Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

mot vai kinh nghiem day chinh ta lop 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.71 KB, 19 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>LỜI CẢM ƠN</b>
Với tình cảm chân thành tôi chân thành biết ơn đối với:


<b>-</b> Hội đồng thẩm định sáng kiến kinh nghiệm Phòng giáo dục đào tạo huyện Cao
Lãnh.


<b>-</b> Hội đồng thẩm định sáng kiến kinh nghiệm Trường TH & THCS Ba Sao.


<b>-</b> Các đồng nghiệp đã tham gia ý kiến giúp tơi hồn thành sáng kiến kinh nghiệm
này.


Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn sáng kiến khơng thể tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy (cơ) và bạn bè.


Xin chân thành cảm ơn!


Ba Sao, tháng 3 năm 2012
Tác giả


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2></div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Trang
Trang phụ bìa


Lời cảm ơn 1


Mục lục 2


<b>PHẦN MỞ ĐẦU </b> <b>3</b>


I. Lý do chọn đề tài 3


II. Mục đích nghiên cứu 4



III. Phương pháp nghiên cứu 4


IV. Giới hạn đề tài 4


V. Kế hoạch thực hiện 4


<b>PHẦN NỘI DUNG</b> <b>5</b>


I. Cơ sở lý luận 5


1.Một số quy định về chữ viết tiếng Việt 5


2.Quy định về cách viết hoa tên riêng 6


3.Một số cách phân biệt chính tả phổ biến ở bậc tiểu học 7


II. Cơ sở thực tiễn 8


III. Thực trạng và mâu thuẩn 8


1. Một số lỗi thường gặp 8


2. Nguyên âm 9


2.1. Do viết sai viết phát âm chuẩn 9
2.2. Do sai ngun tắc chính tả hiện hành. 10
2.3.Do chưa có thói quen viết đúng chính tả. 10


IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề 10



1. Phương hướng chung 10


2. Một số mẹo chính tả dành cho hoc sinh lớp 5 11


2.1. Cách phân biệt CH và TR 11


2.2. Cách phân biệt S và X 12


2.3. Cách phân biệt GI và D 12


2.4.Cách phân biệt IÊU, IU và ƯU 13


2.5.Cách phân biệt IÊU, ƯƠI và ƯU 13


3. Dạng bài tập thực hành phân biệt CH và TR 13


V. Hiệu quả áp dụng 14


<b>PHẦN KẾT LUẬN</b> <b>16</b>


I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác 16


II. Khả năng áp dụng của đề tài 16


III. Bài học kinh nghiệm và hướng phát triển của đề tài 16


ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ 17


TÀI LIỆU THAM KHẢO 18



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

1. Chúng ta đều biết rằng: “Nhân cách của con người chỉ có thể được hình thành
thơng qua hoạt động giao tiếp”. Tiếng Việt là một ngơn ngữ thống nhất trên tồn bộ lãnh thổ
Việt Nam. Ngơn ngữ viết đóng vai trị quan trọng của Tiếng Việt. Yêu cầu đầu tiên và quan
trọng của ngơn ngữ viết là phải viết đúng chính tả. Có nghĩa là khi thể hiện ngôn ngữ viết
cần phải tuân theo hệ thống các quy tắc về cách viết thống nhất cho các từ của một ngơn
ngữ. Hay nói cách khác, chính tả là những chuẩn mực của ngơn ngữ viết được thừa nhận
trong ngơn ngữ tồn dân. Mục đích của nó là phương tiện thuận tiện cho việc giao tiếp bằng
chữ viết làm cho người viết và người đọc đều hiểu thống nhất những điều đã viết. Chính tả
có thống nhất thì việc giao tiếp bằng ngơn ngữ mới không bị cản trở giữa các địa phương
trong cả nước, cũng như giữa các thế hệ đời trước và đời sau.


2. Vì vậy việc dạy chính tả đúng phải được coi trọng ngay từ bậc Tiểu học. Việc dạy
chính tả được hiểu như rèn luyện việc thực hiện những chuẩn mực của ngôn ngữ viết. Ở các
lớp Tiểu học, chính tả sẽ tạo điều kiện ban đầu trong hành trang ngôn ngữ cả một đời người
trong các em. Qua được học chính tả, các em nắm bắt được các quy tắc chính tả và hình
thành kỹ năng, kỹ xảo chính tả. Từ đó có thói quen viết đúng chính tả, giúp cho sự hoàn
thiện nhân cách của học sinh. Nó bắt đầu từ việc thuận tiện trong tiếp thu tri thức qua các
môn học ở Tiểu học đến việc xây dựng các văn bản trong quá trình giao tiếp trong học tập.


