Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tình hình bệnh Streptococcosis trên cá rô phi nuôi tại Hải Phòng và biện pháp điều trị bệnh trong điều kiện phòng thí nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.39 KB, 7 trang )

Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 4/2015

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TÌNH HÌNH BỆNH STREPTOCOCCOSIS TRÊN CÁ RƠ PHI NI
TẠI HẢI PHỊNG VÀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ BỆNH
TRONG ĐIỀU KIỆN PHỊNG THÍ NGHIỆM
STREPTOCOCCOSIS IN CULTURED TILAPIA IN HAI PHONG
AND TREAMENT EXPERIMENT
Nguyễn Thị Thúy Hằng1, Đỗ Thị Hồ2
Ngày nhận bài: 04/5/2015; Ngày phản biện thơng qua: 08/7/2015; Ngày duyệt đăng: 15/12/2015

TÓM TẮT
Streptococcosis là một bệnh thường gặp trong hệ thống nuôi cá thâm canh và gây thiệt hại lớn về kinh tế
cho người nuôi. Trong những năm gần đây, nuôi cá rô phi nuôi thâm canh ở Hải Phòng thường xuất hiện bệnh
Streptococcosis do vi khuẩn Streptococcus agalactiae gây ra. Qua nghiên cứu cho thấy, ở Hải Phịng bệnh
Streptococcosis trên cá rơ phi ni thường bùng phát vào mùa hè hoặc hè thu khi nhiệt độ nước ≥ 30oC. Bệnh
này thường xảy ra ở giai đoạn cá có kích thước từ 100 – 300g/con, với tỷ lệ cá chết từ 10 đến hơn 60%. Chủng
vi khuẩn S. agalactiae có độ mẫn cảm cao với kháng sinh Doxycyline và Erythromycin. Kết quả điều trị bệnh
Streptococcosis do vi khuẩn S. agalactiae gây ra trên cá rô phi ni với kích cỡ 100 – 150g/con bằng kháng
sinh Doxycyline với liều lượng 0,25g, 0,5g, và 1g/kg cá/ ngày liên tục trong 7 ở các nghiệm thức NT1, NT2 và
NT4 (tương ứng với mật độ cảm nhiễm vi khuẩn 102, 103 và 105 tế bào/ml) cho thấy tỷ lệ chết của cá thấp (20,
30 và 40%)) trong khi đó ở nghiệm thức đối chứng dương (NT3=104 tế bào vi khuẩn/ml) tỷ lệ này là 90%. Vậy,
kháng sinh Doxycyline có hiệu quả cao trong điều trị bệnh Streptococcosis do vi khuẩn S. agalactiae gây ra
trên cá rơ phi ni.
Từ khóa: Streptococcosis, cá rơ phi, Hải Phịng, Streptococcus agalactiae
ABSTRACT
Streptococcosis is common fish disease in intensive aquaculture systems and causing high economic
losses. Recently, Streptococcosis caused by Streptococcus agalactiae have occurred in intensive tilapia farming


in Hai Phong. The result of this research showed that Streptococcosis in tilapia farmed in Hai Phong,
usually have occured in summer or summer-autumn with water temperature around ≥ 30oC. This disease
caused mortality rates from 10 to over 60%. in cultured tilapia at size of 100 – 300g/fish . S. agalactiae strain
has highly sensitized with Doxycyline and Erythromycin. For treating Streptococcosis, the experiment of using
Doxycyline with dose of 0,25g, 0,5g and 1g/kg fish/day during 7 days for S. agalactiae infected tilapia at size
of 100 – 150g/fish was conducted in NT1, NT2, and NT4 treatment with bacterial concentration at 102, 103
and 105 cell/ml, respectively. The experimental results indicated that low mortality rate (20, 30, and 40%) in
3 treatment sections (NT1, NT2, and NT4), respectivily while the fish death rate in positive control treatment
(NT3 with bacterial concentration of 104 cell/ml) was 90%. Thus, Doxycyline could be effective on treatment
against Streptococcosis caused by by S. agalactiae in cultured tilapia.
Keywords: streptococcosis, tilapia, Hai Phong, streptococcus agalactiae

