấn đề được xem xét trong chương 10. Bởi vì có khả năng di chuyển của
xe hybrid, mặc dù trong một thời gian ngắn, với động cơ IC tắt và hoàn toàn dùng
pin điện, chúng có thể được gọi là 'xe hồn tồn khơng khí thải '(PZEVs).
Xe Hybrid đắt hơn xe thơng thường. Tuy nhiên lại có thể tiết kiệm một số tiền
khác. Trong cấu tạo khơng cần hộp số, sự truyền tải có thể được đơn giản hóa và
khác biệt có thể được loại bỏ bằng cách sử dụng cặp động cơ trang bị trên những
bánh xe đối diện. Trong cả hai loại nối tiếp và song song, thơng thường, có thể pin
khởi động được loại bỏ.

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

21


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

Bảng 1.1 CARB phân loại xe lai điện, vào tháng 04/ 2003

Cấp 1: điện áp Cấp độ 2: điện áp Cấp 3: điện áp
thấp HEV
cao HEV
cao-năng
lượng
cao
Điện áp
<60
≥ 60
≥ 60
Năng lượng
≥ 4 Kw
≥ 10 Kw
≥ 50 Kw
Phanh tái sinh



Ga anti, chạy cầm Có


chừng
Bảo hành pin 10 Có


năm hoặc 150
kmile
Chương trình tín 0.2
0.4
0.5

dụng ZEV

Hình 1.11 Xe Toyota Prius
Có một số xe hybrid hiện nay trên thị trường, và chúng được thiết lập phát triển
nhanh chóng trong những năm tới. Toyota Prius, thể hiện trong hình 1.11 là chiếc
xe mà thực sự đã mang sự chú ý của công chúng đến xe lai. Trong thời hạn hai năm
ra mắt năm 1998, nó tăng hơn gấp đơi số lượng xe điện trên những con đường của
Nhật bản. Các xe Prius sử dụng một động cơ xăng 1.5 lít và một động cơ điện
33kW, hoặc kết hợp hoặc riêng biệt để tạo ra hiệu suất tiết kiệm nhiên liệu nhất.
Một pin kim loại nickel hydride được sử dụng. Tại thời điểm bắt đầu hoặc ở tốc độ
thấp, Prius chỉ dùng động cơ điện, không sử dụng động cơ đốt trong nên nó tránh
được tối đa việc gây ơ nhiễm và có hiệu quả nhất. Chiếc xe này sử dụng phanh tái
sinh và có một tính kinh tế nhiên liệu cao khoảng 56,5 dặm / gallon (68 dặm /

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

22


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

gallon Anh) . Xe Prius có tốc độ tối đa là 160 km / h (100 mph) và tăng tốc đến
100 km / h (62mph) trong 13,4 giây. Pin xe Prius chỉ được sạc từ động cơ và khơng
sử dụng một ổ cắm bên ngồi. Do đó, chỉ tiếp nhiên liệu với xăng theo cách thơng
thường. Ngồi ra, ghế bốn người thoải mái, và khơng gian hành lý gần như khơng
bị ảnh hưởng bởi kích thước hơi lớn hơn bình thường của pin. Hệ thống truyền lực
hoàn toàn tự động là một điểm hấp dẫn nữa của chiếc xe này.
Toyota Prius là có những đặc điểm chủ yếu của một xe lai song song, như trong
hình 1.10, trong đó động cơ đốt trong có thể trực tiếp cung cấp năng lượng cho xe.
Tuy nhiên, nó khơng có một động cơ riêng biệt và máy phát điện, có thể hoạt động

