Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết của dương hướng qua bến không chồng và dưới chín tầng trời

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

PHAN VĂN CHƯƠNG

CẢM HỨNG BI KỊCH TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA DƯƠNG HƯỚNG QUA “BẾN KHƠNG CHỒNG”
VÀ “DƯỚI CHÍN TẦNG TRỜI”

Chun ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. PHAN NGỌC THU

Đà Nẵng, Năm 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

PHAN VĂN CHƯƠNG

CẢM HỨNG BI KỊCH TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA DƯƠNG HƯỚNG QUA “BẾN KHƠNG CHỒNG”
VÀ “DƯỚI CHÍN TẦNG TRỜI”

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



Đà Nẵng, Năm 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tơi, Phan Văn Chương, cam đoan rằng:
Cơng trình này do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Phan
Ngọc Thu, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng.
Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung khoa học trong cơng trình
này. Kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả Luận văn

Phan Văn Chương


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
Chương 1: Nhìn lại hành trình sáng tác của Dương Hướng.................................9
1.1.Về nhà văn Dương Hướng..................................................................................9
1.1.1.Từ cuộc đời và những trang viết ban đầu...........................................................9
1.1.2.…Đến khẳng định vị trí trên văn đàn...............................................................10
1.2. Hành trình sáng tác tiểu thuyết của Dương Hướng......................................12
1.2.1. Sự xuất hiện tiểu thuyết Dương Hướng với Bến không chồng (1991).........13
1.2.2. ...Đến Dưới chín tầng trời ............................................................................22
Chương 2: Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết Dương Hướng - những biểu

hiện và ý nghĩa nhân văn…....................................................................................27
2.1. Những biểu hiện cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết Dương Hướng.........27
2.1.1. Nỗi đau khi nhìn lại những mất mát trong cuộc chiến đã qua........................27
2.1.2. Bi kịch bởi những sai lầm trong cải cách ruộng đất.......................................39
2.1.3. Bi kịch bởi những sai lầm trong phong trào hợp tác hóa nơng nghiệp ở nơng
thơn một thời.............................................................................................................46
2.1.4. Bi kịch bởi những định kiến hẹp hòi và sự ràng buộc nghiệt ngã của ý thức
dòng họ......................................................................................................................50
2.1.5. Bi kịch trước những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường........................ 57
2.2. Ý nghĩa nhân văn của cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết Dương
Hướng.......................................................................................................................62
2.2.1. Niềm thông cảm sâu xa và khả năng phát hiện, lý giải nguyên nhân của bi
kịch............................................................................................................................62
2.2.2. Ý thức phản tỉnh và niềm tin vào bản chất của con người và thời đại............71


Chương 3: Nghệ thuật thể hiện cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết của Dương
Hướng.......................................................................................................................79
3.1. Nghệ thuật tạo tình huống bi kịch..................................................................79
3.1.1. Tình huống bi kịch trong tiểu thuyết Bến khơng chồng................................80
3.1.2. Tình huống bi kịch trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời..............................84
3.2. Khơng gian và thời gian nghệ thuật...............................................................90
3.2.1. Không gian bi kịch..........................................................................................91
3.2.2. Thời gian bi kịch...........................................................................................105
3.3. Giọng điệu bi kịch..........................................................................................112
3.3.1. Giọng ngợi ca, bi tráng..................................................................................113
3.3.2. Giọng buồn thương, xót xa...........................................................................114
3.3.3. Giọng triết lý.................................................................................................118
KẾT LUẬN............................................................................................................122
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................125

QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (BẢN SAO).


