Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Gioi thieu chung ve to chuc UNESCO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.48 KB, 18 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TỔ CHỨC</b>


<b>GIÁO DỤC, KHOA HỌC VÀ VĂN HÓA CỦA LIÊN HỢP QUỐC (UNESCO)</b>
<b> />


<b>I. Khái quát chung về UNESCO:</b>


Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO) được thành lập
ngày 16/11/1945 với mục đích “Góp phần duy trì hồ bình và an ninh quốc tế bằng cách
thắt chặt sự hợp tác giữa các quốc gia về giáo dục, khoa học và văn hố để đảm bảo sự tơn
trọng của tất cả các nước về công lý, pháp luật, quyền con người và tự do cơ bản cho tất cả
mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo mà Hiến chương Liên
Hợp Quốc đã công nhận đối với tất cả các dân tộc”.


UNESCO có các chức năng sau:


- Là cơ sở thí nghiệm các ý tưởng mà nhiệm vụ trí tuệ là dự đốn và xác định những vấn đề
quan trọng nhất đang phát sinh trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của mình, tiếp đó
nhận dạng những chiến lược và chính sách thích hợp nhằm giải quyết chúng.
- Là tổ chức soạn thảo quy chuẩn nơi xây dựng những hiệp định chung về đạo đức, chuẩn
mực và tri thức mang tính sống cịn trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền. Vấn đề này đã
đưa UNESCO vào những tiến trình trao đổi tri thức liên ngành phức tạp và vào quá trình
đàm phán với các chuyên gia và các quốc gia thành viên.


- Là trung tâm chỉ dẫn, giao dịch nơi đóng vai trị quan trọng trong việc tập hợp, chuyển
giao, truyền bá và chia sẻ các thông tin, tri thức và những kinh nghiệm thực tiễn tốt nhất.
- Là tổ chức tạo dựng năng lực cho các quốc gia thành viên, UNESCO giúp các nước thành
viên xây dựng năng lực về thể chế và nhân lực trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn
hố, truyền thơng và thơng tin.


- Là nhân tố xúc tác cho hợp tác quốc tế. Chức năng này được thực hiện thông qua tất cả
bốn chức năng nêu trên.



Năm chức năng cơ bản này là những phương cách chủ yếu để UNESCO thực hiện nhiệm
vụ của mình. Thơng qua các chiến lược và hoạt động cụ thể của mình, UNESCO đang
đóng góp tích cực vào việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), đặc
biệt là những mục tiêu nhằm:


+ Giảm một nửa tỉ lệ ngườidân sống trong tình trạng nghèo cùng cực ở các nước đang phát
triển vào năm 2015;


+ Đạt phổ cập giáo dục tiểu học ở tất cả các nước vào năm 2015;


+ Xố bỏ sự bất bình đẳng về giới trong giáo dục tiểu học và trung học vào năm 2005;
+ Giúp các nước thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển bền vững trước năm 2005
nhằm đảo ngược xu hướng hiện nay về tổn thất các nguồn tài nguyên môi trường vào năm
2015.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

21 tháng 2 Ngày ngôn ngữ mẹ đẻ quốc tế
21 tháng 3 Ngày thơ thế giới


23 tháng 4 Ngày bản quyền và sách thế giới
3 tháng 5 Ngày tự do báo chí thế giới


21 tháng 5 Ngày phát triển văn hoá thế giới


23 tháng 8 Ngày tưởng niệm quốc tế về buôn bán nô lệ và thủ tiêu chế độ nơ lệ.
8 tháng 9 Ngày xố mù chữ quốc tế


5 tháng 10 Ngày nhà giáo quốc tế


10 tháng 11 Ngày khoa học thế giới về hồ bình và phát triển


16 tháng 11 Ngày khoan dung thế giới


21 tháng 11 Ngày triết học


<b>Thập kỷ quốc tế được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tuyên bố và những sự kiện liên</b>
<b>quan đến UNESCO:</b>


2005-2015 Thập kỷ giáo dục cho phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc
2003-2012 Thập kỷ xoá mù chữ của Liên Hợp Quốc


2001-2010 Thập kỷ quốc tế thứ 2 về xoá bỏ chế độ thực dân.


2001-2010 Thập kỷ quốc tế về văn hố hồ bình và phi bạo lực cho trẻ em
1997-2006 Thập kỷ đầu tiên của Liên Hợp Quốc về xoá nghèo.


1995-2004 Thập kỷ Liên Hợp Quốc về giáo dục quyền con người
1994-2004 Thập kỷ quốc tế về người dân bản xứ của thế giới.
<b>II. CƠ CẤU TỔ CHỨC</b>


<b>1. Đại hội đồng</b>


Đại hội đồng là cơ quan quyền lực cao nhất, gồm đại biểu của các nước thành viên, họp hai
năm một lần. Đại hội đồng quyết định đường lối, chính sách, kết nạp thành viên mới, bầu
Hội đồng chấp hành và Tổng giám đốc, thơng qua chương trình và biểu quyết ngân sách.
Ngơn ngữ làm việc tại Đại hội đồng gồm Ả- rập, Trung Quốc, Anh, Pháp, Nga và Tây Ban
Nha.


<b>2. Hội đồng chấp hành</b>


Hội đồng chấp hành là cơ quan thay mặt Đại hội đồng trong thời gian giữa hai kỳ họp của


Đại hội đồng, giám sát việc thực hiện chương trình và quản lý ngân sách; duy trì quan hệ
tham khảo ý kiến với Liên Hợp Quốc, Toà án quốc tế và các tổ chức quốc tế khác thuộc
Liên Hợp Quốc; lập chương trình nghị sự và chuẩn bị cho Đại hội đồng; nghiên cứu dự
thảo chương trình và ngân sách do Tổng giám đốc đệ trình và đưa dự thảo này ra Đại hội
đồng với những ý kiến cần thiết; đề nghị kết nạp thành viên mới và giới thiệu người ứng cử
vào chức vụ Tổng giám đốc...


