Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 58 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT DIỄN CHÂU 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG
CHUẨN BỊ BÀI CHO GIỜ HỌC NGỮ VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT
TRIỂN NĂNG LỰC TỰ CHỦ VÀ TỰ HỌC CỦA HỌC SINH

Môn: NGỮ VĂN

Tên tác giả : Trần Thị Thanh
Tổ bộ môn : Văn - Ngoại ngữ
Năm thực hiện: 2021


MỤC LỤC
Trang
Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………….. ..1
1.1. Lý do chọn đề tài ………………………………………................................. .1
1.2. Mục tiêu, ý nghĩa, tính mới của đề tài ………………………….......................2
1.3. Phương pháp nghiên cứu ……………………………………………...............3
1.4. Phạm vi nghiên cứu ……………………………………………………….......3
Phần II. NỘI DUNG ………………………………………………………….......4
2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn ………………………………………………..........4
2.1.1. Cơ sở lý luận …………………………………………………………….......4
2.1.1.1. Năng lực tự chủ, tự học là gì?………………………………………….......4
2.1.1.2. Tại sao nên quan tâm đến dạy học phát triển năng lực tự học cho học sinh
trong bối cảnh hiện nay? ...........................................................................................5
2.1.1.3. Đặc điểm và vai trò của phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn
bị bài cho giờ học Ngữ Văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học


của học sinh………………………………………………………….......................6
2.1.1.3.1. Đặc điểm phương pháp dạy học dự án......................................................6
2.1.1.3.2. Cách tiến hành phương pháp dạy học dự
án..............................................7
2.1.1.3.3. Vai trò của phương pháp dạy học dự án....................................................8
2.1.2. Cơ sở thực tiễn …………………………………………………………......10
2.1.2.1. Thực tiễn tình hình triển khai phương pháp dạy học dự án........................10
2.1.2.2. Thực trạng hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ Văn ở trường
THPT.......................................................................................................................11
2.2. Vận dụng “Dạy học dự án” trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ
Văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh..............
...............................................................................................................................
13
2.2.1. Điều kiện để áp dụng phương pháp “Dạy học dự án”...................................13
2.2.1.1. Nội dung học tập........................................................................................13
2.2.1.2. Đối tượng người học và người dạy.............................................................14
2.2.1.3. Phương tiện dạy học...................................................................................14
2.2.1.4. Các điều kiện khác.....................................................................................14
2.2.2. Khả năng vận dụng phương pháp “Dạy học dự án” trong hoạt động chuẩn bị
bài cho giờ học Ngữ Văn ở trường THPT...............................................................14


2.2.2.1. Đối với các giờ đọc văn..............................................................................14
2.2.2.2. Đối với các bài học tiếng Việt....................................................................18
2.2.2.3. Đối với các bài học làm văn.......................................................................19
2.2.3. Quy trình áp dụng phương pháp “Dạy học dự án” trong hoạt động chuẩn
bị bài cho giờ học Ngữ văn THPT...................................................................
...............................................................................................................................
23
2.2.3.1. Quy trình chung..........................................................................................23

2.2.3.2. Vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài
“Hạnh phúc của một tang gia”, “Chí Phèo” của Nam Cao thuộc chuyên đề “
Văn xuôi hiện thực Việt Nam 1930-1945”.........................................................
...............................................................................................................................
25
Giai đoạn 1: Xây dựng dự án..................................................................................26
Giai đoạn 1: Thực hiện dự án..................................................................................26
Giai đoạn 3: Hoàn thành sản phẩm và tổng kết dự án.............................................26
2.3. Thực nghiệm sư phạm..................................................................................... .27
2.3.1. Mục đích thực nghiệm...................................................................................27
2.3.2. Địa điểm, đối tượng và thời gian thực nghiệm..............................................28
2.3.3. Tiến trình thực nghiệm................................................................................. .28
2.3.3.1. Chuẩn bị cho quá trình thực nghiệm..........................................................28
2.3.3.2. Tiến trình thực nghiệm...............................................................................29
2.4. Kết quả thực hiện đề tài…………………………………………………........33
2.4.1. Hiệu quả kinh tế............................................................................................33
2.4.2. Hiệu quả về chất lượng giáo dục...................................................................33
Phần III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ………………………………………….. .40
3.1. Kết luận …………………………….……………………………………..... .40
3.1.1. Quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài..........................................................40
3.1.2. Ý nghĩa của đề tài..........................................................................................40
3.2. Kiến nghị ………………………….………………………………………... .41



Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài
Năng lực tự chủ và tự học là một trong những năng lực chung trong yêu cầu
cần đạt của chương trình giáo dục nói chung và mơn Ngữ văn nói riêng. Năng lực
này được hình thành và phát triển khơng chỉ thơng qua nội dung dạy học mà cịn

thơng qua phương pháp và hình thức tổ chức dạy học mới với việc chú trọng phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Học sinh có những trải nghiệm
phong phú, phát triển được vốn sống, có khả năng nhận biết cảm xúc, tình cảm, sở
thích, cá tính và khả năng của bản thân; từ đó có khả năng suy ngẫm về bản thân, tự
nhận thức và điều chỉnh được những hạn chế của mình trong q trình học tập,
khơng ngừng học hỏi để tự hoàn thiện.
Năng lực tự chủ và tự học là một trong 10 năng lực cốt lõi trong yêu cầu cần
đạt của chương trình giáo dục phổ thông mới, bao gồm: Tự chủ và tự học, giao tiếp
và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo, tìm hiểu tự nhiên và xã hội, cơng nghệ,
thể chất, tin học, tính tốn, ngơn ngữ và thẩm mĩ.
Đối với mơn Ngữ văn, để có một giờ học hiệu quả thì khâu chuẩn bị bài rất
quan trọng. Ngày nay, việc tìm tài liệu cũng khơng khó khăn với học sinh. Yêu cầu
học sinh tự khai thác thông tin liên quan đến mở rộng tri thức đọc hiểu về văn bản
là một hoạt động rất cần thiết giúp học sinh hình thành và rèn luyện một số kĩ năng
như: Tự học, tự nghiên cứu, tìm và chọn lọc thơng tin…Vì vậy trong hoạt động
chuẩn bị bài, ngoài thực hiện việc soạn bài theo câu hỏi “Hướng dẫn học bài”
trong sách giáo khoa Ngữ văn, để có thể đạt hiệu quả học tập tốt hơn, học sinh nên
thực hiện một số hoạt động chuẩn bị bài một cách chủ động.
Những năm gần đây, dạy học Ngữ văn đã có nhiều đổi mới về phương pháp,
kiểm tra đánh giá, hướng đến phát triển năng lực cho học sinh, đặc biệt là năng lực
tự chủ và tự học. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học, phát triển năng lực tự chủ và tự
học của học sinh trung học phổ thông vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Thói
quen học thụ động vẫn cịn khá phổ biến. Đa số các em không quan tâm đến hoạt
động tự tìm đến tri thức mà quen nghe, chép và ghi nhớ, tái hiện một cách máy
móc, rập khn những gì mà giáo viên đã giảng. Điều này làm triệt tiêu óc sáng
tạo, suy nghĩ của người học, biến người học thành nơ lệ của sách vở. Vì chưa có
hào hứng, chưa quen bộc lộ suy nghĩ tình cảm của cá nhân trước tập thể nên khi
phải nói và viết, học sinh cảm thấy rất khó khăn. Bởi vậy, theo tôi phát triển năng
lực tự chủ và tự học cho học sinh là vấn đề cấp thiết của ngành giáo dục nói chung
và dạy học mơn Ngữ văn nói riêng.