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Trong công cuộc đổi mới của văn học nước ta từ sau 1986, Dương Hướng là
một trong những gương mặt được sự chú ý của bạn đọc và giới phê bình. Ơng đến
với văn chương khá muộn, không phải với tư cách chuyên nghiệp nhưng sớm khẳng
định được tên tuổi trên văn đàn với thể loại tiểu thuyết - một thể loại mà thông
thường phải là những cây bút thật sự tài năng, già dặn và trải nghiệm mới thành
công được. Từ hiện tượng Bến khơng chồng; Dương Hướng âm thầm tích lũy vốn
sống, vốn văn hóa, kinh nghiệm và năng lượng sáng tác để rồi sau 15 năm ông lại
tiếp tục xuất hiện với tiểu thuyết Dưới chín tầng trời- một tác phẩm quy mô, bề thế
hơn, già dặn hơn và cũng trầm tích thêm những ý tưởng thẩm mỹ mới. Vì thế, việc
đi sâu tìm hiểu tiểu thuyết Dương Hướng khơng chỉ để hiểu thêm về một nhà văn
mà cịn có ý nghĩa thấy được phần nào sự vận hành của dịng chảy văn xi đương
đại nước ta.
1.2. Dương Hướng sáng tác chưa nhiều, nhưng trong tác phẩm của ông, nhất là qua
hai cuốn tiểu thuyết Bến không chồng (1990) và Dưới chín tầng trời (2007) đã
chứng tỏ bút lực của một nhà văn thực tài, thực tâm, có bản lĩnh và một cảm quan
hiện thực nhạy bén, tinh tế. Thật ra, cái mới mẻ, hấp dẫn từ hai tác phẩm này không
phải ở thi pháp độc đáo, mới lạ mà ở nội dung phản ánh hiện thực, một hiện thực đa
dạng, phong phú với những nguồn cảm hứng hướng tới giá trị nhân bản của thế giới
phận người; và một trong những cảm hứng nổi bật là cảm hứng bi kịch – như một
cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết của Dương Hướng. Đây cũng là một yếu tố
khiến cho tác phẩm của Dương Hướng tạo được dấu ấn riêng, độc đáo so với những
tác phẩm trước đó cũng như đương thời.
1.3. Vì vậy, tìm hiểu cảm hứng bi kịch qua Bến khơng chồng và Dưới chín tầng
trời, tức là phát hiện một mạch ngầm giàu giá trị cảm xúc và thẩm mỹ trong thế giới
nghệ thuật của tiểu thuyết Dương Hướng, đồng thời cũng thấy được đóng góp của

một nhà văn trong việc mạnh dạn mở ra nhiều hướng tiếp cận hiện thực đời sống


với cái nhìn đi sâu vào những vấn đề của thân phận con người, mà trước đó do hồn
cảnh ra đời văn xi nước ta chưa có dịp hoặc cịn ít đề cập đến.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Kể từ khi tiểu thuyết Bến khơng chồng ra đời và sau đó là sự tiếp nối đầy ấn
tượng của Dưới chín tầng trời; Dương Hướng được coi như một hiện tượng và thu
hút đông đảo bạn đọc đủ mọi lứa tuổi. Bến không chồng được giải thưởng của Hội
nhà văn Việt Nam năm 1991. Dưới chín tầng trời được coi là “...một cuốn tiểu
thuyết ngồn ngộn sức sống và đời sống , nóng hổi những tư tưởng của thời đại và
những vấn đề thời sự của đất nước...” [22]. Chính vì thế, giới nghiên cứu phê bình
văn học đã dành sự quan tâm nhiều đến các tác phẩm của Dương Hướng nói chung
và hai tiểu thuyết Bến khơng chồng và Dưới chín tầng trời nói riêng . Dưới đây chỉ
điểm lại một số ý kiến trực tiếp liên quan đến đề tài.
Trước hết, phải nói đến ý kiến của tác giả Nguyễn Văn Long khi nhận định
về tác phẩm Bến không chồng:
Tác phẩm cho thấy một phương diện của thực trạng đời sống tinh thần trong
nông thôn(…). Trong Bến không chồng, Dương Hướng cho thấy là trong nhiều
trường hợp, con người vừa là nạn nhân mà cũng là thủ phạm của tấn bi kịch đời
mình, họ phải chịu trách nhiệm một phần về số phận của mình. Cách nhìn của anh,
theo tơi là đúng mực, bình tĩnh và khách quan mà vẫn tốt lên niềm tin và nỗi xót xa
về con người…” [36.406].
Nhà nghiên cứu cho rằng:“Sức hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết chính là ở sự chân
thực, ở vốn hiểu biết đời sống nơng thơn và một cách nhìn cảm thơng, nhân đạo với
số phận con người…” [36.407].
Với bài viết “Bi kịch lạc quan trong Dưới chín tầng trời ” được in trên Tạp
chí Nhà văn số 10-2008; nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã đưa ra những nhận xét,
đánh giá sâu sắc về khía cạnh làm nên vẻ đẹp, giá trị của tác phẩm, đó là “Bi kịch

lạc quan”. Ơng khẳng định tiểu thuyết Dưới chín tầng trời mang tính bi kịch nhưng
cái bi kịch đó khơng phải chỉ là nỗi đau, sự mất mát mà còn đem lại niềm tin vào
một ngày mai thông qua số phận bi kịch của các nhân vật trong những biến thiên