1
2

Nguyễn Thị Thúy Hằng: Cao học Nuôi trồng thủy sản năm 2012 – Trường Đại học Nha Trang
PGS.TS. Đỗ Thị Hồ: Trường Đại học Nha Trang

120 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cá rô phi là đối tượng được nuôi phổ biến
ở nhiều quốc gia với các hình thức ni khác
nhau. Trong đó hình thức ni thâm canh với
mật độ cao, sản lượng lớn là phổ biến nhất
nhưng lại có nguy cơ cao gây bùng phát
dịch bệnh do chất lượng nước suy giảm.
Shoemaker (2008) thông báo rằng, cá rô phi

nuôi thường bị nhiễm một số tác nhân gây
bệnh như vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng. Trong
số các loài vi khuẩn đã được xác nhận từng
gây bệnh trên cá rơ phi có Streptococcus
agalactiae và S. iniae (Klesius &ctv, 2000).
Theo thông báo của Perera (1994) rằng,
trong thực tế có nhiều tác nhân có thể gây
chết cá rơ phi ni, trong đó liên cầu khuẩn
Streptococcus spp là tác nhân thường gặp, đặc
biệt hay xuất hiện trong các trang trại nuôi cá
rô phi thâm canh với mật độ cao nhưng quản
lý kém. Liên cầu khuẩn gram (+) Streptococcus
spp được xác định là tác nhân gây cảm nhiễm
hệ thống và gây viêm não ở cá rô phi và cá hồi
nuôi tại Isreal vào năm 1986. Sau đó bệnh này
nhanh chóng lan rộng ra các quốc gia khác và
gây tổn thất lớn về kinh tế cho nghề nuôi cá
rô phi ở các nước này (Buller, 2004). Kết quả
từ các nghiên cứu đầu tiên về bệnh viêm não
ở các rô phi đã xác định tác nhân gây ra bệnh
này là loài cầu khuẩn Streptococcus agalactiae
và S. iniae (Evans & Shoemmaker, 2006). Hai
loài vi khuẩn này đã gây ra bệnh trên cá rô phi
nuôi tại các quốc gia khác nhau như Malaysia,
Thái Lan và Indonesia (L.G Pretto-Giordano &
ctv, 2010; Yuasa, 2005; Plumb, 1999).
Việt Nam là một quốc gia có nghề nuôi
cá rô phi khá phát triển, sản lượng nuôi trong
năm 2005 đã đạt 54.486 tấn, chiếm 0.08%
sản lượng cá nuôi và dự kiến năm 2015 sẽ

là 200.000 tấn để phục vụ cho xuất khẩu và
tiêu thụ nội địa tại Việt Nam (Phạm Anh Tuấn,
2006). Tuy nhiên, năm 2009-2010, đã xảy ra
dịch bệnh gây chết hàng loạt cá rô phi nuôi
thương phẩm (tới 90-100% cá trong ao), tại
một số tỉnh phía Bắc Việt Nam như Hà Nội, Hải
Phịng, Hải Dương, Bắc Ninh, Quảng Ninh và

Số 4/2015
Hà Giang. Đây được coi là đợt dịch lớn nhất
từ trước đến nay đối với nghề nuôi cá rô phi
ở nước ta và nghiên cứu bước đầu đã xác
định được đây là bệnh Streptococcosis do liên
cầu khuẩn Gram (+) Streptococcus spp gây ra
(Nguyễn Viết Khuê & ctv, 2009). Ngoài ra, tác
giả Đồng Thanh Hà và ctv (2010) đã nghiên
cứu sâu hơn về bệnh này và đã xác định được
liên cầu khuẩn Streptococcus agalactiae là
tác nhân gây ra bệnh Streptococcosis trên cá
rô phi nuôi. Tác giả Đặng Hoàng Oanh và ctv
(2012) cũng đã phân lập được Streptococcus
agalactiae từ những mẫu cá điêu hồng
(Oreochromis sp) bị bệnh đục, lồi mắt, xuất
huyết thu từ những bè nuôi cá thâm canh ở Tiền
Giang. Năm 2013, Phạm Hồng Quân và ctv đã
công bố về bệnh xuất huyết của cá rô phi tại
4 tỉnh: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Quảng
Ninh với kết quả đã phân lập được 5 loài vi
khuẩn trong đó lồi Streptococcus agalactiae
có tần xuất bắt gặp cao nhất 86% (52/60) mẫu

