Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

ngu van

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.45 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Những hướng nghiên cứu mới của Việt </b>


<b>ngữ học và cách tiếp cận liên ngành</b>



<i>• Nguyễn Huy Cẩn</i>


Việc nghiên cứu tiếng Việt hiện nay vẫn là sự tiếp nối của những thành tựu trong các
giai đoạn trước, trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến một số phương diện
nghiên cứu gần đây thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà ngôn ngữ học, như các
vấn đề về Ngữ dụng học và Ngữ pháp chức năng, Xã hội ngôn ngữ học, Tâm lí ngơn
<i>ngữ học, Ngơn ngữ học tri nhận, Ngơn ngữ học ứng dụng, đặc biệt là những vấn đề về</i>
<i>mối liên quan giữa ngơn ngữ và văn hố. Về cách tiếp cận mới đối với tiếng Việt tất </i>
nhiên cịn có những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, thảo luận, thậm chí cả việc xác
định đối tượng nghiên cứu và tìm kiếm các mơ hình và lí thuyết thích hợp với tiếng
Việt. Nhưng với những kết quả nghiên cứu này, phần nào cho thấy những đặc trưng
của tiếng Việt, mà nếu chỉ nghiên cứu thuần t dưới góc độ ngơn ngữ học, hoặc theo
các phương pháp nghiên cứu truyền thống, thì có nhiều điểm chưa sáng tỏ; bởi trong
khoa học hiện đại, những phạm vi đối tượng nghiên cứu giáp ranh và có tính liên
ngành thường đem lại những phát hiện mới. Có thể cho rằng: Việc nghiên cứu
phương diện chức năng của ngôn ngữ, nghiên cứu ngôn ngữ gắn liền với sự hành
chức của nó, với xã hội, văn hố, tâm lí, nhận thức và chủ thể người sử dụng ngôn
ngữ là những hướng tiếp cận mới đối với tiếng Việt. Những hướng nghiên cứu mới
này được thấy khá rõ trong Việt ngữ học, từ những năm cuối của thế kỉ trước đến
những năm đầu của thế kỉ XXI.


Ở bài viết này chúng tơi có bổ sung thêm một số tư liệu mới và một số nhận định mới
hơn so với bài viết trước [13]. Nhưng đây mới chỉ là những ý kiến sơ bộ, những khái
quát ban đầu trên tư liệu hiện có. Bức tranh trên về Việt ngữ học sẽ được bổ sung đầy
đủ và phong phú hơn với những thành tựu mới.


<b>1. Về hướng nghiên cứu Ngữ dụng học và Ngữ pháp </b>


<b>chức năng</b>




Ngữ dụng học và ngữ pháp chức năng quan tâm đến việc sử dụng ngôn ngữ và các
phạm vi của giao tiếp lời nói. Với phương diện nghiên cứu này, ngữ dụng học và ngữ
pháp chức năng hi vọng tìm kiếm những bản chất mới của ngôn ngữ mà những quan
điểm thiên về bản thân kí hiệu ngơn ngữ, coi lời nói chỉ có tính cá nhân trong lí thuyết
của F. de Saussure tỏ ra khơng thích hợp. Bởi vì, theo M.A.K. Halliday thì một sự giải
thích cuối cùng đối với các hiện tượng ngôn ngữ là nằm ở trong việc sử dụng ngôn
ngữ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Cơng trình sau này của Đỗ Hữu Châu Đại cương Ngôn ngữ học (Tập II: Ngữ dụng
<i>học [2]), có thể xem là một cơng trình tiêu biểu trong việc nghiên cứu ngữ dụng học ở</i>
Việt Nam. Trong cơng trình này cũng như ở những cơng trình của một số tác giả khác
(Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Đức Dân) những vấn đề trung tâm của ngữ dụng học đã
được trình bày một cách hệ thống và phân tích trên cứ liệu tiếng Việt như: chiếu vật
và chỉ xuất, hành vi ngơn ngữ, lí thuyết lập luận, lí thuyết hội thoại, ý nghĩa hàm ẩn và
tường minh. Có thể thấy điểm nổi bật của việc nghiên cứu ngữ dụng học là khảo sát
về ngữ cảnh và việc giao tiếp. Hướng nghiên cứu này có thể xem là đối lập với cấu
trúc luận. Bởi vì các nhà nghiên cứu ngữ dụng học cho rằng các yếu tố bên ngồi,
thuộc về ngữ cảnh giao tiếp có quan hệ chặt chẽ với các yếu tố bên trong của hệ thống
ngơn ngữ. Trong đó, phạm vi cấu trúc thơng tin của phát ngơn trong tiếng Việt có
những đặc điểm riêng, liên quan đến cái gọi là cấu trúc “đề - thuyết” của câu. Đây là
một phương diện được một số tác giả, tiêu biểu là Cao Xuân Hạo, quan tâm và có thể
cho đó là một hướng nghiên cứu mới trong nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt hiện nay.
Trên quan điểm ngữ pháp chức năng, Cao Xuân Hạo cho rằng tiếng Việt là ngôn ngữ
thuộc loại hình khơng phải có kết cấu chủ - vị, mà là thuộc loại hình có kết cấu đề -
thuyết [1].