của lịch sử. Theo tác giả thì cái bi kịch đó là một hình thức để thanh lọc, tẩy rửa tâm
hồn con người. Bùi Việt Thắng khẳng định, đây là“một cuốn tiểu thuyết tồn bích
về những góc khuất của lịch sử” [56] đã cho thấy cách tiếp cận lịch sử rất mới, rất
riêng của Dương Hướng, cuốn tiểu thuyết mang đậm chất “sử thi” và “tâm lí”; mở
ra một khơng gian rộng lớn trải khắp các vùng miền của đất nước, lan ra cả nước
ngoài; thời gian dài từ hai cuộc kháng chiến cho đến chiến tranh biên giới và thời
mở cửa, hội nhập. Với số lượng hàng trăm cùng nhiều hệ nhân vật và các mối quan
hệ chằng chịt, tác phẩm đã làm hiện lên hình ảnh của một đời sống xã hội đa chiều,
đầy phức tạp. Tác giả nói về cái hay và sự khéo léo của Dương Hướng là “... đan
cài lịch sử - sự kiện và lịch sử tâm hồn, điều đó tạo nên một cấu trúc đặc biệt phức
tạp, địi hỏi nhà văn phải có tay nghề cao để xử lý chất liệu, điều khiển nhân vật và
tổ chức các lớp lang của tác phẩm” [56]. Có thể nói, bài viết của nhà nghiên cứu
Bùi Việt Thắng đã đưa ra những gợi ý quan trọng, xác thực để người viết luận văn
có được những hình dung về “cảm hứng bi kịch” trong tác phẩm.
Nếu như nhà phê bình Nguyễn Văn Long đề cập riêng về tiểu thuyết Bến
không chồng, Bùi Việt Thắng dành sự quan tâm cho tác phẩm Dưới chín tầng trời
thì GS Phong Lê lại có một cái nhìn khái qt xun suốt hành trình sáng tác của
Dương Hướng từ Bến khơng chồng đến Dưới chín tầng trời. Bài viết “Từ Bến
khơng chồng đến Dưới chín tầng trời ” của GS Phong Lê được đăng trên Tạp chí
Nhà văn số 9 – 2009 đã có sự nhìn nhận, đánh giá về những bước tiến trong sáng
tác của Dương Hướng. Ông cho rằng tiểu thuyết Dưới chín tầng trời là một bước
tiến so với Bến không chồng. GS Phong Lê nhận xét:
“Bến không chồng, ở thời điểm mở đầu 90, quả đã góp được một cái nhìn
mới về bức tranh đất nước trong thời chiến và hậu chiến… với gánh nặng không
phải chỉ là chiến tranh, về phía khách quan; mà cịn là những lầm lạc của con

người, trong một bối cảnh có quá nhiều biến động và thử thách, mà tất cả những ai
"do lịch sử để lại" đã không đủ tầm và sức để vượt qua” [35].
Theo tác giả thì nguyên nhân sâu xa đưa đến những khổ đau, bi kịch, bất hạnh của
những thân phận con người trong tác phẩm là “do lịch sử để lại”. Có trải nghiệm và


đi qua cơn bão khốc liệt của lịch sử, người ta mới có dịp nhìn lại để mà xót đau,
thương mình và cũng giận mình “vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân”. Ở tiểu thuyết
Dưới chín tầng trời; sau khi khái quát cơ bản về nội dung, tác giả Phong Lê đề cập
đến một số nét nổi trội về nghệ thuật của tác phẩm. Ông cho rằng dù vẫn trung
thành với lối viết truyền thống song nhà văn có những tìm tịi, sáng tạo rất riêng như
sự lắp ghép các sự kiện khơng theo trật tự tuyến tính thời gian, sự lắp ghép cấu trúc
các khối đời vừa độc lập vừa đan cài vào nhau. Đặc biệt, Dương Hướng đã xây
dựng được nhân vật chính đó là lịch sử với một sức mạnh đầy quyền năng. Chính
nhân vật “vơ hình” này đã “chi phối” và “ngự trị” trong tất cả “mọi hành vi, ứng xử
của con người”. Rõ ràng GS Phong Lê rất tâm đắc và ghi nhận sự vận động của tư
tưởng và bút pháp nghệ thuật từ Bến khơng chồng đến Dưới chín tầng trời của
Dương Hướng. Ơng tin tưởng và đã nhìn thấy “...quả có một cái gì rất đáng kể đã
diễn ra 15 năm sau Bến khơng chồng; và đó là điều rất đáng chia vui với Dương
Hướng - người đã có khả năng vượt dốc, để đến với một cái đích mới.” [35]
Một nhà nghiên cứu cũng đã dành khá nhiều tình cảm và sự quan tâm đối với
tiểu thuyết của Dương Hướng đó là GS Hoàng Ngọc Hiến. Trong một bài viết giới
thiệu tác phẩm Dưới chín tầng trời có tựa đề “Cách nhìn của Dương Hướng trong
tiểu thuyết Dưới chín tầng trời ”, tác giả đã nêu bật những giá trị thẩm mỹ cũng
như chất hiện thực sinh động, mới mẻ của cuốn tiểu thuyết:
Nếu như tiểu thuyết trước hết là cốt truyện thì tác phẩm này thừa sức hấp
dẫn. Vì cốt truyện rất ky kỳ, nhiều tuyến nhân vật quan hệ éo le, nhiều tuyến hành
động diễn ra các miền Trung, Nam, Bắc, có xóm làng và thành phố, có chiến trường
ác liệt ở miền Nam và sinh hoạt nhộn nhạo, rối ren vùng biên giới phía Bắc... Một
cuốn tiểu thuyết ngồn ngộn sức sống và đời sống, nóng hổi những tư tưởng của thời