Trước thực trạng cịn nhiều tồn tại trên, vấn đề đặt ra cấp thiết là phải đổi mới
phương pháp dạy học. Và cốt lõi của việc đổi mới này là chú trọng hơn nữa
phương pháp tự học cho học sinh, khả năng hợp tác, khả năng vận dụng kiến thức
1


vào thực tiễn; đa dạng hóa các hình thức hoạt động học tập, xây dựng mơi trường
học tập tích cực, tương tác, thể hiện rõ đặc trưng bộ môn; tạo động lực học tập Ngữ
văn cho học sinh, giúp học sinh thực sự hứng thú, say mê với môn học; sử dụng
phương pháp để giúp học sinh rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, hình
thành năng lực giao tiếp; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học
Ngữ văn.
Qua thực tế giảng dạy, tơi đã tìm ra cách dạy mà tôi cho là hiệu quả nhất: Áp
dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ
văn. Đó một phương pháp hay một hình thức dạy học, trong đó người học thực
hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, có
tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với
tính tự lực cao trong tồn bộ q trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế
hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả
thực hiện. Điểm cốt lõi của học tập dựa trên dự án là: Học qua làm (Learning by
doing) tức là thơng qua làm việc (Hành động có chủ định) mà hiểu biết và lĩnh hội
giá trị. Từ đó, kích thích được sự chủ động và sáng tạo của học sinh phát triển
được năng lực tự chủ và tự học cho học sinh, phù hợp với đặc trưng riêng của môn
Ngữ văn và yêu cầu đổi mới của dạy học văn trong bối cảnh hiện nay.
Từ những vấn đề được trình bày ở trên, tơi đã lựa chọn đề tài “Vận dụng
phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn
theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh”.
1.2. Mục tiêu, đóng góp, tính mới của đề tài
- Mục tiêu của đề tài là vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động
chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn để phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học

sinh. Để từ đó học sinh có khả năng tự học, tự chiếm lĩnh giá trị nghệ thuật của tác
phẩm văn học. Từ đó bồi dưỡng kĩ năng và tâm hồn, tư tưởng cho học sinh; hướng
học sinh đến những cách cảm, cách suy nghĩ, hành động đẹp trong đời sống, khơng
ngừng hồn thiện bản thân mình.
- Đóng góp mới của đề tài: Giúp cho người dạy và người học văn thay đổi
cách dạy, cách học của mình; đối với người học, biết đặt ra mục tiêu học tập chi
tiết, tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn được nguồn tài liệu phù hợp với mục đích và
nhiệm vụ học tâp khác nhau, nâng cao hứng thú học tập, phát huy sở trường của
mình; làm cho giờ dạy học văn trở nên hứng thú, sinh động, giáo viên có thể phát
huy được các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực.
- Tính mới của đề tài: Theo quan điểm đổi mới dạy học Ngữ văn hiện nay,
việc chủ động tham gia hoạt động học, phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu thì
việc chuẩn bị bài kĩ trước giờ học là hoạt động rất quan trọng, cần thực hiện
2


nghiêm túc. Thực hiện tốt hoạt động này không chỉ giúp học sinh chủ động tham
gia giờ học mà còn tạo hứng thú học tập, có tâm thế tiếp nhận và có đủ tri thức nền
để tham gia hoạt động đọc hiểu một cách tự tin sáng tạo và hiệu quả. Đây là một đề
tài mới, đề xuất những hướng đi mới phù hợp với bộ môn và bắt kịp xu hướng phát
triển giáo dục hiện nay.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp thực nghiệm khoa học.
1.4. Phạm vi nghiên cứu đề tài: Chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông

3



Phần II. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
2.1.1. Cơ sở lý luận
2.1.1.1. Năng lực tự chủ, tự học là gì?
Chương trình giáo dục phổ thơng năm 2018 đã xác định mục tiêu hình thành
và phát triển cho học sinh các năng lực cốt lõi gồm các năng lực chung và các năng
lực đặc thù. Năng lực tự chủ và tự học là một trong các năng lực chung, năng lực
cơ bản làm nền tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và trong lao
động nghề nghiệp.
Ở cấp Trung học phổ thông, năng lực tự chủ và tự học có các biểu hiện như
sau:
- Tự lực: Ln chủ động, tích cực thực hiện những cơng việc của bản thân
trong học tập và trong cuộc sống; biết giúp đỡ người khác vươn lên để có lối sống
tự lực.
- Tự khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu chính đáng: Biết khẳng định và
bảo vệ quyền, nhu cầu cá nhân phù hợp với đạo đức và pháp luật.
- Tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của mình: Đánh giá được những
ưu điểm và hạn chế về tình cảm, cảm xúc của bản thân tự tin, lạc quan; biết tự điều
chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của bản thân, ln bình tĩnh và có cách cư xử
đúng; sẵn sàng đón nhận và quyết tâm vượt qua thử thách trong học tập và đời
sống; biết tránh các tệ nạn xã hội.
- Thích ứng với cuộc sống: Điều chỉnh được hiểu biết, kĩ năng, kinh nghiệm
của cá nhân cần cho hoạt động mới, môi trường sống mới; thay đổi cách tư duy,
cách biểu hiện thái độ, cảm xúc của bản thân để đáp ứng với yêu cầu mới, hoàn
cảnh mới.
- Định hướng nghề nghiệp: Nhận thức được cá tính và giá trị sống của bản
thân; nắm được những thơng tin chính về thị trường lao động, về yêu cầu và triển
vọng của các ngành nghề; xác định được hướng phát triển phù hợp sau khi học phổ
thông, lập được kế hoạch, lựa chọn các môn học phù hợp với định hướng nghề

nghiệp bản thân.
4


- Tự học, tự hoàn thiện: Xác định được nhiệm vụ học tập dựa trên kết quả đã
đạt được, biết đặt mục tiêu học tập chi tiết, cụ thể, khắc phục những hạn chế. Đánh
giá và điều chỉnh được kế hoạch học tập, hình thành cách học riêng của bản thân,
tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn được nguồn tài liệu phù hợp với mục đích, nhiệm
vụ học tập khác nhau. Ghi chép thơng tin bằng các hình thức phù hợp, thuận lợi
cho việc ghi nhớ, sử dụng, bổ sung khi cần thiết. Tự nhận ra và điều chỉnh được
những sai sót, hạn chế của bản thân trong q trình học tập, suy ngẫm cách học của
mình, rút kinh nghiệm để có thể vận dụng vào tình huống khác, biết tự điều chỉnh
cách học. Biết thường xuyên tu dưỡng theo mục tiêu phấn đấu cá nhân và các giá
trị công dân.
Mơn Ngữ văn có nhiều ưu thế trong việc góp phần hình thành và phát triển
tồn diện các năng lực chung đã được nêu trong chương trình giáo dục phổ thơng
tổng thể. Những năng lực chung này được hình thành và phát triển không chỉ thông
qua nội dung dạy học mà cịn thơng qua phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
mới với việc chú trọng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học
trong hoạt động tiếp nhận và tạo lập văn bản.
Năng lực tự chủ và tự học thể hiện qua kĩ năng đọc, viết, nói và nghe được
hình thành và phát triển từ môn Ngữ văn là công cụ tốt để học sinh học các môn
học khác và tự học. Học sinh biết tự tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn nguồn tài liệu
phù hợp với các mục đích, nhiệm vụ học tập khác nhau, biết lưu trữ và xử li thông
tin bằng các hình thức phù hợp. Thơng qua đọc, viết, nói và nghe các loại văn bản
đa dạng, môn Ngữ văn mang lại cho học sinh những trải nghiệm phong phú; nhờ
đó, học sinh phát triển được vốn sống, có khả năng nhận biết cảm xúc, tình cảm, sở
thích, cá tính, và khả năng của bản thân, biết tự làm chủ để có hành vi phù hợp, sự
tự tin, tinh thần lạc quan trong học tập và đời sống. Môn Ngữ văn cũng giúp người
đọc có khả năng suy ngẫm về bản thân, tự nhận thức và điều chỉnh được những hạn

chế của mình trong q trình học tập và khơng ngừng học hỏi để tự hoàn thiện.
2.1.1.2. Tại sao nên quan tâm đến dạy học phát triển năng lực tự học cho học sinh
trong bối cảnh hiện nay?
Ngày nay, sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật, số liệu các tri thức cần
lĩnh hội tăng lên, đòi hỏi chúng ta phải thay đổi căn bản cả nội dung giáo dục lẫn
phương pháp dạy học. Dạy học phát triển phẩm chất năng lực đang trở nên phổ
biến trên thế giới. Dạy học phát triển phẩm chất năng lực quan tâm tới việc người
học làm được gì sau khi đào tạo chứ khơng thuần túy là chỉ biết được gì; quan tâm
tới người dạy sẽ dạy như thế nào để hình thành phẩm chất, năng lực của người học
chứ khơng phải chỉ là dạy nội dung gì cho người học với mong muốn người học
biết càng nhiều, càng sâu. Dạy học hiện đại đặt ra hàng loạt các yêu cầu đối với các
thành tố của hoạt động dạy học, trong đó đặc biệt lưu tâm đến các phương pháp
dạy học và kĩ thuật dạy học phát triển năng lực, phẩm chất cho người học. Xu
hướng hiện đại về phương pháp, kĩ thuật dạy học phát triển năng lực được xem là
chiều hướng mang tính mới, tiên tiến. Phương pháp dạy học và kĩ thuật dạy học
5