Về quan niệm đề - thuyết và quan niệm kết cấu chủ - vị trong những năm vừa qua đã
liên tiếp có những tranh luận cả trên các báo chí lẫn trong các hội thảo khoa học về
ngữ pháp tiếng Việt ([3], số 14/2004). Có thể thấy những quan điểm khác nhau của


một bên tiêu biểu là Đỗ Hữu Châu, Lê Xuân Thại,... bên kia là Cao Xuân Hạo và một
số người khác. Thực chất của hai quan điểm nêu trên là: Một bên cho rằng cấu trúc
chủ - vị là cấu trúc của các ngơn ngữ phương Tây, khác với loại hình đơn lập tiếng
Việt; còn bên kia cho rằng cấu trúc đề - thuyết là không tiêu biểu cho thực tế của tiếng
Việt và có tính khiên cưỡng. Gần đây Hoàng Văn Vân lại vận dụng một hướng tiếp
cận của ngữ pháp chức năng hệ thống đối với ngữ pháp tiếng Việt mà theo ơng thì
những nghiên cứu ngữ pháp của tiếng Việt, cũng như ngữ pháp chức năng của Cao
Xuân Hạo, mặc dù có những thành tựu nhưng vẫn khơng tỏ ra có sức mạnh giải thích
ngữ pháp tiếng Việt [18]. Chúng tơi cho rằng, những quan điểm nêu trên của ngữ
pháp chức năng, ngữ dụng học, ngữ pháp chức năng hệ thống đều cho thấy những
phương diện khác nhau của cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt và dường như càng ngày
chúng ta càng tiến gần đến một đối tượng phức tạp, đó là Ngơn ngữ - tiếng Việt và
người sử dụng nó.


<b>2. Về hướng nghiên cứu Ngơn ngữ học xã hội</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Một phạm vi quan trọng khác của ngơn ngữ học xã hội vĩ mơ, đó là kế hoạch hố
ngơn ngữ được trình bày trong cuốn: Kế hoạch hố ngơn ngữ - ngơn ngữ học xã hội
<i>vĩ mơ[12] của Nguyễn Văn Khang. Trong đó tác giả đã giới thiệu và phân tích một </i>
cách hệ thống các cơng việc kế hoạch hố ngơn ngữ với những nội dung cơ bản là: kế
hoạch hoá vị thế ngơn ngữ, kế hoạch hố bản thể ngơn ngữ, kế hoạch hố uy tín ngơn
ngữ. Ở đây kế hoạch hố uy tín ngơn ngữ được coi là một khung tổng thể về kế hoạch
hố ngơn ngữ.


