Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Câu hỏi ôn tập môn Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.86 KB, 6 trang )

CÂU HỎI ÔN ĐƯỜNG LỐI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Vì sao nói sự ra đời của Đảng là một bước ngoặc trong lịch sử Việt Nam?
+ Trước khi có Đảng: Từ năm 1858, thực dân Pháp xâm lược và từng bước thiết lập chế độ thống trị
rất tàn bạo, hà khăc và phản động của chủ nghĩa thực dân lên đất nước ta. Nước ta trở thành một
nước phong kiến nữa thuộc địa. Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc xâm lược và giữa
nhân dân ta chủ yếu là nông dân với bọn địa chủ và tay sai. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổi lên đều thất
bại, nguyên nhân là do các phong trào thiếu đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu lực lượng, thiếu
phương pháp cách mạng, thiếu một Đảng chính trị làm trung tâm hạt nhân để lãnh đạo phong trào.
+ Khi có Đảng: Sự ra đời của Đảng năm 1930 là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh
dân tộc trong thời đại mới, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lenin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục
năm đã được giải quyết. Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thắng lợi cách mạng tháng Tám 1945, chiến thắng Điện Biên
Phủ 1954, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước1975, 30 năm đổi mới đất nước.
+ Từ năm 1930 lịch sử Đảng gắn liền với lịch sử dân tộc, vận mệnh của Đảng gắn liền với vận
mệnh của cả dân tộc, thuận lợi của Đảng gắn liền với thuận lợi của cả dân tộc.
+ Chăm lo xây dựng Đảng là yếu tố hàng đầu quyết định sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
2. So sánh điểm giống nhau và khác nhau giữa cương lĩnh tháng 2 và luận cương tháng 10
năm 1930 của Đảng?
 Giống nhau:
-

Phương hướng chiến lược cách mạng: tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản

-

Nhiệm vụ cách mạng: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến giành độc lập dân
tộc, lấy lại ruộng đất.

-



Lực lượng cách mạng: công nhân và nơng dân

-

Phương pháp cách mạng: cả chính trị và vũ trang

-

Vị trí quốc tế: là một bộ phận của cách mạng thế giới

-

Lãnh đạo cách mạng: giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản

-

Cả hai văn kiện điều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản chịu ảnh hưởng
của cách mạng tháng Mười Nga.

 Khác nhau:
Cương lĩnh tháng 2
Luận cương tháng 10
Xây dựng đường lối của cách mạng Việt Xây dựng đường lối của cách mạng Đông
Nam
Dương


Xác
định

kẻ
thù,
nhiệm
vụ,
mục
tiêu
cách
mạng
Lực
lượng
cách
mạng

Đánh đổ giặc Pháp trước sau đó đánh đổ Đánh đổ phong kiến, thực hành cách
phong kiến và tay sai phản cách mạng mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế
(nhiệm vụ dân tộc và dân chủ)
quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đơng
Dương hồn tồn độc lập.

Chưa xác định được kẻ thù, nhiệm
vụ hàng đầu ở một nước thuộc địa nữa
phong kiến nên không nêu cao vấn đề dân
tộc lên hàng đầu đó là nêu cao vấn đề đấu
tranh giai cấp cách mạng ruộng đất
Giai cấp công nhân và nơng dân là lực
lượng chính nhưng bên cạnh đó phải
liên minh đoàn kết với tiểu tư sản, lợi
dụng hoặc trung lập phú nông, trung
nông, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam
chưa rỏ mặt phản cách mạng


Giai cấp vô sản và nơng dân là hai động
lực chính của cách mạng tư sản dân
quyền. Giai cấp vô sản là động lực chính
và mạnh,là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp nơng dân đông đảo nhất là động
lực mạnh của cách mạng.
 Đánh giá khơng đúng vai trị tầng
lớp tiểu tư sản. Phủ nhận mặt tích cực của
tiểu tư sản dân tộc, chưa thấy khả năng
phân hóa lơi kéo một bộ phận địa chủ vừa
và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân
tộc.
Sử dụng một cách rập khn máy móc
chủ nghĩa Mác-Lenin và cách mạng Việt
Nam, còn quá nhấn mạnh đấu tranh giai
cấp.

