Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Hướng dẫn đọc hiểu bài thơ thương vợ của trần tế xương từ những bình diện đời tư của tác giả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.61 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT VĨNH LỘC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

HƯỚNG DẪN ĐỌC HIỂU
BÀI THƠ “THƯƠNG VỢ” CỦA TRẦN TẾ XƯƠNG
TỪ BÌNH DIỆN ĐỜI TƯ CỦA TÁC GIẢ

1


MỤC LỤC

TT

Trang

1

Mở đầu

1

1.1

Lý do chọn đề tài

1


1.2

Mục đích nghiên cứu

2

1.3

Đối tượng nghiên cứu

2

1.4

Phương pháp nghiên cứu

2

2

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1

Cơ sở lí luận

3


2.2

Thực trạng của vấn đề

4

2.3

Tìm hiểu những bình diện đời tư của Trần Tế Xương có liên quan đến
bài thơ Thương vợ

4

2.3.1

Con người, quê hương, thời đại

4

2.3.2

Chân dung bà Tú – người vợ tảo tần trong thơ văn Trần Tế Xương

6

2.3.3

Bi kịch con người cá nhân trong thơ Trần Tế Xương

8


2.3.4

Giai thoại về Trần Tế Xương

10

2.3.5

Những bài thơ Trần Tế Xương viết về vợ

11

2.4.

Thiết kế giáo án thực nghiệm

11

2.5.

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục

17

3

Kết luận, kiến nghị

18


3.1

Kết luận

18

3.2

Kiến nghị

18

2


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Văn Huyền (1986), Tú Xương, tác phẩm và giai thoại, NXB Hội
Văn học nghệ thuật, Hà Nam Ninh
2. Nhiều tác giả (2012), Trần Tế Xương, Thơ và đời, NXB Văn học, Hà Nội
3. Xuân Diệu (2012), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội
4. Trần Quang Dũng (2009), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ
XIX
5. Nhiều tác giả (2014), Trần Tế Xương, Thơ chọn lọc, NXB Văn học, Hà
Nội.
6. Nguyễn Lộc (2012), Văn , NXB Giáo dục, Hà Nội
7. Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nơm Đường luật, NXB Giáo dục, Hà Nội
8. Lã Nhâm Thìn (2001), Bình giảng thơ Nôm Đường luật, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
9. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học quốc gia,

Hà Nội.
10. Chu Văn Sơn (2019), Thơ điệu hồn và cấu trúc, NXB Hội nhà văn.
1.

3


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG
GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Trương Hồng Phương
Chức vụ và đơn vị công tác:Giáo viên – Trường THPT Vĩnh Lộc

TT

1.

2.

4

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá

xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Vai trò của giáo viên chủ nhiệm với việc
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở
trường Nội trú Mường Lát

Sở GD&ĐT

B

2012 - 2013

Một số kinh nghiệm dạy hiệu quả tiết
Đọc – hiểu văn bản cho học sinh dân tộc
thiểu số ở trường DTNT Mường Lát

Sở GD&ĐT

C

2016 - 2017

Năm học đánh
giá xếp loại


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài

Thơ với hiện thực cuộc sống nói chung và đời tư của tác giả nói riêng
ln có một mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Cố thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã từng nói rằng: “Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút
cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng co
nhụy”. Tố Hữu cũng có cách nói tương tự: “Thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc
sống đã thực đầy”. Cịn Bi-ê-lin-xki thì khẳng định “Thơ trước hết là cuộc đời
sau mới là nghệ thuật” và Đuy-bray cũng thật chí lí khi cho rằng “Thơ là người
thư kí trung thành của trái tim”. Như vậy có thể thấy rằng chính hiện thực cuộc
sống, cuộc đời của nhà thơ là nơi khởi phát của những vần thơ.
Trong nền văn học Việt Nam, sự xuất hiện thơ Nôm Đường luật đã đánh
dấu một bước ngặt quan trọng trong lịch sử văn học. Nó giữ một vị trí đáng kể
bên cạnh các thể thơ khác đồng thời còn thể hiện tinh thần tự lập, tự cường về
mặt văn hóa, văn học của dân tộc Việt trong tương quan với văn hóa, văn học
Trung Quốc. Kể từ khi ra đời, thơ Nôm Đường luật giữ một vai trò hết sức quan
trọng trong đời sống, tư tưởng, tình cảm của cộng đồng người Việt Nam, đặc
biệt là trong thời trung đại. “Thơ Nôm Đường Luật là tiếng noi gửi gắm tâm tư,
tình cảm, suy nghĩ của nhiều bậc trí thức về con người, thiên nhiên, quan niệm
sống thời trung đại. Hơn thế, thơ Nôm trung đại co thể phản ánh hiện thực cuộc
sống bình thường của nhân dân một cách linh hoạt và cụ thể, co thể xây dựng
những hình tượng văn học đậm màu sắc dân tộc và do đo dễ thấm sâu hơn vào
cảm quan của cơng chúng”[1]. Vì vậy đến với thơ Nôm Đường luật, chúng ta sẽ
cảm nhận một cách đâỳ đủ, sâu sắc nhất những khía cạnh sâu kín trong đời sống
tâm tư tình cảm của con người Việt Nam thời trung đại.
Trần Tế Xương (còn gọi là Tú Xương) là nhà thơ lớn của lịch sử văn học
nói chung và văn học trung đại nói riêng đồng thời còn là một trong hai đại diện
tiêu biểu cuối cùng của văn học giai đoạn cuối thế kỉ XIX (Bên cạnh nhà thơ của
làng cảnh – Nguyễn Khuyến). Thơ văn ông là điểm sáng của văn học Việt Nam
gia đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, những năm đầu thế kỉ XX. Thơ Trần Tế Xương đề
cập tới mảng chủ để, trong đó có chủ đề đời tư. Những bài thơ Nôm của ông đã
“cho thấy được bức tranh đời sống tinh thần tầng lớp nho sĩ Hán học cuối cùng

của đất nước. Bên cạnh đo còn cho thấy được nét phong cách riêng độc đáo của
nhà thơ tài năng trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, gop phần khẳng định giá
trị thơ ca trung đại trong tiến trình văn học Việt Nam” [2].
Thế nhưng thực tế nhiều học sinh khi học những tác phẩm văn học trung
đại – trong đó có mảng thơ Nơm Đường luật - ln cảm thấy nhàm chán, khó
hiểu vì cách xa về thời gian, cách tư duy, cách dùng ngơn từ, nội dung có phần
đơn điệu, khuôn sáo...
Để thay đổi tâm thế tiếp nhận cũng như tạo thêm hứng thú học tập, việc
nghiên cứu đời tư của tác giả và áp dụng và giảng dạy sẽ góp thêm những hiểu
biết mới mẻ, hấp dẫn, giúp học sinh thấy được thơ không hề xa lạ mà rất gần gũi
với cuộc đời.
5