Như chúng tơi trình bày ở mục ngữ dụng học và cả ở phần dưới đây về tâm lí ngơn
ngữ học, vấn đề giao tiếp được ngôn ngữ học xã hội đặc biệt quan tâm. Khảo sát về
lớp từ xưng hô trong tiếng Việt, cũng như các vấn đề về giới tính và yếu tố lịch sự
trong giao tiếp ngôn ngữ, tác giả cho thấy tiếng Việt có những đặc thù và khuynh
hướng riêng trong việc sử dụng ngôn ngữ. Yếu tố lịch sự trong giao tiếp cũng được
nhiều tác giả khác như Nguyễn Thiện Giáp [10], xem xét như một chiến lược quan


trọng cùng với “nguyên lí cộng tác”, yếu tố này chi phối cả quá trình cũng như kết
quả giao tiếp. Khảo sát những vấn đề trên dưới góc độ ngơn ngữ học xã hội cịn cho
thấy những đặc trưng văn hố - xã hội của người Việt trong giao tiếp.


<b>3. Về hướng nghiên cứu Tâm lí ngơn ngữ học và Ngơn</b>


<b>ngữ học tri nhận</b>



Cũng như tình hình chung của các bộ mơn có tính liên ngành ở Việt Nam, những vấn
đề về tâm lí ngơn ngữ học và ngơn ngữ học tri nhận gần đây đã thu hút sự chú ý của
nhiều nhà nghiên cứu.Trong một số giáo trình đại học và chuyên khảo đã đề cập đến
các vấn đề tâm lí ngơn ngữ học. Chẳng hạn như sưu tập chuyên đề Một số vấn đề cơ
<i>bản của tâm lí ngơn ngữ học[15]; những bài về ngơn ngữ trẻ em tại các hội nghị khoa </i>
học nghiên cứu nuôi dạy trẻ ở Hà Nội (1978, 1986, 1991).


Việc nghiên cứu ngơn ngữ trẻ em ở Việt Nam tuy cịn mới mẻ nhưng đã thu được một
số kết quả nhất định, như đưa ra những chỉ số phát triển về ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ
pháp, vốn từ; về khả năng ngôn ngữ trẻ em và những cách tiếp cận tâm lí ngơn ngữ
học, ngơn ngữ học xã hội đến đối tượng này.


Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng: hướng tiếp cận ngơn ngữ trẻ em theo cách mà
nó hình thành (Ontogenez) đã thu hút sự chú ý của các nhà tâm lí học và ngơn ngữ
học trên thế giới. Hướng tiếp cận này cho phép làm sáng tỏ phương diện bên trong
của tổ chức của khả năng ngôn ngữ, không phải về mặt “định lượng”, mà quan trọng
là ở mặt “định tính” và sự phát triển kế tiếp nhau của các thành tố trong khả năng
ngôn ngữ của đứa trẻ. Đây là hướng nghiên cứu được chúng tôi triển khai trong nhiều
năm và đã cơng bố trong một số cơng trình tại Viện Ngôn ngữ học, Viện HLKH Liên
Xô (1989, 1990), ở Việt Nam (2001, 2005), và một số hội nghị khoa học quốc tế
(1996, 2004). Lần đầu tiên ở Việt Nam với cơng trình Từ hoạt động đến ngơn ngữ trẻ
<i>em [14], chúng tôi đã không chỉ xác định cơ sở tâm lí ngơn ngữ học của sự tiếp thu </i>
ngơn ngữ của trẻ em người Việt, mà cịn nêu lên những đặc điểm của tổ chức, hoạt


động của khả năng ngơn ngữ trẻ em nói một ngơn ngữ thuộc loại hình đơn lập là tiếng
Việt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Nam không chỉ trên phương diện “định lượng” là quá trình phát triển của các phương
diện ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa của trẻ em, mà còn nêu lên những đặc trưng của
quá trình tiếp thu và sản sinh phát ngơn của trẻ em người Việt. Đó là sự hình thành và
phát triển các cấu trúc nền tảng thuộc các cấp độ ngữ âm, ngữ nghĩa, cú pháp được
biểu hiện trong các giai đoạn phát triển sớm trong hoạt động lời nói của trẻ em. Chúng
tơi cho rằng sự sản sinh phát ngơn lời nói ở trẻ em gắn liền với sự tri nhận của trẻ đối
với thế giới xung quanh, mà trực tiếp là tri nhận về hoạt động thực tiễn của đứa trẻ
cũng như những thao tác của đứa trẻ đối với đối tượng.