đại và những vấn đề thời sự của đất nước [22].
Thơng qua việc phân tích một số nhân vật của tác phẩm, nhà phê bình đã làm rõ
những đặc sắc của nghệ thuật xây dựng nhân vật, khẳng định sự thành công của
nghệ thuật tiểu thuyết Dương Hướng. Từ đó, tác giả làm tốt lên mn mặt của hiện
thực đời sống đa dạng, đa chiều, phức tạp được phản ánh trong tác phẩm.


Tác giả Nguyễn Duy Liễm, người đồng hương của Dương Hướng cũng đã có
những suy nghĩ chân thành về hai cuốn tiểu thuyết Bến khơng chồng và Dưới chín
tầng trời. Trong bài viết “Tản mạn về Dương Hướng với Bến khơng chồng và
Dưới chín tầng trời ”, Nguyễn Duy Liễm đã đánh giá và khẳng định những thành
công của hai cuốn tiểu thuyết cả về phương diện nội dung tư tưởng và hình thức
nghệ thuật. Tác giả cho rằng Dương Hướng có một cái nhìn thật tinh tường, sắc sảo
khi quan sát và tái hiện mảnh đất và con người quê hương trong Bến không chồng.
Nhà văn đã luôn “…tư duy trăn trở, suy ngẫm cho thấu đáo tới ngọn nguồn để mà
lý giải” [38]. Với tác phẩm Dưới chín tầng trời, Nguyễn Duy Liễm đã điểm qua
một số nhân vật và số phận nhân vật trong vịng xốy thời cuộc với những biến
thiên của lịch sử. Theo tác giả, Dương Hướng không phán xét mà chỉ phác thảo lại
thời đại để con người tự phán xét lấy chính mình. Và đây thể hiện cách nhìn rất thực
tế, rất nhân bản, rất nhân sinh quan của Dương Hướng. Dù cho nhân vật xấu được
khắc họa như thế nào đi nữa cũng vẫn làm cho người đọc có thể cảm thơng và
khơng cảm thấy ác cảm mãi. Dù có khai thác tới tận cùng để lột tả, khắc họa khía
cạnh tiêu cực bên trong những con người tội lỗi đó nhưng cuối cùng nhà văn vẫn
đưa họ vẫn trở về với phần người đích thực. Điều này đủ nói lên tính trung thực,
không nhằm miệt thị, bôi đen nhân vật. Những lỗi lầm của họ cũng là do hoàn cảnh,
do hạn chế của thời đại tạo nên. Nguyễn Duy Liễm nhấn mạnh đó chính là điểm
sáng của Dưới chín tầng trời. Trong tác phẩm, Dương Hướng đã phân tích, lý giải,
hố giải mọi hiện tượng, mọi sự kiện qua cách nghĩ suy của từng nhân vật rất sắc
sảo đến thấu lý đạt tình. Vì thế khi đọc tác phẩm, người đọc dễ cảm thơng với mọi
hồn cảnh của từng nhân vật, trong từng sự kiện. Giá trị nhân văn của Dưới chín

tầng trời đó là sức thuyết phục “…ám ảnh người đọc qua từng chi tiết khắc hoạ một
cách chân thực sinh động nhưng lại khơng hề kích động mà ngược lại, nó làm cho
lịng ta dịu lại: Muốn gạt bỏ mọi cái ác, sống ân tình, nhân ái hơn, tốt đẹp hơn”
[38].
Bài viết “Dương Hướng sau Bến không chồng” của tác giả Trần Thị Phương
Thảo đăng trên tạp chí Văn Nghệ Quân đội số 7 – 2008 cũng rất đáng chú ý. Trong