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>3. Ban Thư ký</b>


Ban thư ký là cơ quan thực hiện, bảo đảm hoạt động thường xuyên của UNESCO, thi hành
nghị quyết của Đại hội đồng và Hội đồng chấp hành, nhất là thực hiện các chương trình đã
được Đại hội đồng thông qua.


Về nguyên tắc, Ban thư ký được tuyển chọn trên cơ sở địa lý rộng rãi và gồm những người
có năng lực và hiệu suất cơng tác cao. Các nước thành viên có quyền đề cử người để được
tuyển lựa làm viên chức trong Ban thư ký theo số lượng nhất định quy định theo tỉ lệ đóng
góp niên liễm của mỗi nước. Ban thư ký do Tổng giám đốc lãnh đạo, tổ chức và tuyển
dụng. Cho đến tháng 1/2007, Ban thư ký gồm 2.100 nhân viên từ 170 nước. Theo chính
sách phi tập trung hố hiện nay, hơn 700 nhân viên làm việc tại 58 văn phịng UNESCO
khu vực trên thế giới, trong đó có Văn phòng UNESCO tại Hà Nội được thành lập tháng 9
năm 1999.


Tổng giám đốc là viên chức cao nhất của UNESCO do Đại hội đồng bầu ra với nhiệm kỳ 6
năm (có thể được tái cử). Tổng giám đốc có nhiệm vụ đảm bảo hoạt động thường xuyên
của UNESCO, dự thảo chương trình và ngân sách, thực hiện chương trình, quản lý ngân
sách, chịu trách nhiệm về mọi sáng kiến và quyết định trong phạm vi quyền hạn của mình.
Từ khi thành lập đến nay, UNESCO đã lần lượt có 9 Tổng Giám đốc: Julian Huxley, người
Anh (1946-1948); Jaime Torres Bodet, người Mê-hi-cô (1948-1952); John W.Taylor,
người Mỹ (1952-1953); Luther Van, người Mỹ (1953-1958); Vittorino Veronese, người Ý
(1958-1961); René Maheu, người Pháp (1961-1974); Amadou-Mahtar M’Bow, người


Xê-nê-gan (1974-1987); Federico Mayor, người Tây Ban Nha (1987-1999) và hiện nay là ông
Koichiro Matsuura, người Nhật, được bầu Tổng giám đốc nhiệm kỳ 1 từ 1999-2005 và
nhiệm kỳ 2 từ 2005 đến nay.


<b>III. CÁC MỐI QUAN HỆ CỦA UNESCO</b>


<b>1. Với Liên Hợp Quốc và các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc</b>


Theo thỏa ước được Đại hội đồng UNESCO lần thứ nhất thông qua ngày 6/12/1946 và
được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc chấp thuận ngày 14/12/1946, UNESCO là cố vấn kỹ
thuật của Liên Hợp Quốc về các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của UNESCO: giáo dục, khoa
học, văn hố, thơng tin. Đồng thời UNESCO cũng là cơ quan thực hiện các nghị quyết của
Liên Hợp Quốc về những lĩnh vực đó.


Khác với các cơ quan trực thuộc của Liên Hợp Quốc khác như UNDP, UNCTAD,
UNICEF... có quyền quan hệ trực tiếp với Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, UNESCO cũng
như các cơ quan chuyên môn khác quan hệ với Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua
Hội đồng Kinh tế và Xã hội (ECOSOC) và hàng năm gửi báo cáo lên Hội đồng này.
UNESCO và Liên Hợp Quốc thường xuyên tham khảo ý kiến và tham dự những hội nghị
của nhau nhưng khơng có quyền biểu quyết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>2. Với các nước thành viên</b>


Tất cả các nước thành viên của Liên Hợp Quốc đều có thể là thành viên của UNESCO. Các
nước ngoài Liên Hợp Quốc có thể gia nhập UNESCO nếu được 2/3 Đại hội đồng
UNESCO chấp nhận. Ngồi thành viên chính thức, UNESCO cịn có một số thành viên
liên kết. Nước thành viên nào bị khai trừ khỏi Liên Hợp Quốc mặc nhiên sẽ khơng cịn là
thành viên của UNESCO. Bất cứ nước thành viên hoặc thành viên liên kết nào cũng có thể
xin ra khỏi UNESCO theo những thủ tục và điều kiện nhất định. Trong lịch sử UNESCO
đã từng có các nước xin ra khỏi UNESCO như Mỹ (năm 1984), Anh và Singapore (năm


1985). Sau một thời gian rút khỏi UNESCO, Mỹ và Anh đã quay trở lạiTổ chức này (Anh
năm 1997 và Mỹ năm 2003). Với việc gia nhập UNESCO của Cộng hoà Montenegro tháng
3/2007, hiện nay UNESCO gồm 192 nước thành viên và 6 thành viên liên kết.
Công ước thành lập UNESCO quy định tại mỗi nước thành viên có một (UBQG) gồm đại
diện của Chính phủ, các bộ/ngành liên quan và các nhân vật có khả năng hoạt động về giáo
dục, khoa học, văn hố thơng tin. Đối với UNESCO, Uỷ ban quốc gia có các chức năng: tư
vấn, liên lạc, thông tin và thực hiện. Nhiệm vụ của UBQG do Chính phủ của mỗi nước quy
định. Các nước thành viên cử Phái đồn thường trực của nước mình bên cạnh tổ chức
UNESCO ở Paris để đảm bảo quan hệ trực tiếp với UNESCO.