chú ý rèn luyện phương pháp học, hình thành kĩ năng tự học, bồi dưỡng hứng thú
và lòng say mê học tập cho học sinh như dạy học dựa trên dự án, cơng não… Dạy
học phát huy tính tích cực độc lập nhận thức sáng tạo ở học sinh.
Mặt khác, Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo của
Đảng (tháng 9 - 2013) đã mở ra một thời kì mới cho việc dạy - học trong trường
phổ thông ở nước ta: Nhấn mạnh đến việc phát triển năng lực của người học hơn là
cung cấp tri thức cho họ. Ngữ văn là môn học được tích hợp từ ba phân mơn là
Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn (trước đó ba phân mơn này là ba mơn độc lập, có
sách giáo khoa riêng). Mục tiêu của mơn Ngữ văn ở trường phổ thơng là hình thành
và phát triển ở học sinh năng lực chung (năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn
đề, năng lực sáng tạo, năng lực tự quản lí, năng lực giao tiếp,năng lực hợp tác, năng
lực sử dụng thông tin và truyền thông, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực tính

tốn) và các năng lực đặc thù (năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng
lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng ngơn
ngữ).
Giáo dục nói chung và giáo dục nhà trường nói riêng có vai trị chủ đạo với
sự hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực. Cần quan tâm đến mỗi học sinh,
gồm năng khiểu, phong cách học tập, các loại hình trí thơng minh, tiềm lực nhất là
khả năng hiện có, triển vọng phát triển của mỗi học sinh để thiết kế các hoạt động
học hiệu quả. Đồng thời, cần chú trọng phát triển năng lực tự chủ, tự học vì yếu tố
“ Cá nhân tự học tập và rèn luyện” đóng vai trị quyết định đến sự hình thành và
phát triển phẩm chất, năng lực của mỗi học sinh. Tích cực của người học được biểu
hiện qua hứng thú, sự tự giác học tập, khát vọng thông hiểu, sự nỗ lực chiếm lĩnh
nội dung học tập. Từ đó, học sinh sẽ tiếp cận kiến thức thiết thực, hiện đại để từng
bước hình thành năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn, chủ động, tích cực, có cơ
hội hịa nhập, hội nhập quốc tế để cùng tồn tại và phát triển trong bối cảnh hiện đại
và không ngừng đổi mới.
2.1.1.3. Đặc điểm và vai trò của phương pháp dạy học dự án trong hoạt động
chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và
tự học của học sinh.
2.1.1.3.1. Đặc điểm phương pháp dạy học dự án.
Dạy học dự án là cách thức dạy học, trong đó người học thực hiện một
nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, có tạo ra các
sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực
cao trong tồn bộ q trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế họach, đến
việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện.
Điểm cốt lõi của học tập dựa trên dự án là: Học qua làm (Learning by doing) tức là
thơng qua làm việc (hành động có chủ định) mà hiểu biết và lĩnh hội giá trị.
Đặc điểm của dạy học dự án: Là định hướng học sinh, định hướng thực
tiễn và định hướng sản phẩm và được sơ đồ hóa như sau:
6



Mang tính
phức hợp

Tính tự lực cao

Định hướng
thực tiễn

Dạy học
án

Hợp tác làm
việc

dự

Định hướng
sản phẩm

- Định hướng thực tiễn: Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống của
thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm vụ của
dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng nhận thức của
người học. Các dự án học tập có ý nghĩa thực tiễn xã hội, góp phần gắn việc học
tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống xã hội.
- Mang tính phức hợp, liên mơn: Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của
nhiều lĩnh vực hoặc nhiều môn học khác nhau nhằm giải quyết một nhiệm vụ, vấn
đề mang tính phức hợp.
- Định hướng hứng thú người học: Người học được tham gia lựa chọn đề
tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng

thú của người học cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án.
- Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa
nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào trong hoạt động thực hành. Thơng
qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lí thuyết, rèn luyện kĩ năng hành động.
- Tính tự lực của người học: Người học cần tham gia tích cực, tự lực vào các
giai đoạn của q trình dạy học. Địi hỏi tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người
học. Giáo viên đóng vai trị tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ.
- Cộng tác làm việc: Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm,
trong đó có sự cộng tác làm việc và phân cơng cơng việc giữa các thành viên trong
nhóm. Dạy học dự án địi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kĩ năng cộng tác làm
việc giữa các thành viên tham gia, giữa học sinh và giáo viên cũng như các lực
lưỡng khác tham gia trong dự án.
- Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được
tạo ra không chỉ giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết mà cịn có thể tạo ra
những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này
có thể sử dụng, cơng bố, giới thiệu bằng nhiều hình thức khác nhau với các quy mô
khác nhau.
2.1.1.3.2. Cách tiến hành phương pháp dạy học dự án
Dạy học dựa trên dự án cần được tiến hành theo ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Chuẩn bị dự án
7


- Đề xuất ý tưởng và chọn đề tài dự án: Đề tài dự án có thể nảy sinh từ
sáng kiến của giáo viên, học sinh. Học sinh là người quyết định lựa chọn đề tài,
nhưng phải đảm bảo nội dung phù hợp với mục đích học tập, phù hợp chương trình
và điều kiện thực tế. Để thực hiện dự án, học sinh phải đóng những vai có thực
trong xã hội để tự mình tìm kiếm thơng tin và giải quyết cơng việc.
- Chia nhóm và nhận nhiệm vụ dự án: Giáo viên chia nhóm và giao nhiệm
vụ cho các nhóm học sinh và những yếu tố khác liên quan đến dự án. Trong công

việc này, giáo viên là người đề xướng nhưng cũng cần tạo điều kiện cho học sinh tự
chọn nhóm làm việc.
- Lập kế hoạch thực hiện dự án: giáo viên hướng dẫn các nhóm học sinh
lập kế hoạch thực hiện dự án, trong đó học sinh cần xác định chính xác chủ đề, mục
tiêu, những cơng việc cần làm, kinh phí, thời gian và phương pháp thực hiện. Ở
giai đoạn này, địi hỏi học sinh tính tự lực và tính cộng tác để xây dựng kế hoạch
của nhóm. Sản phẩm tạo ra ở giai đoạn này là bản kế hoạch dự án.
Giai đoạn 2: Thực hiện dự án
Ở giai đoạn này, với sự giúp đỡ của giáo viên, học sinh tập trung vào việc
thực hiện nhiệm vụ được giao với các hoạt động như: đề xuất các phương án giải
quyết và kiểm tra, nghiên cứu tài liệu, tiến hành các thí nghiệm, trao đổi và hợp tác
với các thành viên trong nhóm. Giáo viên tạo điều kiện cho việc làm chủ hoạt động
học tập của học sinh và nhóm học sinh, khuyến khích học sinh tạo ra một sản phẩm
cụ thể có chất lượng.
Giai đoạn 3: Báo cáo và đánh giá dự án
Học sinh thu thập kết quả và công bố sản phẩm trước lớp. Sau đó, giáo viên
và học sinh tiến hành đánh giá. Học sinh có thẻ tự nhận xét q trình thực hiện dự
án và tự đánh giá sản phẩm nhóm mình và đánh giá nhóm khác. Giáo viên đánh giá
tồn bộ q trình thực hiện dự án của học sinh, đánh giá sản phẩm và rút kinh
nghiệm để thực hiện những dự án tiếp theo.
2.1.1.3.3. Vai trò phương pháp dạy học dự án
- Về nội dung kiến thức: kiến thức được mở rộng, phong phú hơn; gắn với
thực tế và có tính liên mơn. Có thể lí giải điều này qua sơ đồ về tỉ lệ tiếp thu trung
bình
Sơ đồ về tỉ lệ tiếp thu trung bình
1

Thuyết giảng

5%

10%
20%
30%
50%
50%
8

Đọc
Nghe nhìn
Mơ tả, trình bày
Thảo luận nhóm
Thực hành

Ứng dụng ngay việc học/ Dạy cho người khác


75%
90%

Nguồn: />
- Dạy học dựa theo dự án có ưu thế hình thành các phẩm chất và năng lực
chủ yếu và các năng lực chung như sau:
Chăm chỉ
Phẩm Trung thực
chất
Trách nhiệm

Thường xuyên thực hiện và theo dõi việc thực hiện các
nhiệm vụ được phân cơng trong dự án
Có ý thức báo cáo chính xác, khách quan kết quả thực

hiện dự án đã thực hiện được.
Có ý thức hồn thành cơng việc mà bản thân được
phân công, phối hợp với các thành viên trong nhóm để
hồn thành dự án.

Tự lựa chọn đề tài dự án, tự phân công nhiệm vụ cho
Tự chủ và tự các thành viên trong nhóm, tự quyết định cách thức
học
thực hiện dự án, tự đánh giá về quá trình và kết quả
thực hiện dự án.