bài viết này, Trần Thị Phương Thảo đã khẳng định sự thành công của hai tiểu thuyết
Bến không chồng và Dưới chín tầng trời. Tác giả đánh giá điểm nổi bật của Bến
khơng chồng là cái nhìn mới trong một đề tài vốn quen thuộc xưa nay: “Với tiểu
thuyết Bến không chồng, Dương Hướng thuộc số người soi được một cái nhìn mới
vào một đề tài vốn đã rất quen thuộc trong văn học Việt Nam sau 1945 là nông thơn
và chiến tranh” [55]. Đến tác phẩm Dưới chín tầng trời, tác giả cho rằng đây là
bước tiến dài, một sự vượt trội của Dương Hướng trong hành trình sáng tác cũng
như quan niệm nghệ thuật:
Dương Hướng đã tái hiện cho ta thấy một chặng đường dài dân tộc đã đi
qua, với không phải chỉ với hệ quả của hai cuộc chiến tranh, mà còn là với bao rào
cản và lầm lạc khác, từ đó mà nhận ra những mặt bi kịch và khuất tối mà cả một
thời gian dài cho đến cuối thế kỷ mới có được sự dũng cảm và sáng suốt để nhìn
lại[55].
Trên trang mạng có giới thiệu 1 khóa
luận và 2 luận văn về các tiểu thuyết của Dương Hướng. Khóa luận của Phạm
Nguyên Giang với đề tài: “Nhân vật và cốt truyện trong tiểu thuyết Dưới chín tầng
trời của nhà văn Dương Hướng” đã đi vào nghiên cứu tương đối kỹ về vấn đề xây
dựng nhân vật và cốt truyện trong cuốn tiểu thuyết này để góp phần khẳng định giá
trị của Dưới chín tầng trời cũng như những đóng góp của nhà văn Dương Hướng
trong nền tiểu thuyết đương đại Việt Nam. Dày dặn hơn đó là luận văn Thạc sĩ của
Đặng Thị Tuyết với đề tài: “Đặc điểm tiểu thuyết Dương Hướng”. Với đề tài này,
tác giả đã chọn 3 tiểu thuyết: Bến khơng chồng, Trần gian người đời và Dưới chín

tầng trời của Dương Hướng làm đối tượng khảo sát, nghiên cứu. Đặng Thị Tuyết đã
đặt tiểu thuyết Dương Hướng trong bối cảnh chung của tiểu thuyết Việt Nam từ đổi
mới đến nay để xác lập vị trí quan trọng của nó. Luận văn đã đề cập đến quan niệm
văn chương mới mẻ của Dương Hướng, một trong những yếu tố làm nên thành công
của tiểu thuyết Dương Hướng: “Những đề tài Dương Hướng đề cập tới không phải
là những đề tài mới. Tuy nhiên, với sự sắc sảo, vốn sống phong phú cộng thêm lòng
dũng cảm, Dương Hướng thuộc số nhà văn dám len lỏi vào những vấn đề tế nhị,
nhạy cảm của xã hội thời hậu chiến cũng như thời đổi mới để đem đến cho độc giả


cái nhìn chân thực, có chiều sâu” [58]. Luận văn cũng đã nêu bật được những nội
dung về nông dân, nông thôn và những bi kịch cá nhân trong những tác phẩm của
Dương Hướng. Tác giả cũng đề cập đến những điểm nổi trội về nghệ thuật của 3
cuốn tiểu thuyết như: cốt truyện, nhân vật, điểm nhìn trần thuật và giọng điệu. Nói
chung, Luận văn đã góp phần khẳng định giá trị của tiểu thuyết Dương Hướng và vị
trí của nhà văn trong dòng chảy của văn học đương đại Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ
của Minh Huyền lại tập trung vào mặt nghệ thuật với đề tài: “Nghệ thuật tiểu thuyết
Dương Hướng”. Tác giả đã nghiên cứu khá kỹ và rất công phu trong việc thống kê
số lượng nhân vật, phân loại các tuyến nhân vật và nhân vật trong mối quan hệ vừa
độc lập vừa đan xen vào nhau. Luận văn tiến hành trình tự tìm hiểu nghệ thuật tiểu
thuyết Dương Hướng theo các nội dung cơ bản: Nhân vật, kết cấu, không thời gian,
nghệ thuật trần thuật. Từ đó tác giả luận văn chỉ ra những điểm đặc sắc của tiểu
thuyết Dương Hướng và khẳng định đó chính là “...nguồn riêng của nhà văn trong
dịng chung văn học Việt Nam đương đại.” [24].
Tiếp nhận ý kiến của người đi trước; luận văn đi sâu tìm hiểu và phát hiện
cảm hứng bi kịch như một đặc điểm nổi bật giàu bản sắc thẩm mỹ trong thế giới
nghệ thuật của tiểu thuyết Dương Hướng, để qua đó thấy được đóng góp của nhà
văn trong sự nghiệp đổi mới nền văn học nước nhà.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu tập trung phân tích, lý giải và làm nổi bật “Cảm hứng bi
kịch” trong tiểu thuyết của Dương Hướng qua hai bình diện nội dung tư tưởng và
nghệ thuật biểu hiện. Từ đó thấy được sự vận động và phát triển của văn xi
đương đại qua một tác giả nói riêng và cả nền văn học nói chung.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn giới hạn ở hai cuốn tiểu thuyết Bến khơng chồng ( NXB Văn hóa
Thơng tin, 2011) và Dưới chín tầng trời ( NXB Hội Nhà văn, 2007 ). Ngồi ra,
luận văn cịn khảo sát một số tác phẩm khác của Dương Hướng và của các nhà văn
cùng thời để có cơ sở so sánh khi cần thiết.