Từ thực tế đó, tơi mạnh dạn nghiên cứu và áp dụng đề tài “Hướng dẫn
Đọc hiểu bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương từ những bình diện đời tư
của tác giả” vào thực tiễn giảng dạy của mình trên lớp học. Hy vọng đề tài sẽ
mang đến một con đường mới giúp học sinh tìm hiểu tác phẩm cũng như có thể
góp thêm một tư liệu hữu ích cho các đồng nghiệp trong cơng tác chun mơn
của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.2.1. Đối với giáo viên
Đề tài nghiên cứu tiếp cận bài thơ “Thương vợ” từ góc nhìn đời tư của tác
giả nhằm góp thêm tư liệu cho giáo viên, đặc biệt là giáo viên đang trực tiếp
giảng dạy Ngữ văn 11.
Thêm một phương pháp để giúp giáo viên hoàn thành mục tiêu một giờ
dạy đọc hiểu bài thơ “Thương vợ” hiệu quả.
1.2.2. Đối với học sinh
- Vận dụng con đường, biện pháp phát triển tính tích cực, độc lập trong
nhận thức, sáng tạo đặc biệt là tư duy giúp các em lĩnh hội sâu sắc và nhớ lâu

kiến thức, và có những cảm nhận mới mẻ về tác phẩm văn học trong nhà trường,
tránh lối mòn quen thuộc, áp đặt.
- Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập của học sinh với bài thơ
“Thương vợ” nói riêng và phần văn học trung đại trong nhà trường nói chung.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập trung vào tác
giả Trần Tế Xương với bài thơ “Thương vợ”.
- Sáng kiến tập trung nghiên cứu về đời tư của Tú Xương, đặc biệt là về sự
nghiệp và tình cảm vợ chồng trong thơ ơng. Từ đó, xác định hướng khai thác
mới mẻ khi dạy học văn bản này.
- Đối tượng áp dụng khảo sát đề tài: Học sinh lớp 11C3 và 11C5 Trường
THPT Vĩnh Lộc năm học 2019 – 2020.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
* Về lí thuyết:
- Các tài liệu về Trần Tế Xương, nhất là văn học thế kỉ XIX.
- Các bài nghiên cứu về tác phẩm “Thương vợ”
- Các phương pháp dạy học văn nhằm phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của học sinh.
- Về thực tiễn:
+ Dự giờ đồng nghiệp dạy cùng khối chương trình ban cơ bản.
+ Thực nghiệm sư phạm: thực nghiệm đề tài vào giảng dạy bài thơ
Thương vợ trong chương trình Ngữ văn 11 do bản thân trực tiếp đứng lớp ở
trường THPT Vĩnh Lộc.
+ Chọn phương pháp so sánh hai lớp có năng lực tiếp thu bài tương đương
nhau: một lớp có vận dụng đề tài nghiên cứu trong giờ dạy, một lớp chỉ sử dụng
phương pháp truyền thống đọc hiểu văn bản nhằm kiểm chứng những biện pháp
6



mà đề tài nêu ra từ đó rút ra các kết luận khoa học và khẳng định tính khả thi của
đề tài.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: để chia tách, đánh giá, lí giải và nhận
biết sâu sắc các phương diện thể hiện chủ đề đời tư của tác giả TTX. Từ đó tổng
hợp các bình diện để so sánh, đối chiếu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận
Thơ Nơm Đường luật là một thể thơ độc đáo bậc nhất trong văn học trung
đại Việt Nam. Đây là một thể thơ được dùng phổ biến trong văn chương bác
học, vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc cho nên để tồn tại trong đời sống văn học
Việt Nam nó phải trải qua q trình dân tộc hóa thành thơ Nôm Đường luật
mang bản chất, chức năng mới của thể loại, “Thơ Nôm Đường luật không là
“kiều bào nước ngoài” mang quốc tịch Việt Nam. Cái nguồn gốc ngoại lai của
no trở nên thứ yếu, đến mức văn học dân tộc quên cả cấp “thị dân nhập cảnh”
và thơ Nôm Đường luật mặc nhiên đứng cùng hàng với lục bát, song thất lục
bát – những thể loại thuần túy dân tộc” [3].
Với tất cả những ưu việt của nó, đặc biệt là sự gần gũi đối với tâm hồn
người Việt Nam, thơ Nơm là thể loại thích hợp nhất thể hiện những tư tưởng tình
cảm cá nhân của con người. Bởi vậy nhiều nhà thơ đã chọn thơ Nơm trong
những sáng tác thể hiện tâm tư, tình cảm của cá nhân mình. Từ Nguyễn Trãi, đến
những nhà thơ tài hoa như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công
Trứ, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát... Khi viết bằng chữ Nôm, thứ ngôn ngữ phù
hợp nhất để thể hiện những nỗi niềm sâu kín nhất của các nhà thơ và được họ
sáng tác ngoài chức trách, phận vị nên dấu ấn cá nhân được thể hiện rất rõ nét.
Nếu như vách ngăn của thời trung đại là những tư tưởng chuẩn mực vơ ngã thì
các nhà thơ viết bằng chữ Nơm - trong đó có Trần Tế Xương – đã vượt qua
bằng sự tự khẳng định mình, ý thức về mình bằng những biểu hiện “phi chuẩn”,
“ngồi chuẩn”. Vì thế thơ Nơm đã góp phần “giúp cho văn học trung đại Việt
Nam đã ghi dựng được những mẫu anh hùng, tài nhân, quân tử; giúp văn học
trung đại co những sáng tác làm xuất hiện được cái tôi rất ngông nghênh kiêu

bạc” [4]. Đây là phạm trù biểu hiện cá tính riêng với những manh nha về con
người cá nhân trong văn học.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Trần Tế Xương có 124 bài thơ viết
bằng chữ Nơm trong đó có đến 56 bài thơ về chủ đề đời tư. Do đó có thể khẳng
định đây là một chủ đề lớn và quan trọng trong sáng tác của tác giả. Nguyên
nhân là do Trần Tế Xương sống trong giai đoạn xã hội phong kiến đã hết thời,
thay vào đó là một bộ máy thống trị quan liêu do bọn thực dân Pháp cầm đầu
cùng với hệ thống bọn tay sai từ lớn đến bé với biết bao ngang trái, lố bịch nửa
tây nửa ta. Là một nhà nho, hẳn ơng đã rất đau lịng khi phải chứng kiến xã hội
đảo điên như vậy. Cuộc đời con người nhiều chữ như Tú Xương vẫn cứ đắm
chìm trong thi cử và hỏng thi. Ông đơn độc trong xã hội buổi giao thời, khơng
thể hịa nhập cùng những kẻ ơm chân giặc bán nước hại dân, cũng không thể
làm ngơ trước cảnh nước nhà. Vì vậy như bao nho sĩ bế tắc đương thời, Trần Tế
7


Xương đã gửi gắm tâm sự riêng tư của mình trong những vần thơ Nôm chân
thành, thắm thiết.
Thương vợ là một trong những bài thơ đã thể hiện rõ nét chủ đề đời tư
trong thơ của TTX. Vì vậy có thể áp dụng những bình diện đời tư của tác giả để
thực hiện giảng dạy trong nhà trường.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1 Thuận lợi
* Về phía giáo viên:
Đây là đề tài tơi đã ấp ủ, tìm hiểu từ lấu nên bản thân có sự tìm tịi ,
nghiên cứu khá kĩ càng từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau về tác giả Trần Tế
Xương từ cuộc đời cho đến sự nghiệp sáng tác.
Trong thực tế giảng dạy tại trường THPT Vĩnh Lộc, được sự quan tâm của
tổ chuyên môn về kiến thức, kĩ năng giảng dạy, đặc biệt thường xuyên có sự trao
đổi kinh nghiệm giữa các giáo viên đã giúp bản thân tôi thường xuyên được tạo

điều kiện tốt nhất trong giảng dạy. Thêm vào đó Ban giám hiệu nhà trường có
những định hướng, chỉ đạo về chuyên môn theo tinh thần đổi mới phương pháp
dạy học của Bộ Giáo dục đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho giáo viên
được áp dụng đổi mới phương pháp trong dạy học
* Về phía học sinh:
Các em phần lớn có ý thức học tập tốt, có tinh thần học hỏi, tìm tịi và
hứng thú với mơn Ngữ văn nói riêng, nền văn học dân tộc và của nhân loại nói
chung.
2.2.2 Khó khăn
* Về phía giáo viên:
“Thương vợ” đã trở thành một bài thơ quen thuộc của bao thế hệ giáo
viên giảng dạy. Vì vậy để khám phá một hướng đi mới không phải là điều đơn
giản. Thêm vào đó tài liệu về nhà thơ nhất là người vợ tảo tần là bà Tú lại càng
hiếm. Đây chính là điều khó khăn nhất khi áp dụng đề tài vào thực tế giảng dạy.
* Về phía học sinh:
Tìm hiểu thơ đối với học sinh đặc biệt là thơ trung đại là một thử thách
lớn các em. Mặc dù có nhiều em thực sự đam mê với môn Ngữ văn tuy nhiên
hiện tượng học sinh thờ ơ, quay lưng lại với môn học này cũng là một thực tế
khơng thể phủ nhận mà có lẽ khơng chỉ riêng với trường chúng tơi.
2.3. Tìm hiểu những bình diện của đời tư Trần Tế Xương có liên quan
đến bài thơ “Thương vợ”.
2.3.1. Con người, quê hương, thời đại.
Việc tìm hiểu con người, q hương và thời đại có lí do của đề tài sáng
kiến. Đó là chính con người Trần Tế Xương đã trực tiếp trở thành một nhân vật
điển hình trong thơ của ơng. Chính q hương Tú Xương, cụ thể là Nam Định
thưở ấy cũng in bóng trong thơ Tú Xương như một hiện tượng nghệ thuật đặc
sắc. “Rồi ra, thời đại Tú Xương đã đi vào thơ ông một cách nghệ thuật tới mức,
vào thời đo, dễ gì co ai thay thế được” [5].
Tú Xương chính tên là Trần Tế Xương, tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử
Thịnh. Ơng sinh ngày 10 tháng 8 năm Canh Ngọ (1870) ở làng Vị Xuyên, huyện