cá nghiên cứu. Qua các nghiên cứu trên đã cho
thấy được bệnh Streptococosis trên cá rô phi
nuôi là một bệnh nguy hiểm, gây ảnh hưởng
lớn đến kinh tế của nhiều hộ ni, vì vậy việc
nghiên cứu sâu về bệnh này và đề ra giải pháp
điều trị bệnh hiệu quả là một vấn đề cấp thiết
để làm giảm thiểu tác hại của bệnh trên cá rô
phi nuôi.
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp điều tra tình hình bệnh Sreptococcosis
trên cá rơ phi ni tại Hải Phịng
Thu thập các thơng tin về vùng ni, diện
tích và sản lượng nuôi cá rô phi tại địa phương,
mùa vụ và tình hình bệnh ở cá rơ phi ni tại
Hải Phịng thơng qua các báo cáo tổng kết của
các cơ quan quản lý địa phương như trung tâm
khuyến ngư, chi cục thú y, phịng Nơng nghiệp
các huyện. Căn cứ vào các thông tin trên, chọn
ngẫu nhiên 50 hộ nuôi tại 3 huyện thuộc thành
phố Hải Phòng để phỏng vấn điều tra, bao
gồm: Kiến Thụy (20 phiếu điều tra/48 hộ nuôi
cá), Thủy Nguyên (15/29), Vĩnh Bảo (15/29).
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 121


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
2. Phân lập vi khuẩn S. agalactiae từ cá rô phi
Cá rô phi bị bệnh có các dấu hiệu đặc trưng
như bơi lội lờ đờ, mất phương hướng, trướng

bụng, mắt lồi, xuất huyết được thu thập từ các
ao nuôi tại 3 huyện Kiến Thụy, Thủy Nguyên,
Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Các cơ quan
như mắt, não, gan, thận, lách giải phẫu từ cá bị
bệnh được dùng để phân lập vi khuẩn trên môi
trường BHIA (Brain Heart Infusion Agar,Merck,
Đức) và định danh bằng kit API 20Strep tại
phịng thí nghiệm của trung tâm thú y vùng II, Hải
Phịng. Sau đó, chủng vi khuẩn S. agalactiae
được lưu giữ trong môi trường TSB
(Tryptic Soy Broth) bổ sung 20% Glycerol ở nhiệt
độ -80oC.
3. Chuẩn bị chủng vi khuẩn cho các thí nghiệm
Sau khi lấy ra khỏi tủ đơng sâu, chủng vi
khuẩn được để ở nhiệt độ phịng trong thời
gian 1h, sau đó cấy lên mơi trường BHIA (Brain
Heart Infusion Agar), (Merck, Đức), ủ ở nhiệt
độ 30oC, 24 – 48h. Sau đó các khuẩn lạc được
thu và khuấy đều trong tube chứa nước muối
sinh lý tiệt trùng (0,85%) tạo nên dịch huyền
phù được đo bằng máy McFland, điều chỉnh
đạt mức OD là 0,56 tương ứng với mật độ vi
khuẩn là 108 tế bào/ml.
- Thí nghiệm 1: kiểm tra khả năng gây bệnh
của chủng vi khuẩn S. agalactiae trên cá rơ phi:
Những cá thể cá khỏe mạnh, có khối lượng từ
100 – 150g/con được vận chuyển về phịng
thí nghiệm bằng phương pháp vận chuyển
kín, thuần dưỡng trong 5 – 7 ngày trước khi
phân chia ngẫu nhiên vào 5 bể có thể tích 200

lít, chứa 150 lít nước sạch, thả 10 con cá/bể,
thí nghiệm được lặp lại 2 lần. Các nghiệm
thức NT1, NT2, NT3, NT4 cá được tiêm vào
gốc vây bụng với thể tích 0,1ml dịch vi khuẩn
S. agalactiae với mật độ 102, 103, 104 và 105
tế bào/ml. Nghiệm thức 5 (NT5) được coi là
nghiệm thức đối chứng, cá được tiêm 0,1 ml
nước muối sinh lý. Các dấu hiệu bất thường và
số lượng cá chết được quan sát và ghi nhận.