4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng và phối hợp các phương pháp
sau đây:
- Phương pháp lịch sử nhằm đặt tác phẩm vào hoàn cảnh ra đời và hoàn cảnh
sáng tác của nhà văn để phân tích, lý giải.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống được sử dụng khi khảo sát hệ thống tác
phẩm của nhà văn và các tác phẩm văn xuôi cùng thời; cũng như khi tìm hiểu hệ
thống các bài viết nghiên cứu, phê bình về tác phẩm của Dương Hướng.
- Ngồi ra cịn sử dụng phối hợp các phương pháp khác như: phương pháp
cấu trúc; phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp.v..v.

5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Nhìn lại hành trình sáng tác của Dương Hướng
Chương 2: Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết Dương Hướng - những
biểu hiện và ý nghĩa nhân văn
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết của
Dương Hướng


***


Chương 1
NHÌN LẠI HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA DƯƠNG HƯỚNG
1.1. Về nhà văn Dương Hướng
1.1.1. Từ cuộc đời và những trang viết ban đầu…
Dương Hướng sinh ngày 08 tháng 7 năm 1949 tại làng An Lệnh, xã Thụy
Liên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Tuổi thơ của Dương Hướng gắn với vùng
quê lúa thật nhiều kỷ niệm: mái đình, cây qo cổ thụ, ruộng đồng bát ngát, dịng
sơng, bến nước, bạn bè, người thân. Tất cả in sâu vào tâm hồn, ký ức của nhà văn
trong suốt hành trình và những thăng trầm của cuộc đời. Tuổi thanh niên của Dương
Hướng đã phải chứng kiến sự khốc liệt bởi cuộc chiến tranh bằng không quân của
Mỹ đánh phá miền Bắc, trong đó có q hương Thái Bình. Ơng xung phong đi cơng
nhân quốc phịng, sau đó được cử đi học tại trường Kỹ thuật tàu thủy. Năm 1969,
Dương Hướng tốt nghiệp và được phân công về Công ty vận tải đường sông 204208. Năm 1971, Dương Hướng xung phong đi bộ đội, được chiến đấu ở đơn vị
E573 thuộc Quân khu V. Sau ngày miền Nam hồn tồn giải phóng ( 30-4-1975),
Dương Hướng rời quân ngũ, được điều về công tác tại Cục hải quan Quảng Ninh
cho đến lúc nghỉ hưu. Xem ra, những chặng đường đời và những công việc, vị trí
cơng tác mà Dương Hướng đã trải qua có vẻ như ít liên quan đến văn chương nghệ
thuật. Thế nhưng, Dương Hướng vẫn hằng tâm sự:
“ Viết văn vừa là niềm đam mê vừa là niềm ám ảnh suốt đời tơi. Có một
phóng viên hỏi tơi: Nhà văn quan tâm đến điều gì nhất trong cuộc sống?, tơi trả
lời:” Tôi hay nghĩ đến cái chết. Trong chiến trường đồng đội tơi nói đến cái chết
nhẹ tênh. Cần phải nghiêm túc nghĩ cho thấu đáo về cái chết để mà sống. Đã từ lâu,
tơi thấy rõ mình đang từng giờ, từng ngày tự hủy hoại cả tinh thần lẫn thể xác của
chính mình. Nhưng chính tơi lại thấy rõ hơn ai hết, trong cái chết đi của mình có gì
đó vẫn đang lấp lánh hồi sinh, mỗi ngày một sáng rõ hơn, thấu đáo hơn và tinh tế
hơn trong cuộc sống. Tơi nghĩ mình viết được có lẽ nhờ những bức xúc, những va

đập cứ lặp đi lặp lại theo chu kỳ chết dần chết mòn rồi lại tự sống lại, tự hồi sinh lại
viết. Viết để tự giải tỏa cho chính mình” [42. 443].