3. Chương trình Tiếng Việt ở bậc Tiểu học bao gồm nhiều phân mơn. Phân mơn chính
tả có nhiệm vụ chủ yếu rèn cho học sinh nắm các quy tắc và các thói quen viết đúng với
chuẩn chính tả Tiếng Việt. Cùng với các phân mơn khác, chính tả giúp cho học sinh chiếm
lĩnh văn hố, là cơng cụ để giao tiếp, tư duy để học tập, trau dồi kiến thức và nhân cách làm
người. Ngay từ đầu ở bậc Tiểu học trẻ cần phải được học môn chính tả một cách khoa học,
cẩn thận để có thể sử dụng công cụ này suốt những năm tháng trong thời kỳ học tập ở nhà
trường cũng như trong suốt cả cuộc đời.


4. Chính tả có tầm quan trọng như vậy nên môn học này cần phải được coi trọng ở các
trường Tiểu học. Nhưng trên thực tế ở địa phương tôi, lớp mà tôi chủ nhiệm, hiện tượng học


sinh viết sai chính tả là khá phổ biến. Học sinh thường viết sai những âm, vần như: ch / tr ; s/


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

5. Trước tình hình như vậy, việc nhìn nhận lại thực trạng về việc dạy chính tả để từ đó
tìm ra quy tắc hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng học chính tả cho học sinh là hết sức cần
thiết. Xuất phát từ những quan điểm trên, tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu đề tài: “Một
<i>vài kinh nghiệm về dạy chính tả lớp 5”</i>


<b>II.</b> <b>Mục đích nghiên cứu</b>


Mục đích chính của đề tài “Một vài kinh nghiệm về dạy chính tả lớp 5” nhằm cung
cấp cho học sinh lớp 5 và giúp các em cách ghi nhớ quy tắc chính tả theo kiểu mẹo. Từ đó
các em dễ dàng phân biệt được, viết được đúng chính tả theo quy tắc.


<b>III.</b> <b>Phương pháp nghiên cứu</b>


- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Phương pháp này giúp tơi có cơ sở khoa học về
ngữ âm, chính tả từ đó giúp tơi có góc nhìn tổng qt và quan niệm đúng đắn về quy tắc
chính tả hiện hành.


- Phương pháp tích lũy và thống kê: trong hơn 5 năm dạy học phương pháp này đã
cung cấp cho tôi vốn kinh nghiệm liên quan đến đề tài.


- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này hỗ trợ đắc lực trong việc cắt
nghĩa cơ sở lí luận.


Ngồi những phương pháp trên đây được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài, tơi
cịn vận dụng một số phương pháp khác.


<b>IV.</b> <b>Giới hạn của đề tài</b>



Đề tài nghiên cứu cả hai phương diện: học sinh lớp 5 và một số lỗi chính tả học sinh
lớp 5 thường mắc lỗi, đó là các từ, ngữ chứa phụ âm ch / tr ; s/ <i>x</i>; d / gi / r ; vần iêu / iu / ưu
và iêu / ươu / ưu.


<b>V.</b> <b>Kế hoạch thực hiện</b>


a. Tháng 10/2011 đến 11/2011 lập đề cương
b. Tháng 11/2011 đến 2/2012 viết


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>1. Một số quy định về chữ viết tiếng Việt</b>
1.1. Viết theo nguyên tắc ghi âm


Về nguyên tắc, chữ viết ghi âm phải căn cứ trên một cách phát âm. Mà tiếng Việt thì
tồn tại nhiều phương ngữ. Các cách phát âm địa phương có tính bảo thủ cao và thực tế là
chúng đều được tôn trọng. Người Hà Nội vẫn có niềm tự hào với phát âm “con châu” thay vì
“con trâu”. Cũng như vậy, người Sài gịn chẳng bao giờ mặc cảm khi hỏi “tai đâu?” mà
người nghe không biết chỉ vào tai hay đưa tay ra thay cho câu trả lời. Đặc biệt Đài tiếng nói
Việt Nam - cơ quan ngôn luận của Quốc gia cũng mặc nhiên phát đi bằng cả ba thứ giọng:
Hà Nội, Huế và Sài gòn đại diện cho ba phương ngữ lớn trên phạm vi cả nước. Thế nhưng
về mặt chữ viết, chỉ cho phép một cách duy nhất dùng để ghi mọi phương ngữ. Vậy đâu là
cơ sở cho chữ viết ? Cách viết ấy tơn trọng chuẩn chính tả đã được xác định và được phản
ánh về căn bản trong Từ điển phổ thông.


Nghĩa là chữ viết tiếng Việt căn cứ trên cách phát âm của người Hà Nội cộng với năm
sự phân biệt mà cách phát âm địa phương này cịn đồng nhất nói. Đó là tr/ch; s/ <i>x</i>; gi/d;
ưu/iu; ươu/iêu.