122 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

Số 4/2015
Thí nghiệm được tiến hành từ ngày 29/7/2014 –
08/8/2014.
- Thí nghiệm 2: kiểm tra độ mẫn cảm với
kháng sinh của chủng vi khuẩn S. agalactiae:
kiểm tra bằng phương pháp khuếch tán trên
đĩa thạch (Kirby Bauer) và độ nhạy của kháng
sinh được đánh giá dựa vào độ lớn của đường
kính vịng vơ khuẩn so với bảng quy định về
độ nhạy chuẩn của Hội đồng quốc gia Hoa
Kỳ (National committee of clinical laboratory
standards – NCCLS, 1999). Dịch huyền phù
vi khuẩn S. agalactiae với mật độ 108 tế bào/
ml được cấy trang trên môi trường thạch
BHIA dùng để thử độ nhạy của vi khuẩn với
8 loại kháng sinh (Trimethoprim, Gentamicin,
Neomicin,
Erythromycin,

Clindamycin,
Nofloxacin, Ciprofloxacine, Doxycyline) trong
vòng 24h và 48h.
- Thí nghiệm 3: điều trị bệnh cho cá rơ phi
trong điều kiện thí nghiệm: Bố trí thí nghiệm
giống thí nghiệm 2 nhưng khi cá trong các
nghiệm thức bắt đầu xuất hiện các dấu hiệu
bệnh là tiến hành dùng thuốc để trị bệnh cho
cá. Loại kháng sinh dùng trong thí nghiệm trị
bệnh là kháng sinh có độ nhạy cao trong thí
nghiệm kiểm tra độ nhạy kháng sinh, đó là
Doxycyline (Cơng ty Hanvet), với liều lượng
0,25g, 0,5g và 1,0 g/kg cá/ ngày bằng phương
pháp trộn vào thức ăn. Cho cá ở các nghiệm
thức NT1, NT2, NT4 ăn thức ăn có trộn kháng
sinh 2 lần/ ngày vào lúc 8:00-9:0 giờ và 15:0016:00 giờ. Riêng cá ở nghiệm thức NT3 (được
xem là nghiệm thức đối chứng dương) và
nghiệm thức NT5 (Tiêm nước muối sinh lý
được xem là nghiệm thức đối chứng âm) cho
ăn thức ăn bình thường khơng trộn kháng sinh.
Ghi nhân các dấu hiệu bệnh và số lượng cá
chết hàng ngày để xác định tỷ lệ sống ở các
nghiệm thức và qua đó đánh giá hiệu quả điều
trị bệnh của kháng sinh ở các liều lượng khác
nhau. Thí nghiệm bắt đầu từ ngày 13/8/2014
và kéo dài 10 ngày sau đó.


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

1. Tình hình bệnh S. agalactia trên cá rơ
phi ni tại Hải Phịng trong giai đoạn
2011 - 2013
Từ các số liệu đã được theo dõi, ghi chép
và tổng hợp của phịng khuyến nơng các huyện
Kiến Thụy, Thủy Nguyên và Vĩnh Bảo, các thiệt
hại do bệnh streptococcosis ở cá rô phi nuôi
tại 3 huyện nuôi cá nước ngọt chủ yếu của Hải
Phòng được thể hiện tại bảng 1. Kết quả thể
hiện rằng, bệnh Streptococosis vẫn thường
xuyên xảy ra trong các ao nuôi cá rô phi tại
Hải Phòng trong vài năm gần đây, với tần suất

Số 4/2015
từ 10,0 đến 33,3% , đã gây thất thu hàng chục
tấn cá mỗi năm cho các huyện ở địa phương.
Đặc biệt, số liệu ở bảng 1 cũng chỉ ra rằng, tần
suất xuất hiện của bệnh streptococcosis năm
sau có xu hướng tăng cao hơn so với năm
trước, nếu năm 2011 có 10,0% hộ nuôi ở Vĩnh
Bảo, 18,3% ở Thủy Nguyên và 20,5% ở Kiến
Thụy gặp bệnh này thì đến năm 2013, tần suất
xuất hiện bệnh ở các huyện này lần lượt là:
24,1%, 25% và 33%. Số liệu mà các cơ quan
quản lý ghi nhận được đều thể hiện bệnh này
thường xuất hiện vào mùa hè hoặc hè thu khi
nhiệt độ nước cao.