Từ suy nghĩ và quan niệm trên đây giúp ta hiểu hơn về sáng tác và cảm hứng
bi kịch lạc quan trong sáng tác của nhà văn. Ở chặng đường thử bút ban đầu với thể
loại truyện ngắn, ông được giải thưởng văn nghệ Hạ Long (1981-1985) với tác
phẩm Ô cửa mặt trời mọc; giải thưởng đất Quảng năm 1987 với Quãng đời còn lại.
Và cho xuất bản tập truyện ngắn Gót son ( 1989 ).
1.1.2…Đến khẳng định vị trí trên văn đàn
Chỉ ngay sau Gót son một năm, Dương Hướng đã cho ra đời tiểu thuyết Bến
không chồng (1990). Tác phẩm nhanh chóng được bạn đọc và được giới nghiên
cứu, phê bình hào hứng đón nhận. Cùng với Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh,
Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không chồng được
giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, năm 1991; được xem là một hiện tượng nổi
bật của văn xuôi đương đại khi bước vào thời kỳ đổi mới. Tác phẩm đã khẳng định
vị trí của Dương Hướng trên văn đàn. Nhà nghiên cứu - GS Phong Lê có ý kiến
đánh giá về vị trí của tác phẩm: “Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với
Bến khơng chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc
Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn
học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc đổi mới” [35].
Ông trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam cũng từ năm ấy.
Dường như sự thành công của cuốn tiểu thuyết đầu tay đã tạo nên một nguồn
động lực mạnh mẽ, thôi thúc nhà văn sáng tạo. Dương Hướng cho ra đời cuốn tiểu
thuyết thứ hai Trần gian người đời (1991). Tuy nhiên tác phẩm không thành công
như mong đợi, ít tạo được ấn tượng đối với bạn đọc; bởi lẽ tác phẩm chưa vượt ra
được cái bóng quá lớn của Bến không chồng. Vốn là nhà văn không chun,
Dương Hướng khơng có nhiều thời gian cho sáng tác, nhất là đối với tiểu thuyết dài
hơi. Sau tác phẩm Trần gian người đời, ông lại dành thời gian rảnh rỗi chuyên tâm
vào thể loại truyện ngắn. Kết quả sau 4 năm miệt mài, Dương Hướng cho xuất bản

tập truyện ngắn Người đàn bà trên bãi tắm (1995), nhận giải thưởng văn nghệ Hạ
Long năm 1996. Thế nhưng, dường như cảm hứng viết tiểu thuyết vẫn không nguôi,
ba năm sau, Dương Hướng lại trình làng tiểu thuyết Bóng đêm và mặt trời ( 1998).


Cuốn tiểu thuyết này cũng không thể nào vượt qua được tầm vóc của Bến khơng
chồng nên phải chịu nhún nhường, khuất lấp. Theo cách nói của GS Phong Lê thì
đây là cuốn tiểu thuyết mỏng về số trang và số phận nhưng lại là một “nhe nhắm”,
một “báo hiệu” cho một cuốn tiểu thuyết lớn hơn sẽ ra đời. Quả đúng như vậy,
Dương Hướng đã âm thầm lặng lẽ, im hơi lặng tiếng hay nói đúng hơn là ơng đã
thai nghén đứa con tinh thần suốt hơn mười lăm năm để rồi “nở nhụy khai hoa” ra
một gương mặt bề thế, sáng láng Dưới chín tầng trời. Phải nói rằng sự tái xuất của
Dương Hướng với tiểu thuyết Dưới chín tầng trời đã khiến cho người đọc và giới
nghiên cứu, phê bình ngỡ ngàng. Cuốn tiểu thuyết mang nhiều kỳ vọng, tâm huyết
của nhà văn đã gây được tiếng vang khơng kém gì Bến khơng chồng trước đây.
Khơng chỉ được mọi người u thích, tác phẩm cịn được lọt vào vòng chung khảo
cuộc thi tiểu thuyết lần thứ ba do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. Tác phẩm cho
thấy dù là không chuyên nghiệp nhưng Dương Hướng là một nhà văn hết sức
nghiêm túc trong lao động nghệ thuật, viết văn bằng tất cả tấm lòng, cái tài và cái
tâm. Sự đón nhận và trân trọng của bạn đọc là phần thưởng quý giá và xứng đáng
dành cho nhà văn. Tác phẩm còn cho thấy năng lực sáng tác dồi dào, sự trưởng
thành và độ chín của cây bút đất mỏ trong dòng chảy tiểu thuyết Việt Nam đương
đại.
Có thể nói, Dương Hướng là một trong những trường hợp không phải phổ
biến của văn học Việt Nam hiện đại. Đối với ông, văn chương không phải là nghề
nhưng lại là một cái nghiệp, một duyên nợ. Không ồn ào, đình đám, người con của
q lúa Thái Bình có cốt cách giản dị nhưng vô cùng sâu sắc, ẩn chứa một tiềm
năng dồi dào, một tấm lòng nhân hậu đã làm nên một Dương Hướng với những
trang tiểu thuyết lơi cuốn biết bao độc giả. Tất cả những gì nhà văn đã chứng kiến
và trải nghiệm được dồn tụ và thăng hoa trong những tác phẩm thấm đẫm tinh thần

nhân văn cao quý. Nhà văn của đất mỏ Quảng Ninh có được vị trí xứng đáng trong
lịng bạn đọc như ngày hôm nay không phải ở số lượng tác phẩm mà chính ở những
điều mà ơng đã cảm, hiểu, yêu thương, trân trọng, đau đớn, trăn trở về con người và
cuộc đời trong từng cuốn tiểu thuyết của mình.