Vấn đề về sự sản sinh và tiếp thu ngôn ngữ, về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy,
ngôn ngữ và nhận thức, giữa hoạt động - hành động - ngôn ngữ, đã thu hút sự chú ý
của tâm lí ngơn ngữ học hiện đại. Ở Việt Nam những vấn đề trên cũng được nhiều tác
giả nghiên cứu và tổng kết, giới thiệu (chẳng hạn như trong các cơng trình của Hồ Lê,
Lí Toàn Thắng, Nguyễn Đức Tồn, Nguyễn Huy Cẩn, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Lai
v.v...).


Nếu xem ngôn ngữ học tri nhận là một sự tăng cường phân tích vai trị của nhận thức
đối với các đơn vị ngôn ngữ (nhất là ở phạm vi ngữ nghĩa), thì ở Việt Nam có một số
tác giả quan tâm đến lĩnh vực này như Lí Tồn Thắng, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn
Đức Tồn v.v..., trong đó Lí Tồn Thắng là người có nhiều nghiên cứu một cách hệ
thống và đi sâu vào tiếng Việt[25]. Có những vấn đề theo hướng nghiên cứu này sẽ
đưa lại những phát hiện mới mà trong những nghiên cứu truyền thống trước đây chưa
được làm sáng tỏ. Trong Sự hình dung khơng gian trong ngữ nghĩa của loại từ và
<i>danh từ chỉ đơn vị ([3], số 3/2001, tr. 1-19), Lí Tồn Thắng đã nêu lên “cách thức mà </i>
người Việt dùng các loại từ để mơ tả các thuộc tính khơng gian của vật thể” và từ đó
xếp loại chúng. Qua đó có thể suy đốn về một cách thức riêng của tiếng Việt trong
việc ý niệm hoá, phân loại và mô tả thế giới khách quan - một vấn đề hiện đang được


chú ý trên thế giới dưới ảnh hưởng của trào lưu “ngôn ngữ học tri nhận”. Sự tri nhận
không gian của người Việt thông qua các từ: ra, vào, lên, xuống, trên, dưới, được một
số tác giả bàn đến. Trong Những giới từ không gian: sự chuyển nghĩa và ẩn dụ[24],
Nguyễn Đức Dân cho rằng: những từ như: trên-dưới, trước-sau, gần-xa, trong-ngoài,
là những cặp khái niệm nguyên thuỷ trong nhận thức không gian có liên hệ tới sự tồn
tại và vận động của con người, chúng có sự chuyển nghĩa rất mạnh trong q trình
phát triển nhận thức.


Mối quan hệ ngơn ngữ và tư duy còn được đề cập đến trong một số cơng trình nghiên
cứu so sánh ngơn ngữ. Như nghiên cứu các từ chỉ các bộ phận thân thể của người
trong tiếng Việt và tiếng Nga của Nguyễn Đức Tồn ([3], số 3/1993). Trong cuốn
<i>Logic và tiếng Việt[7], Nguyễn Đức Dân đã phân tích tiếng Việt dưới góc độ logic và </i>
xem xét những quan hệ của hoạt động ngôn ngữ và tư duy. Trong việc nghiên cứu
ngôn ngữ trẻ em, Nguyễn Huy Cẩn thông qua việc khảo sát các q trình hình thành
ngơn ngữ trẻ em đã làm sáng tỏ mối quan hệ qua lại giữa sự phát triển của cấu trúc
nhận biết và các thành tố của khả năng ngôn ngữ của đứa trẻ [14].


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>4. Về mối quan hệ giữa Ngơn ngữ và Văn hố</b>