Tuy còn sơ lược vắn tắt nhưng đã vạch
ra phương hướng cơ bản cho cách mạng
nước ta, phát triển từ cách mạng giải
phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
Vận dụng đúng đắn sáng tạo, nhạy bén
chủ nghĩa Mác-Lenin vào hoàn cảnh cụ
thể của cách mạng Việt Nam, kết hợp
nhuần nhiễn chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của
chủ nghĩa cộng sản và thực tiễn cách
mạng Việt Nam

3. Vì sao nói thành cơng cách mạng tháng Tám thể hiện tài tình sáng suốt của Đảng trong
việc lựa chọn thời cơ cách mạng?
Thành công cách mạng tháng Tám thể hiện tài tình sang suốt của Đảng trong việc lựa chọn thời cơ
cách mạng là vì: Đảng ta đã phân tích tình hình, chuẩn bị lực lượng đợi thời cơ, chủ động đợi và
chớp lấy thời cơ.
+ Năm 1940, phát-xít Ðức tiến cơng nước Pháp, Pa-ri đã thất thủ rơi vào tay quân Ðức, còn ở Việt
Nam, Nhật nổ súng đánh chiếm Lạng Sơn, hai đế quốc Nhật - Pháp tranh nhau miếng mồi Ðông
Dương. Phân tích về diễn biến cuộc chiến tranh giữa phe phát-xít và Ðồng minh, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc khẳng định, thắng lợi cuối cùng sẽ thuộc về phe dân chủ và nhận định thời cơ giải phóng dân
tộc đang đến rất gần,


+ Với quyết tâm phải giành cho được tự do, độc lập, Ðảng chỉ đạo tích cực xây dựng lực lượng
cách mạng trước hết tập trung xây dựng lực lượng chính trị rộng khắp của quần chúng, đồng thời xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng; chủ động đón thời cơ, nổi dậy giành chính quyền, khởi nghĩa
từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa.
+ Ngày 9-3-1945, phát-xít Nhật đảo chính Pháp, kéo theo đó là tình trạng khủng hoảng chính trị
ở Việt Nam. Ngay lập tức Ban Thường vụ Trung ương Ðảng đã họp và đưa ra những nhận định
khách quan về thời cơ khởi nghĩa đang đến rất gần: "Những cơ hội tốt đang giúp cho những điều
kiện khởi nghĩa mau chín muồi"; và ra Chỉ thị: "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta".
Ðảng quyết định phát động cao trào chống Nhật cứu nước.
+ Khi phát-xít Nhật đầu hàng Ðồng minh (13-8-1945), trong lúc 16 nghìn quân Anh chưa vào
miền nam và 200 nghìn quân Tưởng chưa vào miền bắc để giải giáp quân Nhật; cũng là lúc quân
Nhật bại trận mất tinh thần, ngồi chờ Ðồng minh đến tước vũ khí; ngụy quyền tay sai bỏ trốn hoặc
đầu hàng chính quyền cách mạng. Ðảng ta khẳng định, tình thế cách mạng đã xuất hiện, đây là cơ
hội giải phóng dân tộc ngàn năm có một: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn
quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". Cả dân tộc theo tiếng gọi của
Người, nhất tề đứng lên khởi nghĩa, chỉ trong chưa đầy nửa tháng, các địa phương trong cả nước đã
giành thắng lợi.
 Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 chứng tỏ, Ðảng ta có tầm nhìn vượt trước thời

gian, xác định đúng thời cơ, cho nên đã chuẩn bị tốt lực lượng, sẵn sàng chủ động, chớp thời cơ lãnh
đạo nhân dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Ðây là sự vận dụng sáng tạo quy luật vận
động phát triển của khởi nghĩa và cách mạng, khôn khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ,
giành thắng lợi.
4. Vì sao nói trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta nguồn lực con người là
quan trọng nhất?
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa nước ta lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản để phát triển nhanh chóng và bền vững. Vì:
-

Nếu là các nguồn lực khác như vốn, tài ngun thì sẽ có hạn, nếu sử dụng q mức mà khơng
có biện pháp phục hồi dễ dẫn đến suy thoái và mất đi.

-

Nếu là nguồn lực kĩ thuật cơng nghệ mà khơng có nguồn lực con người sử dụng thì cũng
khơng thể phát huy được giá trị của nguồn lực.

 Nguồn lực con người là quan trọng nhất, vì con người là vơ hạn. Là một nguồn lực càng sử
dụng thì càng có thể phát huy cao hơn khả năng hiện tại, càng phát triển hơn. Nguồn lực con
người là quan trọng nhất trong mọi nguồn lực, là nguồn tài nguyên quan trọng nhất trong mọi
nguồn tài nguyên. Các nguồn lực khác muốn phát huy tác dụng đều phải thông qua nguồn lực
con người.
 Phát triển nguồn lực con người trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường
phát triển tất yếu của Việt Nam để thực hiện mực tiêu xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, là nguồn động lực để phát triển kinh tế-xã hội.
5. Thế nào là kinh tế thị trường định hướng XHCN? Nền kinh tế nước ta không phải là nền
kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp, cũng không phải là nền kinh tế tự do theo kiểu các nước tư bản và
cũng chưa hoàn toàn là nên kinh tế thị trường XHCN. Đó là một hình thức tổ chức kinh tế vừa tuân
theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc

và bản chất của chủ nghĩa xã hội


**** Có ý kiến cho rằng làm gì có mơ hình kinh tế thị trường định hướng XHCN quan niệm
của em về vấn đề này như thế nào?
+ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta không phải là kiểu kinh tế
quản lý tập trung theo kiểu quan lieu bao cấp, kinh tế thị trường tự do tư bản chủ nghĩa, chưa hoàn
toàn là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì nước ta đang ở trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, cịn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới.
+ tính chất chung của nền kinh tế thị trường là các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự
do trong sản xuất kinh doanh. Giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển
đầy đủ và có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế.
+ Nền kinh tế vận động theo quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường như quy luật giá trị,
quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh
tế, kế hoạch hóa, các chính sách kinh tế
Nước ta xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên lấy phát triển
kinh tế thị trường là phương tiện để đạt được mực đích cơ bản xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Con người được giải phóng khỏi áp bức bốc
lột, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện. Vì vậy mỗi bước tăng
trưởng kinh tế phải gắng liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ, công bằng xã hội. Việc
phân phối các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội có ý nghĩa quan trọng để thực hiện mục tiêu đó.
6. Thế nào là nhà nước pháp quyền ?
Là tổ chức quyền lực cơng khai trong hệ thống chính trị của xã hội công dân được xây dựng trên nền
tảng các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại như công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế, nhằm
đảm bảo thực sự những giá trị xã hội được thừa nhận chung của nền văn minh thế giới – sự tôn trọng
và bảo vệ các quyền tự do của con người, sự ngự trị của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của xã
hội, tính tối cao của pháp luật trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, sự phân công quyền lực
(lập pháp, hành pháp và tư pháp) và chủ quyền nhân dân.
-


Khía cạnh hình thức, tức là sự ngự trị của pháp luật, sự gang buộc bởi pháp luật đối với Nhà
nước và tất cả các thành viên khác của xã hội

-

Khía cạnh nội dung pháp lý, tức là bản thân pháp luật phải đảm bảo yêu cầu khách quan thúc
đẩy tiến bộ xã hội.

*** Tư tưởng của Đảng về nhà nước pháp quyền qua các kì đại hội?
- Yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được Đảng ta chính thức đưa vào văn
kiện Đại hội VII của Đảng, trong đó nêu rõ: “Quốc hội cần hướng vào việc thực hiện hai yêu cầu cơ
bản: Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nhà nước có năng lực định ra một hệ thống luật pháp
đồng bộ đáp ứng được yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế - xã hội và quản lý mọi mặt xã hội văn
minh, tiến bộ; hệ thống pháp luật đó là cơ sở bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước được thực thi có hiệu quả, là một nhân tố trọng yếu làm cho các quan hệ xã hội
của chúng ta trở nên lành mạnh hơn. Hai là, bảo đảm quyền lực và hiệu lực trên thực tế của Quốc
hội, do Hiến pháp quy định”.
- Từ Đại hội VII đến Đại hội VIII, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp
quyền đã có bước phát triển. Ở Đại hội VIII, Đảng ta xác định thêm tính “xã hội chủ nghĩa” cho nhà
nước pháp quyền, tức là chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ở đây, chúng
ta thấy bước phát triển tư duy lý luận của Đảng về nhà nước pháp quyền là ở chỗ đã đề cao tính pháp


chế, coi đó là đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền, đồng thời cũng coi trọng khía cạnh đạo
đức như một thuộc tính của xã hội chủ nghĩa. “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao
đạo đức"
- Tại Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và xác định bản chất của nhà nước, đó là của dân, do dân và vì dân. Đồng thời với chủ trương tăng
cường pháp chế, các Nghị quyết của Đại hội IX cũng chủ trương mở rộng dân chủ - là cơ sở chính trị

- xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Còn về cơ sở kinh tế - chính trị của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa được Đảng ta dựa trên bản chất định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế thị trường.
- Chủ trương xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta
khẳng định lại ở Đại hội X: “Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân cơng, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Hồn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp
luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và
quyết định của các cơ quan công quyền.
- Chủ trương đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những
đặc trưng đã nêu ở trên vẫn tiếp tục được khẳng định tại Đại hội XI của Đảng, trong đó Đảng ta đặc
biệt chú ý đến việc “nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương”
- Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được bổ sung,
phát triển, hoàn thiện và được diễn đạt khá rõ ràng so với các kỳ đại hội trước. Khi tiếp cận quan
điểm về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là hướng
tới làm rõ bản chất cách mạng, khoa học và những bổ sung, phát triển mới, đồng thời phải cụ thể hóa
vào giáo dục, tuyên truyền để nó thâm nhập sâu rộng vào đời sống tinh thần, hoạt động thực tiễn của
quần chúng nhân dân.
7. Phân tích quan điểm đối ngoại Việt Nam sẳn sàng là bạn, là đối tác tinh cậy, là thành
viên có trách nhiệm?
Bước vào thời kỳ đổi mới trước những biến đổi đa dạng đa chiều của tình hình thế giới cũng như
trong khu vực.
Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991 đã đề ra đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, hóa giải thế bị bao vây cơ lập. Việc thực hiện nhất qn và khơng
ngừng mở rộng, hồn chỉnh nội hàm của đường lối sáng suốt ấy, đã góp phần quan trọng vào cơng
cuộc bảo vệ Tổ quốc và tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất có thể để đất nước đạt được kỳ
tích phát triển trong thời kỳ Đổi mới. Từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau
hàng chục năm chiến tranh, Việt Nam đã vươn lên nhóm nước có thu nhập trung bình và đang hội