Năng
lực
Chủ động đề ra kế hoạch, cách thức thực hiện dự án,
Giải quyết vấn
Chung
cách thức xử lí các vấn đề phát sinh một cách sáng tạo
đề và sáng tạo
nhằm đạt được kết quả tốt nhất.
Giao tiếp và Tăng cường sự tương tác tích cực giữa các thành viên
hợp tác
trong nhóm khi thực hiện dự án.

Dạy học dựa trên dự án có thể được sử dụng cùng với những phương pháp
khác để đạt được một số yêu cầu cần đạt trong kế hoạch dạy học; hoặc được sử
dụng chủ đạo để dạy một chủ điểm hay một loạt bài ôn tập/ hoạt động ngoại khóa/
chuyên đề học tập.
- Dự án phải gắn với thực tiễn đời sống.
+ Trong môn Ngữ văn, nhiều nội dung dạy học có thể gắn với thực tiễn cuộc
sống nên phù hợp để sử dụng dạy học dựa trên dự án. Chẳng hạn những nội dung

dạy học liên quan đến các kĩ năng như viết, nói và nghe, đọc hiểu văn bản thông
tin và văn bản nghị luận thường tạo nhiều cơ hội để giáo viên tìm ra được mối liên
hệ giữa những vấn đề thực tiễn đang diễn ra trong cuộc sống với nội dung bài học;
từ đó xây dựng nên những chủ đề học tập theo hình thức dự án. Tuy nhiên, không
9


phải mọi nội dung dạy học, mọi yêu cầu cần đạt của môn Ngữ văn đều phù hợp để
triển khai bằng dạy học dựa trên dự án nên giáo viên cần cân nhắc kĩ.
+ Hoặc mơn Ngữ văn có thể tích hợp với những mơn học khác tạo thành
những dự án học tập mà ở đó, những nội dung dạy học của môn Ngữ văn cũng chủ
yếu được thiết kế theo định hướng hình thành, phát triển cho học sinh năng lực
giao tiếp với những biểu hiện cụ thể liên quan đến đọc, viết, nói và nghe.
Giáo viên phải xác định rõ mục tiêu, yêu cầu cần đạt nào về phẩm chất, năng
lực mà học sinh cần đáp ứng khi hoàn thành dự án. Những mục tiêu, yêu cầu cần
đạt khác của bài dạy chưa thể hình thành và phát triển qua việc học sinh tham gia
thực hiện dự án thì giáo viên cần sắp xếp để phát triển bằng việc phối hợp sử dụng
một số phương pháp, kĩ thuật dạy học khác.
- Dạy học dựa trên dự án sẽ tốn nhiều thời gian. Vì thế, giáo viên cũng cần
cân nhắc để chọn lựa sử dụng phối hợp với các phương pháp và kĩ thuật dạy học
khác sao cho phù hợp với quỹ thời gian cho phép. Đồng thời khi lựa chọn nội dung
dạy học dựa trên dự án, giáo viên cũng nên ưu tiên những nội dung học tập có tính
chất trọng tâm của học kì/ năm học để phát huy được hiệu quả của phương pháp
này, tương ứng với thời gian thực hiện.
- Trong suốt quá trình thực hiện dự án cũng như bước trình bày, đánh giá sản
phẩm dự án, giáo viên cần chú ý đến tính hiệu quả của dự án về mặt hình thành và
phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh; tránh việc đi vào hình thức, mang
tính trình diễn, gây tốn kém thời gian và tiền bạc.
- Với đặc trưng dạy học thơng qua hoạt động chuẩn bị bài của chính người
học nhằm hình thành và phát triển các kĩ năng tự học, tự nghiên cứu và dạy học

dựa trên việc đánh giá, tự đánh giá và cùng đánh giá, phương pháp dạy học dự án
đã thể hiện được ưu điểm nổi bật của mình trong việc hướng tới các mục tiêu của
giáo dục hiện đại mà UNESCO đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung
sống, học để tự khẳng định mình”.
- Dạy học dự án được vận dụng vào hoạt động chuẩn bị bài cho giờ dạy học
môn Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông sẽ phát huy tính tích cực, chủ động
của học sinh trong học tập; tạo được hứng thú cho học sinh và góp phần đa dạng
hóa các phương pháp dạy học. Bởi lẽ học sinh sẽ hứng thú hơn với việc học khi có
cơ hội thâm nhập vào những vấn đề phức tạp, mang tính thách thức cao và đơi khi
đầy rẫy những vấn đề nhưng rất sát với thực tế đời sống. Vậy nên, dạy học dự án
đã trở thành một trong những phương pháp dạy học “Làm cho giáo viên chỉ cần
dạy ít mà học sinh học được nhiều và làm cho nhà trường bớt sự nhàm chán và bớt
sự nhọc nhằn” (GI. Comenski)
2.1.2. Cơ sở thực tiễn
2.1.2.1. Thực tiễn tình hình triển khai phương pháp dạy học dự án
- Dạy học dự án là một chiến lược dạy học ở nhiều nước trên thế giới
10


Mầm mống đầu tiên của dạy học dự án đã có trong quan niệm của các nhà
giáo dục kinh điển như Rouseau (1712-1778), H.Pestalozzi (1746-1827), F.Frobel
(1782-1852) và W. Humboldt ... Xuất hiện trước hết từ châu Âu rồi lan sang Bắc
Mĩ. Ngày nay, dạy học dự án mang tính tồn cầu. Đã có nhiều cơng trình của các
nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu về Dạy học dự án, đó là các cơng trình:
J.Deway, W.Kilpatrich (Mĩ), Celestin Freinet (1896-1966) và Macarenko- nhà sư
phạm tiên tiến Liên Xô cũ.
- Dạy học dự án đã được triển khai rộng rãi trong các trường Trung học
phổ thông ở Việt Nam
Ở Việt Nam, dạy học dự án chính thức du nhập vào năm 2003. Có rất nhiều
bài viết tiếp cận dạy học dự án từ góc độ lý luận trên các tạp chí và website; tiêu

biểu các tác giả như: PGS.TS Đỗ Hương Trà, PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa và
Võ Thị Bảo Ngọc, TS Nguyễn Văn Cường và Th.S Nguyễn Thị Diệu Thảo... Ngoài
ra, dạy học dự án cũng được nghiên cứu trong các khóa luận và luận văn tốt
nghiệp, các sáng kiến kinh nghiệm của các đồng nghiệp trên khắp cả nước. Và năm
học 2020- 2021 Bộ Giáo dục và Đào tạo có chương trình tập huấn và bồi dưỡng
giáo viên ( trong đó có dạy học dự án cho các giáo viên phổ thơng tồn quốc).
2.1.2.2. Thực trạng hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn ở trường Trung
học phổ thông
Đối với môn Ngữ văn, việc tổ chức hoạt động cho học sinh trước tiết học hết
sức quan trọng. Để tiến hành một giờ học văn có hiệu quả thì địi hỏi học sinh cần
có sự chuẩn bị chu đáo trước khi đến lớp. Nhưng việc chuẩn bị bài của học sinh có
đạt hiệu quả hay khơng lại phụ thuộc vào vai trò hướng dẫn của giáo viên. Hoạt
động này được giáo viên thực hiện cuối mỗi tiết học chính. Thực chất đó là khâu
dặn dị cuối mỗi bài học. Giáo viên tùy theo đơn vị bài học mà vạch ra kế hoạch
hướng dẫn cụ thể những nhiệm vụ học sinh phải chuẩn bị bài trước ở nhà cho
những tiết học sau.
Thông thường, giáo viên yêu cầu học sinh soạn bài theo hệ thống câu hỏi ở
sách giáo khoa. Tuy nhiên, hệ thống câu hỏi chuẩn bị bài trong sách giáo khoa cịn
mang tính định hướng chung chung, khơng có hướng dẫn chi tiết trong từng phần
hoặc từng mục.
Chẳng hạn, trong tác phẩm “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân), câu hỏi
hướng dẫn học bài như sau:
1. Tình huống truyện của tác phẩm Chữ người tử tù là gì? Tác dụng của tình
huống này đối với việc thể hiện tính cách nhân vật và kịch tính của truyện?
2. Phân tích vẻ đẹp độc đáo của hình tượng Huấn Cao. Qua nhân vật Huấn
Cao anh/ chị có nhận xét gì về quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp?