ở chế độ nối tiếp, và khơng phải là "thuần" lai song song. Nó có hộp số là khá phức
tạp "bộ tách năng lượng ', dựa trên các bánh răng epicyclic, cho phép năng lượng
từ động cơ điện hoặc động cơ IC, theo tỷ lệ gần như bất kỳ, để gửi để các bánh xe
hoặc hộp số. Năng lượng cũng có thể được gửi từ các bánh xe để máy phát điện
như trường hợp phanh tái sinh.
Hầu hết các công ty lớn đang đưa ra các mẫu xe lai song song. Honda Insight, thể
hiện trong hình 8,14, và số liệu công suất được đưa ra trong Bảng 11.5, là một ví
dụ tốt. Ngồi ra cịn có phiên bản điện hybrid là Honda Civic.
Cách bố trí xe lai song song trong hình 1.10, trong đó, động cơ đốt trong và máy
phát điện đặt cạnh nhau, có vơ số cách sắp xếp như vậy. Những chiếc xe Honda đã
đề cập ở trên có máy điện đặt phù hợp với trục khuỷu, ở vị trí của bánh đà trong
một động cơ IC thông thường. Những chú ý khác về xe lai xuất hiện trên thị
trường, chẳng hạn như các phiên bản hybrid thể thao phổ biến (SUV) tại Mỹ, có
động cơ IC và động cơ điện kết nối với các trục khác nhau, như trong hình 1.12. Ở
đây, hệ thống điện dẫn động bánh sau, và động cơ IC cho bánh trước. Đây là một
sự kết hợp lai song song thật sự, và đây là con đường để kết nối hai phần của hệ
thống, điện và động cơ. Sự sắp xếp này có nhiều hấp dẫn về sự đơn giản trong cách
bố trí, rất gọn gàng cho một chiếc xe bốn bánh. Pin sẽ được sạc chủ yếu bởi phanh
tái sinh, nhưng nếu không đủ, tại thời điểm đi với tốc độ thấp, bánh xe sau có thể
được phanh để sạc pin, và bánh trước dẫn hướng và duy trì tốc độ. Đây là cách
chuyển đổi năng lượng giữa động cơ IC và pin.

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

23


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

Hình 1.12 Hệ thống lai song song với động cơ IC điều khiển trục trước và điện

điều khiển bánh xe phía sau

KIM SOM BƠ - MSSV :0851130005

24


GVHD : Th.S CAO ĐÀO NAM

Hình 1.13 Tuy nhiên, một số xe lai song song có thể sắp xếp: điện cho các bánh xe
phía trước, động cơ IC phía sau
Một biến đổi của ý tưởng này được thể hiện trong hình 1.13. Nhiều xe SUV có
bánh xe sau gắn động cơ IC, và chúng trở thành xe hybrid song song bằng cách
cung cấp năng lượng điện cho trục trước. Điều này có một chút lợi thế hơn sự sắp
xếp trong hình 1.12, trong đó phanh tái tạo năng lượng nhiều hơn vì có sẵn trên các
trục trước, do sự chuyển trọng lượng để các bánh xe phía trước theo phanh.
Thậm chí nhiều hơn trong việc bố trí cho xe hybrid trở nên rõ ràng khi chúng ta lưu
ý rằng, với tất cả các loại hybrid, pin có thể được sạc từ một nguồn điện riêng,
chẳng hạn như nguồn điện, trong khi chiếc xe không sử dụng. Điều này sẽ đáng giá
nếu sử dụng một pin lớn hơn, và điều này có thể cho phép chiếc xe chỉ sử dụng pin
trong một phạm vi đáng kể. Chưa có nhà sản xuất nào có kế hoạch cho ra đời loại
xe này sớm, nhưng nó có thể là một sự phát triển trong những năm tới.
Mặc dù có nhiều khác biệt trong sắp xếp với động cơ IC và pin nhưng thành phần
công nghệ chính cơ bản là giống nhau: động cơ điện, pin và bộ điều khiển. Vì vậy,
chúng ta chưa có một chương dành riêng cho xe hybrid, mà tầm quan trọng của
chúng có thể khẳng định, bởi vì các cơng nghệ cơ bản được giải thích ở hầu hết các
chương trong chủ đề này.

1.3.3 Nhiên liệu xe điện
Nguyên tắc cơ bản của xe điện sử dụng nhiên liệu cũng tương tự như với xe điện

dùng pin, nhưng với pin nhiên liệu hoặc pin khơng khí kim loại thay thế có thể sạc
điện pin. Hầu hết các công ty lớn đã phát triển pin nhiên liệu xe. Daimler Chrysler
là một, ví dụ đã phát triển chiếc xe pin nhiên liệu dựa trên dòng A của Mercedes,
kết hợp với các pin nhiên liệu Ballard, một trong số đó được thể hiện trong hình
1.14. Chúng chạy nhờ pin nhiên liệu hydro được lưu trữ ở dạng lỏng.

KIM SOM BÔ - MSSV :0851130005

25


×