Bảng 1. Thông tin về bệnh Streptococcosis ở cá rô phi ni tại Hải Phịng
Huyện


Mùa bệnh

Số hộ ni cá rơ phi

% hộ ni cá gặp bệnh

Thiệt hại ước tính (tấn)

Huyện Kiến Thụy
Năm 2011



39

20,5

6,9

Năm 2012

Hè Thu

42

16,6

4,5


Năm 2013



48

33,3

13

Huyện Thủy Nguyên
Năm 2011



27

18,5

4

Năm 2012



35

20,0

7


Năm 2013



32

25,0

10

Năm 2011

Hè thu

20

10,0

2,5

Năm 2012



27

18,3

6


Năm 2013



32

24,1

8

Huyện Vĩnh Bảo

Nguồn: Phịng Nơng nghiệp các huyện Kiến Thụy, Thủy Nguyên, Vĩnh Bảo.

Kết quả điều tra bệnh Streptococcosis xảy
ra trong 5 năm gần đây (2009-2013) tại 50
hộ nuôi đơn canh cá rô phi ở 3 huyện Kiến
Thụy, Thủy Nguyên và Vĩnh Bảo thuộc tỉnh
Hải Phòng cho thấy bệnh Streptococcosis khá
phổ biến tại vùng nuôi cá rô phi ở địa phương.
Khoảng 82% số hộ được phỏng vấn trả lời
rằng đã có ít nhất 1 lần bệnh này xảy ra trong
ao cá rô phi nuôi của họ trong 5 năm gần đây.
Kết quả điều tra về mùa vụ xuất hiện bệnh, cỡ
cá thường bị bệnh và tác hại lên cá nuôi được
thể hiện trong bảng 2. Kết quả trong bảng
2 thể hiện bệnh streptococcosis bùng phát
chủ yếu vào mùa hè, khi nhiệt độ nước cao


(chiếm 92,68%), bệnh cũng xảy ra ở một số
hộ nuôi vào mùa thu (24,39%) nhưng hồn
tồn khơng xuất hiện vào mùa có nhiệt độ thấp
trong năm (mùa xuân và đông). Kết quả này
cũng phù hợp với số liệu tổng hợp của các cán
bộ quản lý địa phương (bảng 1) và công bố của
Đồng Thanh Hà và ctv (2010), rằng vi khuẩn S.
agalactiae gây bệnh ở cá rơ phi có thể phát
triển tốt ở cả nhiệt độ 37oC. Thông tin điều tra,
cũng thể hiện bệnh streptococcosis thường
xảy ra ở cỡ cá từ 100 - 300g, cá nhỏ < 100g
và > 300g ít chịu tác hại của bệnh. Kết quả này
mâu thuẫn với của kết quả của Intervet (2006),
theo Intervet bệnh streptococcosis thường
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 123


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 4/2015

gây bệnh trên cá rơ phi có khối lượng từ 100g –
Một số chủ hộ nuôi khác (7,63%) lại cho biết
1kg. Bệnh streptococcosis gây chết rải rác
bệnh này có thể gây chết cao ở cá rô phi, tỷ lệ
tới hàng loạt cá rơ phi ni tại Hải Phịng, kết
chết có thể > 60%. Tuy nhiên, đa số hộ nuôi
quả trong bảng 2 cho thấy có 9,75% hộ ni
(68,27%) đều cho rằng khi bệnh này xảy ra có
cho biết bệnh này chỉ gây chết rải rác và tỷ lệ

thể gây chết từ 10 – 40% cá trong ao. Tóm lại,
chết tích lũy chỉ <10%, trong khi đó có 14,63%
streptococcosis là một bệnh khá phổ biến trên
hộ ni cho biết bệnh streptococcosis có thể
cá rơ phi ni, có tác lại lớn và ảnh hưởng đến
gây chết cá rô phi nuôi khá cao >40 – 60%.
hiệu quả kinh tế của các hộ nuôi.
Bảng 2. Mùa vụ, kích cỡ cá thường bị bệnh và tác hại
của bệnh Streptococcosis ở cá rô phi (n=41)
Yếu tố điều tra

Mùa vụ

Kích cỡ

Tỷ lệ
chết (%)