<b>3. Các mạng lưới chuyên môn của UNESCO</b>


UNESCO hợp tác với mạng lưới các đối tác để triển khai các hoạt động của mình. Hiện
nay có:


- Khoảng 100 uỷ ban tư vấn, các uỷ ban quốc tế và các hội đồng liên Chính phủ được
thành lập để thực hiện những nhiệm vụ cụ thể của UNESCO;


- 4.000 các Hiệp hội, Trung tâm, các Câu lạc bộ UNESCO ở 100 nước truyền bá ý tưởng
UNESCO và thực hiện các hoạt động UNESCO ở cấp cơ sở;


- 7.900 các Trường liên kết ở 176 nước giúp thế hệ trẻ hình thành thái độ khoan dung và
hiểu biết quốc tế;


- Hơn 335 tổ chức phi chính phủ (NGO) duy trì quan hệ chính thức với UNESCO;


- Một nhóm gồm hơn 40 nhân vật nổi tiếng - Đại sứ thiện chí UNESCO- dùng tài năng và
địa vị của mình để giúp mọi người trên thế giới chú ý đến công việc và nhiệm vụ mà
UNESCO đang thực hiện;



- Hơn 580 Giáo sư đại học và 65 các trường đại học kết nghĩa bao gồm mạng lưới
UNITWIN/UNESCO khuyến khích việc nghiên cứu, đào tạo và phát triển giáo dục đại
học;


- 179 nước thành viên có Phái đồn thường trực bên cạnh UNESCO;


- Các nghị sĩ có vai trị quan trọng đối với UNESCO trong quan hệ với các tổ chức khu vực
và quốc tế nhằm thúc đẩy hồ bình và phát triển thông qua giáo dục và dân chủ.


<b>IV. NGUỒN TÀI CHÍNH CỦA UNESCO</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Ngân sách thường xuyên này dùng để chi cho các hoạt động chung, cho hành chính phí của
UNESCO cũng như các hoạt động nghiệp vụ của Ban thư ký tại trụ sở chính và các văn
phòng khu vực. Các khoản chi để giúp các nước thành viên trong khn khổ “chương trình
thường xun” và “chương trình tham gia” cũng nằm trong ngân sách này.


2. Nguồn ngoài ngân sách UNESCO: do sự tài trợ hoặc phối hợp hoạt động của các tổ chức
quốc tế và cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc, chủ yếu là các tổ chức UNDP,
UNICEF, Ngân hàng Thế giới... và tiền đóng góp tự nguyện của các nước. Nguồn ngoài
ngân sách được dùng vào việc thực hiện các dự án phát triển của các nước thành viên dưới
các hình thức viện trợ kỹ thuật, thiết bị, đào tạo bồi dưỡng cán bộ.


UNESCO khơng tồn quyền quyết địnnh việc sử dụng các nguồn ngồi ngân sách mà
thường đóng vai trị người xây dựng hoặc thực hiện dự án, vận động, giới thiệu, trung gian
môi giới để tranh thủ sự thoả thuận của các tổ chức quốc tế hoặc các nước chi tiền.
Nguồn ngồi ngân sách cịn bao gồm quỹ ký gửi của các nước tại UNESCO. Tuy nhiên,
UNESCO cũng không thể toàn quyền quyết định việc sử dụng các quỹ đó.


3. Quỹ đặc biệt: do vận động sự đóng góp tự nguyện của quốc tế. Đây là nguồn ngân sách
được đặc biệt sử dụng trong việc viện trợ khẩn cấp do thiên tai, chiến tranh gây ra đối với


các công trình văn hố, trường học ...


<b>V. QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM - UNESCO</b>


* Hiện nay UNESCO đang tham gia vào chương trình cải tổ của Liên Hợp Quốc với mơ
hình “Một Cơ quan Liên Hợp Quốc” mà Việt Nam được chọn là một trong 8 quốc gia thực
hiện thí điểm chương trình này. Thực chất của cơng cuộc cải tổ này là thay đổi cách thức
hoạt động của Liên Hợp Quốc ở Trụ sở chính, ở mỗi khu vực và mỗi nước. Chương trình
cải tổ này chú trọng hơn vào việc thực hiện các hoạt động, tính hiệu quả, tính gắn kết và
kết quả trong nội bộ hệ thống Liên Hợp Quốc và tăng cường vai trị, tiếng nói của các nước
đang phát triển.


<b>1. Một số thông tin chung</b>


Năm 1951, Pháp đưa chính quyền Bảo Đại vào tham gia UNESCO. Sau đó chính quyền
Sài Gịn duy trì sự có mặt tại UNESCO cho đến khi sụp đổ tháng 4/1975. Tháng 3/1976,
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hồ Miền nam Việt Nam tuyên bố kế thừa tham gia
UNESCO. Sau khi thống nhất đất nước, ngày 12/7/1976, Bộ Ngoại giao nước ta gửi công
hàm cho UNESCO thông báo Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam kế tục tham gia
UNESCO. Tháng 10/1976, với tư cách là thành viên chính thức của UNESCO, lần đầu tiên
Chính phủ CHXHCN Việt Nam cử một đoàn đại biểu tham dự Đại hội đồng UNESCO lần
thứ 19 tổ chức tại Nai-rô-bi (Kenya).


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

đại diện thường trực bên cạnh tổ chức UNESCO tại Paris và từ năm 1982 cử cấp đại sứ
làm trưởng Phái đoàn.


Kể từ khi gia nhập UNESCO, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu của
UNESCO về ý tưởng, nhận thức và kinh nghiệm cũng như những đóng góp về tài chính và
kỹ thuật ban đầu cho một số dự án của Việt Nam. Thời gian gần đây, quan hệ hợp tác giữa
Việt Nam và UNESCO có những bước phát triển mới cả về lượng và chất, đồng thời ngày


càng thu được nhiều kết quả.


<b>2. Những thành tựu</b>


2.1.Hợp tác với UNESCO trong việc triển khai các ý tưởng mới trong hoạch định chính
sách


Các ý tưởng, các kinh nghiệm quốc tế mà UNESCO cung cấp đã được áp dụng, chuyển tải
vào các chương trình hành động, chương trình phát triển, các chính sách, chiến lược quốc
gia, được phổ biến, thấm nhuần từ lãnh đạo đến các cấp, đến từng người dân, do đó có tác
động sâu bền tới sự phát triển của đất nước.