11



3. Nhân vật quản ngục có phẩm chất gì khiến Huấn Cao cảm kích coi là
“Một tấm lịng trong thiên hạ” và tác giả coi đó là “Một thanh âm trong trẻo chen
vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xơ bồ”?
4. Phân tích đoạn văn tả cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong nhà
lao. Vì sao tác giả coi đây là “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”?
5. Anh/ chị có nhận xét gì về bút pháp xây dựng nhân vật, bút pháp miêu tả
cảnh vật và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân trong truyện “Chữ
người tử tù”?
Những câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài trên thực chất mang tính chất
gợi mở tìm hiểu những vấn đề lớn của tác phẩm, bao gồm:
1. Tình huống truyện và tác dụng của tình huống.
2. Nhân vật Huấn Cao.
3. Nhân vật quản ngục.
4. Cảnh cho chữ.
5. Đặc sắc nghệ thuật.
Hoặc hệ thống câu hỏi hướng dẫn đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”
(Trích “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng):
1. “Hạnh phúc của một tang gia” là một phần của nhan đề chương XV tiểu
thuyết “Số đỏ” do chính Vũ Trọng Phụng đặt. Anh/ chị có suy nghĩ gì về nhan đề
này và tình huống trào phúng của đoạn trích?
2. Vì sao cái chết của cụ cố tổ lại là niềm “hạnh phúc” của mọi thành viên
trong gia đình cụ? Phân tích những niềm “hạnh phúc” khác nhau của mỗi người
trong đại gia đình cụ cố Hồng và những người đến đưa đám ma do cái chết của cụ
cố tổ đem lại.
3. Anh/chị hãy phân tích cảnh đám ma gương mẫu.
4. Từ niềm “Hạnh phúc” của các nhân vật do cái chết của cụ cố tổ đem lại và
cảnh tượng của cái “Đám ma gương mẫu”, anh/chị nhận xét như thế nào về xã hội
thượng lưu thành thị đương thời? Thái độ của nhà văn với xã hội này ra sao?
5. Anh/chị nhận xét gì về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng ở đoạn
trích này?

Rõ ràng hệ thống câu hỏi trên còn quá chung, chưa thể hiện được ý đồ tiếp
cận tác phẩm theo hệ thống. Trong khi ở câu 1, câu 2 yêu cầu học sinh tiếp cận
đoạn trích theo lối "Bổ dọc", từ nhan đề đến nhân vật thì câu 3 lại tiếp cận theo lối
"Bổ ngang". Hơn thế nữa hệ thống câu hỏi chưa lôgic. Tiếp cận đoạn trích phải từ
nghệ thuật trào phúng, được biểu hiện cụ thể qua nhan đề, tình huống, nhân vật, cách
miêu tả. Từ đó, mới nhận xét khái quát ý nghĩa của việc sử dụng nghệ thuật trào
phúng cũng như thái độ của nhà văn. Do đó, câu hỏi 4 và 5 sắp xếp chưa hợp lí.
12


Ở một số bài các câu hỏi đưa ra có lúc yêu cầu quá cao hoặc chưa phù hợp
với “tầm đón nhận” của học sinh. Ví dụ, trong phần hướng dẫn học bài tác phẩm
“Tự tình” (II) của Hồ Xuân Hương, câu hỏi 4: “Bài thơ vừa nói lên bi kịch duyên
phận, vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương.
Anh/chị hãy phân tích điều đó”, là một câu hỏi tương đối khó với học sinh khi mới
bắt đầu tiếp cận văn bản để soạn bài.
Chính vì thế, giáo viên cần phải chi tiết, cụ thể hóa vấn đề thành các nhiệm
vụ hoặc câu hỏi nhỏ để học sinh dễ dàng hơn trong việc chuẩn bị bài.
Với hình thức dự giờ, trao đổi, xem vở học sinh, tơi đã có cái nhìn khá khách
quan, sát thực tế về tình hình hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài của giáo viên và
việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh hiện nay ở trường Trung học phổ thơng, thiết
nghĩ đó cũng là thực trạng chung, phổ biến của hầu hết giáo viên và học sinh nhiều
nơi. Trước yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, chúng ta thật sự ghi nhận sự
nhiệt tình và tích cực của nhiều thầy cơ giáo trong việc đi tìm, đề xuất và thực hiện
các phương pháp dạy học Văn nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh
trong giờ học. Nhiều giáo viên đã hướng dẫn học sinh tìm đọc về tác giả qua những
câu chuyện, giai thoại, tài liệu tham khảo; sưu tầm một số ý kiến của các chuyên
gia, của bạn đọc nhận xét đánh giá về tác giả, tác phẩm; tìm đọc tồn bộ tác phẩm
nếu văn bản là đoạn trích, tìm đọc một số bài thơ tiêu biểu trong tập thơ có bài thơ
được học; tiếp cận tác phẩm qua các loại hình nghệ thuật khác như phim ảnh, kịch;

chuẩn bị những bài tập trình bày theo nhóm, sưu tầm tranh ảnh, hoặc có thể là đi
tham quan, đi thực tế, đi xem phim để phục vụ cho tiết học. Thực trạng lên lớp
theo kiểu thầy giảng - trò nghe, thầy đọc - trò chép đã giảm đáng kể. Quan sát
trong các tiết dự giờ cho thấy: Học sinh có sự chuẩn bị bài kĩ càng, phù hợp nội
dung bài học dưới sự hướng dẫn tích cực của giáo viên thì giáo viên thuyết giảng ít
hơn, học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức, giờ học hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, khách quan mà nói, số tiết học sinh có sự chuẩn bị bài chu đáo
với nhiều cách thức khác nhau chưa phải là nhiều. Hầu như chỉ tập trung trong
những giờ thao giảng, hội giảng của giáo viên.
Đa số giáo viên, sau mỗi bài dạy, mỗi tiết học thường dặn dò chung chung:
Các em về nhà học bài và chuẩn bị bài cho tiết sau. Hoặc có hướng dẫn cho học sinh
nhưng cịn sơ sài ví dụ như: soạn bài theo câu hỏi sách giáo khoa, xem bài tiếp
theo… Việc hướng dẫn học sinh soạn bài mới, tài liệu ở nhà chưa cụ thể, chưa định
hướng được cho các em phần nào là quan trọng, phần nào cần sơ lược.
Phần lớn học sinh có soạn bài trước khi đến lớp nhưng không hiệu quả,
không biết chỗ nào là quan trọng. Việc soạn bài mang tính chất đối phó nên học
sinh thường chép mạng, sách “Học tốt Ngữ văn”. Vì vậy, các em khó nắm bắt kiến
thức một cách cụ thể, lười tìm tịi kiến thức mới, luôn ỷ lại và chờ đợi vào bài
giảng của giáo viên để chép. Ở nhà không chuẩn bị bài, trên lớp cô lại giảng với
lượng kiến thức nhiều, cơ nói điều gì trị cũng cảm thấy mới tinh cho nên việc tiếp
thu diễn ra rất thụ động.
13


2.2. Vận dụng dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ
văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh.
2.2.1. Điều kiện để áp dụng phương pháp dạy học dự án.
2.2.1.1. Nội dung học tập.
- Đặc điểm chủ đề nội dung bài học: Gắn liền với thực tiễn và mang tính
thời sự, cập nhật

- Mục tiêu cơ bản nhất của bài học: tập trung rèn luyện và phát triển kĩ năng
thực hành cho học sinh thông qua hoạt động của chính các em.
Trước đây, hoạt động chuẩn bị bài này thường được giáo viên thực hiện cuối
mỗi tiết học chính. Thực chất là khâu dặn dị cuối mỗi buổi học. Giáo viên tùy theo
từng đơn vị kiến thức mà vạch ra hướng dẫn cụ thể những nhiệm vụ mà học sinh
cần phải chuẩn bị ở nhà cho tiết học sau. Hiện nay, để phát huy năng lực tự chủ và
tự học của học sinh, giáo viên có thể đa dạng hóa các phương pháp, hình thức
chuẩn bị bài như: vẽ tranh minh họa, quay clip, đi thực tế, đi xem phim để phục vụ
cho tiết học sau.
2.2.1.2. Đối tượng người học và người dạy
- Người học: Được trang bị đầy đủ kiến thức (về môn học; liên môn và về
phương pháp dạy học dự án); có thói quen làm việc chủ động; phương pháp học
tập khoa học và có ít nhiều kĩ năng về cơng nghệ thơng tin.
- Người dạy: Có trình độ chun mơn và nghiệp vụ; phong cách làm việc chuyên
nghiệp và khả năng quản lí học sinh. Khả năng tư duy linh hoạt và cần một bản lĩnh
nghề nghiệp.
2.2.1.3. Phương tiện dạy học
Đầy đủ các phương tiện dạy học cơ bản và có sự hỗ trợ của các phương tiện
dạy học hiện đại.
2.2.1.4. Các điều kiện khác
- Sự đồng thuận của cấp quản lí trường học; các Ban ngành địa phương
- Cơ chế thi cử cần chú trọng đến tính thực tiễn của kiến thức: Theo Thông
tư số 26/2020/TTBGDĐT - Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế
đánh giá, xếp loại học sinh Trung học cơ sở và học sinh Trung học phổ thông ban
hành kèm theo Thông tư số 58/2011/TT-BGDĐT ngày 12 tháng 12 năm 2011 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2.2.2. Khả năng vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn
bị bài cho giờ học Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông.
2.2.2.1. Đối với các giờ đọc văn.
Căn cứ vào chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn năm 2018, giáo