8


Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, nay là phố Hàng Nâu, thành phố Nam Định. Tú Xương
thuộc dòng dõi nho gia. Dịng họ của ơng thành họ Trần là bởi vào đời Trần có
người lập cơng lớn nên được vua cho đổi theo họ nhà vua (quốc tính). Cha ơng
cũng là một nhà Nho, thi nhiều khoa không đậu, sau là Tự thừa ở dinh đốc học
Nam Định.
Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi. Vợ là bà Phạm Thị Mẫn, người họ Phạm ở
làng Lương Đường, thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Họ Phạm có
nhiều người đậu đạt. Tú Xương có lần nhắc tới gia thế nhà vợ “Chẳng những
Lương Đường có thủ khoa”. Gia đình bà Phạm Thị Mẫn đến đời bố mẹ thì dời
sang sinh sống ở Nam Định. Bà Mẫn sinh trưởng tại đây. Cuộc kết hôn giữa ơng
Tú với bà là từ hồn cảnh gần gũi đó. Vợ chồng Tú Xương sinh được 8 người
con, trong đó có 6 trai. Bà Tú là một người phụ nữ tiêu biểu cho phụ nữ Việt
Nam xưa ở nhiều phương diện như tần tảo, thương chồng, thương con, nhẫn nại
qn mình. Cơng việc kiếm sống cho gia đình của bà – theo cách nói bây giờ - là
thuộc hàng lớp tiểu thương. Điều đặc biệt là chính bà đã đi vào thi phẩm của ông
chồng như một nhân vật điển hình hấp dẫn.
Tú Xương đi học sớm và cũng sớm nổi tiếng thơng minh, giỏi thơ phú.
Ơng học chữ Hán và bắt đầu đi thi từ năm 17 tuổi. “Đời thi của ơng tính ra có tất
cả 8 lần. Đó là các khoa: Bính Tuất (1886), Mậu Tý (1888), Tân Mão (1891),
Giáp Ngọ (1894), Đinh Dậu (1897), Canh Tý (1900), Q Mão (1903), Bính
Ngọ (1906)” [6]. Ơng đậu tú tài khoa Giáp Ngọ nhưng cũng là tú tài thiên thủ
(lấy thêm). Sau đó khơng khơng sao lên nổi cử nhân, mặc dù khá kiên trì theo
đuổi. Khoa Bính Ngọ, Tú Xương đổi tên thành Trần Cao Xương, tưởng là bớt
đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng, đến phát cáu lên:
Tế đổi làm Cao mà cho thế
Kiện trông ra Tiệp hỡi trời ôi!
Trong xã hội cũ, cái bằng tú tài là thuộc nửa đời nửa đoạn, dang dở dở

dang. Luật cũ định: tú tài không được thi hội. Cử nhân mới được thi. Tú tài
không được bổ quan. Cử nhân mới được bổ. Cho nên sau khi đậu tú tài, muốn
đậu cử nhân, phải đợi ba năm sau thi lại.
Tú Xương thường thích giao du với bạn bè. Cái tài thơ phú văn chương,
lại thêm lối sống hào hoa phong nhã, tính tình cởi mở của Tú Xương đã làm cho
tình bạn thêm đậm đà. Trong bạn bè của Tú Xương, có người khơng đậu gì, có
người đậu cao. Có người nhân cách cao thượng, được Tú Xương kính nể như
Phạm Tuấn Phú. Có người nhân cách bình thường. Tú Xương chơi cùng là do
cùng quê, cùng lứa tuổi, cùng học vấn như Cử Thăng, Huấn Mỹ, Tú Tây Hồ.
Tú Xương, sinh thời hầu như ngoài việc học hành, thi cử, làm thơ phú,
khơng có nghề gì cả. Ngay cái nghề gõ đầu trẻ, tuy Tú Xương nói đến trong thơ
của mình nhưng xem ra cũng chẳng thành nghề. Tú Xương đúng cũng là loại
nhà Nho “dài lưng tốn vải”. Cuộc sống vật chất là nhờ vào bà vợ đảm đang, tần
tảo.
Cuộc đời Tú Xương sinh ra, lớn lên và đi qua, hồn thơ Tú Xương đã được
ươm trồng và nảy nở trên quê hương Nam Định rất đáng tự hào đó. Khơng phải
tất cả cái gì của q hương cũng ảnh hưởng tới cuộc đời và hồn thơ của Tú
9


Xương. Nhưng chắc chắn là phần thơ ảnh hưởng của nó tới con người và thơ Tú
Xương là khơng nhỏ. Điều đáng quý là Tú Xương đã biết đền ơn trả nghĩa quê
hương bằng cách đem tài thơ của mình gắn với quê hương, tới mức thành ra một
hiện tượng nghệ thuật độc đáo. “Đọc thơ Tú Xương thấy bật lên một địa phương
... Trong thơ Tú Xương, trong phú Tú Xương, chỉ rặt co cảnh Nam Định, sự Nam
Định, lời Nam Định, người Nam Định” (Nguyễn Tuân)” [7].
Tú Xương mất năm 1907. Cuộc đời ngắn ngủi có 37 năm của Tú Xương
đã nằm gọn trong giai đoạn bi thương nhất của đất nước. Tú Xương vừa là
chứng nhân vừa là nạn nhân của của cuộc đổi thay này. Tú Xương với tài năng
tâm huyết của mình đã đóng vai trò một “nhà thơ thư ký” để nếu chưa ghi chép,