1.2. Viết rời từng chữ


Một âm tiết được ghi bằng một chữ. Viết “Ba Sao” chứ không viết “BaSao”. Tuy


nhiên trong giao tiếp bằng văn bản, các kiểu chữ viết liền nhau như trên vẫn tồn tại và được
sử dụng đơi khi. Sự cố chấp ấy có thể có hai lý do:


- Một là, cách viết đó đơn thuần chỉ mang tính cá nhân: Thư từ, nhật ký, ...


- Hai là, cách viết đó mang tính cộng đồng nhưng được nhìn nhận như một địa danh
trong các văn bản giao dịch quốc tế. Thí dụ Hanoi, Pari, London, ... Còn các văn bản khác,
nhất là dùng trong nhà trường, kiểu viết ấy được coi là mắc ba lỗi: không viết rời con chữ,
không viết hao âm tiết thứ hai của tên riêng; không viết dấu phụ và dấu thanh.


1.3. Có dấu thanh cho mỗi chữ


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

một từ của tiếng Pháp khơng có dấu thanh nhưng khi đã trở thành vốn từ vựng của tiếng Việt
là “ cà phê” thì hiển nhiên, tiếng “cà” đã mang thanh huyền và tiếng “phê” đã mang thanh
ngang rồi.


Nguyên tắc trên cũng được thể hiện trên chữ viết. Mỗi chữ đều mang một trong sáu
dấu thanh và được thể hiện trên chữ viết. Dấu thanh thanh có tác dụng khu biệt như một âm
vị. Vì thế, trên chữ viết, việc không viết dấu thanh sẽ khiến người đọc, người nghe lĩnh hội
sai (có khi là cố ý, có khi là vơ tình) điều mà người viết định truyền đạt.


<b>2. Quy định về cách viết hoa tên riêng</b>


2.1. Đối với tên riêng tiếng Việt: tên người và tên địa lý, viết hoa tất cả những âm vị
đứng đầu các âm tiết và không dùng dấu gạch nối: Võ Thị Sáu, Đồng Tháp, ... Tên tổ chức,
cơ quan ... thì chỉ viết hoa âm vị đứng đầu của các âm tiết thứ nhất trong tổ hợp dùng làm
tên: Trường tiểu học và trung học cơ sở Ba Sao, Phòng giáo dục Cao Lãnh, ...


2.2. Đối với tên riêng không phải tiếng Việt



Nếu chữ viết của nguyên ngữ dùng chữ cái La - tinh thì giữ đúng nguyên hình trên
chữ viết trong nguyên ngữ (kể cả các chữ cái f, j, w, z và dấu phụ ở một số chữ cái có thể
lược bỏ: Paris, London, ...)


Nếu chữ viết của nguyên ngữ không phải là chữ viết ghi âm bằng chữ cái thì dùng lối
phiên âm chính bằng chữ cái La - tinh.


Những chữ viết riêng có hình thức phiên âm Hán - Việt quen dùng trong tiếng Việt thì
nói chung không thay đổi, trừ một số trường hợp như Anh, Pháp, Bắc Kinh, Lỗ Tấn,...


2.3. Viết hoa để đánh dấu đầu câu, đầu dịng thơ
Thí dụ: “Tự Do và Ái Tình


Vì các ngươi ta sống
Vì Tình Yêu lồng lộng
Xin hiến cả đời tôi ...”


(Pê - tô - nhi)


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

tên người, tên địa danh của một số dân tộc ít người của Việt Nam: Chư pa, Kơ pa kơ
-lơng, ...


<b>3. Một số cách phân biệt chính tả phổ biến ở bậc tiểu học</b>
3.1. Cách phân biệt từ Hán - Việt


Từ Hán - Việt chiếm quá nửa tổng số từ vựng trong kho tàng tiếng Việt. Chúng lại có
những đặc điểm riêng về chính tả rất khác những từ thuần Việt. Thí dụ: “gi” (Hán - Việt),
chỉ đi với dấu hỏi và dấu sắc; “d” (Hán - Việt) chỉ đi với dấu ngã và dấu nặng; khơng có từ
Hán - Việt nào viết với vần “ui”, “ơn”, “it”, ... Cho nên một điều căn bản nhất đối với học
sinh để viết đúng chính tả là sự phân biệt từ Hán - Việt với từ không phải Hán - Việt.



3.2. Cách nhận mặt từ láy âm


Một cơ sở chữa lỗi chính tả là xét hiện tượng láy âm. Vậy ta phải nhân mặt được láy
là gì. Chữ “nhận mặt” ở đây chỉ có nghĩa nhìn về mặt hình thức cấu tạo biết ngay được một
số từ có phải là láy âm hay khơng. Một từ láy âm là một từ trong đó hai chữ có sự lặp lại
nhau nào đó. Ngồi u cầu về hình thức, hai chữ này phải có ít nhất một chữ khơng hoạt
động một mình thành từ. Nếu cả hai chữ dù có vẻ láy âm đi nữa, những đều hoạt động thành
từ được thì đó khơng phải là từ láy âm (lành mạnh, thung lũng, bình minh, tươi tốt, ...).
Trong từ láy âm, ta cần phân biệt giữa điệp và láy. Điệp là láy lại hoàn toàn một bộ phận nào
đó. Vì âm tiết tiếng Việt có năm bộ phận nên có năm cách điệp và có năm cách láy.