viên chủ động, linh hoạt xây dựng và tổ chức các bài học theo định hướng: Tăng
14


cường, phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh; dành nhiều thời gian cho học
sinh nghiên cứu sách giáo khoa và tài liệu học tập, luyện tập, thực hành, trình bày,
thảo luận, bảo vệ kết quả học tập để học sinh biết tự đọc, viết, nói và nghe theo
những yêu cầu và mức độ khác nhau; kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ
học tập của học sinh.
Trên cơ sở đó, việc dạy đọc văn bản nói chung ở nhà trường phổ thông được
thực hiện theo những định hướng cụ thể sau:
"Yêu cầu học sinh đọc trực tiếp toàn bộ văn bản, chú ý quan sát các yếu tố
hình thức của văn bản, từ đó có ấn tượng chung và tóm tắt được nội dung chính
của văn bản; tổ chức cho học sinh tìm kiếm, phát hiện, phân tích, suy luận ý nghĩa
các thơng tin, thơng điệp, quan điểm, thái độ, tư tưởng, tình cảm, cảm xúc,...được
gửi gắm trong văn bản; hướng dẫn học sinh liên hệ, so sánh giữa các văn bản, kết
nối văn bản với bối cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội, kết nối văn bản với trải nghiệm
cá nhân học sinh... để hiểu sâu hơn giá trị của văn bản, biết vận dụng, chuyển hoá
những giá trị ấy thành niềm tin và hành vi ứng xử của cá nhân trong cuộc sống
hằng ngày”.
Để học sinh chủ động tham gia hoạt động học, phát triển năng lực tự học tự
nghiên cứu thì việc chuẩn bị bài kĩ trước giờ học là hoạt động rất quan trọng. Giáo
viên có thể áp dụng phương pháp dạy học dự án để kịp thời hướng dẫn, động viên
các em nâng cao khả năng tự chiếm lĩnh tác phẩm, thốt li dần và khơng phụ thuộc
một cách thụ động vào sách học tốt, sách tham khảo.
- Đối với văn bản văn học:
Để giảm bớt áp lực về mặt thời gian cho việc tổ chức đọc văn bản tại lớp,
giáo viên có thể thiết kế và chuyển giao một số nhiệm vụ đọc cho học sinh tại nhà
theo phương pháp dạy học dự án và phải đảm bảo việc kiểm tra kết quả đọc của
những nhiệm vụ ấy khi học sinh đến lớp và sử dụng những kết quả ấy để tiếp tục tổ

chức những hoạt động đọc trực tiếp văn bản khác tại lớp.
Ở giai đoạn trước khi đọc, học sinh sẽ được giáo viên tổ chức, hướng dẫn
thực hiện các hoạt động chủ yếu sau: xác định mục đích đọc; huy động, bổ sung tri
thức nền cho học sinh (nếu thiếu), trải nghiệm những tình huống có liên quan đến
nội dung văn bản; quan sát tổng thể văn bản (chủ yếu là các yếu tố hình thức); dự
đốn về nội dung đọc. Một số hoạt động của giai đoạn trước khi đọc có thể được
chuyển thành nhiệm vụ học tập cho học sinh tại nhà, trước giờ học đầu tiên về văn
bản trên lớp, chẳng hạn như huy động tri thức nền của học sinh, bổ sung tri thức
nền cho học sinh bằng cách kiểm tra kết quả học sinh đọc một số tri thức công cụ
hỗ trợ cho việc đọc hiểu văn bản như tri thức về tác giả, hoàn cảnh ra đời của văn
bản, tri thức về toàn văn bản nếu văn bản đọc là một đoạn trích.
Về cơ bản, q trình dạy đọc ở trường phổ thơng có thể được thực hiện với
việc sử dụng kết hợp những phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học truyền thống
lẫn hiện đại như: Dạy học hợp tác, dạy học giải quyết vấn đề, dạy học dựa trên dự
15


án, phương pháp đọc diễn cảm, phương pháp thuyết trình, phương pháp đàm thoại
gợi mở, phương pháp đóng vai, dạy học tình huống, dạy học theo trạm, kĩ thuật
phịng tranh, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật sơ đồ tư duy, kĩ thuật mảnh ghép, kĩ
thuật nhóm chuyên gia, sử dụng phiếu học tập/ hồ sơ đọc trong dạy học…Ngoài ra,
giáo viên cũng có thể tổ chức dạy đọc kết hợp phương pháp dạy học dự án với một
số hoạt động trải nghiệm quen thuộc để tạo cơ hội cho học sinh được làm việc trực
tiếp nhiều hơn với văn bản như diễn kịch, sân khấu hóa, vẽ tranh, chuyển thể kịch
bản, dựng phim, viết lại câu chuyện/ kết thúc truyện, kể chuyện sáng tạo, tổ chức
hội thảo đọc, câu lạc bộ đọc sách, nhật kí đọc sách, bàn trịn văn chương, sưu tầm
tranh ảnh, bài viết, video clip về những nội dung, vấn đề được đề cập trong văn
bản, tổ chức trò chơi/ cuộc thi…Những dạng thức sản phẩm này có thể yêu cầu học
sinh thực hiện cùng với các nhiệm vụ đọc hiểu văn bản tại nhà để tạo hứng thú,
động cơ học tập cho học sinh, khuyến khích các em chủ động tìm hiểu và khám

phá văn bản.
Thông thường các tác phẩm được chọn đưa vào chương trình và sách giáo
khoa đều là những tác phẩm nổi tiếng, thường được chuyển thể sang loại hình nghệ
thuật khác. Nhiều tác phẩm văn học Nga, văn học phương Tây đều được chuyển
thể và trở thành những tác phẩm điện ảnh, những vở kịch nổi tiếng. Với văn học
Việt Nam, các tác phẩm Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao đã được chuyển thể và
trở thành tác phẩm kinh điển của điện ảnh Việt Nam trong “Làng Vũ Đại ngày ấy”.
Tương tự phim “ Chị Dậu” được chuyển thể từ Tắt đèn của Ngơ Tất Tố. Phim
“Trị đời” được chuyển thể từ Số Đỏ và một số tác phẩm khác của Vũ Trọng
Phụng. Vì thế, khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài cho bài học Chí Phèo, Hạnh
phúc của một tang gia cũng nên tiếp cận toàn bộ tác phẩm từ góc nhìn của điện
ảnh. Giáo viên có thể hướng dẫn và phát huy tính tự học của học sinh thông qua
dạy học dự án kết hợp với hoạt động trải nghiệm sáng tạo như “ Tôi là diễn viên”.
Cũng cần lưu ý rằng khi chuyển thể tác phẩm văn học với chất liệu là ngôn từ sang
tác phẩm điện ảnh hay sân khấu với chất liệu nghệ thuật là giọng nói, hình thể tâm
lí diễn viên, khơng gian sân khấu, phim trường …thì nội dung tác phẩm, ý đồ nghệ
thuật của tác phẩm khơng hồn tồn trùng khít. Vì vậy, giáo viên cần lưu ý học
sinh đọc văn bản đoạn trích, bám sát vào văn bản ngơn từ.
Giáo viên cũng có thể căn cứ vào nội dung của một số bài học có tính thực
tiễn và mang tính thời sự, cập nhật, hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài qua dạy học
dự án, qua đó khuyến khích tinh thần tự học, sáng tạo, là động lực quan trọng làm
cho học sinh tự tin, nhờ đó say mê khám phá tác phẩm. Tơi có thể dẫn ra một số ví
dụ sau:
Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà trước khi học tác phẩm Tràng
Giang của Huy Cận, Người lái đị sơng Đà của Nguyễn Tn, giáo viên có thể gợi
ý cho học sinh dự án: “Anh chị hãy thể hiện tình cảm và trách nhiệm của mình với
những dịng sơng q hương bằng cách xây dựng dự án tìm hiểu về một dịng sơng
nơi mình sinh sống”. Làm việc theo nhóm để ghi vào phiếu học tập những nội
16