phản ánh được bao nhiêu cái mâu thuẫn cơ bản, trung tâm của thời đại thì cũng
đã ghi chép, phản ánh được nhiều mặt cuộc đổi thay xã hội đó bằng tài thơ xuất
sắc của mình.
2.3.2. Chân dung bà Tú – người vợ tảo tần, trong thơ văn Trần Tế Xương.
Tình cảm vợ chồng là một trong những mối quan hệ hết sức đặc biệt được
phản ánh trong văn học trung đại bởi nó là một trong những tình cảm thiêng
liêng nhưng ít khi được đưa vào thơ ca bởi những quan niệm cổ hủ lạc hậu của
xã hội phong kiến về vai trò của người phụ nữ. Chúng ta chỉ biết đến một
Nguyễn Trãi với hai bài thơ nổi tiếng viết về người vợ của mình là Bảo kính
cảnh giới số 2 và Tích cảnh số 10; Nguyễn Khuyến với những bài thơ về người
vợ tào khang và Trần Tế Xương cũng viết về vợ với tấm lòng chân tình đầy u
thương mà “Thương vợ” có lẽ là bài thơ hay nhất trong số đó.
Như bao nhà thơ trung đại khác, Tú Xương viết rất ít về vợ mình. Khơng
phải vì ơng khơng u thương hay tơn trọng mà ngược lại trong mối qua hệ vợ
chồng, Tú Xương thương vợ bằng một tình cảm chân thành, tha thiết, thủy
chung, một thái độ cởi mở, hồn nhiên, đầy tình nghĩa vợ chồng để từ đó phát
hiện ra vẻ đẹp dịu hiền trong tâm hồn người vợ lam lũ.
Bà Phạm Thị Mẫn người vợ duy nhất của ông, con nhà gia giáo, một
người phụ nữ đảm đang, tháo vát, hết mực yêu chồng thương con, nhẫn nại đến
quên mình. Gia cảnh ông Tú đông con, nghèo đói đã có lúc ông tính chuyện làm
liều: “Lúc túng toan lên bán cả trời” (Tự trào), những tưởng ông sẽ phải chung
lưng đấu cật với vợ lo cho gia đình và đàn con đơng đúc. Nhưng khơng, ơng vẫn
phó mặc cả cho vợ: “Quanh năm bn bán ở mom sơng… Lặn lội thân cị khi
qng vắng/ Eo sèo mặt nước buổi đị đơng”. Bà Tú làm việc đầu tắt mặt tối
trong một môi trường không gian, thời gian đặc biệt: triền miên liên tục nơi
“mom sơng” đầy chơng chênh hiểm trở của “buổi đị đơng” để làm trịn bổn
phận trách nhiệm với gia đình và đặc biệt là chỗ dựa để ông Tú dùi mài kinh sử.
Song nấu sử mãi mà vẫn chưa sôi kinh, xôi hỏng bỏng không, Tú Xương lại trở
về trong nỗi tuyệt vọng chán chường, sống trong sự cưu mang của người vợ.
Ơng đã giễu mình, đức ơng chồng vơ tích sự, là một thứ “con cao cấp” thậm chí

được cưng chiều hơn cả đứa con út của ông trong gia đình:
Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ
Đem chuyện trăm năm dở lại bàn
(Quan tại gia)
10


Thậm chí ơng cịn tự dằn vặt, tự chửi mình:
Cha mẹ thoi đời ăn ở bạc
Co chồng hờ hững cũng như khơng
(Thương vợ)
Người đàn bà thủy chung giàu tình nghĩa ấy luôn gắn với chồng trong
từng hành động, từng ý nghĩ lo âu và hy vọng. Tự chửi mình mình, cười mình,
Tú Xương càng thấy rõ vai trị của người vợ thân u đối với mình. Bà khơng
chỉ tận tụy lo cho chồng từng bữa cơm, tấm áo, từng ống bút, sách vở, giấy mực
– phương tiện để chồng học và thi, bà cịn là một người ln lo lắng cho sự
thành bại của chồng. Bà cúng bái, mong chồng “công thành danh toại”, lo chạy
từng hào tiền, bị gạo mỗi khi chồng đi thi:
Tiễn chân, cô mất hai đồng chẵn
Sờ bụng, thầy không một chữ gì…
(Đi thi)
Không những thế, bà cịn chạy thầy, chạy thuốc mỗi khi ơng ốm, ông đau:
Vừa đồng bạc lớn ông lang Sáu
Lại mấy hào con chú Ích Sinh
(Đau mắt)
Trong lúc ơng đang say sưa khơng biết trời đất là gì, một mình bà Tú thức
đêm chăm lo cho ông, thắp hương khấn vái trời đất mong ông mau khỏe:
Chỉ bền một nén tâm hương nguyện
Thuốc thánh bùa tiên ắt chẳng chầy
(Một nén tâm hương)

Không kêu ca phàn nàn, oán thán, người phụ nữ ung dung, khoan hịa ấy
nhận về mình bao nỗi vất vả lo toan chồng chất những mong chồng vui trên
bước đường sự nghiệp gập ghềnh, mấp mô. Người vợ ấy không chỉ biết “lặn lội
thân cò” và “eo sèo mặt nước” mà hơn thế nữa cịn có một trình độ văn hóa nhất
định, đặc biệt cịn có năng khiếu thưởng thức văn chương. Bởi lẽ bà Tú vốn là
người xuất thân trong gia đình nho gia, có truyền thống hiếu học. Cho nên bà
cảm nhận, phục tài văn chương và biết đánh giá tài năng của ông Tú:
Viết vào giấy dán trên ngay lên cột
Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay?
Thưa rằng hay thực là hay
Chẳng hay sao lại đỗ tú tài
Xưa nay em vẫn chịu ngài
(Tết dán câu đối)
Với tấm lòng yêu thương, thủy chung, tri ân vợ, Trần Tế Xương đã khắc
tạc nên hình tượng bà Tú – người vợ điển hình, chân thật mang những đức tính
q báu của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Bà Tú dù có vất sớm hơm
song vẫn ln mỉm cười hạnh phúc vì được sống giữa tình yêu thương chân
thành của người chồng. Đã mấy ai trên trần gian cổ kim đông tây này như Tú
Xương yêu vợ, quý vợ, đùa với vợ bằng cách đưa vợ ra mà làm văn tế sống. Văn
tế sống kể ai lịch, chân dung, nghề nghiệp của vợ như thế này, vợ nghe không nở
ruột nở gan sao được:
11


Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ;
Tiếng co miếng không, gặp chăng hay chớ.
Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo
rằng gầy;
Người ung dung, tính hạnh khoan hịa, chỉ một bệnh hay
gàn dở.

Đầu sơng bãi bến, đua tài bn chín bán mười;
Trong họ ngồi hàng, vụng lẽ chào dơi noi thợ.
(Văn tế sống vợ)
Tú Xương làm thơ, mà thơ với Tú Xương cũng là một thứ đùa vui, âu
yếm vợ cho khuây khỏa nỗi vất vả quanh năm. Đó chính là sự khác biệt của
TTX với các tác giả truyền thống trong cách thể hiện thái độ và tình cảm với vợ
của mình. Trong thơ văn trung đại Việt Nam tìm thấy được một người thật sự
thấu hiểu nỗi vất vả của vợ như Tú Xương thầy là hiếm thấy. Nét đáng quý ấy ở
ông Tú dường như chúng ta khơng thấy ở bất kì một tác giả nào khác của văn
học thời kì này. Điều đó đã tạo nên ở nhà thơ làng Vị Xuyên “một dấu nối đầy
ấn tượng giữa nền văn học trung đại ở giai đoạn cuối chiều nhưng lại kết tinh
hoa của hàng nghìn năm với nền văn học cận hiện đại đang bắt đầu co dấu hiệu
hình thành với bao điều mới mẻ” [8].
2.3.3. Bi kịch con người cá nhân trong thơ Trần Tế Xương.
Nếu sinh ra bất tài vô dụng hoặc đạt được trọn vẹn lý tưởng của nho sĩ
trên con đường cơng danh sự nghiệp thì có lẽ đã khơng có một Trần Tế Xương
được hậu thế vinh danh ngày hôm nay. Tú Xương thông minh, tài trí nhưng lại
thất bại trên con đường đã lựa chọn và gắn bó suốt đời nên ơn mới day dứt, dằn
vặt khơn ngi. Dằn vặt bản thân mình và day dứt với những người thân thiết.
Cuộc đời Tú Xương thực sự là một chuỗi những bi kịch nối tiếp nhau, bi kịch từ
gia cảnh sống, bi kịch trong lý tưởng khát vọng đến sự bất lực cá nhân trước xã
hội đương thời. Đọc bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương, hẳn chúng ta đều
thấy bi kịch của ông được thể hiện trong ý thức của ông về nỗi vất vả, sự tảo tần
lam lũ của bà Tú “Quanh năm buôn bán”, “Nuôi đủ năm con với một chồng”;
trong cách ông chửi đời, chửi mình “Cha mẹ thoi đoi đời”, “Co chồng hờ hững
cũng như khơng”. Tìm hiểu că ngun những bi kịch cuộc đời của Trần Tế
Xương giúp ta hiểu hơn về con người ông cũng như hiểu rõ lí do vì sao ơng lại
thành cơng đến thế khi viết về đề tài bà Tú nói chung và bài thơ “Thương vợ”
nói riêng.
Bi kịch của Tú Xương trước hết là trong nghiệp thi cử. Đi thi với ông Tú

như một cái nghiệp, thậm chí là quán tính:
Tấp tểnh người đi tớ cũng đi
Cũng lều cũng chõng cũng đi thi
(Đi thi)
Dù ông biết rõ cái thời mà ông đang sống chữ nho đã hết thời:
Nào co ra gì cái chữ nho
Ơng nghè ơng cống cũng nằm co.
(Chữ nho)
12


