Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Rèn luyện kĩ năng tư duy phản biện trong dạy học làm văn viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh THPT ở trường THCSTHPT như thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.79 KB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển không ngừng của các ngành khoa học, nhiệm vụ
của ngành giáo dục trở nên nặng nề và cần có sự đổi mới. Yêu cầu đổi mới
PPDH Ngữ văn ngay từ lí luận đến thực tiễn đang đặt ra nhiều thách thức và
ngày càng đòi hỏi những thành tựu mới nhằm từng bước khắc phục tình trạng
thụ động trong lĩnh hội kiến thức, khẳng định vai trò chủ động, sáng tạo của
người học.
Văn nghị luận là một loại văn phổ biến sử dụng trong nhà trường hiện
nay. Trong đó, nghị luận xã hội là một đơn vị kiến thức khơng thể thiếu trong
phần Làm văn của chương trình Ngữ văn THPT, có mặt trong tất cả các đề thi học
kì, đề thi THPT quốc gia và đề thi học sinh giỏi.
Bắt đầu từ chương trình Ngữ văn THCS, HS đã có cơ hội tiếp xúc với văn
nghị luận xã hội. Tuy nhiên, sự tiếp xúc ấy mới chỉ là bước đầu và cịn mang
tính khái qt, chưa có cơ hội đi sâu tìm hiểu những tình huống chứa đựng nhiều
vấn đề. Vì vậy, HS chưa phát huy được khả năng sáng tạo và TDPB với những
yêu cầu được đưa ra. Bước vào chương trình Ngữ văn bậc THPT, các em tiếp
tục được đến với các kiểu bài nghị luận xã hội mới mẻ và phức tạp, đòi hỏi tư
duy cao và sâu hơn.Trong đó tư duy phản biện là tiêu chí hữu hiệu để đánh giá
năng lực nhìn nhận, sáng tạo và giải quyết vấn đề của HS trong công cuộc đổi
mới phương pháp dạy học. Tuy nhiên trong các giờ học Làm văn nghị luận xã
hội HS ngày càng nhàm chán, đa số HS rất thụ động, chỉ ghi chép dập khn,
máy móc theo sự hướng dẫn của GV, làm bài theo kiểu học thuộc lịng mà chưa
có sự suy nghĩ, ý kiến riêng của cá nhân .
Chính vì những lí do trên u cầu đổi mới phương pháp dạy học Làm văn
nghị luận xã hội cho HS THPT ngày càng trở nên cần thiết và là vấn đề cấp bách
đang được các nhà giáo dục tìm cách khắc phục. Đó là cơ sở để tơi mạnh dạn
ứng dụng đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Rèn luyện kĩ năng tư duy phản biện
trong dạy học Làm văn viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh THPT ở
trường THCS&THPT Như Thanh”.
1.2 Mục đích nghiên cứu


Từ những lí do đã nêu ở trên, nhất là những hạn chế khi dạy học văn nghị
luận nói chung và nghị luận xã hội nói riêng, tơi muốn đề xuất đưa ra một số
phương pháp rèn luyện kĩ năng tư duy phản biện trong dạy học Làm văn nghị luận
xã hội cho học sinh THPT giúp các em nhìn nhận vấn đề nghị luận một cách sâu
sắc, đa diện nhiều chiều khi bình luận, đánh giá. Khơng chỉ vậy cịn giúp HS có
khả năng bảo vệ ý kiến, quan điểm của mình dựa trên các luận điểm, luận cứ,
luận chứng để thuyết phục người đọc, người nghe. Điều này là yếu tố quan trọng
giúp cho bài văn nghị luận xã hội của các em thêm sinh động, độc đáo và sáng
tạo mang văn phong riêng của cá nhân.
Đề tài nhằm góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy, giúp học sinh tiếp
cận bài học một cách chủ động và hiệu quả. Từ đó, rút ra được những kĩ năng bổ
ích cho bản thân, trở thành con người năng động, nhạy bén và sáng tạo trong nhà
trường cũng như trong cuộc sống.

1


Đề tài của tơi cũng góp phần giúp giáo viên thiết kế bài học khoa học,
hiệu quả và hợp lí, phát huy được tính chủ động sáng tạo, khơi nguồn cảm hứng
cho HS trong quá trình lĩnh hội tri thức.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
- Thực trạng dạy và học phần Làm văn viết đoạn văn nghị luận xã hội .
- Các giải pháp Rèn luyện kĩ năng tư duy phản biện trong dạy học Làm
văn viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
- Phương pháp tích hợp:
- Ngồi ra tơi cịn sử dụng những phương pháp hỗ trợ khác như: đọc tài
liệu, thống kê, thăm dò ý kiến của học sinh, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng

nghiệp.
2. NỢI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận
2.1.1. Văn nghị luận xã hội
Văn nghị luận nói chung và NLXH nói riêng đã và đang khẳng định tầm
quan trọng khơng thể thiếu của mình trong q trình đổi mới phương pháp và tư
duy người học. Đến nay khái niệm văn NLXH đã trở nên rất quen thuộc với
chúng ta. NLXH là loại văn bản trong đó người viết, người nói sử dụng lí luận
với các luận điểm, luận chứng…để trình bày những quan điểm, nhận xét đánh
giá của mình về vấn đề xã hội nhằm thuyết phục người đọc, người nghe hiểu và
tin vào những ý kiến đó.
Hiện nay tiêu chí phân loại dạng bài NLXH dựa vào nội dung đang được
sử dụng nhiều nhất. Theo tiêu chí này, có thể chia NLXH thành 3 dạng chính:
Nghị luận về một tư tưởng đạo lí; Nghị luận về một hiện tượng đời sống; Nghị
luận về một vấn đề xã hội rút ra từ một tác phẩm văn học.
Ngồi ra cịn có nghị luận về hai mặt đối lập, dạng đề mở…Dù thuộc
dạng nào, bài văn NLXH cũng cần người viết có tư duy phản biện để tăng chất
văn và chiều sâu cho bài viết.
2.1.2. Đoạn văn
Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi
đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dịng và thường biểu đạt một ý tương
đối hồn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành.
Đoạn văn có thể khơng hoặc có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ
đề là các từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc được lặp lại nhiều lần ( thường là
chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng biểu đạt. Câu chủ đề
mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và
đúng ở đầu hoặc cuối đoạn văn. Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai
và làm sáng tỏ chủ đề của đoạn.
2.1.3. Tư duy phản biện
Trong bài báo của Th.S Lê Tấn Huỳnh Cẩm Giang (Trung tâm nghiên

cứu Giáo dục Đại học- Viện Nghiên cứu Giáo dục) tác giả đưa ra kết luận

2


thuật ngữ “critical thinking” không được dùng với ý nghĩa phê phán mà mang ý
nghĩa đưa ra một phán đoán dựa trên cái nhìn đa chiều với sự vật, hiện tượng
được đưa ra xem xét.
Như vậy, cách dịch như trước đây đã khiến người tiếp nhận hiểu và có cái
nhìn khơng đúng với nghĩa thực sự của nó. Từ đó sẽ dẫn đến việc vận dụng vào
thực tế không đạt hiệu quả như mong muốn. Xuất phát từ thực tiễn đó, hiện nay,
với sự ra đời của nhiều tài liệu khác nhau, các dịch giả đã thống nhất dịch thuật
ngữ “Critical thinking” là “Tư duy phản biện”. Trên thế giới, có rất nhiều quan
điểm và cách định nghĩa khác nhau về “Tư duy phản biện”.
Theo tác giả Angela Jones, trong cuốn Critical Thinking in Sociology: An
Introductory Reader, định nghĩa như sau: “Tư duy phản biện là một phạm trù chỉ
sự suy luận theo lối mở, không bị hạn chế, số lượng các giải pháp là không giới
hạn, bao hàm cả việc xây dựng các điều kiện, các quan điểm và ý tưởng đúng
đắn để đi đến kết luận vấn đề”. Cách định nghĩa này được nhiều nhà giáo dục và
nhà hoạch định chính sách tán đồng hơn cả.
TS. Nguyễn Trọng Hoàn (Bộ Giáo dục và Đào tạo) chỉ ra rằng: “Tư duy
phản biện được hiểu đơn giản nhằm giúp bạn thay đổi cách bạn tư duy về cái
đang tư duy. Một người có lối tư duy phản biện tiếp cận vấn đề và các tình
huống phức tạp dựa trên nhận thức và suy nghĩ thấu đáo. Nếu nhận thức và suy
nghĩ của họ chưa chuẩn, họ có thể nắm những suy nghĩ, niềm tin và quan điểm
đó theo cách hợp lí hơn và chính xác hơn”
Thơng qua một số khái niệm mà chúng tơi đã tìm hiểu có thể khái quát lại
một vài ý khi nói đến TDPB như sau: Tư duy phản biện là một quá trình tư
duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá một thơng tin đã có theo các cách
nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính

chính xác của vấn đề. Lập luận phản biện phải rõ ràng, lơgíc, đầy đủ bằng
chứng, tỉ mỉ và cơng tâm.
2.2 Thực trạng vấn đề
2.2.1. Thực trạng về chương trình
Trong đề thi mơn văn kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia và xét
tuyển vào các trường Cao đẳng, Đại học câu NLXH chiếm 20% tổng số đề ra.
Những vấn đề nghị luận xã hội được đưa ra cho học sinh bàn bạc từ đó đến nay
đều rất phong phú, đa dạng; đề cập đến tất cả các phương diện của đời sống vừa
có dạng đề về tư tưởng đạo lí lại vừa có dạng đề về các hiện tượng đời sống. Thế
nhưng thời lượng chương trình dành cho việc giảng dạy và rèn luyện kĩ năng
làm bài nghị luận xã hội trong phân phối chương trình THPT theo qui định của
Bộ Giáo Dục là quá ít ỏi. Ở lớp 12 chỉ có 2 tiết lí thuyết về cách làm bài NLXH:
một cho dạng bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí và một cho dạng bài nghị
luận về một hiện tượng đời sống. Thực tế đó khiến HS khơng có điều kiện để rèn
luyện NLXH thường xuyên dẫn đến kết quả không cao.
2.2.2. Thực trạng dạy của giáo viên
Bên cạnh những thuận lợi, GV cũng gặp khơng ít những khó khăn trong
q trình rèn luyện TDPB cho học sinh vì những vấn đề sau:
Lối học thụ động truyền thống đã ăn sâu vào cách dạy học ở các trường
THPT vì mơi trường ở Việt Nam cịn nặng về áp đặt kiến thức. Biểu hiện là GV

3


truyền thụ kiến thức một chiều, phương pháp dạy học chủ yếu vẫn là thuyết
giảng, các phương pháp kĩ thuật dạy học khác như: nêu vấn đề, khăn trải bàn,
thảo luận nhóm mới chỉ mang tính hình thức. Tương tác giữa GV và HS trong
các giờ học cịn ít, chủ yếu là thầy tác động đến trò một chiều.
Phương thức kiểm tra đánh giá của Việt Nam vẫn nặng về tái hiện kiến thức
khía cạnh năng lực tư duy đã được chú ý nhưng chưa cao.

2.2.3. Thực trạng học của học sinh
Lối học thụ động, tiếp nhận kiến thức một chiều từ các cấp học dưới đã ăn
sâu, thành thói quen trong học tập khiến HS lười, ngại tư duy, động não thực sự.
Chính vì thế trước nhiều vấn đề mới hay phức tạp, các em chưa chủ động và tự
giải quyết vấn đề.
Nhiều học sinh TDPB khá tốt nhưng còn e dè, chưa mạnh dạn đưa ra ý
kiến và quan điểm của bản thân, có khi khơng đồng tình với quan điểm của
người dạy nhưng không dám phản biện lại vì nhiều lí do khác nhau. Cũng có
HS, TDPB trươc các vấn đề xã hội rất tốt nhưng lại thể hiện trong bài làm thiếu
thuyết phục.
Chính vì những lí do trên, yêu cầu đổi mới PPDH Làm văn THPT ngày
càng trở nên cần thiết và là vấn đề cấp bách đang được các nhà giáo dục tìm
cách khắc phục. Đó là cơ sở để tơi đề xuất biện pháp Rèn luyện kĩ năng tư duy
phản biện trong dạy học Làm văn viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh
THPT.
2.3 Đề xuất một số giải pháp rèn luyện kĩ năng tư duy phản biện trong dạy
học Làm văn viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh THPT
2.3.1. Rèn kĩ năng tư duy phản biện thông qua việc ra đề thi, kiểm tra.
- Lí do đề xuất:
Trong cuốn “Văn nghị luận ở THCS và THPT” tác giả Hoàng Dân cho
rằng: “Đề văn thực chất là một “đơn đặt hàng” của người ra đề đối với người
viết bài. Viết bài văn theo “đơn đặt hàng” là trình bày các suy nghĩ của cá nhân
người viết theo một định hướng nhằm đáp ứng các yêu cầu cụ thể, qua đó mà
hình thành kĩ năng viết, rèn luyện cách suy nghĩ, cách lập luận và cách trình
bày một vấn đề” [9,174]. Như vậy đã đủ chứng minh việc ra đề văn nghị luận
đóng vai trị vơ cùng quan trọng đối với sự nhận thức và phát triển kĩ năng của
người học.Thực tế cho thấy, HS vẫn chưa thật hứng thú khi tiếp xúc với những
dạng đề NLXH. Nguyên nhân là do các em cảm thấy quá nhàm chán với những
câu hỏi đơn giản, khơ khan, thiếu tính phản biện. “Ra đề phải khơi dậy những
suy nghĩ riêng, đồng thời phải rèn cho học sinh óc phê phán, nhìn vấn đề trên

nhiều mặt. Cần tránh kiểu ra đề “suôn sẻ”, dạng “thỏa hiệp” một chiều”
[9,191].
Để khắc phụ tình trạng này, GV cần phải linh hoạt trong việc ra các đề và
đáp án cho bài Làm văn NLXH. Đặc biệt, các đề văn ấy phải có định hướng
TDPB để HS thỏa sức đưa ra những cách đánh giá nhiều chiều với vấn đề được
bàn luận.
- Biện pháp thực hiện:
Ngoài những yêu cầu cơ bản của một đề văn nghị luận nói chung thì đề
NLXH có định hướng TDPB phải đáp ứng đầy đủ những tiêu chí sau:

4


*Thứ nhất, đề văn cần phải đưa ra những tình h́ng có vấn đề
Tình huống có vấn đề là tình huống chứa đựng những mâu thuẫn giữa
những tri thức đã có với những tri thức cần có để nhận thức về thế giới khách
quan, mâu thuẫn tạo ra trạng thái tâm lí bất thường ở chủ thể nhận thức. Đứng
trước tình huống có vấn đề, con người có nhu cầu nhận thức hiểu biết. Bằng
cách này hay cách khác, con người cần đạt được mục đích, tức là có thêm tri
thức về thế giới khách quan. Tạo tình huống có vấn đề trong dạy học văn có cơ
sở khoa học đúng đắn, Về mặt triết học, mâu thuẫn luôn là động lực cho sự phát
triển. Tạo tình huống có vấn đề thực chất là tạo mâu thuẫn, gây áp lực tri thức để
thúc đẩy quá trình nhận thức của người học. Về mặt tâm lí học, con người ta chỉ
tư duy khi đứng trước những tình huống có vấn đề, tình huống có vấn đề mở ra
và kích thích q trình tư duy của người học.
Dạy học nêu vấn đề là dạy học sáng tạo, kiến thức ở lối dạy này vừa là sản
phẩm, vừa là phương pháp định hướng cho HS tiếp thu, tái hiện, đòi hỏi các em
phải lĩnh hội kiến thức thông qua sự vận động độc lập từ bên trong. Như vậy
việc áp dụng cách ra đề này đưa HS vào một môi trường học tập mới, khiến các
em phải suy nghĩ theo nhiều chiều hướng khác nhau, đồng thời rèn luyện tư duy