dung cơ bản của dự án (Tên dự án, mục tiêu của dự án, thời gian thực hiện, dự kiến
sản phẩm, nhiệm vụ của từng thành viên, dự kiến cách thức công bố sản phẩm).
Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài “Người cầm quyền khôi phục uy
uyền”, giáo viên có thể hướng dẫn: Tiểu thuyết những người khốn khổ gửi đến độc
giả thơng điệp: “Trên đời, chỉ có một điều ấy thơi, đó là u thương nhau” và “u
thương đừng chỉ cất kĩ trong tim/ Yêu thương hãy trở thành hành động”. Anh/ chị
hãy lên ý tưởng cho một dự án cộng đồng có chủ đề “Kết nối yêu thương” và ghi
lại vắn tắt ý tưởng đó (tên dự án, mục tiêu dự án, thời gian thực hiện, người thực
hiện, các điều kiện mà anh chị hoặc nhóm của anh chị đã có để thực hiện, các
nguồn lực hỗ trợ, kế hoạch thực hiện…) Chia sẻ ý tưởng dự án của anh/chị trước
lớp để lựa chọn và cùng nhau thực hiện.
Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng,
giáo viên có thể đặt ra vấn đề: Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/ Hồn về Sầm Nứa
chẳng về xuôi. Gần 70 năm trước, con đường Tây Tiến vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng,
mĩ lệ đã in dấu chân của một binh đoàn hào hoa, kiêu hùng. Mỗi hình ảnh được
nhắc đến trong bài thơ của Quang Dũng không chỉ là tên đất, tên mường, tên sơng,
tên núi, đồng đội, mà cịn là kí ức về một thế hệ đã sẵn sàng “Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh”. Dự án này mời bạn lên “Tây Tiến mùa xuân ấy” bằng cách:
1. Lựa chọn để giới thiệu về một địa danh của con đường Tây Tiến huyền
thoại
2. Đưa ra phương án kết nối địa danh này vào các tuor du lịch để khách tham
quan thực sự thấy ấn tượng, thuyết phục, thêm hiểu, thêm yêu quý, tự hào về đất và
người Tây Tiến.
Hãy phác thảo đề cương của dự án
Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài Ai đã đặt tên cho dịng sơng của
Hồng Phủ Ngọc Tường, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề
bằng phương pháp dạy học dự án: Hồng Phủ Ngọc Tường đã cảm nhận: “Chính
trong những giây phút bồng bềnh giữa cõi thực và cõi thơ ấy, tôi đã cảm nhận ra
cái âm hưởng sâu thẳm của Huế trên mỗi trang Truyện Kiều: dịng sơng đáy nước

in trời và những nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và
sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm
thiết…chính sơng Hương và thành phố của nó đã vẫn gợi cho tơi, như một vang
bóng trong thời gian, hình tượng của cặp tình nhân lí tưởng của Truyện Kiều: tìm
kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc, và cả hai cùng gắn bó với
nhau trong một tình u mn thủa”. Dự án này mời bạn cùng trải nghiệm vẻ đẹp
của dịng sơng ai đã đặt tên. Hãy lựa chọn và khám phá một loại dịch vụ du lịch
gắn với dòng sơng Hương mà theo bạn có thể giúp chúng ta cảm nhận ấn tượng,
sâu sắc nhất về dịng sơng, đồng thời đảm bảo an toàn cho du khách và thân thiện
với môi trường. Hãy cùng chia sẻ điều anh chị lựa chọn vào phiếu học tập này
trước khi chúng ta quyết định chặng hành trình đến với dịng Hương?
17


- Đối với bài đọc- hiểu các văn bản nhật dụng:
Đây là loại văn bản không sử dụng hư cấu, tưởng tượng. Đặc điểm nổi bật
của văn bản nhật dụng là tính thực tiễn và tính cập nhật. Đặc trưng này làm cho bài
học này có sức lơi cuốn người học không những trong hoạt động đọc - hiểu văn
bản mà cịn cuốn hút họ trong việc sưu tầm, tìm hiểu các thơng tin có liên quan,
thống kê số liệu về các vấn đề tương tự đang diễn ra xung quanh họ. Điều đó cũng
đồng nghĩa với việc văn bản nhật dụng trở thành sợi dây kết nối người học với
thực tiễn. Nhằm đáp ứng được mục tiêu trên, nguyên tắc chỉ đạo trong các giờ đọc
- hiểu văn bản nhật dụng là: tổ chức cho học sinh liên hệ tới bản thân và các vấn
đề nhật dụng có liên quan; đảm bảo cá nhân trực tiếp tham gia bài học và kết hợp
làm việc trên văn bản lấy từ thực tiễn. Điều này cho thấy, với bài đọc - hiểu văn
bản nhật dụng phải tạo cơ hội nhiều nhất cho học sinh tham gia đọc - hiểu văn bản
theo hướng tự tìm hiểu, thuyết minh tư liệu liên quan đến chủ đề bài học. Giáo viên
giúp học sinh hiểu nội dung của một số bài viết về các vấn đề cấp thiết đặt ra trong
cuộc sống; biết cách đọc - hiểu văn bản nhật dụng và nâng cao ý thức trách nhiệm
của cá nhân với xã hội. Hướng vận dụng dạy học dự án ở đây khá phong phú. Dựa

trên hoàn cảnh thực tế và bằng khả năng tổ chức, giáo viên có thể vận dụng dạy
học dự án trong khâu chuẩn bị bài. Và khi cần, với những vấn đề có tính thời sự
cấp thiết, có thể áp dụng dạy học dự án trong các hoạt động ngoại khóa để tiến
hành khảo sát thực trạng, đề xuất giải pháp và tham gia (nếu có thể).
- Đối với văn bản thông tin:
Việc dạy đọc cần bám sát đặc trưng của văn bản. Cụ thể là ở giai đoạn trước
khi đọc, giáo viên cần hướng dẫn học sinh:
Xem xét các yếu tố hình thức của văn bản như: cách trình bày nhan đề; tiêu đề
của các phần, chương, đoạn, mục lục; một số từ khóa hay đoạn văn đặc biệt được
tô đậm, in nghiêng...); đặc biệt là các phương tiện phi ngơn ngữ được sử dụng
trong văn bản như: hình minh họa, lời chú thích dưới hình minh họa, bảng chú
thích, lời tựa, lời bạt, sơ đồ, bảng biểu, kí hiệu… để dự đoán nội dung của văn bản.
- Xác định cấu trúc của văn bản bằng cách dựa vào những từ ngữ manh mối
như: vì, do đó, thứ nhất là, bên cạnh đó…
- Hình dung khái qt về văn bản qua các phần giới thiệu, tóm tắt hoặc câu
hỏi (nếu có).
- Xác định mục đích tạo lập để định hướng cách thức đọc văn bản. Khi dạy
đọc văn bản thông tin, giáo viên sử dụng dạy học dựa trên dự án kết hợp việc dạy
đọc với một số hoạt động trải nghiệm quen thuộc, tạo điều kiện cho học sinh vận
dụng các thông tin rút ra từ văn bản để giải quyết những vấn đề thực tiễn, liên quan
trực tiếp đến hoạt động của học sinh như thiết kế poster tuyên truyền, vận động;
làm video clip về thực trạng mơi trường sống ở địa phương; thực hiện phóng sự
ảnh về tình trạng của một số di tích lịch sử ở địa phương; sưu tầm tranh ảnh về một
chủ đề khoa học tự nhiên hoặc xã hội (tích hợp liên môn hoặc xuyên môn). Những
18


hình thức này tạo điều kiện cho học sinh làm việc trực tiếp với văn bản, có cơ hội
phân tích và đánh giá thông tin mà văn bản cung cấp một cách sâu sắc hơn.
2.2.2.2. Đối với các bài học tiếng Việt