Nhưng mang cái duyên nợ với nho học thì việc vứt bỏ cũng khó. Ơng một
mặt “Lăm le bia đá bảng vàng cho vang mặt vợ” nhưng một mặt lại khơng bỏ
được cái thú ăn chơi phóng túng của mình cứ việc “ăn chơi chẳng học hành” để
đến lúc vào trường thi thì “Sờ bụng thầy khơng một chữ nào”. Thêm vào đó là
thái độ khơng chịu nhập cuộc khi thời thế đã đổi thay để đến lúc hỏng thi ông lại
than thân trách phận “Trách mình phận mỏng lại duyên ôi” (Hỏng khoa thi Quý
Mão).
Công không thành, danh không toại Tú Xương cả đời phải sống trong
cảnh nghèo khó. Nhưng cái nghèo không làm ông mất đi những thú vui sở thích
phong lưu vốn khơng phải của con nhà nghèo. Bởi Tú Xương là con người của
trần gian lại thêm tâm hồn phóng khống của nghệ sĩ, nghĩa là ông biết ăn ngon,
mặc đẹp, biết nếm đủ mùi đời xa hoa phóng túng:
Nghiện chè, nghiện rượu, nghiện cả cao lâu
Hay hát, hay chơi, hay nghề xuống lõng
Nhưng cái nghèo nó khơng cho phép ơng được thoải mái ăn chơi. Bởi vậy
ông mới lâm vào bi kịch:
Người bảo ông cùng mãi
Ơng cùng đến thế thơi
Vợ lăm le ở vú

Con tấp tểnh đi bồi
(Than cùng)
Buổi đầu khi đang còn trẻ, mới rơi vào cảnh nghèo, chưa nếm đủ vị cay
đắng của cuộc đời thì ơng Tú cịn cất giọng đùa bỡn với nghèo:
Lúc túng toan lên bán cả trời
Trời cười thằng bé no hay chơi
(Tự cười mình)
Nhà thơ vẫn còn ba hoa với bạn bè “Anh em đừng nghĩ nhà tôi nghèo/
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu” (Cảm tết) đến lúc cái nghèo đã khơng cho
ơng ngóc đầu dậy mà mở mắt với thiên hạ thì ơng chỉ cịn biết than thở trong
dòng lệ tràn:
Van nợ lắm khi trào nước mắt
Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi
(Than nghèo)
Cái bi kịch của Tú Xương còn được biểu hiện ở chỗ là muốn sống hồn
nhiên mà khơng sống nổi, mãi vịng vo trong cái vịng luẩn quẩn, vơ nghĩa của
chuyện thi cử lập cơng danh. Trong khi đó ở ngồi kia là xã hội thực dân với bao
nhiêu thối tha, rác rưởi đang hàng ngày hàng giờ phơi bày ra trước mắt của ông.
Thất vọng, chán nản muốn rũ bỏ, bứt phá nhưng khơng thể. Cho nên rút cục là
phẫn chí, là buồn rầu, thậm chí có khi như phát điên, phát dại:
Người bảo ơng điên ơng chẳng điên
Ơng thương, ơng tiếc hoa ông phiền
... Khi cười khi khoc khi than thở
Muốn bỏ văn chương học võ biền
(Thoi đời)
13


Qua những bài thơ này, ta thấy hiện lên hình tượng của một ông Tú với
những nét khác với bức tranh tự họa nhiều nét vẽ trần trụi ở trên. Những tâm sự

về tình thân, tình người người, tình, tình bằng hữu, những ưu tư của con người
trước sự hưng phế của quê hương, tâm sự của một cái tôi cơ đơn ln đối diện
mình trong những đêm giật mình tỉnh giấc, nỗi lịng hồi niệm trước cảnh bãi bể
nương dâu đã giúp người đọc nhìn thấu được tâm hồn nhà thơ. Đó là một Tú
Xương với tâm hồn sâu sắc, nhạy cảm, giàu tình cảm, biết trân trọng những tình
cảm chân thành chân thật của cuộc đời. Dù trong tận cùng của niềm tuyệt vọng,
nhà thơ vẫn tin vào những tình cảm tốt đẹp cịn lại giữa cuộc đời. Biết trân
trọng, biết nâng niu từng chút một những khoảnh khắc đẹp của cuộc đời, nhà thơ
vẫn dành cho nó những nhiệt thành say đắm của một nhà thơ bằng giọng trữ tình
vừa nhẹ nhàng như tâm sự vừa như nhắn nhủ. “Con người đau đớn bất lực ấy
vẫn dành cho đời những rung động tinh tế, những ưu tư đáng kính, đáng trân
trọng. Con người ấy, đâu phải chỉ co những cái làm cho người ta ngao ngán,
con người ấy còn co những cái làm cho người ta thấy đáng yêu, đáng nể phục”
[9].
Đến đây, khi tìm hiểu bài thơ “Thương vợ”, hẳn mỗi chúng ta đều thấu
hiểu và cảm thơng cho con người “vơ tích sự” của Trần Tế Xương, càng hiểu rõ
hơn tiếng chửi đầy căm phẫn và đau đớn “Cha mẹ thoi đời” ở cuối bài thơ.
2.3.4. Giai thoại về Trần Tế Xương.
Cuộc đời nhà thơ Trần Tế Xương có rất nhiều giai thoại hay nói đến cái
thơng minh, tài hoa và cả những thói hư, tật xấu cũng như bi kịch của cuộc đời
ông. Người viết đề tài này đã sưu tầm được 17 giai thoại như thế. Nhưng với
khuôn khổ đề tài nghiên cứu, người viết xin trích dẫn 2 trong số 17 giai thoại có
liên quan đến đời tư của TTX, đặc biệt có thể sử dụng khi giảng dạy bài thơ
Thương vợ. Những giai thoại này không chỉ giúp hiểu rõ hơn về con người của
chính ơng, hiểu hơn về bà Tú – một người vợ mà theo Tiến sĩ Chu Văn Sơn đã
nhận định: “Co phải từ bài thơ này, những người vợ tảo tần Việt Nam bắt đầu
co tên bà Tú?” [10].
* Giai thoại 1:
Tú Xương đi học sớm và cũng sớm nổi tiếng thông minh hiếu, giỏi thơ
phú. Giai thoại kể rằng: hồi mới lên 10, một hơm có bạn bố đến chơi, thấy trước

nhà có một dãy chậu hoa, khách bèn ra cho bé Uyên (Tên bố mẹ lúc đầu đặt cho
Tú Xương là Trần Duy Uyên) một câu đối: “Đình tiền ngũ sắc hoa” (Trước sân
có hoa năm sắc). Bé Uyên liền chỉ vào lồng chim khướu treo ở mái hiên mà đối:
“Lung trung bách thanh điểu” (Trong lồng có chim trăm tiếng). Khách nghe
đối, vừa tấm tắc khen vừa theo lối đoán vận số một cách duy tâm, mơ hồ và than
ngầm: “Đời thằng bé sẽ luẩn quẩn (như chim trong lồng)”
* Giai thoại 2: Ông chẳng chừa cái chết tiệt gì sất!
Người ta cịn nhớ một câu chuyện vui về hai vợ chồng nhà thơ. Lần ấy
chai nhà hết rượu. Bà đi chợ về, ông Tú vịi:
- Hơm nay tơi muốn uống với bà vài chén, ngâm bà nghe mấy câu thơ vừa
làm.
14


Bà Tú hưởng ứng ngay. Cầm đến chai, chai khô. Bà vội móc hầu bao, lấy
tiền sai con đi mua rượu. Rượu về, ơng Tú trân trọng rót mời vợ, rồi chép miệng
thành thơ:
- Rượu với thơ suông cũng nhạt phèo!
Biết chồng vòi thức nhắm, bà chạy ngay xuống bếp rán mấy thanh đậu. Ở
trên nhà, ông Tú vừa rượu suông vừa nghĩ thơ. Thức nhắm mang lên, ông Tú
khề khà vừa nhắm, vừa đọc thơ, một bài khá nghịch:
Một chè, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng no hại ta.
Chừa được thứ nào hay thứ ấy,
Co chăng chừa rượu với chừa trà.
Bà Tú bật cười:
- Ơng có mà chừa chết tiệt. Bảo chừa rượu sao lại cịn vịi?
Ơng Tú chất chưởng:
- Vì khơng chừa được bà, cho nên cứ phải uống rượu. Tửu sắc tương liên
mà lỵ!