Trong việc chữa lỗi chính tả, các quy tắc điệp khơng có tác dụng bằng các quy tắc láy,
bởi vì nhờ quy tắc láy mà ta phục hồi được cái âm cần phải có. Chẳng hạn, căn cứ vào quy
tắc láy (dấu ngang đi với dấu hỏi, dấu ngã đi với dấu nặng) ta có thể kết luận “nghĩ” trong
“nghĩ ngợi” viết các dấu ngã; trái lại, “nghỉ” trong “nghỉ ngơi” viết với dấu hỏi. Còn gặp
hiện tượng điệp, cái âm mình vẫn viết sai thì ta khơng thể tự nhiên phân biệt được nó và ta
phải dùng con đường khác, đó là con đường từ vựng và con đường ngữ nghĩa.


<b>II. CƠ SỞ THỰC TIỄN</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

em hiểu sai nghĩa của từ và sử dụng từ sai. Những nguyên nhân cơ bản đưa đến thực trạng
này là:


- Giáo viên chưa dành nhiều thời gian đi sâu vào rèn kĩ năng viết đúng cho học sinh
trong các tiết dạy.


- Học sinh trong khi nói hoặc viết thường có thói quen sử dụng lẫn lộn các phụ âm
ch / tr ; s/ <i>x</i>; d / gi / r ; vần iêu / iu / ưu và iêu / ươu / ưu dẫn đến việc học sinh bị nhầm lẫn
giữa các phụ âm. Ngồi ra, cịn có những em phát âm ngọng và viết cũng ngọng theo. Một


trong những nguyên nhân cơ bản nữa là nhiều học sinh chưa nắm vững nguyên tắc ghi âm,
ghi thanh, chưa chú trọng đến nét nghĩa trong từng văn cảnh thường chỉ viết theo cảm tính,
khi viết lại khơng tập trung chú ý.


<b>III. THỰC TRẠNG VÀ MÂU THUẨN</b>
<b> 1. Một số lỗi thường gặp</b>


Trong q trình dạy học chính tả ở lớp 5, qua việc kiểm tra các môn học khác ở lớp 5,
tôi đã thống kê và phân loại một số lỗi phổ biến mà học sinh mắc phải dưới đây:


<b>Bảng 1</b>
<b>Lỗi ghi phụ âm</b>


<b>Viết sai</b> <b>Sửa đúng</b> <b>Viết sai</b> <b>Sửa đúng</b>


Cha thuốc Tra thuốc Trâu báu Châu báu


Dò trả Dò chả Dơi xuống Rơi xuống


tiệc chà tiệc trà Trõ xuống Chõ xuống


viết song viết xong Dong dêu Rong rêu


Chân trọng Trân trọng Tâm cảm Tõm khảm


Khét rắng Khét nắng Kinh tế Tinh tế


<b>Bảng 2</b>


<b>Lỗi ghi nguyên âm</b>



<b>Viết sai</b> <b>Sửa đúng</b> <b>Viết sai</b> <b>Sửa đúng</b>


đại sảy đại sảnh biếu cổ bướu cổ


Trìu tượng trừu tượng Liu luyến Lưu luyến


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Tịu trường Tựu trường Linh cĩu Linh cữu


<b>Bảng 3</b>
<b>Lỗi ghi âm cuối</b>


<b>Viết sai</b> <b>Sửa đúng</b> <b>Viết sai</b> <b>Sửa đúng</b>


nồng nàn Nồng nàn Hoa may Hoa mai


Táng thưởng Tán thưởng Ăn chai Ăn chay


biển ngữ biểu ngữ Cao có Cau có


Son sắc Son sắt Mau mắn May mắn


<b> 2. Nguyên âm</b>


Thực tế cho thấy học sinh lớp 5 mắc lỗi chính tả do nhiều nguyên nhân dẫn đến,
trong đó khơng ngoại trừ sự bất hợp lý của chữ viết Tiếng Việt, sự vô ý, sự cẩu thả, trí nhớ
chưa tốt của học sinh và cả ngọng nói nữa. Nguyên nhân cơ bản là do ảnh hưởng của cách
phát âm địa phương. Ngồi ra, ngun tắc chính tả hiện hành cũng chi phối sự mắc lỗi chính
tả trên.