- Trong lĩnh vực giáo dục, những tư tưởng đề cao và cổ vũ cho giáo dục của UNESCO rất
phù hợp với việc coi giáo dục là quốc sách của Việt Nam. Đã có một sự hợp tác chặt chẽ
giữa Việt Nam và UNESCO để thực hiện mục tiêu bao trùm là mang giáo dục lại cho tất cả
mọi người như: phổ cập giáo dục tiểu học (trong đó ưu tiên xóa mù chữ); canh tân giáo dục
phục vụ phát triển (trong đó chú trọng đến ứng dụng các phương pháp giảng dạy mới, các
thành tựu khoa học, công nghệ vào công tác giảng dạy và quản lý giáo dục); dân chủ hóa
và xóa bất bình đẳng trong giáo dục (chú trọng giáo dục các đối tượng như các em gái, phụ
nữ, dân nghèo, người dân nông thôn); giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề với mơ hình
Trung tâm học tập cộng đồng nhằm xóa đói, giảm nghèo và nâng cao năng lực tham gia
phát triển cộng đồng cho người nghèo; giáo dục thường xuyên (với ý nghĩa là một quá
trình giáo dục bắt đầu từ tuổi trẻ và tiếp tục suốt cả đời bằng sự kết hợp nhịp nhàng các
hình thức giáo dục trong và ngoài nhà trường); xây dựng mạng lưới các trường liên kết
(nội dung hoạt động của mạng lưới ở Việt Nam là tập trung tích hợp các nội dung giáo dục
hiểu biết quốc tế, văn hóa hịa bình, bảo vệ di sản và thúc đẩy giáo dục cho mọi người vào
các mơn học vừa để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế trong giai đoạn mới)...


Hiện nay, một trong những chương trình lớn đang triển khai ở Việt Nam (theo sáng kiến


của Liên Hợp Quốc và do UNESCO điều hành chính) là “Thập kỷ Giáo dục vì Phát triển
bền vững 2005-2014”. Mục tiêu của Thập kỷ này là thúc đẩy giáo dục với vai trò là nền
tảng cho một xã hội phát triển bền vững hơn và lồng ghép phát triển bền vững với nội dung
giáo dục ở các cấp. Khi triển khai ở Việt Nam “Thập kỷ Giáo dục vì Phát triển bền vững”
sẽ thúc đẩy cơng cuộc cải cách giáo dục, làm cho giáo dục đáp ứng với các đòi hỏi yêu cầu
phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

điều tiết của phát triển kinh tế-xã hội”. Với Việt Nam, hoạt động trong Thập kỷ này đã có
những đóng góp thiết thực cho việc đổi mới cả về lý luận và nhận thức cũng như một số
chủ trương chính sách về văn hóa. Nội dung Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về “Xây
dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” thể hiện tầm cao mới về lý luận
của Đảng đối với vai trị của văn hóa trong phát triển, có sự đóng góp khơng nhỏ của
“Thập kỷ quốc tế Phát triển Văn hóa”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

các khu dự trữ sinh quyển Việt Nam làm mơ hình mẫu cho giáo dục vì phát triển bền vững
hiện đang hình thành và được thế giới quan tâm.


Các chương trình khác như “Chương trình Hải dương học liên Chính phủ (IOC)”, “Chương
trình Thuỷ văn quốc tế (IHP)” “Chương trình liên hệ địa chất quốc tế (IGCP)” đều đưa ra
những vấn đề nghiên cứu ứng dụng thiết thực cho Việt Nam. “Dự án xây dựng nền kinh tế
tri thức” mà UNESCO giúp Bộ Khoa học và Cơng nghệ hồn thành năm 2003 đã đúc kết
những khái niệm, kinh nghiệm của quốc tế và trên cơ sở thực tiễn Việt Nam đưa ra những
nội dung chính của chiến lược kinh tế tri thức của đất nước nhằm nâng cao hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.
Các chương trình khoa học xã hội như “Chương trinh liên Chính phủ về Quản lý các
chuyển giao xã hội (MOST), “Vấn đề Đạo đức trong khoa học”, “Đối thoại triết học”...
cũng là những chương trình bổ ích, đặc biệt để nâng cao nhận thức và kiến thức của các
giới nghiên cứu, hoạch định chính sách xã hội, khoa học.


- Trong lĩnh vực thông tin-truyền thông, UNESCO quan tâm đến việc thúc đẩy phát triển


thông tin-truyền thông, tăng cường cơ sở hạ tầng, đào tạo chuyên gia, đảm bảo quyền tiếp
cận thơng tin vì phát triển cho mọi người, đặc biệt chú trọng giúp các nước nghèo, trong đó
có Việt Nam, tiếp cận các cơ hội phát triển thông qua thông tin-truyền thông. Việt Nam đã
nhận được nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ của UNESCO thơng qua chương trình phát triển truyền
thông, đặc biệt là về ứng dụng công nghệ thông tin trong cơng tác phát thanh, truyền hình
và xuất bản.


2.2. Hợp tác với UNESCO trong việc nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
- UNESCO đã công nhận Nguyễn Trãi là Danh nhân Văn hoá Thế giới và tổ chức kỷ niệm
600 năm ngày sinh của Ông vào năm 1980.


- Năm 1987, Đại hội đồng UNESCO lần thứ 24 đã ra Nghị quyết 24C-18.65 về việc kỷ
niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Vị “Anh hùng Giải phóng dân tộc và
Nhà Văn hóa lớn”. Nghị quyết khuyến nghị các nước thành viên UNESCO cùng tham gia
tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người và trên thực tế, trong năm 1990, hàng loạt
các hoạt động đã được tổ chức long trọng khơng chỉ ở Việt Nam mà cịn tại Trụ sở chính
UNESCO tại Paris và ở nhiều thủ đơ của các nước trên thế giới.


- Công nhận các Di sản Việt Nam là Di sản Thế giới:
+ Di sản văn hố thế giới:


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

• Khu Đơ thị cổ Hội An: Được công nhận vào năm 1999 theo hai tiêu chí (Cii) là minh
chứng vật chất nổi bật về sự giao lưu giữa các nền văn hóa trong lịch sử, và tiêu chí (Cv) là
ví dụ điển hình về truyền thống định cư của lồi người.