sáng tạo, TDPB để giải quyết tốt yêu cầu đề bài đưa ra.
Ví dụ: Đề bài Đọc văn bản sau:
Trong một buổi diễn thuyết đầu năm học, Brian Dison – Tổng giám đốc
tập đồn Coca Cola đã nói chuyện với sinh viên về mối tương quan giữa nghề
nghiệp với những trách nhiệm khác của con người. Trong bài diễn thuyết có
đoạn:
“Bạn chớ đặt mục tiêu của bạn vào những gì mà người khác cho là quan
trọng. Chỉ có bạn mới biết rõ điều gì tốt nhất cho chính mình.
Bạn chớ nên thờ ơ với những gì gần gũi với trái tim bạn. Bạn hãy nắm
chắc lấy như thể chúng là những phần trong cuộc sống của bạn. Bởi vì nếu
khơng có chúng, cuộc sống của bạn phần nào sẽ mất đi ý nghĩa.
Bạn chớ để cuộc sống trơi qua kẽ tay vì bạn cứ đắm mình trong quá khứ
hoặc ảo tưởng về tương lai. Chỉ bằng cách sống cuộc đời mình trong từng
khoảnh khắc của nó, bạn sẽ sống trọn vẹn từng ngày của đời mình.
Bạn chớ bỏ cuộc khi bạn vẫn cịn điều gì đó để cho đi. Khơng có gì là
hồn tồn bế tắc, mà nó chỉ thật sự trở nên bế tắc khi ta thôi không cố gắng
nữa.
Bạn chớ ngại nhận rằng mình chưa hồn thiện. Đó chính là sợi chỉ mỏng
manh ràng buộc mỗi người chúng ta lại với nhau.
Bạn chớ ngại mạo hiểm. Nhờ mạo hiểm với những vận hội của đời mình
mà bạn biết cách sống dũng cảm…”.
(Theo, Quà tặng cuộc sống)
Anh/chị hãy viết một đoạn văn NLXH (khoảng 200 chữ) trình bày quan
điểm của mình về vấn đề được gợi ra từ văn bản Đọc hiểu: Khơng có gì là hồn
tồn bế tắc, mà nó chỉ thật sự trở nên bế tắc khi ta thôi không cố gắng nữa.

Tình huống có vấn đề được đặt ra trong đề văn trên: Khơng có gì
hồn tồn bế tắc, mà nó chỉ thật sự bế tắc khi ta thơi không cố gắng nữa.

5



Tình huống yêu cầu người học phải nhận thấy vai trị của ý chí, bản lĩnh, nghị
lực niềm tin và sự lạc quan của con người trước nghịch cảnh. HS cần đưa ra
những lập luận, lí lẽ, chứng cứ thuyết phục mới có thể đưa ra những phản biện
phù hợp để bảo vệ quan điểm của mình.
*Thứ hai, đề văn phải có hướng mở
Đề mở là cách ra đề mà độ hạn định giảm thiểu để tạo khả năng cho học
sinh được tự do lựa chọn vấn đề và cách giải quyết vấn đề của mình. Đề mở có
tác dụng gây hứng thú, phát huy sở trường, cá tính của học sinh và giúp các em
rèn luyện TDPB. Loại đề này giúp cho các kì thi cuối năm, thi chuyển cấp, thi
tốt nghiệp, thi đại học vì phát huy tư duy sáng tạo, phân hóa học lực của học
sinh.
Ví dụ: Đề bài
Lời ru ẩn nơi nào
Và khi con đến lớp
Giữa mênh mang đất trời
Lời ru ở cổng trường
Khi con vừa ra đời
Lời ru thành ngọn cỏ
Lời ru về mẹ hát
Đón bước bàn chân con
Lúc con nằm ấm áp
Lời ru là tấm chăn
Trong giấc ngủ êm đềm
Lời ru thành giấc mộng

Mai rồi con lớn khôn
Trên đường xa nắng gắt
Lời ru là bóng mát

Lúc con lên núi thẳm
Lời ru cũng gập ghềnh
Khi con ra biển rộng
Lời ru thành mênh mông

Khi con vừa tỉnh giấc
Thì lời ru đi chơi
Lời ru xuống ruộng khoai
Ra bờ ao rau muống
Từ văn bản phần đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình
bày suy nghĩ của em về vai trò của lời ru đối với sự hình thành nhân cách của
con người trong xã hội hiện đại.
- Tác dụng của giải pháp: Với cách ra đề định hướng TDPB giúp HS
thoát khỏi cách học “vẹt”, u cầu các em khơng chỉ thuộc bài mà cịn phải hiểu
bài. Đồng thời với những đề nghị luận xã hội này sẽ tạo cho học sinh cơ hội
được bày tỏ nhận thức, suy nghĩ của mình, tạo ra sự hứng thú cho các tiết học
Ngữ văn. Từ đó, góp phần phát huy được sự sáng tạo, rèn luyện TDPB và hình
thành kỹ năng sống, kỹ năng ứng xử cho các em.
2.3.2. Rèn kĩ năng tư duy phản biện thông qua việc hướng dẫn học sinh tìm
hiểu đề, lập ý
- Lí do đề xuất: Đối với bài văn nghị luận nói chung và NLXH nói riêng,
khâu tìm hiểu đề và lập ý bao giờ cũng giữ vai trò rất quan trọng. Tìm hiểu đề để
xác định đúng vần đề cần nghị luận từ đó có hướng đi chuẩn xác để làm sáng rõ
yêu cầu của đề. Tìm ý là bước huy động kiến thức để xác lập các luận điểm lớn
nhỏ và các luận cứ để làm rõ vấn đề nghị luận. Tuy nhiên trong quá trình làm bài
HS thường bỏ qua bước này dẫn đến bài làm bị lạc đề, thiếu ý, lan man.
- Biện pháp thực hiện:
*Rèn kĩ năng tư duy phản biện thơng qua việc tìm hiểu đề

6



Người viết muốn tìm hiểu đề cần phải xác định được yêu cầu của mỗi
dạng đề, nội dung, ý nghĩa của vấn đề, đưa ra được các câu hỏi gợi mở để làm rõ
vấn đề được bàn luận. Từ đó mới có thể định hướng đúng và đủ những yêu cầu
mà đề đưa ra, tránh hiện tượng viết lan man, lạc đề, lệch đề hay bỏ sót ý. Mặt
khác, người viết cần tìm hiểu đề để xác định và đưa ra những kĩ năng tư duy phù
hợp đáp ứng yêu cầu đề bài và đảm bảo sự thống nhất, hài hịa giữa các phần của
bài viết.
Q trình tìm hiểu đề để giúp HS định hướng TDPB trong việc tìm ý sẽ
phải thực hiện các bước sau:
Bước 1: Đọc kĩ đề
Trong quá trình tạo lập văn bản, đọc kĩ đề là công việc đầu tiên và bắt
buộc đối với tất cả HS trước khi viết bài. Thực tế cho thấy, nhiều HS chỉ đọc đề
một cách vội vã rồi làm bài cho nên bài viết sẽ lộn xộn, không tập trung vào
trọng tâm. Để tránh những lỗi trên, HS cần phải hiểu được ưu thế của việc đọc kĩ
đề bài trước khi làm bài:
+ Đọc kĩ đề để có thể phản biện vấn đề mà đề bài đặt ra (Quan điểm, ý
kiến, đánh giá, nhận định…)
+ Đọc kĩ đề để bản thân người học tìm ra những yếu tố then chốt liên quan
trực tiếp đến việc giải quyết nội dung đề bài.
Bước 2: Nhận diện cấu tạo đề
Đối với dạng đề NLXH thì có 3 kiểu bài chính là:
+ Nghị luận về một tư tưởng đạo lí.
Ví dụ: Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến sau: “Mỗi người đều có quyền
lựa chọn cách sống của mình miễn là hạnh phúc”.
+ Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
Ví dụ: Suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng “câu like” trên Facebook của
giới trẻ hiện nay.
+ Nghị luận về một vấn đề xã hội rút ra từ một tác phẩm văn học