nhập quốc tế sâu rộng với vị thế ngày một được nâng cao.
Bài học thành công này là cơ sở để khẳng định, trong một thế giới ngày càng gắn kết với nhiều cơ
hội rộng mở song cũng ẩn chứa những biến động khó lường, đất nước chỉ có thể tiếp tục vững vàng
đi tới nếu kiên trì đường lối độc lập, tự chủ, huy động tổng lực nội lực đi đôi với việc tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế và thực thi một chính sách đối ngoại khôn khéo, linh hoạt,
không để bị lợi dụng, bị lôi kéo đi với nước này để chống nước kia, hoặc rơi vào thế cô lập. Lịch sử
và thực tiễn luôn nhắc nhở rằng, mỗi quốc gia đều có lợi ích và tính tốn riêng, việc các nước lớn


thỏa hiệp trên lưng nước nhỏ chẳng phải là câu chuyện lạ lẫm. Để khơng rơi vào tình thế này, khó có
kế sách nào hơn việc phát huy tối đa tinh thần tự lực, tự cường, kiên định, nhất quán theo đuổi đường
lối độc lập tự chủ và chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa.
Đại hội XI đã nêu rõ định hướng nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối
quan hệ quốc tế vào chiều sâu. Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước
và có quan hệ về kinh tế, thương mại và đầu tư với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ. Trong các mối
quan hệ song phương này, Việt Nam tiếp tục ưu tiên tạo dựng khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị,
ổn định lâu dài với các nước láng giềng, các nước khu vực.
Việt Nam sẽ chủ động thúc đẩy quan hệ nhiều mặt với các nước lớn, các nước công nghiệp phát triển
trên cơ sở hữu nghị, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Trong khi triển khai chính sách đối ngoại đa
dạng hóa, đa phương hóa, Việt Nam cũng luôn coi trọng củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị và
hợp tác của Việt Nam với các nước bạn bè truyền thống, các nước khác ở châu Á, Đông Âu, Trung
Đông, châu Phi và Mỹ La-tinh.
Từ “muốn là bạn” (Đại hội VII, VIII), “sẵn sàng là bạn” (Đại hội IX), “là bạn và đối tác tin cậy” (Đại
hội X), Đại hội XI bổ sung thêm “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Nội hàm này
thể hiện bước trưởng thành của ngoại giao Việt Nam với sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động,
có trách nhiệm tại các cơ chế/tổ chức/diễn đàn khu vực, đa phương và tồn cầu (ngoại giao đa
phương), góp phần củng cố, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, bổ sung, hỗ trợ hiệu
quả cho ngoại giao song phương.
Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế nhưng chúng ta luôn nhận thức rõ rằng, các quốc gia
tuy chia sẻ một số lợi ích chung song ln có những lợi ích riêng, đơi khi trái chiều nhau, nên trong

quan hệ quốc tế luôn diễn ra quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh. Thành cơng sẽ đến khi chúng ta
chủ động, tích cực phát huy các điểm tương đồng, có giải pháp phù hợp khắc phục những bất đồng
nhằm thúc đẩy hợp tác để vừa bảo vệ được các lợi ích cơ bản của đất nước, vừa bảo đảm lợi ích
chính đáng của các đối tác và lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế. Việt Nam đã, đang và
sẽ còn xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với nhiều nước. Song, nội hàm của mỗi mối quan hệ đối
tác chiến lược này khơng hồn tồn giống nhau. Có mối quan hệ hợp tác tồn diện, có mối quan hệ
đặt trọng tâm vào hợp tác kinh tế, giáo dục…
Đường lối độc lập, tự chủ và chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế là sợi chỉ
xuyên suốt tạo nên những thành tựu đối ngoại của Việt Nam trong thời gian qua. Với sự kế thừa và
phát triển của Đại hội XI, việc thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại này là điều kiện tiên quyết để
hồn thành nhiệm vụ giữ vững mơi trường hịa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của
đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới.



×