• Di tích Mỹ Sơn: Được công nhận vào năm 1999 theo tiêu chí (Cii) là một ví dụ điển hình
về trao đổi văn hóa và tiêu chí (Ciii) là bằng chứng duy nhất của một nền văn minh ở Châu
Á đã bị biến mất.


• Trung tâm Hồng Thành Thăng Long: Được Ủy ban Di sản Thế giới ra Nghị quyết công


nhận tại kỳ họp thứ 34 tại Brasilia (thủ đô Brazil) theo giờ địa phương vào lúc 20h30 tức
6h30 ngày 1/8/2010 theo giờ Việt Nam. Những giá trị nổi bật toàn cầu của khu di sản được
ghi nhận bởi 3 đặc điểm nổi bật: Chiều dài lịch sử văn hóa; Tính liên tục của tài sản với tư
cách là một trung tâm quyền lực và các tầng di tích di vật đa dạng, phong phú.


+ Di sản thiên nhiên thế giới:


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

• Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng: Được cơng nhận vào năm 2003 theo tiêu chí (Ni) là
một minh chứng về quá trình hình thành và phát triển của vỏ trái đất (hệ núi đá vôi Phong
Nha-Kẻ Bàng nằm trong vùng địa máng Trường Sơn tiêu biểu nhất cho hệ đá vôi
Cacbon-Pecmi. Đây là một trong những vùng Karst cổ rộng lớn, bị chia cắt mạnh và phát triển liên
tục, được hình thành trên 400 triệu năm).


+ Di sản văn hố phi vật thể:


• Nhã nhạc Cung đình Huế: được cơng nhận là Kiệt tác Văn hoá Phi vật thể và Truyền
khẩu của nhân loại năm 2003.


• Khơng gian Văn hố Cồng Chiêng Tây Ngun: được cơng nhận là di sản văn hóa phi vật
thể năm 2005.


- Công nhận các khu dự trữ sinh quyển Việt Nam thuộc mạng lưới các Khu Sinh quyển
Thế giới:


+ Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh: được cơng
nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới năm 2000. Khu này có tổng diện tích là 71.370 ha
và dân số là 57.403 người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

+ Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà, thành phố Hải Phịng, được cơng nhận là Khu
dự trữ sinh quyển thế giới năm 2004. Khu này có tổng diện tích là 26.241 ha và dân số là


10.673 người.


+ Khu dự trữ sinh quyển đất ngập nước ven biển liên tỉnh châu thổ sông Hồng thuộc 5
huyện: Thái Thụy, Tiền Hải (tỉnh Thái Bình), Giao Thủy, Nghĩa Hưng (tỉnh Nam Định) và
Kim Sơn (tỉnh Ninh Bình), được cơng nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới năm 2004.
Khu này có tổng diện tích là 105.557 ha và dân số là 128.675 người.


+ Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang thuộc tỉnh Kiên Giang, được công nhận là Khu dự trữ
sinh quyển thế giới năm 2006. Khu này có tổng diện tích là 1.188.105 ha và dân số là
352.893 người.


-Hà Nội được UNESCO trao giải thưởng “Thành phố vì Hồ bình” (1999) và được chọn là
nơi tổ chức Lễ phát động Năm quốc tế Văn hố Hồ bình của khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương (14/9/1999).


-Đại hội đồng UNESCO lần thứ 30 đã thông qua Nghị quyết Kỷ niệm 990 năm Thăng
Long-Hà Nội (2000) hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội (2010).
- Việt Nam được tín nhiệm đăng cai tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo lớn của khu vực:
+ Hội nghị Phụ nữ Châu Á-Thái Bình Dương với Văn hố Hồ bình (Hà Nội,
6-9/12/2000);


+ Hội thảo khu vực Châu Á-Thái Bình Dương về Xây dựng báo cáo định kỳ các khu di sản
thiên nhiên và hỗn hợp thế giới (1/2003);


+ Hội nghị khu vực Châu Á-Thái Bình Dương về Đối thoại giữa các nền Văn hố và Văn
minh vì Hồ bình và Phát triển bền vững (Hà Nội, 20-21/12/2004);


+ Hội nghị tư vấn các Uỷ ban quốc gia UNESCO khu vực Châu Á-Thái Bình Dương (Hà
Nội, 6-9/6/2006) đóng góp ý kiến cho Dự thảo Chiến lược trung hạn
UNESCO 2008-2013 (34C/4), Dự thảo Chương trình và Ngân sách 2008-2009 (34C/5)


cũng như đóng góp ý kiến cho tài liệu của Tổng Giám đốc UNESCO về “Tương lai của
UNESCO”...


- Các Giải thưởng của UNESCO trao tặng Việt Nam: Giải “Xoá mù chữ của UNESCO”
(các năm 1978, 1979, 1980, 1983, 1985, 1988 và 1997); Giải “Âm nhạc của Hội đồng Âm
nhạc Quốc tế” (1981).


2.3.Tranh thủ sự giúp đỡ của UNESCO về tài chính và chất xám/kỹ thuật
2.3.1.Về tài chính


- Hàng năm, UNESCO hỗ trợ cho Việt Nam thơng qua các Chương trình tham gia, Chương
trình thường xuyên, hoặc các dự án từ Quỹ Uỷ thác (Fund-in-Trust).