Ví dụ: Từ câu chuyện về người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu hãy viết đoạn văn NLXH (Khoảng 200 chữ)
về tình trạng bạo hành gia đình trong xã hội hiện nay.
Bước 3: Phân tích, xác định u cầu về nội dung và hình thức nghị
luận của đề.
- Xác định yêu cầu về nội dung (Luận đề)
Xác định yêu cầu nội dung nghị luận là ta hướng tới trả lời câu hỏi: Đề
yêu cầu viết về cái gì?Nội dung luận đề là vấn đề chính, vấn đề bao quát mà
người soạn đề đưa ra yêu cầu người làm bài phải giải quyết. Muốn giải quyết
câu hỏi đó, chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa những từ quan trọng được đưa ra
trong bài. Như vậy, để xác định được đúng luận đề ở những dạng bài tập đó thì
ta phải chỉ ra được những từ then chốt trong đề bài.
- Xác định yêu cầu về hình thức nghị luận.
Việc xác định yêu cầu về kiểu bài có vai trị hết sức quan trọng trong bài
Làm văn nói chung và văn nghị luận nói riêng. Mỗi bài văn nghị luận được đưa
vào giảng dạy trong nhà trường đều có những quy định riêng về kiểu bài. Nếu

7


như xác định khơng đúng kiểu bài thì dù nội dung có phong phú bao nhiêu, lời lẽ
đa dạng đến đâu cũng không thể đi đúng hướng.
Bước làm này, GV thường sử dụng kĩ thuật đặt câu hỏi 5W1H (Phương
pháp phổ biến và hữu hiệu trong dạy học tích cực) để giúp HS đưa ra những câu
hỏi gợi dẫn trong phần tìm hiểu đề. Sử dụng kĩ thuật 5W1H, chúng ta có thể đưa
ra một hệ thống các câu hỏi thống nhất cho mọi đề bài. Như vậy, GV đưa ra các
câu hỏi gợi dẫn trong phần tìm hiểu đề sẽ giúp HS có cách tiếp cận vấn đề cụ
thể, toàn diện hơn và rèn luyện KNTDPB.

Where

Who

How
MAIN
IDEAS

Why

What
When

Sơ đồ đặt câu hỏi theo kĩ thuật 5W1H
Chú thích: 5W1H là cách viết tắt của các câu hỏi:
What? (Là gì), When? (Khi nào), Who? (Ai?), Where? (Ở đâu), Why? (Vì
sao?), How? (Như thế nào)
Ví dụ: Đề bài: Khơng đề
Con thuyền đi qua
để lại song
Đoàn tàu đi qua
để lại tiếng
Đoàn người đi qua
để lại bóng
Tơi khơng đi qua tơi
để lại gì?
Anh(chị) hãy viết một đoạn văn NLXH khoảng (200 chữ) trình bày suy
nghĩ về triết lí sống được gợi ra từ văn bản phần Đọc hiểu.
Đối với cách tìm hiểu đề thơng thường: GV chỉ yêu cầu học sinh xác
định những vấn đề chính sau: Thể loại, nội dung, phạm vi nghị luận.
- Yêu cầu về hình thức, thể loại: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí.
- Yêu cầu về nội dung (Luận đề): Suy nghĩ về triết lí sống được gợi ra từ

bài thơ trên.
Đối với cách tìm hiểu đề có sử dụng kĩ năng tư duy phản biện:
Đối với cách tìm hiểu đề này, ngoài việc xác định kiểu bài, nội dung thì
GV cịn cần đặt ra những câu hỏi gợi dẫn để đưa HS tiếp cận vấn đề một cách dễ
dàng hơn.
Một số câu hỏi đưa ra để rút ra triết lí sống từ bài thơ:

8


+ Con thuyền, đoàn tàu, đoàn người đi qua để lại gì? Sóng, tiếng, bóng
mang ý nghĩa gì? Nếu con thuyền khơng để lại sóng, đồn tàu khơng để lại
tiếng và đồn người khơng để lại bóng thì mọi người có biết đến ý nghĩa tồn tại
của con thuyền, đồn tàu, đồn người khơng?
+Tơi khơng đi qua tơi có nghĩa là gì? Và nếu tơi đi qua tơi để lại gì?
Ở khâu tìm hiểu đề, muốn rèn luyện KNTDPB cho HS trong dạy học văn
NLXH một cách tốt nhất, hiệu quả nhất thì GV có thể sử dụng sơ đồ (Bản đồ) tư
duy
Hình ảnh mơ tả sơ đồ tư duy:

Cấu trúc sơ đồ tư duy điển hình
Lưu ý: Để giúp HS lập được sơ đồ tư duy cho khâu tìm hiểu đề văn
NLXH, GV cần chú ý 3 bước cơ bản sau:
Bước 1: GV cung cấp ngữ liệu đã chuẩn bị cho học sinh quan sát
GV đưa đề văn cụ thể để HS tìm hiểu đề
Ví dụ: Suy nghĩ của anh(chị) về tính hai mặt của facebook trong cuộc
sống của con người hiện nay.
Bước 2: HS phân tích ngữ liệu theo định hướng của GV, tránh hiện tượng
đi chệch hướng nghiên cứu.
Dưới sự hướng dẫn và quản lí của GV, HS sẽ chia thành các nhóm nhỏ để

chỉ ra các bước cần thiết trong khâu tìm hiểu đề.
Tiếp đó, GV u cầu đại diện các nhóm trình bày, các nhóm khác theo dõi
và cho ý kiến. Cuối cùng GV tổng hợp và chốt lại kiến thức chuẩn.
Yêu cầu:
- Xác định dạng đề: Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
- Xác định nội dung, hình thức đề:
+ Nội dung: tính hai mặt của facebook.
+ Hình thức: Giải thích, phân tích, bình luận.
- Phạm vi nghị luận: Trong cuộc sống của con người hiện nay
- Các câu hỏi gợi dẫn:
+ Facebook là gì?
+ Tình trạng sử dụng facebook hiện nay ra sao?
+ Tác dụng của facebook? Tại sao lại có tác dụng đó?

9


+ Tác hại của facebbook? Tại sao lại gây ra tác hại?
+ Vậy mỗi cá nhân cần sử dụng facebook như thế nào để khai thác triệt để
tác dụng của facebook và hạn chế những tác hại của nó.
+ Bài học mà em rút ra được là g
Bước 3: Từ việc tìm hiểu trên, GV hướng dẫn, tổ chức HS hình thành khái
niệm khoa học chuẩn.
Qua việc tìm hiểu, GV sẽ yêu cầu HS xây dựng sơ đồ tư duy để chỉ ra các
bước cơ bản trong khâu tìm hiểu đề văn NLXH có định hướng TDPB một cách
khái quát.
*Rèn kĩ năng tư duy phản biện thông qua việc lập ý
Dostoievski – nhà văn Nga nổi tiếng của thế kỉ XX cũng đã từng ước ao:
“Nếu tìm được một bản bố cục đạt thì cơng việc sẽ nhanh như trượt trên băng”.
Như vậy, có thể thấy tầm quan trọng và vị trí đặc biệt của việc lập ý trong bài