- Thế cịn trà thì chừa thật chứ?
- Ấy chết, bà muốn mời ông lang à? Bà không nhớ thơ cổ ư:
Bán dạ tam bôi tửu,
Bình minh sổ trản trà.
Mỗi nhật cứ như thử,
Lương y bất đáo gia.
(Tối làm ba chén rượu
Sớm nhắp mấy ly trà
Ngày nào cũng thế thế,
Thầy thuốc chẳng vào nhà)
Bà Tú chỉ còn cười rũ rượi. Thế là hịa cả làng! Bà ngt u ơng:
- Té ra ơng chẳng chừa cái chết tiệt gì sất!
2.3.5. Những bài thơ Trần Tế Xương viết về vợ. (Xem Phụ lục 1)
1, Tết dán câu đối
2, Quan tại gia
3, Phú thầy đồ: Bài 1, bài 2
4, Văn Tế sống vợ
5, Thương vợ
6, Đi thi
7, Một nén tâm hương
8, Tự cười mình
2.4. Thiết kế giáo án thực nghiệm.
Tiết 8
THƯƠNG VỢ
(Trần Tế Xương)
I. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
1.Kiến thức: Giúp học sinh cảm nhận được:
15



- Hình ảnh bà Tú và tình cảm yêu thương, quý trọng mà Tú Xương dành
cho vợ.
- Thành công nghệ thuật của bài thơ: từ ngữ giàu sức biểu cảm, vận dụng
sáng tạo hình ảnh, ngơn từ văn học dân gian.
2. Kĩ năng:
- Đọc hiểu, phân tích, giảng bình bài thơ thất ngôn bát cú
3. Thái độ:
- Hiểu,cảm thông, chia sẻ và trân trọng tâm hồn thi nhân
4. Định hướng hình thành năng lực
- Đọc hiểu
- Thu thập và xử lí thơng tin
- Giao tiếp
- Hợp tác
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1. Chuẩn bị của giáo viên
- Giáo án, tài liệu tham khảo
2. Chuẩn bị của học sinh
- SGK, bài soạn, sưu tầm tư liệu có liên quan.
- Đọc ít nhất 2 lần bài thơ và soạn bài theo hướng dẫn SGK
- Tìm hiểu về cuộc đời, thân thế của Trần Tế Xương
III. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
1. Ổn định lớp
2. Bài cũ: Giới thiệu khái quát về đặc điểm sáng tác của nhà thơ Nguyễn
Khuyến và đọc thuộc lòng bài thơ Câu cá mùa thu?
- Xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo, học giỏi, đỗ đầu trong ba
kì thi (Tam nguyên Yên Đổ)
- Làm quan hơn 10 năm sau đó từ quan về quê ở ẩn.
- Là người có cốt cách thanh cao, u nước thương dân.
- Thơ văn: nói lên tình yêu quê hương đất nước, gia đình, bè bạn, châm
biếm, đã kích tầng lớp thống trị.

3. Tiến trình bài học
HOẠT ĐỘNG 1: Khởi động
1. Mục tiêu: Tạo tâm thế chủ động, hứng thú để học sinh bước bào bài
mới.
2. Phương pháp/ kĩ thuật: Trị chơi giải ơ chữ.
3. Hình thức tổ chức hoạt động: Làm việc theo nhóm.
4. Phương tiện dạy học: Máy chiếu và các hình ảnh tư liệu liên quan.
HOẠT ĐỘNG 2: Tìm hiểu vài nét về tác giả, tác phẩm
1. Mục tiêu:
- Nắm được những nét chính về tác giả.
- Kiến thức chung về tác phẩm.
2. Phương pháp: Đặt câu hỏi, kĩ thuật trình bày
3. Hình thức tổ chức hoạt động: Làm việc cá nhân
4. Phương tiện dạy học: Máy chiếu và các hình ảnh tư liệu liên quan.
16


HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
Bước 1: Giao nhiệm vụ
- Thuyết minh về tác giả Trần Tế
Xương?
+ Cuộc đời
+ Sự nghiệp
- Giới thiệu về bài thơ Thương vợ?
+ Xuất xứ
+ Tóm tắt
+ Đánh giá về bài thơ
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
- HS dựa vào phần Tiểu dẫn trong
SGK trả lời câu hỏi.

- HS tìm hiểu thêm những tư liệu về
tác giả và tác phẩm để làm phong phú
thêm kiến thức về nhà thơ cũng như
bài thơ.
? TTX đã mấy lần đi thi và hỏng thi?
Ông hoc chữ Hán và bắt đầu đi thi từ
năm 17 tuổi. Đời thi của ông tính ra
co tất cả 8 lần. Đo là các khoa: Bính
Tuất (1886), Mậu Tý (1888), Tân
Mão (1891), Giáp Ngọ (1894), Đinh
Dậu (1897), Canh Tý (1900), Quý
Mão (1903), Bính Ngọ (1906). Ông
đậu tú tài khoa Giáp Ngọ nhưng cũng
là tú tài thiên thủ (lấy thêm). Sau đo
không không sao lên nổi cử nhân,
mặc dù khá kiên trì theo đuổi. Khoa
Bính Ngọ, Tú Xương đổi tên thành
Trần Cao Xương nhưng rồi hỏng vẫn
hồn hỏng
? Xã hội TTX sống có đặc điểm gì
nổi bật?
Cuộc đời ngắn ngủi co 37 năm của
Tú Xương đã nằm gọn trong giai
đoạn bi thương nhất của đất nước.
Tú Xương vừa là chứng nhân vừa là
nạn nhân của của cuộc đổi thay này.
Đo là xã hội thực dân nửa phong
kiến được thu nhỏ trong mảnh đất
thành Nam nhưng vẫn co ý nghĩa
điển hình chung cho cả nước với hình

ảnh bọn quan lại phong kiến phè

MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
I. Vài nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả: Trần Tế Xương (1870- 1907)
- Cá tính sắc sảo, phóng túng
- Có tài, thi cử lận đận: 8 lần thi, chỉ đỗ tú
tài.
- Sống nghèo túng, nhờ vợ.
- Sống trong buổi giao thời đỗ vỡ: Xã hội
phong kiến già nua đang chuyển thành xã
hội lai căng thực dân nửa phong kiến; cuộc
sống thành thị (quê ông) với bao trái tai gai
mắt, đầy nhố nhăng, giả dối…ảnh hưởng
sâu sắc đến con người, sáng tác của ông.
- Sáng tác trên 100 bài, chủ yếu là thơ Nôm,
gồm nhiều thể thơ và một số bài văn tế, câu
đối…gồm 2 mảng: trào phúng và trữ tình,
đều bắt nguồn từ tâm huyết của nhà thơ với
dân, với nước, với đời.