-Bằng uy tín của mình UNESCO đã vận động các nước, các tổ chức quốc tế tài trợ cho các
chương trình lớn và nhỏ ở Việt Nam như:


+ Tài trợ cho việc bảo tồn, tơn tạo quần thể di tích Huế (1992-2006) với tổng số tiền là 5,2
triệu đô la (dưới nhiều hình thức, bao gồm chi phí cho đào tạo tập huấn, chuyên gia, đi
lại ...) ;


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

+ Tài trợ cho Trung tâm Văn hóa nổi Cửa Vạn, Hạ Long ( Quỹ Uỷ thác Na Uy) với số tiền
519.000 đô la;


+ Dự án 3 bên Huế-Lille-UNESCO về xây dựng thành phố di sản “bảo tồn là định hướng
cho sự phát triển” (1996-1999) với tổng số tiền là 500.000 đô la ;


+ Dự án hợp tác 3 bên Việt Nam-UNESCO-Italy về trùng tu di tích Mỹ Sơn (2004-2006)
với tổng số tiền là 812.000 đô la;


+ Dự án xây dựng các Trung tâm học tập cộng đồng của khu vực Tây Nguyên và tỉnh Bình


Phước trị giá 220.000 đơ la;


+ Dự án “Xóa đói giảm nghèo thơng qua xóa mù chữ và giáo dục khơng chính quy tại các
Trung tâm học tập cộng đồng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long” trị giá 200.000 đô la;
+ Dự án “Tăng cường các dịch vụ giáo dục mầm non tại các vùng nông thôn”, hỗ trợ xây
dựng một số nhà trẻ và lớp mẫu giáo và đào tạo cho khu vực phía bắc miền Trung trị giá
176.000 đơ la;


+ Dự án “Phát triển chiến lược hệ thống nguồn lực hỗ trợ sáng kiến nâng cao năng lực xoá
mù chữ tại Việt Nam ”giai đoạn 2006-2008 với tổng số tiền 880.000 đô la nhằm xây dựng
mang lưới các trung tâm hỗ trợ nguồn lực cho sự phát triển rộng rãi và bền vững của hệ
thống Trung tâm học tập cộng đồng trên cả nước (khoảng 7.500 trung tâm).
+ Thông qua UNESCO tranh thủ tài trợ từ quỹ của Chương trình Vịnh Ả rập (AGFUND)
với số tiền 75.000 đô la cho dự án “Cải thiện tình hình giáo dục thường xuyên tại các cộng
đồng Việt Nam thông qua công nghệ thông tin” giai đoạn từ 6/2006-3/2008
2.3.2.Về chất xám, kỹ thuật


- UNESCO đã giúp Việt Nam nghiên cứu đánh giá tổng quan thực trạng giáo dục của Việt
Nam, góp phần thực hiện cải cách giáo dục của Nhà nước ta trong thời gian qua nhằm thực
hiện khẩu hiệu giáo dục cho mọi người và học tập suốt đời.


- Hỗ trợ Việt Nam tiến hành nghiên cứu đánh giá và xây dựng chính sách giáo dục trong
chiến lược giáo dục 2001-2010.


- Hỗ trợ Việt Nam nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học và thực hiện Chương
trình hành động quốc gia về Giáo dục cho Mọi người (EFA) giai đoạn 2003-2015.
- UNESCO đã hỗ trợ Việt Nam trong công tác xây dựng chính sách văn hóa và trong lĩnh
vực bảo tồn và phát huy các giá trị di sản vật thể và phi vật thể của Việt Nam.
- UNESCO đã hỗ trợ Việt Nam trong việc xây dựng chính sách, chiến lược và Chương
trình hành động về Phát triển Khoa học Kỹ thuật những năm đầu của Thế kỷ 21


- Hỗ trợ Việt Nam tăng cường và phát triển chương trình chuyển giao khoa học kỹ thuật
nhằm nâng cao nhận thức góp phần xóa đói giảm nghèo.


- Giúp đào tạo ngắn hạn và dài hạn tại các nước cho hàng trăm lượt cán bộ chuyên môn của
Việt Nam, cử chuyên gia vào đào tạo tại chỗ, đặc biệt trên lĩnh vực giáo dục và bảo tồn di
sản, nhằm nâng cao năng lực cán bộ và phát triển nguồn nhân lực theo chiều sâu cho Việt
Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

- Cung cấp sách cho Thư viện Quốc gia Hà Nội và Thư viện thành phố Hồ Chí Minh.
- Hỗ trợ Đài Tiếng nói Việt Nam phát sóng chương trình “Tầm nhìn UNESCO” nhằm phổ
biến thơng tin về giáo dục, văn hóa, khoa học và thông tin của UNESCO cũng như các
hoạt động UNESCO tại Việt Nam.


2.4.Việt Nam tích cực tham gia vào các cơ quan quan trọng của UNESCO
-Đã và đang tham gia các cơ quan lãnh đạo và các uỷ ban chuyên môn của UNESCO:
+ Thành viên Hội đồng Chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 1978-1983 và nhiệm kỳ
2001-2005;


+ Phó Chủ tịch Hội đồng Chấp hành UNESCO khố 31 (2001-2003);
+ Phó Chủ tịch Uỷ ban Con người và Sinh quyển Thế giới (2007-2008);


+ Uỷ viên Uỷ ban liên Chính phủ của Cơng ước Bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể
(2006-2010);


+ Và một số Ủy ban chuyên môn khác như: Uỷ ban Hải dương học quốc tế (IOC); Uỷ ban
liên chính phủ về Giáo dục thể chất và thể thao (CIGEPS); Uỷ ban Tài chính khố 31 và 32
; Uỷ ban trụ sở; Ban quản trị thống kê .


+ Năm 2005 Việt Nam đã đưa được một cán bộ trẻ vào làm viên chức của UNESCO.
-Tham gia các chương trình và hoạt động lớn của UNESCO



+ Thập kỷ quốc tế Phát triển Văn hóa (1988-1997):


Tháng 4/1991, Uỷ ban Quốc gia Thập kỷ quốc tế Phát triển Văn hóa của Việt Nam đã
chính thức được thành lập do Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh làm Chủ tịch. Đây là cơ quan
liên chính phủ có nhiệm vụ phân tích đánh giá các vấn đề liên quan đến văn hoá và phát
triển ở Việt Nam tại thời điểm đó, đưa ra các khuyến nghị về chủ trương, biện pháp đối với
Đảng và Nhà nước trong việc đảm bảo yêu cầu về văn hoá trong chính sách phát triển của
Việt Nam. Đây cịn là cơ quan đầu mối quốc gia nhằm phối hợp với các nước trong khu
vực và quốc tế để triển khai các hoạt động có liên quan đến Thập kỷ quốc tế Phát triển Văn
hóa trong phạm vi khu vực và quốc tế.