văn nghị luận nói chung và NLXH nói riêng. Vì vậy, lập ý chính là q trình suy
nghĩ có ý thức nhằm định ra các nội dung cơ bản của bài viết trước khi được
diễn đạt thành văn. Trong giờ dạy học kĩ năng Làm văn NLXH, để rèn luyện
hiệu quả KNTDPB thì những giờ dạy Đọc văn những văn bản NLXH, GV bên
cạnh việc truyền đạt kiến thức cơ bản một cách chắc chắn, logic thì cịn phải bồi
dưỡng khả năng tư duy, biết lật xới vấn đề. GV chấp nhận và nâng niu tất cả
những quan điểm, ý kiến khác nhau, thậm chí là trái chiều của HS để các em có
cơ hội bộc lộ suy nghĩ của bản thân, từ đó mà việc lĩnh hội kiến thức sẽ trở nên
sâu sắc và thú vị hơn. Thông qua những câu hỏi gợi dẫn nhằm định hướng
TDPB của GV ở phần tìm hiểu đề, HS sẽ thực hiện 3 bước của quá trình lập ý:
Bước 1: Tìm ý:
- Xác định các luận điểm lớn dựa vào yêu cầu, hình thức nghị luận và các
câu hỏi gợi dẫn.
- Triển khai các luận điểm lớn thành các luận điểm nhỏ (Ở nhiều mặt,
nhiều phương diện, khía cạnh cụ thể có ở dạng tương đồng hoặc đối lập) dựa
vào những kiến thức cần thiết cho vấn đề được bàn luận.
Bước 2: Chọn ý:
- Ở khâu này, HS không chỉ biết lựa chọn ý mà cịn hình thành TDPB
trước mỗi ý kiến được đưa ra. Với những thao tác lập ý có sử dụng KNTDPB
GV cần phải chú trọng tới yếu tố chủ quan của mình. Nói như vậy có nghĩa là
GV chỉ là người giúp HS tự cảm nhận, suy xét một vấn đề nhưng lại được soi
chiếu từ nhiều góc nhìn khác nhau mà HS sẽ được tiếp xúc thông qua hệ thống
câu hỏi gợi dẫn của GV, từ đó HS sẽ tự tìm ra con đường và cách giải quyết vấn
đề của riêng mình. Mỗi ý kiến và cách giải quyết vấn đề HS đưa ra đều được GV
chấp nhận nếu như có lập luận chặt chẽ và xác đáng.
Bước 3: Sắp xếp ý
- Ở khâu sắp xếp ý, người viết sau khi đã tìm và lựa chọn được những ý
tiêu biểu, sẽ sắp xếp theo trình tự một cách logic và khoa học.
- Để sắp xếp ý có vận dụng thành thục KNTDPB thì yêu cầu đối với
người viết bao giờ cũng địi hỏi chặt chẽ và cơng phu hơn. Việc sắp xếp ý

khơng đơn thuần là theo trình tự thơng thường mà cịn phải kích thích tư duy

10


sáng tạo và tư duy phê phán của HS khi đứng trước những tình huống có vấn
đề.
Mở rộng: Khi lập ý cho đề Làm văn NLXH, HS hồn tồn có thể vận
dụng kĩ thuật dạy học tích cực để việc tiếp nhận bài học đạt hiệu quả cao hơn.
Các kĩ thuật dạy học tích cực là những kĩ thuật dạy học khơng chỉ có ý nghĩa đặc
biệt trong việc phát huy sự tham gia tích cực mà cịn kích thích tư duy, sự sáng
tạo và sự cộng tác làm việc của HS trong q trình dạy học.
Ví dụ: Đề:
Thế giới thành cái chợ mất rồi. Cái yên ả êm đềm bị bài xích xua đuổi
dần khỏi những chung cư đường phố. Sự n bình đành rời bỏ chốn đơ hội tìm
về nương náu trú ngụ ở những chốn xa. Và những ham hố, thù hận, u mê, những
phụ bạc, thất thoát, phản trắc, những vết thương bị gảy ra và tự gây ra cũng
ln băm nát lịng mình. Bất an là thường hằng, thư thái chỉ là thoảng chốc.
Hành trình tìm kiếm hạnh phúc trong bề sâu là tìm kiếm thư thái mà có phải lúc
nào mình cũng biết đâu…
(Tự tình cùng cái đẹp – Chu Văn Sơn)
Từ nội dung ở phần Đọc hiểu, anh (chị) hãy viết một đoạn văn NLXH
khoảng 200 chữ bày tỏ suy nghĩ của mình về con đường tìm kiếm hạnh phúc
đích thực của con người trong xã hội hiện nay.
Thực hành tìm hiểu đề và lập ý cho đề văn trên theo định hướng kĩ năng
tư duy phản biện.
 Tìm hiểu đề
- Nội dung nghị luận: Bàn luận về con đường tìm kiếm hạnh phúc đích
thực của con người hiện nay
- Kiểu bài: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí

 Câu hỏi gợi dẫn định hướng tư duy phản biện
(?) Hạnh phúc là gì?
(?) Con đường tìm kiếm hạnh đích thực là như thế nào?
(?) Con người có thể tìm kiếm hạnh phúc đích thực qua những con đường
nào?
(?)Theo em con người hiện đại sẽ tìm kiếm hạnh phúc theo con đường
nào? Vì sao?
(?) Vậy để hạnh phúc con người cần phải làm gì?
(?) Bài học nhận thức và hành động mà em rút ra được là gì?
Lập ý nhằm định hướng tư duy phản biện
* Giải thích:
+ Hạnh phúc: là trạng thái cảm xúc vui vẻ, phấn khởi của con người khi
được thỏa mãn một nhu cầu nào đó thiên về tích cực.
+ Tất cả chúng ta đều khao khát, nỗ lực tìm kiếm hạnh phúc nhưng khơng
phải lúc nào cũng có được hạnh phúc đích thực. Hạnh phúc đích thực mang đến
cảm giác bền vững, cịn những hạnh phúc khơng đích thực có thể hiểu là những
xúc cảm hời hợt trong chốc lát.
+ Con người ln tìm kiếm hạnh phúc đích thực nhưng khơng phải ai cũng
nhận ra rằng đó là quá trình đi đến sự thư thái bình yên trong tâm hồn bởi cuộc

11


sống hiện đại đang đánh mất dần sự an yên từ những ham hố, thù hận, u mê,
những phụ bạc, thất thốt, phản trắc…..
=> Như vậy con đường tìm kiếm hạnh phúc đích thực là q trình tìm kiếm
chính mình, khiến bản thân thư thái, bình n thay vì trơng đợi vào những biến
động và niềm vui bên ngoài.
* Bàn luận:
- Bàn luận về con đường tìm kiếm hạnh phúc đích thực

+ Con người thường tìm kiếm hạnh phúc bằng nhiều con đường khác nhau
nhưng tựu chung lại có hai con đường chính: tìm kiếm bên ngoại mình và tìm
kiếm bên trong mình. Tìm kiếm bên ngồi có thể được hiểu là số tiền chúng ta
kiếm được, địa vị chúng ta phấn đấu…cịn tìm kiếm bên trong là sự n bình,
êm đềm, thư thái là cảm nhận chủ quan của mình trong hiện tại.
(Học sinh có thể bày tỏ quan điểm và đưa ra sự lựa chọn của mình. Tuy
nhiên cần phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức, pháp luật, lựa chọn lí lẽ và dẫn
chứng thuyết phục)
Nếu lựa chọn: con đường tìm kiếm bên trong mình là con đường hạnh phúc
đích thực, học sinh có thể đưa ra một số lí lẽ sau:
+Khi lựa chọn con đường tìm kiếm hạnh phúc bên trong mình để có được
hanh phúc, con người sẽ chủ động, tự tin, thư thái thay vì lo lắng bất an và tự ti.
+Hạnh phúc dựa vào những điều bên ngồi mình chỉ đem lại niềm vui
thoảng qua vì hiện tại ln thay đổi, cái mới xuất hiện và thay thế cái cũ, con
người phải luôn miệt mài chạy theo nó.
+Các giá trị bên ngồi (vật chất, danh vọng) có thể mang cho chúng ta niềm
vui, sự hững thú nhưng có khi lại đem cho con người cảm giác lo lắng, bất an,
sợ hãi , đau khổ. Con người càng chạy theo tham vọng càng mệt mỏi và có khi
phải trả giá cho những tham vọng của mình.
- Bàn luận mở rộng:
+Ai cũng mong muốn có được hạnh phúc, tìm kiếm hạnh phúc nhưng
khơng phỉa lúc nào cũng hiểu được hạnh phúc chân chính và con đường đến
hanh phúc đích thực.
+ Muốn có hạnh phúc thất sự cần phải hiểu mình, giữ cho cuộc sống của
mình tự tại, an lạc, vượt lên trên cám dỗ và dục vọng.
* Bài học nhận thức và hành động:
+Là người trẻ cần tỉnh táo không để bị cuốn theo những vịng xốy lợi danh
và những giá trị vật chất phù du.
+ Cần có trạng thái tâm hồn an nhiên, tâm thế sống tích cực, biết chia sẻ và
yêu thương. Khi có được sự bình an trong tâm hồn chúng ta sẽ đạt được hạnh

phúc đích thực.
+ Cần hài hịa những nỗ lực phấn đấu để khẳng định giá trị bản thân và tìm
kiếm sự bình an tĩnh lặng, thư thái trong tâm tưởng.
- Tác dụng của giải pháp: Như vậy, nếu GV áp dụng thành công kĩ năng
rèn TDPB thông qua hướng dẫn HS tìm hiểu đề, lập ý giúp cho các em có cái
nhìn tồn diện, đa chiều khi nhìn nhận, đánh giá về một vấn đề NLXH nói riêng
và những vấn đề khác trong cuộc sống nói chung. Từ đó giúp bài làm của các