2.1.Do viết sai viết phát âm chuẩn


Tiếng Việt là ngôn ngữ thống nhất. Về căn bản, chính tả tiếng Việt là một chính tả
thống nhất. Tuy nhiên, do Tiếng Việt có nhiều phương ngữ, thổ ngữ nên bên cạnh tính thống
nhất cao là chủ đạo, nó cũng có những nét dị biệt khá rõ ràng trong cách phát âm, cách dùng
từ giữa các vùng và tạo ra ấn tượng mạnh mẽ về sự tồn tại trong thực tế ba giọng khác nhau
tương ứng với ba phương ngữ, Ở Cao Lãnh, vùng dân cư thuộc địa bàn Ba Sao lại có những
đặc điểm phát âm khác nhau. Chẳng hạn, đặc điểm nổi bật chung của Ba Sao cũng là sự phát
âm lẫn lộn gi/d/r, ch/tr, s/x.


Chính đặc điểm phát âm đặc trưng đó có khác với phát âm chuẩn dẫn đến những
cách viết sai chính tả. Cú thể quy những lỗi này về hai dạng chủ yếu: lỗi viết sai phụ âm đầu
và lỗi viết sai phần vần (viết sai âm cuối).


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Là lỗi do học sinh lớp 5 không nắm được các đặc điểm và nguyên tắc kết hợp các
chữ cái, quy tắc viết hoa. Lỗi do không nắm được quy tắc phân bố và kí hiệu cũng biểu thị
một âm: nghành, ngi ngờ, qoăn qoeo...


2.3.Do chưa có thói quen viết đúng chính tả.


Xuyên suốt quá trình học ở bậc tiểu học, học sinh ln được rèn luyện viết đúng
chính tả theo hình đồng tâm. Tuy nhiên, khơng phải học sinh nào cũng có được thói quen
viết đúng chính tả. Nhiều học sinh viết sai ngay trong tiết chính tả. Bởi lẽ, học sinh vẫn chưa
có thúi quen học một cách tự giác, nên nhanh quên. Hơn nữa, học sinh cũng có khi khơng
được giáo viên phát hiện và uốn nắn, sửa lập thói quen ở mọi tiết, mọi lúc ở trường.


<b>IV. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ</b>
<b> 1. Phương hướng chung:</b>


Hiện nay, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ cũng như các nhà sư phạm đều có chung


quan điểm việc viết đúng chính tả Tiếng Việt là yêu cầu bắt buộc đối với mỗi học sinh và là
yêu cầu đặc biệt khắt khe đối với những người dạy học ở bậc tiểu học và đối với học sinh
hoàn thành chương trình tiểu học.


Một là, đọc và viết nhiều lần để ghi nhớ các chữ hay viết sai. Đọc càng nhiều, viết
càng nhiều, tần số xuất hiện của các chữ ấy càng cao và càng có cơ hội để tránh lỗi khi viết.
Chính vì vậy mà có một thực tế là, học sinh càng lên lớp cao thì càng ít viết sai chính tả.


Hai là, cần ln có ý thức về hệ thống phát âm được lấy làm cơ sở cho chữ viết. Đặc
biệt chú ý, quan tâm đến những chữ mà cách phát âm của địa phương có sự sai lệch so với
chuẩn. Trong trường tiểu học, người giáo viên có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc giúp
học sinh viết đúng chính tả. Chữ viết của giáo viên còn trên cả mức tác động mà thẩm thấu
vào thói quen viết chữ của học sinh. Do đó, giáo viên phải viết cho đúng, viết cho đẹp, cho
thật khoa học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Bốn là, áp dụng luật áp dụng cho từ láy: Tiếng Việt có sáu thanh chia thành hai hệ đối
lập nhau về âm vực. Âm vực thấp bao gồm dấu huyền, dấu ngã và dấu nặng, âm vực cao
gồm dấu ngang, dấu sắc và dấu hỏi. Khi gặp một từ láy có hai âm tiết, không biết viết “hỏi”
hay “ngã” nếu âm tiết kia mang dấu huyền, dấu nặng (đỡ đần, gặp gỡ…)


Năm là, áp dụng luật áp dụng cho từ Hán - Việt: Luật từ Hán - Việt bắt đầu bằng một
trong bảy phụ âm m, n, nh, l, d, ng được viết với dấu ngã (Mình Nên Nhớ Là Dấu Ngã).
<b> 2. Một số mẹo chính tả dành cho học sinh lớp 5</b>


2.1. Cách phân biệt CH với TR


Học sinh quen gọi TR là “chờ trê” và CH là “chờ chó”, lấy hình ảnh hai con vật
trong sách vỡ lòng mà các em học làm tên gọi hai âm này thoạt nghe có vẻ được chấp nhận
nhưng thực là khơng ổn vì thiếu cơ sở khoa học. Và cách gọi có vẻ ngộ nghĩnh này cũng đủ
chứng minh các em khơng có cách phân biệt nào ngồi cách dùng từ vựng.



Về mặt kết hợp ở trong âm tiết, TR không thể đứng trước những chữ có vần bắt đầu
bằng “oa, oă, oe, uờ”. Do đó, gặp những vần này, ta cứ viết với CH. Thí dụ: chống váng,
chích chịe, loắt choắt...