Có thể cho rằng trong thập kỉ vừa qua, vấn đề ngôn ngữ và văn hố đã lơi cuốn mạnh
mẽ sự chú ý của các nhà ngơn ngữ học Việt . Đã có hàng loạt các nghiên cứu cũng
như các cuộc hội thảo về vấn đề này, trong đó các nhà Việt ngữ học đã chú ý đến
những đặc trưng văn hoá-dân tộc của tiếng Việt trong việc nghiên cứu ngữ nghĩa của
từ, thành ngữ, phương ngữ, tư duy và ngôn ngữ, giao tiếp ở người Việt [5; 9; 15; 24].
Nhìn chung các tác giả có xu hướng áp dụng các phương pháp và các nguyên tắc của
ngôn ngữ học vào việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hố. Mặc dù
cịn có nhiều quan niệm và những cách tiếp cận khác nhau, nhưng chúng tôi muốn
nhấn mạnh rằng: “Những vấn đề về ngơn ngữ và văn hố cần được tiếp cận một cách
liên ngành mà việc sử dụng bộ máy khái niệm ngôn ngữ học thuần tuý chưa hẳn là
một cách tiếp cận tối ưu; bức tranh văn hoá qua ngôn ngữ và mối quan hệ giữa ngôn


ngữ và văn hố sẽ được làm sáng tỏ hơn khơng chỉ trên những ngữ liệu có tính ”đặc
thù", riêng lẻ của ngơn ngữ và văn hố, mà cịn trên những ngữ liệu có tính bao qt
hơn, đó là “mã hiệu” của ngơn ngữ và văn hố ([15], H.: 2002, tr.26). Về khái niệm
văn hố cịn có những định nghĩa khác nhau, nhưng các nhà nghiên cứu đều cho rằng
ngôn ngữ dân tộc là một bộ phận của nền văn hố dân tộc, ngơn ngữ là một trong
những phương tiện biểu hiện đặc trưng của văn hoá dân tộc, giữa ngơn ngữ và văn
hố có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Phạm Đức Dương cho rằng “Nếu như
<i>văn hoá là tổng thể những hệ thống các tín hiệu khổng lồ mang tính thiết chế xã hội, </i>
<i>bao trùm lên mọi hoạt động của một cộng đồng người nhất định, thì ngơn ngữ là một </i>
<i>hệ thống tín hiệu quan trọng bậc nhất được xây dựng trên quan hệ biểu trưng văn </i>
<i>hoá của loài người” ([15], H.:1997). Theo Trần Ngọc Thêm, việc nghiên cứu quan hệ </i>
giữa ngơn ngữ và văn hố đã trải qua 3 thời kì, kể từ Humboldt cuối thế kỉ XIX với
luận điểm coi “ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc”. Thời kì thứ 2 từ những năm 1930
với E.Sapir và B. Whorf, thời kì thứ 3 là từ những năm 1950 với Claude Levi-Strauss
và hiện nay là thời kì thứ 4, quan tâm đến mối quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hố nói
chung. Theo Trần Ngọc Thêm, mối quan hệ bộ phận - tồn thể giữa hai đối tượng
ngơn ngữ và văn hoá dẫn đến quan hệ tương hỗ giữa hai thành phần ngơn ngữ và văn
hố học. Ngơn ngữ có thể giúp gì cho việc xây dựng văn hố học lí thuyết và ngược
lại ([23], tr.11).


Về những khảo sát những chứng tích có liên quan đến ngơn ngữ và văn hố gần đây
phải kể đến cơng trình Một số chứng tích ngơn ngữ, văn tự và văn hoá của GS.
Nguyễn Tài Cẩn [16]. Điều đáng chú ý trong cơng trình này là tác giả đã phát hiện ra
những chứng tích văn tự, ngơn ngữ có liên quan đến văn hố Việt - một hướng nghiên
cứu mà khơng ít học giả nước ngồi đã cố gắng tìm kiếm từ trước đến nay trong việc
nghiên cứu lịch sử tiếng Việt.


Có thể thấy một hướng nghiên cứu liên văn hố - ngơn ngữ qua việc so sánh tiếng
Việt và các ngôn ngữ khác, như các cơng trình của Phạm Đức Dương và Phan Ngọc
<i>Tiếp xúc ngơn ngữ Đơng Nam Á[19], hay cơng trình Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn </i>


<i>hoá Việtcủa Nguyễn Văn Chiến [17].</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Trịnh Thị Kim Ngọc từ góc độ nghiên cứu về con người nói chung đã cho rằng khơng
thể nghiên cứu con người và văn hố nếu bỏ qua ngôn ngữ của họ ([3], số 14/2002, tr.
42-50).