12


em trở nên sâu sắc, phát huy được sự chủ động, sáng tạo và khả năng TDPB của
HS.
2.3.3. Rèn kĩ năng tư duy phản biện thông qua việc chấm bài
- Lí do đề xuất: Trong dạy học nói chung và dạy học Làm văn nói riêng
việc chầm bài vơ cùng quan trọng đòi hỏi GV phải tập trung nhiều sức lực và trí
tuệ. Vì qua việc chấm bài giúp GV nhận ra mức độ HS hiểu bài như thế nào, khả
năng tư duy của các em, phát hiện những bài làm tốt và chưa tốt, những lỗi sai
mắc phải. Để từ đó giúp người dạy đưa ra những phương pháp hợp lí khắc phục
hạn chế và tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng dạy-học. Từ thực tế, tối thấy
nếu chấm bài qua loa đại khái theo kiểu “đo gang” và nhận xét chung chung
khiến HS không bao giờ nhận ra được ưu điểm của mình để phát huy và khuyết
điểm đã mắc phải, hướng giải quyết như thế nào. Khơng chỉ vậy GV đưa ra đáp
án mang tính khn mẫu yêu cầu HS phải làm theo những gì đáp án đưa ra mới
được điểm cao dẫn đến hình thành nên “các cỗ máy viết văn” thủ tiêu tính sáng
tạo và năng lực TDPB của HS.
- Biện pháp thực hiện:
* Thứ nhất, đáp án GV đưa ra phải là đáp án “mở”
Vì vậy, để có được những bài văn sáng tạo, vận dụng tốt các kĩ năng tư
duy và TDPB thì đáp án GV đưa ra phải là đáp án “mở”, linh hoạt khi chấm bài

chấp nhận nhiều phương án, cách làm bài khác nhau miễn sao lập luận, lí lẽ, dẫn
chứng đưa ra hợp lí, chặt chẽ.
Ví dụ: Đề bài:
Một doanh nhân kinh ngạc thấy một ngư phủ nằm thảnh thơi bên cạnh
chiếc tàu đánh cá. Doanh nhân hỏi
- Tại sao ơng khơng ra khơi đánh cá?
- Bởi vì tôi đã đánh cá đủ cho ngày hôm nay rồi!
- Tại sao ông không đánh cá thêm nữa đi?
- Đánh thêm để làm gì?
- Ơng được nhiều tiền hơn. Rồi ông có thể trang bị một động cơ cho chiếc
tàu của ơng để đi xa hơn ngồi khơi và đánh cá được nhiều hơn. Nhờ đó ơng
có thể kiếm thêm tiền mua nhiều lưới. Vì vậy ơng sẽ có nhiều cá và nhiều
tiền. Chẳng mấy chốc ơng óc thể dư tiền mua hai chiếc tàu…và có thể một
đồn tàu đánh cá cũng nên. Rồi ông sẽ trở thành một người giàu có như tơi
đây.
- Khi đó tơi sẽ làm gì nào?
- Ơng có thể thực sự vui hưởng cuộc đời!
- Vậy ơng tưởng bây giờ tơi đang làm gì?
( Trich Những giá trị tinh thần- Nhà xuất bản Văn hóa thông tin)
Từ nội dung ở phần đọc hiểu anh (chị) hãy viết một đoạn văn NLXH
khoảng (200 chữ) bày tỏ suy nghĩ của mình về ý nghĩa gợi ra từ câu chuyện
trên.
Đáp án:
1.Giải thích ý nghĩa câu chuyện:
Câu chuyện là cuộc đối thoại ngắn giữa doanh nhân và ngư phủ. Đó là hai
quan niệm sống, quan niệm về hạnh phúc khác nhau.

13



- Quan niệm của doanh nhân: Giá trị cuộc sống chính là tiền bạc, vật chất.
Khi giàu con người sẽ hạnh phúc. Vì vậy con người phải tận dụng thời gian
kiếm tiền.
-Quan niệm của ngư phủ: Hạnh phúc là tận hưởng những điều tốt đẹp xung
quanh ta nên ông không dành tất cả thời gian lao vào kiếm tiền mà dành thời
gian nghỉ ngơi thư giãn.
2.Phân tích bàn luận ý ngĩa của câu chuyện
(HS thể hiện sự đồng tình hay khơng đồng tình hoặc chỉ đồng tình một
phần với quan niệm hạnh phúc của doanh nhân và ngư phủ. Dù lựa chọn theo
hướng nào thì khi bàn luận cũng cần đưa ra những lập luận chặt chẽ, dẫn
chứng hợp lí. Thái độ nghiêm túc..để thuyết phúc).
*Quan niệm sống, quan niệm hạnh phúc của doanh nhân
-Tích cực: Nhận thức đúng đắn rằng sự đầy đủ về vật chất sẽ là nền tảng
vững chắc để con người yên tâm tận hưởng cuộc sống. Vì vậy con người phải
khơng ngừng cố gắng nỗ lực, chăm chỉ tích lũy tiền bạc cho cuộc sống viên
mãn về sau.
-Hạn chế: Ngộ nhận của cải tiền bạc mới đem lại hạnh phúc cho con người,
lao theo nó sẽ bỏ qua nhiều giá trị sống, hao tổn thời gian, sực lực và tình
cảm.
*Quan niệm sống, quan niệm hạnh phúc của ngư phủ
-Tích cực: Vật chất khơng phải là yếu tố quan trọng nhất để tạo nên hạnh
phúc thực sự nên con người tự biết hài long, sống chậm lại để nhận những giá
trị tốt đẹp của cuộc sống.
-Hạn chế:Mang tâm lí tự thỏa mãn đến mức ỷ lại, lười nhác khơng có ý
thức đề phịng cho những lúc bất trắc. Những người có tâm lí như vậy sẽ kìm
hãm sự phát triển của xã hội.
*Nhận xét, đánh giá:
-Cả hai quan niệm sống hoàn toàn chưa đúng dắn, toàn diện đều có điểm
tích cực và hạn chế riêng.
- Phê phán những người thực dụng, chỉ chú trọng đến vật chất hoặc quá chủ

quan, ỷ lại, lười biếng. Cả hai lối sống này đều không mang lại hạnh phúc
thực sự.
3.Bài học nhận thức và hành động
- Cần có cái nhìn đúng đắn về giá trị cuộc sống.
- Mỗi chúng ta cần biết tạo ra sự cân bằng trong cuocj sống, co sự sắp xếp
cân bằng hợp lí giữa cơng việc và nghỉ ngơi để cảm nhận hạnh phúc, từ đó
cuộc sống mới thực sự có ý nghĩa.
*Thứ hai: Sửa, phê trong bài làm hợp lí, linh hoạt
Về phương pháp chấm bài: Ngoài việc đưa ra đáp án “mở”, GV cần lập ra
biểu điểm chia làm hai phần nội dung và hình thức để đến tiết trả bài giúp HS tự
nhận lỗi sai và ưu điểm trong bài làm của mình.
Về nội dung: Có triển khai chính xác vấn đề mà đề bài yêu cầu không?
Mức độ sâu sắc của vấn đề đến đâu?; Có biết xây dựng các tiểu chủ đề không?
Xây dựng bao nhiêu? Bao nhiêu sát đề, xa đề, trùng lặp?; Mức độ sai sót của

14


kiến thức? Bao nhiêu lỗi nặng? Nội dung có điểm nào đặc sắc, những phát hiện
mới đáng biểu dương?.
Về hình thức: Kiểu bài có đúng u cầu đề khơng? Bố cục có hợp lí, cân
xứng khơng? Kết cấu bài làm có chặt chẽ khơng? Kết cấu rời rạc mất tính liên
tục ở điểm nào? Cách hành văn có trong sáng khơng? Bao nhiêu chỗ có ý mà
khơng biết cách diễn đạt? Bao nhiêu chỗ diễn đạt cầu kì, sáo rỗng khơng có nội
dung? Có biết cách diễn đạt có hình ảnh không? Bao nhiêu chỗ dùng đúng, bao
nhiêu chỗ dùng sai? Từ ngữ có lặp khơng, có sai khơng, có đúng phong cách
không? Từ nào hay, sáng tạo? Câu sử dụng có đa dạng, có mắc lỗi ngữ pháp
khơng? Biết sử dụng đan xen các kiểu câu khơng? Có lỗi chính tả khơng? Viết
hoa và xuống dịng có tùy tiện khơng? Bài viết có tẩy xóa khơng? Trình bày có
sạch đẹp không?.