- Đặc điểm bài học:
Các bài học tiếng Việt được đưa vào chương trình Trung học phổ thơng chỉ
tập trung vào một số nội dung chính (Hoạt động giao tiếp; Phong cách ngôn ngữ;
Những vấn đề chung về tiếng Việt) và chú trọng thực hành, các đơn vị kiến thức
gần gũi và liên quan tới thực tiễn giao tiếp hằng ngày của học sinh.
- Mục tiêu bài học
Chú trọng đến thực hành, khơng mang tính “hàn lâm”, “kinh viện”. Phần
tiếng Việt gồm 2 loại bài: Loại bài thiên về hình thành kiến thức, kĩ năng mới và
Loại bài thực hành để củng cố kiến thức, kĩ năng. Xét về số lượng: Loại bài thực
hành có số lượng lớn hơn. Có thể minh họa bằng số liệu sau: Phần tiếng Việt trong
SGK Ngữ văn 11, trừ 1 tiết dành cho bài Ơn tập tiếng Việt, trong 17 tiết học thì nội
dung có tính chất lí thuyết chiếm 7 tiết (hơn 40%), nội dung có tính chất thực hành
chiếm 10 tiết (non 60%). Còn xét về cấu trúc: Ngay ở cả các Loại bài thiên về hình
thành kiến thức, kĩ năng mới thì ở cuối mỗi bài đều có phần Luyện tập và kiến
thức, kĩ năng mới chỉ được hình thành thơng qua hoạt động thực hành (từ khâu tìm
hiểu, phân tích ngữ liệu thực tế,...).
- Từ 2 đặc điểm nêu trên và qua khảo sát kĩ lưỡng từng bài học tiếng Việt
trong chương trình, chúng tơi thấy ngồi nội dung các bài thực hành, một số đơn vị
kiến thức là những vấn đề lý thuyết nhưng rất lại gần gũi, quen thuộc và có liên
quan tới thực tiễn giao tiếp trong cuộc sống hằng ngày của học sinh. Cụ thể:
- Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ với các nhân tố tham gia giao tiếp, hai
quá trình giao tiếp (tạo lập và lĩnh hội), hai dạng (nói và viết trong giao tiếp), sản
phẩm của giao tiếp là văn bản. Đây là một hoạt động mà các em thường xuyên tiến
hành trong cuộc sống gia đình, nhà trường và ngồi xã hội.
- Các phong cách chức năng: trừ phong cách ngôn ngữ nghệ thuật thì phong
cách ngơn ngữ sinh hoạt, phong cách ngơn ngữ báo chí, phong cách ngơn ngữ hành
chính...cũng không phải là những vấn đề quá xa lạ với học sinh. Chẳng hạn ở
phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, ngơn ngữ sinh hoạt là lời ăn tiếng nói hằng ngày
để thông tin, trao đổi ý nghĩ, đáp ứng nhu cầu tự nhiên của con người trong cuộc
sống. Còn với phong cách ngơn ngữ báo chí, ngơn ngữ báo chí là ngơn ngữ được

dùng trong các thể loại báo chí (tin tức, phóng sự) thì các em cũng được thấy
thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng: đài, báo, truyền hình,...
- Khả năng vận dụng dạy học dự án:
Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài, giáo viên có thể sử dụng dạy học dự
án như một biện pháp hoặc một kĩ thuật dạy học nhằm đa dạng hóa các hoạt động
học tập. Giáo viên có thể xây dựng dự án nhỏ, học sinh thực hiện được trong
19


khỏang thời gian ngắn trước khi tiết học diễn ra. Điển hình ở các bài học về phong
cách ngơn ngữ. Ví dụ khi dạy bài phong cách ngơn ngữ báo chí, phỏng vấn và trả
lời phỏng vấn, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh thực hiện các dự án nhỏ như:
tơi là phóng viên để giúp học sinh tìm hiểu và tiếp cận phong cách ngơn ngữ báo
chí trước khi tiết học diễn ra.
2.2.2.3. Đối với các bài học Làm văn
- Đặc điểm bài học:
Tập trung vào một số nội dung sau: Trình bày một vấn đề; Phát biểu theo
chủ đề; Kế hoạch cá nhân; Văn bản quảng cáo; Văn bản tổng kết; Bản tin; Tiểu sử
tóm tắt... Mặt khác, đề làm văn trong chương trình mở rộng phạm vi hơn, có huy
động hiểu biết về đời sống của học sinh, gắn liền với các tri thức trong phần Văn
học và tiếng Việt. Về cơ bản, nội dung phần làm văn Trung học phổ thông gần gũi,
thiết thực với đời sống.
- Mục tiêu bài học:
Chủ yếu rèn luyện và nâng cao kĩ năng tạo lập văn bản: tạo lập các kiểu văn
bản viết và văn bản dạng nói. Nguyên tắc chỉ đạo trong dạy học làm văn là: bằng
thực hành, thông qua thực hành và hướng tới thực hành.
- Khả năng vận dụng dạy học dự án:
Vận dụng được ở cả 2 hình thức: Chuẩn bị bài ở nhà và trong các hoạt động
ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm sáng tạo
+ Trong môn Ngữ văn, nhiều nội dung dạy học có thể gắn với thực tiễn cuộc

sống nên phù hợp để sử dụng dạy học dựa trên dự án. Chẳng hạn những nội dung
dạy học liên quan đến các kĩ năng như viết, nói và nghe, đọc hiểu văn bản thông
tin và văn bản nghị luận thường tạo nhiều cơ hội để giáo viên tìm ra được mối liên
hệ giữa những vấn đề thực tiễn đang diễn ra trong cuộc sống với nội dung bài học;
từ đó xây dựng nên những chủ đề học tập theo hình thức dự án. Tuy nhiên, không
phải mọi nội dung dạy học, mọi yêu cầu cần đạt của môn Ngữ văn đều phù hợp để
triển khai bằng dạy học dựa trên dự án nên giáo viên cần cân nhắc kĩ.
+ Hoặc môn Ngữ văn có thể tích hợp với những mơn học khác tạo thành
những dự án học tập mà ở đó, những nội dung dạy học của môn Ngữ văn cũng chủ
yếu được thiết kế theo định hướng hình thành, phát triển cho học sinh năng lực
giao tiếp với những biểu hiện cụ thể liên quan đến đọc, viết, nói và nghe.
Giáo viên phải xác định rõ mục tiêu, yêu cầu cần đạt nào về phẩm chất và
năng lực mà học sinh cần đáp ứng khi hoàn thành dự án. Những mục tiêu, yêu cầu
cần đạt khác của bài dạy chưa thể hình thành và phát triển qua việc học sinh tham
gia thực hiện dự án thì giáo viên cần sắp xếp để phát triển bằng việc phối hợp sử
dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học khác.
Dạy học dựa trên dự án sẽ tốn nhiều thời gian. Vì thế, giáo viên cũng cần
20


cân nhắc để chọn lựa sử dụng phối hợp với các phương pháp, kĩ thuật dạy học khác
sao cho phù hợp với quỹ thời gian cho phép. Đồng thời khi lựa chọn nội dung dạy
học dựa trên dự án, giáo viên cũng nên ưu tiên những nội dung học tập có tính chất
trọng tâm của học kì/ năm học để phát huy được hiệu quả của phương pháp này,
tương ứng với thời gian thực hiện.
Trong suốt quá trình thực hiện dự án cũng như bước trình bày, đánh giá sản
phẩm dự án, giáo viên cần chú ý đến tính hiệu quả của dự án về mặt hình thành và
phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh; tránh việc đi vào hình thức, mang tính
trình diễn, gây tốn kém thời gian và tiền bạc.
Trên cơ sở đã trình bày, giáo viên tiến hành xây dựng bảng mô tả chi tiết từ

số tiết, chủ đề, phương pháp, hình thức hoạt động có thể ứng dụng phương pháp
dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài:
Khối

Số
tiết
9

Chủ đề, bài học trải
nghiệm

Phương pháp

Hình thức DH

Văn tự sự

Dạy học dự án; sắm
vai; trò chơi; Phương
pháp làm việc nhóm

Thể
nghiệm/tương
tác

- Tổ quốc của tơi
Bài dạy văn thuyết minh
9
10


1

9

(Thuyết minh về một nét
đẹp văn hóa dân tộc Việt
Nam) Trang phục, ẩm
thực, Kiến trúc, tết Việt
Nam…)
Viết quảng cáo
Thanh niên Việt Nam xưa
và nay
( Truyện thơ nôm trung
đại)

11
2

Phong cách ngơn ngữ
báo chí.

1

Tập là phóng viên

Dạy học dự án; sắm
vai; trị chơi; Phương
pháp làm việc nhóm

Hình thức

khám phá Thể
nghiệm/tương
tác

Dạy học dự án; trị
chơi; Phương pháp
làm việc nhóm

Thể
nghiệm/tương
tác

Dạy học dự án;
Phương pháp giải
quyết vấn đề Phương
pháp làm việc nhóm

Thể
nghiệm/tương
tác

Dạy học dự án;
Phương pháp giải
quyết vấn đề Phương
pháp làm việc nhóm

Thể
nghiệm/tương
tác


Dạy học dự án;
Phương pháp giải

Thể
nghiệm/tương
21


×