Những từ Hán - Việt có dấu nặng hoặc dấu huyền đều khơng đi với CH mà đi với
TR. Do đó, ta có TR đi với dấu nặng: trịnh trọng, trụ sở, triệu phú, trị giá, doanh trại.,. TR đi
với dấu huyền: trình độ, truyền thống, trào lưu, triều đại...


Vì vậy, ta cú mẹo gặp từ gốc Hỏn - Việt mà ta không phân biệt được TR hay CH nhưng nếu
viết với dấu nặng hay dấu huyền thì chữ ấy viết với TR chứ không viết với CH.


Về mặt láy âm, sự khác nhau giữa TR và CH cũng rất rõ mặc dù về mặt hình thức
cấu tạo có vẻ giống nhau. Do đó, nếu gặp từ láy âm khơng phân biệt được TR hay CH thì
dứt khóat đó là điệp âm đầu. Cả hai chữ đều là TR hoặc CH. Những từ điệp âm TR rất ít,
chủ yếu đó là những từ mang nghĩa “trơ” (Nghĩa gốc- nghĩa đen) như: trơ trọi, trống trải, trơ
trụi, trần truồng...) hoặc mang nghĩa “trơ” (nghĩa chuyển – nghĩa bóng) như: trơ trẽn, trơ
tráo, trâng tráo, trừng trợ,..., hay mang nghĩa là “chậm” như trì trệ, trục trặc...


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

TR không láy âm đầu với một phụ âm khác, nó trừ bốn ngoại lệ đều là L cả. Trái
lại, CH lấy âm đầu với rất nhiều phụ âm khác bằng cách đứng trước hoặc đứng sau. Ta có
mẹo nếu một chữ có thể tạo nên một từ láy hoặc đứng sau. Ta có mẹo nếu một chữ có thể
tạo nên một từ láy âm không điệp âm đầu, thì trừ bốn ngoại lệ là trọc lóc, trót lọt, trụi lũi,
trẹt lét, đó là một chữ với CH chứ khơng phải với TR.


Thí dụ 1: CH đứng ở vị trí thứ nhất: chum lum, chồm hỗm, chênh hênh, chơi bời, chịe bẻo,
chẹp lẹp, chàng màng, chào mào, chểnh mảng,...


Thí dụ 2: CH đứng sau: lã chã, lao chao, lau chau, lỏng chỏng, loai choai, lởm chởm, lủn
chủn...



2.2. Cách phân biệt S và X


Về mặt kết hợp ở trong âm tiết, S không đi với các âm bắt đầu bằng “oa, oă, oe, uê”.
Do đó, ta có “xuề xịa, xoay xở, xuệch xoạc, xoắn xt, xn xoẹt, xuyềnh xồng, xun
xoe...” mà khơng có “Soa, xoăn, soe, suê...” là vì vậy (trừ “suê” trong “sum suê” là khơng có
nghĩa)


Về mặt láy âm, S và X đều láy điệp vần đầu nhưng S lại không láy với X. Do đó, cả
hai chữ đều phải hoặc là điệp S hoặc là điệp X.


2.3. Cách phân biệt GI với D


Học sinh đọc D là “dờ” hay “dê đê”, gọi Gi là “dờ-I”. Điều này cho thấy học sinh chỉ
phân biệt trên cơ sở chính tả mà thơi. Chính vì vậy, tình trạng lẫn lộn Gi và D vẫn phổ biến,
lại thiếu cơ sở ngữ âm, dù cho là ngữ âm địa phương. Sự khó khăn này cịn rắc rối thêm do
nhiều hiện tượng khác.


Về mặt kết hợp trong nội bộ chữ viết, Gi không đứng trước các vần bắt đầu bằng “oa,
oă, uâ, oe, uê, uy”, trái lại, D lại đứng trước các vần ấy. Do đó, ta có “doạ nạt, duy trì, duyệt
binh, hậu duệ, dỗng” mà khơng có “gioanh trại, guy trì...” là vì thế.


Vậy ta có mẹo gặp một chữ có những vần bắt đầu bằng “oa, oă, oe, uâ, uê, uy” thì viết
là D chứ khơng viết là Gi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Sự lẫn lộn này diễn ra vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Do chỗ các nguyên âm không
cùng một hàng, cho nên nguyên âm “ư” do cùng hàng sau với âm “I”. Do đó, ta có IU. Vần
IU chỉ xuất hiện trong ngơn ngữ của chính tả, đều chỉ một cái gì đó cong lại, khơng bằng
phẳng (bỉu mơi, líu lưỡi, địu con, ỉu xìu) và “chịu đựng”, “dịu” trong “xoa dịu”. Ngồi ra nó
chỉ xuất hiện trong từ láy âm và thường khơng có nghĩa, nó đứng ở vị trí thứ hai của từ láy


(hắt hiu, chắt chiu, dập dìu...)