Về thái độ chấm bài: Trước hết luôn chân trọng bài làm của HS vì đây là
“đứa con tinh thần” của các em nên khi chấm bài không nên gạch xóa tùy tiện,
khơng ghi những nhận xét cẩu thả thiếu sự cân nhắc, không phê những lời lẽ phủ
phàng: bài làm quá yếu kém, quá lười học…cũng không nên né tránh mà khơng
có lời phê nào. Chấm bài là cơng việc đãi cát tìm vàng khi phát hiện những sáng
tạo thú vị, những cách cảm mới lạ và những bài làm có sử dụng KNTDPB, sắp
xếp trật tự các ý một cách logic, hệ thống, người viết dám đưa ra ý kiến của
riêng mình, GV cần kịp thời động viên, khích lệ, để HS đó có động lực phấn đấu
tích cực hơn ở các đề văn sau. GV cũng cần phải đánh giá linh hoạt, giúp HS
vừa phát huy khả năng của bản thân, vừa có hứng thú để làm tốt những bài văn
tiếp sau.
Đối với mỗi kiểu bài, GV nên lựa chọn cho mình một phương pháp chấm
bài sao cho khách quan, công tâm và phát huy hiệu quả của việc rèn luyện
KNTDPB cho HS để làm tốt bài văn nghị luận nói chung và NLXH nói riêng.
- Tác dụng của giải pháp: Nếu như GV áp dụng thành công kĩ năng rèn
luyện TDPB cho HS thông qua việc chầm bài sẽ khuyến khích các em được tự
do bộc lộ những suy nghĩ, khả năng sáng tạo và rèn luyện kĩ năng TDPB. Bài
làm của các em không chỉ viết đúng mà còn mới lạ, sâu sắc và giúp HS nỗ lực
phấn đấu viết tốt hơn .
2.3.4. Rèn kĩ năng tư duy phản biện thông qua việc trả bài
- Lí do đề xuất: Giờ trả bài ngồi việc hồn lại bài cho HS cơng bố số
điểm cịn là hoạt động đúc rút kinh nghiệm, thấy được cái hay cái dở, thấy được
chỗ mạnh chỗ yếu của lớp nói chung và từng bản thân HS nói riêng. Giờ trả bài
phải nêu ra được phương hướng sửa chữa, vươn lên ở những bài sau, kích thích
được sự hững thú, say mê hơn nữa của HS. Thực tế cho thấy, việc trả bài cho HS
ở các giờ Làm văn trong nhà trường phổ thông hiện nay đang bị coi nhẹ. GV chỉ
mang bài đến trả cho HS mà không hề nhận xét hay rút kinh nghiệm hoặc nếu có
chỉ làm một cách qua loa đại khái. Chính vì vậy, việc đánh giá kết quả học tập
của HS bị hạn chế đi nhiều và khơng có tác dụng rèn luyện KNTDPB cho học
trị khơng cịn hứng thú học tập và định hướng phấn đấu.

- Biện pháp thực hiện: Đối với những giờ trả bài nhằm bồi dưỡng
KNTDPB cho học sinh THPT trong dạy học Làm văn NLXH yêu cầu GV phải
hoạt động tỉ mỉ và cơng phu hơn. Vì vậy, trong mỗi giờ trả bài, GV không đơn

15


thuần chỉ là trả bài cho HS với số điểm cho sẵn mà cần thiết hơn là phải tạo ra
môi trường học tập sơi nổi, dân chủ để HS có cơ hội xem xét, nhìn nhận lại bài
làm của mình, đối sánh với bài của các bạn trong lớp, từ đó sẽ rút kinh nghiệm
được cho bản thân trước mỗi vấn đề nghị luận.
*Thứ nhất: GV hướng dẫn HS đưa ra đáp án
Trước khi trả bài và thống nhất cho điểm ở mỗi bài làm, GV ghi lại đề bài
lên bảng và hướng dẫn HS phân tích đề theo định hướng TDPB. Từ đó giúp HS
tự mình đưa ra đáp án.
Bước 1:
- GV chia HS trong lớp thành các nhóm nhỏ (Mỗi nhóm từ 4 đến 5 học
sinh). HS chuẩn bị giấy khổ A4 đề thực hiện làm đáp án cho đề văn. Các thành
viên trong nhóm có quyền dân chủ với nhau, vì vậy mà các thành viên có thể
đưa ra nhiều ý kiến khác nhau. Nhóm trưởng sẽ là người tổng hợp ý kiến của các
thành viên trong nhóm vào một bảng chung.
Bước 2:
- GV yêu cầu HS dựa vào phần tìm hiểu đề (Chú ý câu hỏi gợi dẫn) để
thu thập, tổng hợp tất cả các ý kiến có liên quan đến vấn đề cần giải quyết để
xây dựng đáp án. Mỗi thành viên trong nhóm dựa vào vốn tri thức, kinh nghiệm
sống hàng ngày của bản thân đề đóng góp các ý kiến và làm sáng tỏ vấn đề.
Bước 3: Các nhóm trình bày ý kiến và đưa ra nhận xét
- Sau khi các nhóm đã tổng hợp và đưa ra đáp án dựa vào phần tìm hiểu
đề, giáo viên dành thời gian cho HS có cơ hội trao đổi, bình luận để bảo vệ ý
kiến cá nhân của mình, hay phản bác ý kiến của các thành viên khác. GV cần

phải theo dõi sát sao hoạt động của HS để định hướng đúng cách suy nghĩ và lập
luận của các em để vấn đề bàn luận không bị sai lệch và mơ hồ. Đồng thời
khuyến khích những cách cảm nhận, lí giải mới mẻ, sáng tạo có nghĩa là đã giúp
HS có cơ hội rèn luyện KNTD.
*Thứ hai: GV cho HS tự nhận xét bài làm của mình
GV trình chiếu đáp án “mở” và biểu điểm đã được chuẩn bị khi chấm bài,
HS từ đó tự nhận xét bài làm của mình. Với cách làm này, giúp học trò tự nhận
ra những hạn chế để rút kinh nghiệm cho những bài làm sau không mắc phải.
Đồng thời tạo cho các em tâm lí tự tin, rèn luyện KNTDPB khi đứng trước một
vấn đề văn học nói chung và những vấn đề trong cuộc sống nói bảo vệ quan
điểm của mình trước đám đơng.
*Thứ ba: GV so sánh các bài làm khác nhau
Việc so sánh, đối chiếu bài làm của mình với bài của các bạn trong lớp
cịn có một ý nghĩa quan trọng hơn là giúp HS tìm thấy những ưu điểm và nhược
điểm trong bài, đưa ra những lí lẽ, lập luận riêng để thẳng thắn tranh luận bảo vệ
ý kiến cá nhân, hay bác bỏ ý kiến của các bạn (Nếu phản đối, cần đưa ra lí lẽ xác
đáng và thuyết phục), hay cũng có thể đưa ra những ý kiến sáng tạo để mở rộng
việc nhìn nhận và tiếp thu vấn đề. Tuy nhiên, trong q trình HS tranh luận, nếu
có những ý kiến sai lệch với nội dung nghị luận, GV cần định hướng, giảng giải
để người học có cái nhìn chính xác và tồn diện. GV lựa chọn và tìm ra một số
bài làm tốt, có những cách tư duy mới để các bạn khác có thể tham khảo và rút
kinh nghiệm cho bài làm của mình.