<b>5. Về Ngôn ngữ học ứng dụng</b>



Ở Việt Nam, từ cuối thế kỉ trước đến nay nhiều vấn đề của ngôn ngữ học ứng dụng đã
được quan tâm. Gần đây các phương diện nghiên cứu như: ngôn ngữ và công nghệ
thông tin, ngôn ngữ và việc dạy tiếng, những vấn đề ứng dụng giao tiếp, về bệnh học
ngôn ngữ, v.v... đã bước đầu thu được những kết quả đáng khích lệ.


Về những vấn đề ngơn ngữ và cơng nghệ thông tin ở Việt Nam hiện nay, theo Nguyễn
Văn Lợi, Phạm Hùng Việt, Ngơ Trung Việt, thì cần thiết có sự kết hợp chặt chẽ giữa
ngơn ngữ học và công nghệ thông tin theo hai hướng: 1) Áp dụng các phương pháp và
các phương tiện của công nghệ thơng tin vào việc nghiên cứu lí thuyết và ứng dụng
của tiếng Việt. 2) Nghiên cứu và giải quyết những vấn đề tiếng Việt trong công nghệ
thông tin ([3], số 10/2002).


Vấn đề ngôn ngữ và việc dạy tiếng ở Việt từ lâu đã được đông đảo mọi người quan
tâm. Trong tình hình đổi mới nền kinh tế hiện nay thì vấn đề ngoại ngữ và tiếng Việt
càng được chú ý nghiên cứu và phát triển. Các phương pháp của việc dạy ngoại ngữ ở
Việt hiện nay chủ yếu dạy theo phương pháp giao tiếp có kết hợp với một số phương
tiện nghe - nhìn khá hiện đại. Có một số giáo trình dạy tiếng, một số luận án cao học
và tiến sĩ đã bước đầu nêu lên những đặc trưng của tiếng Việt khi so sánh với tiếng
nước ngoài.


Hiện nay, việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài cũng được mở rộng ở nhiều khoa
tiếng Việt - văn hoá Việt của một số trường đại học. Theo Bùi Khánh Thế, việc dạy


tiếng Việt cho người nước ngoài cần phải chú ý đến phương diện văn hố - ngơn ngữ
của tiếng Việt cũng như tiếng mẹ đẻ của học viên, việc dạy tiếng Việt cần được quan
niệm như dạy một ngôn ngữ thứ hai cho học viên ([3], số 10/2003).


Việc dạy tiếng Việt với tư cách là một ngoại ngữ cũng như việc dạy ngoại ngữ hiện
nay ở Việt Nam chủ yếu dựa trên cơ sở của ngôn ngữ học đối chiếu và lí thuyết tiếp
xúc ngơn ngữ và đã thu được những kết quả nhất định, nhất là khi chú ý đến phương
diện giao tiếp ngôn ngữ. Tuy vậy chúng ta thấy cơ sở tâm lí ngôn ngữ học của việc
dạy tiếng ở Việt hiện cịn ít được chú ý, điều đó sẽ làm hạn chế đến kết quả của việc
dạy và học.


Một vấn đề khá quan trọng và có tính thời sự trong sự nghiệp đổi mới giáo dục - đào
tạo ở Việt hiện nay là vấn đề tiếng Việt trong nhà trường phổ thơng. Trong cơng trình
<i>Mấy vấn đề lí luận... Nguyễn Đức Tồn đã nêu lên những phương pháp của việc dạy </i>
tiếng Việt trong nhà trường dựa trên những cơ sở tâm lí ngơn ngữ học của việc tiếp
thu ngôn ngữ. Với những thủ pháp khoa học, giáo viên và học sinh có thể vận dụng dễ
dàng trong việc dạy và học tiếng Việt [6].