Tần xuất gặp ở các vùng điều tra

Tổng số (n=41)

Kiến Thụy (18)

Thủy Nguyên (12)

Vĩnh Bảo (11)

Tần số


%

Xn

0

0

0

0

0,00



17

10

11

38

92,68

Thu

3


4

3

10

24,39

Đơng

0

0

0

0

0,00

< 100g

0

0

0

0


0,00

100-200g

5

6

6

17

41,46

>200-300g

15

8

5

28

68,29

>300g

0


0

0

0

0,00

<10

1

0

3

4

9,76

10-40

11

11

6

28


68,29

>40-60

4

1

1

6

53,66

>60

2

0

1

3

46,34

2. Điều trị bệnh streptococcosis trong điều
kiện phịng thí nghiệm
Trong thí nghiệm 1, các dấu hiệu bệnh
lý đầu tiên xuất hiện ở cá sau 24h tiêm cảm

nhiễm vi khuẩn S. agalactiae, cá bắt đầu chết
từ ngày thứ 2 ở các nghiệm thức tiêm với mật
độ cao 103, 104 và 105 tế bào/ml (NT2, NT3,
NT4) và chết từ ngày thứ 3 ở nghiệm thức
1 (102 tế bào/ml). Tỷ lệ chết của cá ở các
nghiệm thức lần lượt là: 40, 60, 90 và 100%
sau 8 ngày với các dấu hiệu bệnh bệnh như
bơi lội lờ đờ trên mặt nước, phản ứng chậm
với tiếng động, bắt mồi kém, mắt đục và lồi, có
hiện tượng xuất huyết ở các gốc vây hay trên
tồn bộ bề mặt cơ thể, giải phẫu xoang bụng
thấy có chứa nhiều dịch, gan, thận nhợt nhạt,
nhũn. Các dấu hiệu này tương tự như bệnh
Streptococcosis ở các rô phi bị bệnh trong ao
ni tại Hải Phịng cũng như mơ tả của Đặng

124 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

Thụy Mai Thy và Đặng Hoàng Oanh (2011)
khi cảm nhiễm vi khuẩn S. agalactiae ở cá
điêu hồng (Oreochromis sp), Suanyuk & ctv
(2005) cũng cảm nhiễm bằng phương pháp
tiêm vi khuẩn S. agalactiae với các mật độ
vi khuẩn 101 – 108 CFU/ml trên cá rô phi vằn
(Oreochromis niloticus) đã gây chết từ 20
– 90% cá trong vòng 10 ngày sau khi cảm
nhiễm. Kết quả này chứng tỏ rằng vi khuẩn
S. agalactiae là tác nhân gây bệnh
streptococcosis ở cá rô phi nuôi tại địa phương.
Kết quả thí nghiệm 2 cho thấy Doxycyline

và Erythromycin là 2 kháng sinh có độ nhạy cao
với đường kính vịng kháng khuẩn trung bình
sau 24h, 48h là (23, 24mm) và (21, 22mm).
Tuy nhiên, Erythromycin là kháng sinh nằm
trong danh mục hạn chế sử dụng (Thơng tư số
15/2009/TT-BNN), vì vậy Doxycyline là kháng
sinh có độ nhạy cao nhất và có thể sử dụng


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
trong điều trị bệnh Streptococcosis do vi khuẩn
S. agalactiae gây ra ở cá rô phi nuôi. Kết quả
này cũng trùng hợp với kết quả nghiên cứu của
Phạm Hồng Quân & ctv (2013) và Nguyễn Viết
Khuê & ctv (2009) khi kiểm tra độ nhạy kháng
sinh của vi khuẩn S. agalactiae gây bệnh ở cá
rô phi nuôi thương phẩm tại một số tỉnh miền
Bắc Việt Nam.
Kết quả của thí nghiệm 3 về trị bệnh
Streptococcosis cho cá rơ phi trong điều kiện
thí nghiệm được trình bày ở hình 1, sau khi
cho cá ăn thức ăn trộn kháng sinh Doxycyline
với liều lượng 0,25, 0,5 và 1,0g/kg cá/ngày
tương ứng với NT1, NT2 và NT4 liên tục trong
7 ngày, tỷ lệ chết tích lũy của cá ở các nghiệm
thức này là 20, 30 và 40%, trong khi đó cá
ở NT3 (NT đối chứng dương) chết tới 90%