16


*Một cách trả bài mới đang được đề xuất:
GV mang bài lên lớp nhưng không ghi điểm vào ô chấm điểm mà yêu cầu
HS đọc kĩ lại bài của mình, tự cho điểm theo đáp “án mở” mà cô hướng dẫn. Yêu
cầu HS đọc ít nhất hai bài làm của HS khác để so sánh nội dung, hình thức và

kết cấu lập luận. GV cùng HS so sánh điểm mà GV cho với điểm các bạn cho
bài làm của mình và chính mình cho điểm cùng với những lời phê mà thầy cô
giáo và các bạn phê cho.
→ Qua việc làm đó, HS được tiếp tục sử dụng KNTDPB để đánh giá và
đưa ra những nhận xét, phán đoán của bản thân, mặt khác cảm thấy hứng thú với
giờ trả bài và rút kinh nghiệm để làm tốt những bài tiếp theo.
- Tác dụng của giải pháp: HS có kĩ năng làm văn tốt hơn, có tâm lý chờ
đợi cơ giáo trả “đứa con tinh thần” của mình. HS nhận ra khuyết điểm mà mình
mắc phải và vui mừng khi mình đã hiểu và cảm nhận được vấn đề, hoan hỉ khi
những phát hiện mới, cách lí giải mới được khuyến khích, được rèn luyện kĩ
năng TDPB.
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
2.4.1 Đối với hoạt động giáo dục
Kích thích sự sáng tạo của học sinh, giúp HS làm tốt hơn bài văn nghị
luận văn học. Dạy HS có kĩ năng TDPB khơng chỉ giúp các em nhìn nhận vấn
đề nghị luận một cách sâu sắc, đa diện nhiều chiều, bình luận, đánh giá ý kiến
của người khác mà cịn giúp HS có khả năng bảo vệ ý kiến, quan điểm của mình
dựa trên các luận điểm, luận cứ, luận chứng để thuyết phục người đọc, người
nghe. Điều này là yếu tố quan trọng giúp cho bài văn nghị luận văn học của các
em thêm sinh động, độc đáo và sáng tạo mang văn phong riêng của các em.
Tăng sự hứng thú của học sinh trong giờ học và sự u thích đối với
mơn học Ngữ Văn. Hình thành cho HS kĩ năng TDPB sẽ giúp cho HS có thể
trao đổi, tranh luận một cách cởi mở, bày tỏ các quan điểm của bản thân. Từ đó,
khơi gợi sự hứng thú của các em đối với giờ học cũng như làm cho khơng khí
tiết học trở nên sôi động, cuốn hút hơn, khiến các em yêu thích mơn học.
2.4.2 Đới với bản thân
Qua q trình rèn luyện TDPB cho HS trong Làm văn nghị luận xã hội,
tôi đã giúp các em từ chỗ thụ động trong lĩnh hội tri thức, sợ nói sai, sợ nói
khơng trúng thậm chí rất ngại học văn trở nên yêu thích, chủ động đưa ra quan

điểm của mình để trao đổi với thầy cô và các bạn. Đồng thời giúp tôi nhận ra để
có những tiết học có chất lượng, phát huy được tính tích cực chủ động của học
trị thì người thầy phải không ngừng đổi mới phương pháp, đầu tư chun mơn,
tích cực học hỏi.
2.4.3 Với đồng nghiệp và nhà trường
Đối với đồng nghiệp, SKKN của tơi có khả năng ứng dụng đối với GV
Ngữ Văn đang giảng dạy ở Trường THCS&THPT Như Thanh nói riêng và GV
Ngữ Văn nói chung vì nó giúp GV giải quyết được những khó khăn trong việc
rèn luyện TDPB cho HS và giúp người dạy đem lại sự hứng thú cho học trò
trong các tiết học văn.

17


Đối với nhà trường, đề tài của tơi sẽ góp phần cùng với nhà trường có
thêm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục chung của nhà trường. Đặc
biệt, trường THCS&THPT Như Thanh nơi tôi đang công tác là một ngôi trường
mới thành lập với hai cấp học lại ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, đối
tượng học sinh với gần 90% là người dân tộc thiểu số nên nhà trường cịn nhiều
khó khăn trong việc lựa chọn phương pháp giáo dục học sinh . Việc đổi mới
giảng dạy tiết Ngữ văn nói chung, và các tiết Làm văn nói riêng sẽ góp phần
giúp HS chủ động trong lĩnh hội tri thức, phát huy khả năng sáng tạo và trang bị
kĩ năng sống.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHI
3.1. Kết luận
Nếu trước đây, mục tiêu giáo dục đào tạo tập trung vào việc trang bị cho
HS kiến thức hàn lâm thì ngày nay, bên cạnh mục tiêu về kiến thức, những mục
tiêu phát triển kỹ năng thực hành, khả năng tự học, năng lực giải quyết vấn đề,
suy nghĩ độc lập, tư duy sáng tạo…, mà đặc biệt là KNTDPB đang bắt đầu được
chú trọng để giúp HS trở thành người cơng dân tồn cầu và hội nhập quốc tế.

Bản chất của phương pháp rèn luyện KNTDPB là giúp HS có cách nhìn
nhận vấn đề theo nhiều chiều hướng khác nhau chứ không đơn giản, một chiều.
Người học được thỏa sức đưa ra những suy luận, phán đốn, quan điểm cá nhân
mà khơng bị gị bó bởi bất kì khn mẫu có sẵn nào. Mọi ý kiến đưa ra đều phải
mang tính tích cực, có ý thức xây dựng và lập luận hợp lí mới được chấp nhận.
Mặt khác, KNTDPB còn mở ra khả năng thay thế phương pháp dạy học “thầy
đọc - trò chép” đã trở nên lạc hậu bằng phương pháp mới “lấy người học làm
trung tâm” với sự trao đổi, tranh luận cởi mở, tự do, qua đó phát triển khả năng
suy nghĩ độc lập, tư duy sáng tạo và TDPB.
Phân môn Làm văn nói chung và mảng NLXH nói riêng có những thế
mạnh nhất định trong việc rèn luyện kĩ năng tư duy, đặc biệt là KNTDPB. Rèn
luyện KNTDPB cho HS thông qua bài Làm văn NLXH là mục tiêu cần thiết và
cấp bách. Hiểu được yêu cầu bức thiết ấy, chúng tôi đã đi từ việc nghiên cứu cơ
sở lí luận, cơ sở thực tiễn, đề xuất một số biện pháp rèn luyện KNTDPB cho HS
(Cách ra đề, tìm hiểu đề và lập ý, cách chấm và trả bài) và tiến hành dạy thực
nghiệm tại lớp 12B1 và lớp 12B2 trường THCS-THPT Như Thanh, tỉnh Thanh
Hóa bước đầu cũng đã cho kết quả tương đối khả quan, khẳng định tính khả thi
của đề tài, làm tiền đề cho những bước tiến mới của PPDH trong tương lai.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với Giáo viên
Thường xuyên đổi mới, ứng dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp.
Đổi mới trong cách ra đề, chấm – trả bài. Quan tâm, lắng nghe những ý kiến của
học sinh và giúp HS những định hướng đúng đắn khi làm văn NLXH.
3.2.2. Đối với các cấp lãnh đạo
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học như
máy chiếu đa năng để giảng dạy giáo án điện tử, các phần mềm ứng dụng cộng
nghệ thơng tin…. Đổi mới chương trình SGK theo hướng tinh giảm nội dung
kiến thức, chú trọng phát triển năng lực cho HS. Tăng cường những hoạt động

18



bồi dưỡng chuyên môn cho GV, đổi mới phương pháp dạy học để tăng sự tích
cực, chủ động của HS.

XÁC NHẬN CỦA THỦ
Thanh Hóa, ngày 14 tháng 5 năm 2021
TRƯỞNG ĐƠN VI
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Lê Thị Thuỷ

19



×