Kể từ khi thành lập đến kết thúc Thập kỷ, Uỷ ban Quốc gia Thập kỷ quốc tế Phát triển Văn
hóa của Việt Nam đã đăng cai tổ chức một loạt các hội nghị/hội thảo Quốc gia, khu vực và
quốc tế về các chủ đề thiết thực và cấp bách liên quan đến vấn đề văn hoá và phát triển ở
nước ta như:


+ Hội nghị khu vực về “Văn hoá và Phát triển” (6/1991);


+ Hội thảo khu vực về phương pháp luận đưa các nhân tố văn hoá vào các kế hoạch và dự
án phát triển (4/1993);


+ Hội nghị khu vực về “Các khía cạnh văn hố xã hội trong bối cảnh tăng trưởng ở Châu
Á-Thái Bình Dương” (11/1994);


+ Hội thảo khu vực về “Văn hoá và Kinh doanh” (5/1995);


+ Hội thảo khu vực về phát triển du lịch bền vững và bảo vệ di sản văn hoá;
+ Hội thảo khu vực về “Văn hố và Mơi trường” (7/1997).



Các hội nghị/hội thảo chuyên đề quốc gia đã được tổ chức như:


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

+ Hội nghị “Bảo vệ và Phát huy Di sản Văn hoá Việt Nam” (Hải Phịng, 12/1994);


+ Hội nghị “Gia đình và vấn đề phát triển văn hố-xã hội” (Thành phố Hồ Chí Minh,
5/1995);


+ Hội nghị “Giáo lưu văn hoá của Việt Nam trong tình hình mới” (Thanh Hố, 12/1995);
+ Hội nghị “Văn hố và vấn đề phát triển nơng thơn” (Nha Trang, 7/1996);


+ Hội nghị “Văn hố và nếp sống đơ thị trong cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”
(Huế, 3/1997).


Kết quả quan trọng nhất thu được từ các hoạt động của Thập kỷ quốc tế Phát triển Văn hóa
là nhận thức của toàn xã hội, đặc biệt của các nhà hoạch định chính sách quốc gia về vị trí
của văn hoá đối với phát triển. Trực tiếp hay gián tiếp, thông qua hoạt động của Thập kỷ,
chúng ta đã đi đến một nhận thức chung: văn hoá là yếu tố nội sinh, vừa là động lực vừa là
mục tiêu và hệ điều tiết của phát triển và mọi quá trình phát triển đều bao hàm nội dung
văn hoá. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng khẳng định: Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Chính quan điểm
này đã làm chuyển biến nhận thức đối với vị trí của văn hố trong phát triển, có thể xem
đây là phần đóng góp của Uỷ ban Quốc gia Thập kỷ quốc tế Phát triển Văn hố của Việt
Nam cho sự chuyển biến vơ cùng quan trọng này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

phát triển bền vững và triển khai các hoạt động trong khuôn khổ Thập kỷ Giáo dục vì Phát
triển Bền vững của Liên Hợp Quốc.


Ngày 15/2/2006, tại Hà Nội, đã diễn ra Lễ phát động Thập kỷ của Liên Hợp Quốc về Giáo
dục vì Phát triển Bền vững tại Việt Nam và ra mắt các thành viên của Uỷ ban Quốc gia về
Thập kỷ Giáo dục vì Phát triển Bền vững của Việt Nam.



Thập kỉ Giáo dục vì Phát triển Bền vững của Liên Hợp Quốc, với 4 mũi nhọn: (1) Thúc
đẩy và cải tiến giáo dục cơ bản, (2) Định hướng lại chương trình giáo dục hiện thời để đón
đầu phát triển bền vững, (3) Nâng cao nhận thức và hiểu biết của cộng đồng về phát triển
bền vững, (4) Đào tạo, là một cơ hội để góp phần làm thay đổi mạnh mẽ nhận thức về vai
trò quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển bền vững của đất nước, đặt con người và
môi trường sống vào trung tâm của phát triển. Phát triển kinh tế kết hợp hài hoà với đảm
bảo tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ mơi trường.


Cùng với những hoạt động tích cực về mặt tinh thần, giáo dục là cơ hội tốt nhất giúp chúng
ta thúc đẩy những giá trị và hành vi cần thiết cho phát triển bền vững. Giáo dục đem lại
cho cho thế hệ trẻ hiểu biết và nhận thức đúng về lối sống và cách chúng ta tôn trọng cuộc
sống của những người khác, tôn trọng sự đa dạng văn hóa và có trách nhiệm với thế giới
xung quanh.


Việt Nam hiện đang là một trong các quốc gia đi đầu trong việc triển khai các hoạt động
trong khuôn khổ Thập kỷ Giáo dục vì Phát triển bền vững và được UNESCO đánh giá cao.
+ Tham gia các Hội nghị thượng đỉnh về Văn hoá, Khoa học, Giáo dục và các hội nghị
chuyên đề quốc tế và khu vực khác như: Hội nghị cấp Bộ trưởng “Giáo dục cho Mọi
người” (Paris, 10/2005); Hội nghị cấp Bộ trưởng về Khoa học cơ bản (Paris, 10/2005);
Đã và đang triển khai có hiệu quả các chương trình/dự án của UNESCO tại Việt Nam:
+ Bảo tồn di sản vật thể và phi vật thể;


+ Các Chương trình hành động quốc gia về Khoa học, về Giáo dục cho mọi người EFA, về
Giáo dục vì Phát triển bền vững;


+ Mơ hình các Trung tâm học tập cộng đồng (CLC) với hơn 7.500 trung tâm trên tồn
quốc;


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

+ Các chương trình giáo dục hiểu biết quốc tế, văn hố hồ bình, học để cùng chung


sống...;


+ Mạng lưới các khu dự trữ sinh quyển (BR) thế giới tại Việt Nam và Dự án thí điểm liên
ngành của UNESCO sử dụng các khu Dự trữ sinh quyển là nơi thực hiện giáo dục vì phát
triển bền vững (2007-2015);