Ngồi những chỗ đó ra, có thể n tâm viết là “ưu”. Đặc biệt, khơng có từ Hán - Việt
nào có vần “iu”. Vậy, gặp từ gốc Hán, ta cứ yên tâm viết với vần “ưu” hay “iêu” tùy theo
chính tả.


2.5. Cách phân biệt IÊU, ƯƠI và ƯU


Vần “ươu”, học sinh thường mắc lỗi. Chữ “bướu” viết thành “biếu”, “hươu rượu” viết
thành “hiêu, riệu”.


Thực ra, vần” ươu” chỉ xuất hiện trong vẻn vẹn mấy chữ: cái bướu, con hươu, con
khướu, rượu, đầu bướu - bướng bỉnh. Đặc biệt, khơng có từ Hán - Việt nào xuất hiện với vần
“ươu” hết. Do đó, sự nhầm lẫn này rất dễ khắc phục được.


<b>3. Dạng bài tập thực hành phân biệt CH và TR</b>
3.1. Đối tượng: Tất cả các đối tượng học lớp 5


3.2. Yêu cầu: Phân biệt Ch và TR trong bảng chữ thường dùng.
3.3. Nội dung:


a, Chính tả (nghe - viết): Bác chủ nhiệm


Bác chủ nhiệm đến trụ sở xã họp chi bộ. Bác chấp hành triệt để các chính sách của
cấp trên. Bác chú ý đến việc chi tiêu của hợp tác xã, đến trang thiết bị kỹ thuật, trình độ quản
lý cũng như mức thu nhập trung bình của các xã viên. Bác chuẩn bị chu đáo, chính xác mọi
kế hoạch trước khi họp. Hợp tác xã của bác đã trở thành tiên tiến trong huyện.


b, Câu hỏi chính tả



Câu hỏi 1: Điền CH hay TR vào chỗ trống (dành cho học sinh đại trà)


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Câu hỏi 2: Thử giải thích tại sao những chữ in nghiêng sau lại viết là TR.(dành cho
học sinh khá, giỏi).


- Cha tôi ngồi trên chõng trên nói chuyện với chú Trúc. - Trời chưa tối nhưng chẳng
có ai đến.- Chớ tin những lời đồn nhảm. - Chị ấy yêu chồng lắm. – Có thế chứ, mấy chén
vẫn còn.


Câu hỏi 3: Thử giải thích tại sao những chữ in đậm lại viết với TR(dành cho học sinh
khá, giỏi)


- Trong nhà, trước ngõ đều vắng.- Con trai con gái đi họp cả. - Vầng trăng trên trời
sáng vằng vặc. – Nhà sao mà trống trải và trơ trọi quá. - Thằng bé đầu trọc lốc, ở trần truồng
đang nô giỡn trên sân.


c, Chữa lỗi chính tả ( nếu có):


- Anh ta chán cao, mắt sáng.- Con chó chung thành với chủ của nó. – Quân địch chạy
chốn.- Bài văn ấy viết không được chôi chảy.- Trận trung kết bắt đầu.


d, Bài tập vui: Đặt những câu ngắn có nhiều TR hoặc Ch. (Thí dụ: Trên trời, trăng treo
trơ trọi hoặc Cha, chú, chị, cháu chăm chút cho chùm chơm chơm chóng chín).


<b>V. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG</b>


- Trong q trình giảng dạy, một số cách phân biệt chính tả nêu trênvà nhận thấy học
sinh có tiến bộ rõ rệt. Học sinh hứng thú trong giờ học chính tả khơng cịn “sợ” học chính tả
như trước đây. (Số lỗi sai giảm hẳn) Tỉ lệ học sinh viết sai chính tả giảm đáng kể, học sinh
viết chữ đẹp hơn nhờ không phải suy nghĩ lâu “tiếng hoặc từ đó viết như thế nào cho đúng”.


Những em trước kia sai 9,10 lỗi thì nay cịn 5,6 lỗi, những em viết sai 4,5 lỗi thì nay chỉ cịn
1 ,2 lỗi…


- Kết quả cụ thể như sau:


<b>THỜI ĐIỂM</b> <b>SỐ</b>


<b>LƯỢNG</b>


<b>GIỎI</b> <b>KHÁ</b> <b>TB</b> <b>YẾU</b>


S
SL
T
TL %
S
SL
T
TL %
S


SL TL %


S
SL


T
TL%


K/s đầu năm 33 1 3,0 2 6.0 19 57,7 11 33,3



Giữa HK I 33 1 3,0 2 6.0 23 69,8 7 21,2


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Giữa HK II 33 7 21,2 12 36,4 13 39,4 1 3,0


<b>PHẦN KẾT LUẬN</b>
<b>I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

có đầy đủ năng lực để học tiếp lên các lớp trên và giao tiếp với xã hội một cách tự tin, chững
chạc. Nhiệm vụ này không chỉ tiến hành trong một thời gian ngắn mà cho ta kết quả tốt ngay
được mà phải tiến hành trong thời gian dài.