Số 4/2015
sau 10 ngày cảm nhiễm. Trong khi đó, cá ở

nghiệm thức đối chứng âm hồn tồn khơng
bị chết trong suốt thời gian thí nghiệm, khi
kết thúc thí nghiệm, tỷ lệ sống ở nghiệm thức
này đạt 100%. So với kết quả từ thí nghiệm 1
(chỉ cảm nhiễm vi khuẩn S. agalactiae, khơng
điều trị bằng kháng sinh) cho thấy tỷ lệ chết
tích lũy của cá trong thí nghiệm điều trị bệnh
giảm từ 50% trở lên ở các nghiệm thức có
sử dụng kháng sinh. Qua kết quả điều trị đã
chứng minh rằng, khi cá rơ phi vằn bị nhiễm
liên cầu khuẩn S. agalactiae có thể trị bằng
kháng sinh ở giai đoạn sớm của bệnh, khi
cá bắt đầu xuất hiện các dấu hiệu bệnh đầu
tiên. Loại kháng sinh nên dùng là Doxycyline
với liều dùng thích hợp nằm trong khoảng
0,25 – 0,5g/kg cá/ ngày .

Hình 1. Tỷ lệ chết tích lũy của cá rơ phi vằn sau khi cảm nhiễm và trị bệnh
-Dùng Doxycyline ở NT1, NT2 và NT4 với liều tương tương ứng: 0,25, 0,5 và 1,0g/kg cá/ngày
- Cảm nhiễm vi khuẩn vào cá ở ngày đầu tiên (1); Bệnh lý xuất hiện sớm nhất vào 24h sau cảm nhiễm (2); Dùng thức ăn có
trộn kháng sinh từ đầu ngày thứ 3 sau cảm nhiễm ở các nghiệm thức NT1, NT2 và NT4, Nghiệm thức NT3 không trị bệnh.

IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Ở Hải Phịng, bệnh Streptococcosis ở cá
rơ phi thường bùng phát vào mùa hè hoặc
hè thu, khi nhiệt độ nước ≥ 30oC. Bệnh này
thường gây tác hại ở cá có kích cỡ từ 100 300g/con, có thể gây chết cá từ rải rác tới hàng
loạt, ở những ao cá bị bệnh nặng tỷ lệ chết có
thể lê tới > 60% nếu khơng áp dụng các biện
pháp chữa trị kịp thời. Kết quả từ thí nghiệm


kiểm tra độ mẫn cảm với kháng sinh của
chủng vi khuẩn S. agalactiae cho thấy vi
khuẩn này có độ nhạy cao với 2 loại kháng
sinh là Doxycyline và Erythromycin. Qua kết
quả điều trị bệnh streptococcosis trong điều
kiện phòng thí nghiệm đã chứng minh được
bệnh này có thể điều trị được bằng kháng
sinh Doxycyline với liều lượng thích hợp là
0,25 – 0,5g/kg cá/ ngày bằng phương pháp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 125


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
trộn vào thức ăn và cho ăn liên tục trong 7
ngày vào giai đoạn sớm của bệnh (cá còn
khả năng bắt mồi). Ngồi ra, kết quả này có
thể được dùng làm cơ sở để áp dụng cho
việc điều trị ngồi ao ni thực tế kết hợp với
việc dùng hóa chất/ thuốc sát trùng để diệt vi

Số 4/2015
khuẩn ngồi mơi trường để việc điều trị bệnh
đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, sau khi cá đã
khỏi bệnh, người ni có thể dử dụng thêm
chế phẩm vi sinh để khôi phục lại hệ vi sinh
vật có lợi trong đường ruột của cá cũng như
ngồi mơi trường.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

2.

3.

4.
5.

6.

7.
8.
9.
10.

11.
12.
13.
14.
15.
16.