+ Dự án nghiên cứu di sản địa chất, xây dựng công viên địa chất và bảo vệ môi trường khu
vực Thác Trinh nữ thuộc tỉnh Đắc Nông do Viện Bảo tàng Địa chất Việt Nam chủ trì trong
khn khổ hợp tác với chương trình liên hệ địa chất ICGP của UNESCO;


+ Dự án nghiên cứu về sinh học và hoá học nguồn sinh vật biển Việt Nam nhằm phát triển
các sản phẩm phục vụ cho sức khoẻ do Đầu mối Hoá hợp chất thiên nhiên chủ trì;
+ Dự án nghiên cứu cơ bản các lồi vi tảo có khả năng độc hại để đảm bảo an toàn nguồn
lợi sinh vật biển Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác với IOC Đan Mạch;


+ Xây dựng mạng lưới tiếp nhận các thông tin tư vấn về sóng thần trong khu vực Biển
Đơng do Cơ quan Khí tượng Nhật bản cung cấp trong khuôn khổ hợp tác với IOC.
+ Dự án xây dựng cơ sở vật chất và đào tạo cán bộ làm công tác phát thanh và truyền hình.
<b>3. Chức năng - nhiệm vụ của Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam</b>


Uỷ ban Quốc gia (UBQG) UNESCO của Việt Nam được thành lập theo Quyết định số
251/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 15/6/1977. Là tổ chức liên bộ và cơ quan đầu mối
quốc gia trong quan hệ giữa Việt Nam và UNESCO, UBQG UNESCO Việt Nam có các
chức năng và nhiệm vụ chính như sau:


- Nghiên cứu và trình lên Thủ tướng Chính phủ các vấn đề về phương hướng, chính sách,
chương trình và kế hoạch hoạt động của Việt Nam đối với UNESCO;


- Phối hợp và điều hoà hoạt động của các ngành giáo dục, khoa học, văn hố và thơng tin
của Việt Nam trong cơng tác quan hệ với UNESCO nhằm thực hiện những nhiệm vụ và


quyền hạn của nước ta với tư cách là một thành viên của UNESCO;


- Thông tin về hoạt động của UNESCO cho các cơ quan, đoàn thể liên quan ở trong nước;
- Liên hệ với tổ chức UNESCO của thế giới, với các Văn phòng UNESCO khu vực và các
Uỷ ban quốc gia UNESCO của các nước thành viên khác;


- Quan hệ với các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, với Phái đoàn Thường trực Việt
Nam bên cạnh UNESCO tại Paris và các cơ quan đại diện ngoại giao của nước ngoài ở
Việt Nam về những vấn đề liên quan đến UNESCO.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

trong Ban Thư ký từ trước đến nay, những người đã góp phần mang lại những thành tựu
nêu trên.


UBQG UNESCO của Việt Nam đã tặng “Huy chương vì sự nghiệp UNESCO Việt Nam”
cho các đồng chí lãnh đạo Uỷ ban, các nhà văn hóa, các học giả, các nhà nghiên cứu, các
chuyên gia, chuyên viên và một số viên chức UNESCO, những người đã có đóng góp quan
trọng đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, thơng tin và truyền thông
của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - UNESCO.


<b>4. Cơ cấu tổ chức</b>


Uỷ ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam gồm 5 Tiểu ban chuyên môn và Ban Thư ký:
- Tiểu ban Văn hóa (trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông)


- Tiểu ban Giáo dục (trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo)


- Tiểu ban Khoa học tự nhiên (trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ)
- Tiểu ban Khoa học xã hội (trực thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam)
- Tiểu ban Thông tin (trực thuộc Thông tấn xã Việt Nam)



- Ban Thư ký (trực thuộc Bộ Ngoại giao)


Thành phần lãnh đạo hiện nay của Uỷ ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam gồm:
- Chủ tịch: Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao


- Các Phó Chủ tịch: Thứ trưởng của các Bộ: Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Giáo dục
và Đào tạo; Bộ Khoa học và Công nghệ; Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam và Phó Chủ
tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam.


- Uỷ viên: Đại diện các ngành: Văn hóa, Giáo dục, Khoa học tự nhiên, Khoa học xã hội và
Thơng tin.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Ngồi ra, Uỷ ban Quốc gia UNESCO Việt Nam cịn có mạng lưới các Uỷ ban chuyên môn
và các đầu mối quốc gia về các vấn đề cụ thể như:


- Các Uỷ ban quốc gia về: Chương trình Thuỷ văn Quốc tế (IHP); Chương trình Hải dương
học liên Chính phủ (IOC); Chương trình quốc tế Liên hệ Địa chất (IGCP); Chương trình
Con người và Sinh quyển (MAB) ...


- Các đầu mối quốc gia về: Chương trình IIP; Hố hợp chất thiên nhiên; Chương trình
Cơng nghệ vi sinh; Mạng lưới thông tin khu vực Châu Á-Thái Bình Dương; Điều phối viên
Chương trình Giáo dục cho Mọi người; Chương trình Ký ức Thế giới (MOW)...


- Mạng lưới các trường liên kết UNESCO tại Việt Nam
- Các khu di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới.


- Các khu dự trữ sinh quyển thế giới.


<b>CÁC ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ:</b>



<b>1. VĂN PHÒNG UNESCO HÀ NỘI</b>
Địa chỉ: 23 Cao Bá Quát – Hà Nội
Điện thoại:(84-4) 37470275/37470276
Fax: (84-4) 37470274


Web: www.unesco.org.vn
<b>2. UNESCO PARIS</b>


Địa chỉ: 7, Place de Fontenoy 75352 Paris 07 SP, FRANCE
Điện thoại : (33-1) 4568 10 00


Fax : (33-1) 45 67 16 90
Web : www.unesco.org


<b>3. VĂN PHÒNG UNESCO BANGKOK</b>


Địa chỉ : 920 Sukhumvit Road, KlongtoeyBangkok 10110 THAILAND
Điện thoại : (66-2) 391 0577


Fax : (66-2) 391 0866
E-mail :
Web: www.unescobkk.org


</div>

<!--links-->
Giới thiệu chung về nấm Linh Chi.
  • 4
  • 781
  • 19
  • ×