<b>II. KHẢ NĂNG ÁP DUNG CỦA ĐỀ TÀI</b>


Khi đề tài này được hồn thiện thì tơi đã áp dụng trong dạy học tại Trường tiểu học và
trung hoc cơ sở Ba Sao. Sau một năm đưa vào thực nghiệm tại lớp 5/3, đề tài đã chứng tỏ
được khả năng áp dụng một cách phổ biến ở các lớp thuộc khối 5.


<b>III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐỀ TÀI</b>
<b> 1. Bài học kinh nghiệm</b>


Khi xây dựng hệ thống bài tập, tôi luôn bám sát các nguyên tắc soạn thảo bài tập. Đó
là nguyên tắc vừa sức, nội dung bài tập được sắp xếp theo thứ tự dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp, tránh ra kiểu bài tập đánh đố hoặc quá khó. Đó là nguyên tắc thực hành, bài tập
đưa ra phải chú trọng tới yếu tố này để giúp học sinh có kĩ năng thực hành và hình thành kĩ
năng viết đúng chính tả. Đó là nguyên tắc tích hợp, các bài tập đưa ra phải mang tính tổng
hợp có chọn lọc. Một điều nên chú ý là bài tập phải phù hợp với tất cả các đối tượng tiếp thu
và khả năng thực hành trong lớp để tránh nhàm chán và thái độ bất lực.


Phải tuân thủ nguyên lý dạy học: lấy hoạt động học của học sinh làm trung tâm học


sinh phát huy tính tích cực trong học tập. Bằng cách học sinh thực hành một số bài tập thực
hành rồi thảo luận nhóm để tìm mẹo chính tả. Khơng nên cung cấp mẹo chính tả cho học
sinh ngay rồi mới làm bài tập. Vì như vậy, học sinh dễ quên.


Phải xây dựng nội dung, chương trình bổ trợ một cách khoa học và cụ thể đảm bảo
tính khả thi, tránh kiểu “ăn đong” ôm đồm, hoặc vụn vặt. Phải xác định được lỗi chính tả
trọng tâm, phổ biến của học sinh để điều chỉnh, phân phối thời lượng, khối lượng bài tập cho
phù hợp.


Phải tăng cường giám sát, theo dõi và kiểm tra thường xuyên, tránh qua loa, chiếu lệ.
Phải chỳ ý sửa cho học sinh ở mọi nơi, mọi lúc (nếu có thể), mọi mơn học và phân
mơn học khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Trong thời gian tới, tôi sẽ nghiên cứu và phát triển trên cơ sở của đề tài ở góc độ trị
chơi học tập nhằm cải tiến hình thức làm bài tập hiện đã được áp dụng.


<b>IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ</b>


Trong bất kỳ thời đại nào và cho dù hình thái xã hội biến đổi thì chữ viết - Tiếng Việt vẫn
được coi trọng. Trong định hướng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thì việc giữ gìn sự trong
sáng của tiếng mẹ đẻ là một vấn đề cần đựơc quan tâm. Chính vì vậy, tôi đề xuất một số kiến
nghị như sau:


Một, đối với Hội đồng khoa học cấp trường – nơi trực tiếp quản lí và thực hiện nhiệm
vụ dạy học chính tả - không chỉ quan tâm đến việc xếp loại sáng kiến kinh nghiệm, xem xét
và nghiên cứu tính khả thi của đề tài để phổ biến rộng rãi trong giáo viên.


Hai, đối với Hội đồng khoa học các cấp trên cơ sở - nơi quản lí và chỉ đạo hoạt động
dạy học chính tả - ngồi việc đánh giá xếp loại, cần phân loại sáng kiến kinh nghiệm của
giáo viên theo tiêu chí nào đó để quan tâm đúng mức đến ý nghĩa thực tiễn của đề tài.



<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


1. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học – Lê Phương Nga và Nguyễn Trí _ NXB.
Đại học Quốc gia, 1999.


2. Tiếng Việt hiện đại _ Nguyễn Hữu Quýnh _ Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa
Việt Nam, Hà Nội, 1996.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

5. Tiếng Việt thực hành_ Bùi Minh Toán, Lê A và Đỗ Việt Hựng _ NXB Giáo dục,
1998.


6. Từ điển Anh – Anh - Việt, Nguyễn Sang Phúc _ NXB Văn hố Thơng tin.


7. Từ điển chính tả Tiếng Việt _ Nguyễn Như Ý và Đỗ Việt Hùng_NXB Giáo dục, 1997.
8. Từ điển Hán-Việt, Đào Duy Anh, NXB Khoa học Xã Hội, 1996.


</div>

<!--links-->

×