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Như việc điểm sơ bộ ở trên về tình hình nghiên cứu Việt ngữ học ở Việt trong thời
gian vừa qua cho thấy: chúng ta đã đạt được không ít thành tựu ở các phương diện
nghiên cứu liên ngành; nhưng cịn có những phạm vi chúng ta chưa nghiên cứu được
nhiều. Chẳng hạn như: vấn đề về sản sinh phát ngơn lời nói trong tâm lí ngơn ngữ
học, vấn đề về lí thuyết giao tiếp, các vấn đề về thần kinh - ngôn ngữ và bệnh học lời
nói, v.v... Những vấn đề về lí thuyết thơng tin, dịch máy, tự động hố xử lí văn bản,
dường như được giới khoa học Việt kiều và các doanh nhân quan tâm nhiều hơn. Phải
chăng chúng ta còn thiếu một quy hoạch tổng thể về “người và của” và một tầm nhìn
của thời kì cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong việc nghiên cứu Tiếng Việt
và người sử dụng nó.


<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>




1. <b>Cao Xuân Hạo</b>. Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng. Nxb Khoa học Xã
hội, 1991.


2. <b>Đỗ Hữu Châu</b>. Đại cương ngôn ngữ học: Ngữ dụng học. Nxb Giáo dục, H.,
2001.


3. Tạp chí Ngơn ngữ.


4. <b>Hồ Lê</b>. Quy luật ngôn ngữ (Quyển 1, 2, 3, 4). Nxb Khoa học Xã hội, 1995,
1996, 1999, 2001.


5. <b>Nguyễn Đức Tồn</b>. Tìm hiểu đặc trưng ngơn ngữ văn hố của tư duy người
<i>Việt. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.</i>


6. <b>Nguyễn Đức Tồn</b>. Mấy vấn đề lí luận và phương pháp dạy - học từ ngữ tiếng
<i>Việt trong nhà trường. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002.</i>


7. <b>Nguyễn Đức Dân</b>. Logic và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H., 1996.
8. <b>Nguyễn Đức Dân</b>. Ngữ dụng học (tập 1). Nxb Giáo dục, H., 1998.


9. <b>Nguyễn Thiện Giáp</b> (chủ biên). Lược sử Việt ngữ học. Nxb Giáo dục, H.,
2005.


10.<b>Nguyễn Thiện Giáp</b>. Dụng học Việt ngữ. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2000.


11.<b>Nguyễn Văn Khang</b>. Ngôn ngữ học xã hội: Những vấn đề cơ bản. Nxb Khoa
học Xã hội, 1998.



12.<b>Nguyễn Văn Khang</b>. Kế hoạch hố ngơn ngữ – Ngôn ngữ học xã hội vĩ mô.
Nxb Khoa học Xã hội, 2003.


13.<b>Nguyễn Huy Cẩn</b>. Một số hướng nghiên cứu mới của Việt ngữ học ở Việt
<i>hiện nay. Tạp chí Thơng tin KHXH, số 7, 2001.</i>


14.<b>Nguyễn Huy Cẩn</b>. Từ hoạt động đến ngôn ngữ trẻ em. Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2001.


15.<b>Nguyễn Huy Cẩn</b> (chủ biên). Thông tin KHXH - Sưu tập chuyên đề. Viện
Thông tin KHXH, 1987, 1997, 2002.


16.<b>Nguyễn Tài Cẩn</b>. Một số chứng tích về ngơn ngữ, văn tự và văn hố. Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2001.


17.<b>Nguyễn Văn Chiến</b>. Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hoá Việt. Nxb Khoa học
Xã hội, 2004.


18.<b>Hồng Văn Vân</b>. Mơ tả cú pháp kinh nghiệm của tiếng Việt theo quan điểm
<i>chức năng - hệ thống. Nxb Khoa học Xã hội, 2003.</i>


19.<b>Phạm Đức Dương & Phan Ngọc</b>. Tiếp xúc ngôn ngữ Đông Á. Nxb Khoa học
Xã hội, 1983.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

21.<b>Trần Ngọc Thêm</b>. Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H.,
1999.


22.<b>Trần Ngọc Thêm</b>. Cơ sở văn hoá Việt Nam. Nxb Giáo dục, H., 1998.


23.<i>Việt Nam - Những vấn đề ngơn ngữ và văn hố. Hội Ngơn ngữ học Việt Nam </i>


và Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, 1993.


24. Hội nghị ngôn ngữ học Liên Á. Lần thứ V: Thành phố Hồ Chí Minh (tháng
11/2000); lần thứ VI: Hà Nội (tháng 11/2004).


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×