Tiếng Việt
Đồng Thanh Hà, Nguyễn Viết Khuê và Nguyễn Thị Hạnh (2010). Một số đặc điểm của Streptococcus agalactiae
tác nhân gây bệnh streptococcosis trên cá rô phi ở miền Bắc Việt Nam. Trung tâm nghiên cứu quan trắc cảnh báo
mơi trường và phịng ngừa dịch bệnh thủy sản miền Bắc – Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I.
Nguyễn Viết Khuê, Trương Thị Mỹ Hạnh, Đồng Thanh Hà, Nguyễn Thị Hà, Phạm Thành Đô, Bùi Ngọc Thanh,
Nguyễn Thị Nguyện, Nguyễn Hải Xuân, Phạm Thái Giang và Nguyễn Thị Thu Hà, (2009). Xác định nguyên
nhân gây chết hàng loạt cá rô phi nuôi thương phẩm tại một số tỉnh miền Bắc. Báo cáo khoa học Viện Nghiên

cứu Nuôi trồng thủy sản I.
Đặng Hoàng Oanh và Nguyễn Thanh Phương (2012). Phân lập và xác định đặc điểm của vi khuẩn Streptococcus
agalactiae từ cá diêu hồng (Oreochromis sp) bệnh mù mắt và xuất huyết. Tạp chí Khoa học 2012, Trường Đại
học Cần Thơ, 22, tr. 203-212.
Phạm Anh Tuấn (2006). Báo cáo qui hoạch phát triển cá rô phi giai đoạn 2006 – 2015.
Phạm Hồng Quân, Hồ Thu Thủy, Nguyễn Hữu Vũ, Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Lê Văn Khoa (2013). Một số đặc tính sinh
học của vi khuẩn Streptococcus spp. Gây bệnh xuất huyết ở cá rô phi nuôi tại một số tỉnh miền bắc Việt Nam.
Tạp chí Khoa học và Phát triển 2013, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, tập 11, số 4, tr. 506 – 513.
Thông tư số 15/2009/TT-BNN (2009). Danh mục hóa chất, kháng sinh hạn chế sử dụng trong sản xuất, kinh
doanh thủy sản. />Tiếng Anh
Buller, N.B. (2004). Bacteria from fish and other aquatic animals: a practice identification manual, 361pp.
Evans, J., Klesius, P.H. and Shoemmaker, C.A. (2006). Streptococcus in warm- water fish. Aquaculture Health
Internationl, p. 10 – 14.
Intervet, R. (2006). Diseases of Tilapia – An Introduction.
Klesius, P.H., Shoemaker, C.A., Evans, J.J. (2000). Efficacy of single and combined Streptococcus inniae
isolates vaccine administered by intraperitoneal and intramuscular routes in tilapia (Oreochromis niloticus).
Aquaculte, 188 (3-4), p. 246- 327.
L.G Pretto-Giordano, E.E Müller, J.C Freitas, and V.G Silva. (2010). Evaluation on the Pathogenesis of
Streptococcus agalactiae in Nile Tilapia (Oreochromis niloticus). Brazilian Arch. Biol. Technol., 53, p. 87- 92.
Perera, R.P., Collins, M.D. and Lewis, D.H, (1994). Streptococcus iniae Associated with Mortality of Tilapia
niloticus & T.aurea Hybrids. Journal of Aquatic Animal Health, 10, p. 294- 299.
Plumb, J.A. (1999). Health Maintenance and Principal Microbial Diseases of Cultured Fishes. Iowa State
University Press, Ames.
Pretto – Giordano, LG., Muller, E.E., de Frritas, J.C. and da Silva, V.G. (2010). Evaluation on the Pathogenesis
of Streptococcus agalactiae in Nile Tilapia (Oreochromis niloticus). Brazilian Arch. Biol. Technol., 53, p. 87- 92.
Shoemaker, C.A., Xu, D., Klesius, P.H. and Evans, J.J, (2008). Concurrent infections (Parasitism and bacterial
diesease) in Tilapia, The 8th Internationl Symposium on Tilapia in Aquaculture, Cairo, Egypt, p. 1365 – 1375.
Yuasa, Kamaishi, Hatai, Bahnnan and Borisuthpeth (2005). Two case of Streptococal infections of cultured tilapia
in Asia. In. Sixth Symposium on Disease in Asian Aquaculture (ed Bondad-Reantaso MG, Mohan, C.V., Crumlish,
M. and Subasinghe, R.P.). Fish Health Section, Asian Fisheries Society, Colombo-Srilanka, pp. 259-268.


126 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG



×