17


phỡn “Tối rượu sâm-banh sáng sữa
bò”, xã hội bị chi phối bởi đồng tiền
với những me tây rởm đời, nho sĩ mất
giá...
2. Bài thơ:
? Viết về đề tài người vợ của mình - Thi đề gia đình và hình tượng người vợ ít

TTX đã có những tác phẩm nào? HS xuất hiện trong thơ ca trung đại. Tú Xương
sưu tầm và đọc một trong những tác viết nhiều, viết hay và thấm thía về vợ mình
phẩm dưới đây (Phụ lục 1)
ngay khi bà còn sống.
1, Tết dán câu đối
(Nguyễn Trãi và Nguyễn Khuyến cũng viết
2, Quan tại gia
về vợ của mình nhưng rất ít)
3, Phú thầy đồ: Bài 1, bài 2
- Trong sáng tác của Trần Tế Xương, có cả
4, Văn Tế sống vợ
một đề tài về bà Tú gồm cả thơ, văn tế, câu
5, Thương vợ
đối
6, Đi thi
- “Thương vợ” là bài thơ hay nhất viết
7, một nén tâm hương
người vợ đảm đang, tảo tần, thủy chung của
8, Tự cười mình
Trần Tế Xương .
- GV theo dõi và hướng dẫn HS thực
hiện nhiệm vụ.
Bước 3: Trao đổi, thảo luận, báo
cáo
- HS nhận xét, bổ sung phần trả lời
của các bạn
- GV bổ sung, nhấn mạnh
Bước 4: Kiểm tra đánh giá
GV đánh giá phần trả lời của học
sinh.

HOẠT ĐỘNG 3: Hướng dẫn học sinh đọc hiểu chi tiết đoạn trích
1. Mục tiêu:
- Hình ảnh bà Tú và tình cảm yêu thương, quý trọng mà Tú Xương
dành cho vợ.
- Thành công nghệ thuật của bài thơ: từ ngữ giàu sức biểu cảm, vận
dụng sáng tạo hình ảnh, ngơn từ văn học dân gian.
2. Phương pháp: Thảo luận, làm việc nhóm, kĩ thuật trình bày
3. Hình thức tổ chức hoạt động: Làm việc nhóm
4. Phương tiện dạy học: Máy chiếu và các hình ảnh tư liệu liên quan.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
Bước 1: Giao nhiệm vụ
II. Đọc hiểu văn bản
1, Đọc
HS: Đọc bài thơ theo yêu cầu của
giáo viên: chậm rãi, chính xác,
giọng đọc đoạn đầu ngậm ngùi,
cảm thơng pha chút hóm hỉnh, vui
18


tươi.
GV: Dẫn dắt và nêu câu hỏi: Đọc
bài thơ và tìm những từ ngữ/ hình
ảnh thơ theo em được xuất phát từ
chính cuộc đời thực của nhà thơ Tú
Xương?
GV giao nhiệm vụ cho 2 tổ
Nhóm 1: Hình ảnh bà Tú qua nỗi
lịng thương vợ của ơng Tú hiện lên

như thế nào?
? Từ thực tế nào trong cuộc đời của
bà Tú, TTX đã viết nên những câu
thơ xúc động như vậy về người vợ
của mình?
+ Vợ là bà Phạm Thị Mẫn, người
họ Phạm ở làng Lương Đường,
thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải
Dương. Họ Phạm có nhiều người
đậu đạt. Tú Xương có lần nhắc tới
gia thế nhà vợ “Chẳng những
Lương Đường có thủ khoa”. Gia
đình bà Phạm Thị Mẫn đến đời bố
mẹ thì dời sang sinh sống ở Nam
Định. Bà Mẫn sinh trưởng tại đây.
Cuộc kết hôn giữa ông Tú với bà là
từ hồn cảnh gần gũi đó. Vợ chồng
Tú Xương sinh được 8 người con,
trong đó có 6 trai. Cả cuộc đời bà
tần tảo buôn thúng bán bưng để
nuôi chồng ăn học, ni con trưởng
thành.
+ Giai thoại 2: Ơng chẳng chừa cái
chết tiệt gì sất!

2, Đọc hiểu bài thơ
a. Hình ảnh bà Tú qua nỗi lịng
thương vợ của ơng Tú
* Nỗi vất vả, gian truân của bà Tú
- Quanh năm buôn bán ở mom sông

+ Công việc: buôn bán
vất vả, nhẫn
+ Thời gian: quanh năm
nại, gian nan,
+ Địa điểm: mom sông
nguy hiểm
- Hai câu thực:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng
+ Hình ảnh thơ độc đáo, sáng tạo:
Thân cò: lam lũ, vất vả, chịu thương, có
phần xót xa, tội nghiệp xuất hiện trong
cái rợn ngợp của cả khơng gian và thời
gian.
Đị đơng: khơng chỉ gợi những lời phàn
nàn, mè nheo, cáu gắt, những sự chen
lấn, xơ đẩy mà cịn chứa đầy bất trắc.
+ Từ gợi cảm: lặn lội, eo sèo
+ NT đối: câu 3,4; đối chọi giữa các vế
trong câu.
+ Đảo ngữ -> Tái hiện những bươn bả
nhọc nhằn, tảo tần, vất vả, gian truân
của bà Tú, gợi nỗi đau thân phận. Đồng
thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương:
tấm lịng xót thương, ái ngại, cảm thơng.
* Đức tính cao đẹp của bà Tú:
- Nuôi đủ năm con với một chồng
+ Cách đếm đặc biệt
+ Ni đủ: vất vả, vẫn gánh xong
Gợi hình ảnh cái gánh nặng gia đình đè

nặng lên vai bà Tú. Câu thơ diễn tả cái
nghịch lý “sự nuôi” của bà Tú….đảm
đang, tháo vát, chu đáo với chồng con.
+ Hai câu luận:
19


Nhóm 2: Hình ảnh ơng Tú qua nỗi
lịng thương vợ hiện lên như thế
nào?
? Từ thực tế nào của cuộc đời Tú
Xương ông đã viết nên những câu
thơ như vậy?
+ Giai thoại 1:
+ Tú Xương, sinh thời hầu như
ngoài việc học hành, thi cử, làm thơ
phú, khơng có nghề gì cả. Tú
Xương đúng là loại nhà nho “dài
lưng tốn vải”. Cuộc sống vật chất là
nhờ vào bà vợ đảm đang, tần tảo.
(cuộc đời, con người, quê hương)
? Đọc những bài thơ đã sưu tầm Tú
Xương viết về cuộc đời bi kịch của
mình:
+ Phú hỏng thi khoa Canh Tý:
… Co một thầy:
Dốt chẳng dốt nào
Chữ hay chữ lỏng.
Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả
cao lâu;

Hay hát hay chơi, hay nghề xuống
lõng.
Quanh năm phong vận, áo hàng
tàu, khăn nhiễu tím, ơ lục soạn
xanh;
Ra phố nghênh ngang, quần tố nữ,

Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công
+ Số đếm: một- hai- năm- mười như
chất chồng nhấn thêm vào nỗi khổ
+ Thành ngữ chéo” năm nắng mười
mưa” vừa nói lên sự vất vả gian truân,
vừa thể hiện được đức tính chịu thương
chịu khó, hết lịng vì chồng vì con của
bà Tú
+ âu đành phận, dám quản công…cam
chịu, hi sinh nhẫn nhục âm thầm
=> Bà Tú là một người vợ đảm đang,
tảo tần, thủy chung, giàu đức hy sinh,
yêu chồng thương con hết mực.
b. Hình ảnh ơng Tú qua nỗi lịng
thương vợ
- Yêu thương, quý trong, tri ân vợ:
+ Cách đếm: Nuôi đủ năm con với một
chồng cho ta thấy nhà thơ tự xem mình
là một kẻ ăn theo, ăn ké lũ con…tri
công, tri ân vợ
+ Nhà thơ nhập thân vào bà Tú, than thở
giùm vợ, nói lên tấm lịng của vợ thể

hiện tấm lịng thương cảm xót xa đối với
vợ.
- Con người có nhân cách qua lời tự
trách:
+ Tự coi mình là cái nợ đời mà bà Tú
phải gánh chịu. Nợ gấp dun đơi,
dun ít nợ nhiều.
+ Cha mẹ thoi đời ăn ở bạc
Co chồng hờ hững cũng như không
- Chửi: thoi đời- trách mình(ăn ở
bạc)=> Nhận lỗi về mình một
cách rạch ròi và chân thành
- Rủa: co cũng như khơng => Tự
phán xét mình rất nghiêm khắc: vơ tích
sự, vơ tình. Phẫn uất do tức đời, tức
mình và q thương xót vợ.
=> Nỗi đau đời và tấm chân tình của
người chồng- thi nhân…Nhân cách cao
đẹp.

20


bít tất tơ, giày Gia Định bong…
+ Hỏng thi khoa Quý Mão:
Trách mình phận hẩm lại duyên ôi!
Đỗ suốt hai trường hỏng một tôi
Tế đổi thành Cao mà cho thế
Kiện trông ra tiệp hỡi trời ơi…
+ Than nghèo:

Cái kho theo nhau mãi thế thôi
Co ai, hay chỉ một mình tôi?
Bạc đâu ra miệng mà mong được?
Tiền chửa vào tay đã hết rồi!
Van nợ lắm khi tràn nước mắt
Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi
Biết thân thuở trước đi làm quách
Chẳng ký, không thông, cũng cậu
bồi
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
HS: Thảo luận nhóm
GV: Quan sát, hướng dẫn
Bước 3: Thảo luận, trao đổi, báo
cáo
GV gọi học sinh trình bày
HS; Đại diện nhóm trình bày
Bước 4: Kiểm tra đánh giá
GV đánh giá phần trả lời của học
sinh.
HOẠT ĐỘNG IV: Hướng dẫn học sinh củng cố và luyện tập
1. Mục tiêu: Hướng dẫn học sinh đánh giá về nội dung và nghệ thuật của
bài thơ. Làm bài tập luyện tập
2. Phương pháp/kĩ thuật: vấn đáp, nêu vấn đề, ….
3. Hình thức tổ chức hoạt động: Làm việc cá nhân, theo nhóm.
4. Phương tiện dạy học: SGK,SGV
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN
NỘI DUNG CẦN ĐẠT.
VÀ HỌC SINH
Bước 1 : Giao nhiệm vụ :
III. CỦNG CỐ VÀ LUYỆN TẬP

- Nêu những giá trị về nội dung và 1. Củng cố:
nghệ thuật của tác phẩm?
- Nội dung: Chân dung người vợ trong
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ:
cảm xúc yêu thương cùng tiếng cười tự
- Hs tổng hợp kiến thức để trả lời
trào và một cách nhìn về thân phận người
- Liên hệ với bản thân để rút ra bài phụ nữ của nhà thơ.
học
- Nghệ thuật: Vận dụng sáng tạo ngôn
Bước 3: Trao đổi, thảo luận, đánh ngữ và thi liệu văn hóa dân gian. Kết hợp
giá.
nhuần nhuyễn trữ tình và trào phúng.
21


- HS: thảo luận theo nhóm, tổ, nhận 2. Luyện tập
xét đánh giá câu trả lời của nhau
- Học thuộc bài thơ.
- GV: Tổng hợp và kêt luận
- Phân tích sự vận dụng sáng tạo hình
Bước 4: Phương án kiểm tra đánh ảnh, ngôn ngữ ăn học dân gian.
giá
- Kiểm tra bằng câu hỏi nêu vấn đề
2.5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
Từ thực tế nghiên cứu và áp dụng đề tài “Hướng dẫn Đọc hiểu bài thơ
Thương vợ của Trần Tế Xương từ những bình diện đời tư của tác giả” vào thực
tiễn giảng dạy của mình trên lớp học tại Trường THPT Vĩnh Lộc, bản thân tôi đã
đạt được một số kết quả như sau:
* Đối với chất lượng giảng dạy và giáo dục học sinh:

- Học sinh hứng thú hơn trong mỗi giờ học, khơng khí của lớp học sơi nổi,
thoải mái.
- Phát huy được tư duy độc lập, khả năng quan sát, óc sáng tạo cũng như
hình thành cho học sinh những kĩ năng, kĩ xảo đặc thù cần thiết khi học bộ môn
học .
- Học sinh hiểu được nội dung bài thơ từ đó rút ra những yêu cầu của bài
học nhanh chóng và sâu sắc hơn.
* Đối với bản thân và đồng nghiệp:
- Khám phá và thực nghiệm một cách dạy mới phát huy vai trò chủ thể,
độc lập, sáng tạo của học sinh vận dụng có hiệu quả vào thực tiễn giảng dạy ở
trường trung học phổ thông Vĩnh Lộc.
Kết quả khảo sát hai lớp thực nghiệm sau khi áp dụng đề tài môn học Ngữ
văn cho lớp 11C5 và đối sánh với lớp 11C3 – không áp dụng đề tài - trong năm
học 2019 – 2020 khi tôi thực hiện đã đạt được kết quả khả quan sau:
Giỏi
Khối

Khá

Trung Bình

Yếu

Lớp


SL
%
SL
%

SL
%
SL
%
số
11C3 43
4
9,3%
12
28%
21
49%
6
13,7%
11
11C5 48
10
21%
26
54%
11
23%
1
2%
* Khả năng ứng dụng và triển khai của sáng kiến.
Tôi nhận thấy rằng khi áp dụng việc lồng ghép đề tài SKKN vào thực tiễn
giảng dạy Đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn đã góp phần khơng nhỏ vào việc
mang lại hiệu quả và chất lượng dạy và học. Giúp học sinh hứng thú hơn, khắc
sâu hơn kiến thức đã học đồng thời không làm mất đi đặc trưng riêng của bộ
môn Ngữ văn. Và thực tế chất lượng học sinh được nâng cao rõ rệt đã chứng

minh cho tính đúng đắn và ưu việt của việc đổi mới phương pháp theo hướng
mà SKKN đã nghiên cứu.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
- Với đề tài “Hướng dẫn Đọc hiểu bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế
Xương từ những bình diện đời tư của tác giả” vào thực tiễn giảng dạy của mình
22


trên lớp học tại Trường THPT Vĩnh Lộc bản thân tôi đã nhận thấy để dạy một
giờ đọc hiểu văn bản thành công, giáo viên và học sinh nắm được đời tư của tác
giả là một trong những yếu tố quan trọng tạo tâm thế hứng khởi cho người học.
Đồng thời cũng là một trong những yếu tố giúp vén màn giá trị nội dung của tác
phẩm.
- Đề tài nghiên cứu trên cũng có thể áp dụng cho tất cả những giờ đọc
hiểu văn bản khác trong chương trình sách giáo khoa và với những tiết dạy học
theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng
tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện
nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng. Khơng khí học tập sơi nổi, nhẹ
nhàng và học sinh u thích mơn học hơn.
- Trên đây là một kinh nghiệm nhỏ của tơi trong q trình áp dụng đề tài
vào thực tế giảng dạy. Là kinh nghiệm của riêng cá nhân nên có thể sẽ có những
điểm bất cập, chưa hợp lí mà bản thân chưa nhận ra được. Vì vậy, bản thân tơi
rất mong được sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp để sáng kiến của mình
hồn thiện hơn và thực sự có ích khơng chỉ với cá nhân mà còn với đồng nghiệp
3.2. Kiến nghị.
* Đối với nhà trường
- Cần hỗ trợ thêm những thiết bị hiện đại, nhiều tài liệu hơn để phục vụ
nhu cầu dạy và học của giáo viên và học sinh nhằm khuyến khích giáo viên đổi
mới phương pháp dạy học dưới nhiều hình thức khác nhau.

* Đối với giáo viên
- Không ngừng tự học hỏi, đổi mới phương pháp để nâng cao năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm. Khắc phục, hạn chế tối đa phương pháp dạy học
truyền thống lấy giáo viên làm trung tâm.
- Áp dụng thường xuyên các sáng kiến kinh nghiệm, những đổi mới về
phương pháp dạy học.
- Luôn tự làm mới bản thân bằng cách tìm tịi, sáng tạo để từng bước cải tiến
phương pháp dạy học cho phù hợp với từng tiết học, bài học với những đối tượng
học sinh khác nhau.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hoa, ngày 20 tháng 4 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Trương Hồng Phương

23



×