1.2. Hành trình sáng tác tiểu thuyết của Dương Hướng
Tiểu thuyết vốn được coi là thể loại chủ công của nền văn học hiện đại.
Milan Kundera lại cho rằng: “...khám phá ra cái mà chỉ có tiểu thuyết mới khám
phá được, đó là lẽ sống duy nhất của một cuốn tiểu thuyết. Cuốn tiểu thuyết nào
không khám phá ra thêm được một mẫu sự sống trước nay chưa từng biết là một
cuốn tiểu thuyết vô đạo đức. Hiểu biết là đạo đức duy nhất của tiểu
thuyết”[32.192]. Ở nước ta, nhà văn Nguyễn Đình Thi cũng quan niệm: “Nhà tiểu
thuyết là một “hóa cơng” và tiểu thuyết là “sáng tạo ra một thế giới” là cuộc đời”
[23.67]. Từ những quan niệm ấy, có thể thấy rằng, nói đến tiểu thuyết đích thực là
nói đến tài năng và sức sáng tạo của người cầm bút. Sức mạnh và ưu thế của tiểu
thuyết không chỉ là dựng lại diện mạo của đời sống mà còn phải “khám phá thêm
được một mẫu sự sống”. Ở đó nhà văn khơng chỉ phản ánh diễn biến của những tình
huống và sự kiện, mà chủ yếu phải biểu hiện cho được thái độ, suy nghĩ và cảm xúc
qua những tình huống và sự kiện ấy. Cũng chính vì thế, tiểu thuyết cũng là thể loại
địi hỏi nhà văn phải biểu hiện thế giới nhân vật qua số phận và tâm trạng. Theo
quan điểm của lý luận văn học hiện đại thì tiểu thuyết khơng có những giới hạn,
những quy phạm cố định như các thể loại đã hồn tất khác. Tiểu thuyết ln có sự
vận động để khám phá hiện thực đời sống vốn rất đa dạng, phức tạp. Vì thế, diện
mạo của tiểu thuyết ln ln thay đổi trong quá trình vận động để đáp ứng yêu cầu
của tiếp nhận và phản ánh đời sống xã hội nhiều chiều. M.Bakhtin trong cơng trình
nghiên cứu Lý luận và thi pháp tiểu thuyết cho rằng: “Tiểu thuyết là thể loại văn
chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình, chưa hề rắn lại” [3.22].
Với bản chất và đặc trưng đó của tiểu thuyết, người viết có thể vượt qua mọi giới
hạn về không gian, thời gian, khám phá đến vơ cùng mọi ngóc ngách của đời sống

và con người. Đặc biệt vì tiểu thuyết đang biến chuyển nên nó ln ln mới, có thể
đáp ứng được yêu cầu và thị hiếu thẩm mỹ của bạn đọc mọi lứa tuổi, mọi thế hệ,
mọi trình độ…Đây chính là điều kiện để nhà văn mặc sức thể hiện năng lực sáng
tạo, tài năng và khơng ngừng tìm tịi thử nghiệm ngịi bút. Tiểu thuyết vì thế khơng


ngừng được cách tân mọi mặt và luôn luôn tạo ra được những diện mạo, những
thành tựu mới.
1.2.1. Sự xuất hiện tiểu thuyết Dương Hướng với Bến không chồng (1991)
Viết văn nói chung và tiểu thuyết nói riêng là nhu cầu tự thân của người cầm
bút. Quay trở lại hành trình sáng tạo của Dương Hướng, ta hãy nghe nhà văn tâm
sự:
Mỗi lần bắt tay vào viết một tác phẩm mới, tơi đều có cảm giác háo hức như
mình đang đứng trước khu rừng lạ, ngọn núi lạ, dịng sơng lạ cần được khám phá
chinh phục. Phải biết tường tận khu rừng có gì để “lựa cơm gắp mắm” khai thác?
Nó là gỗ q lim gụ sến táu hay tồn lau sậy cỏ rác, dây leo. Quan trọng hơn nữa
anh đã săn bắt được gì trong khu rừng đó…Nếu anh quyết khám phá dịng sơng thì
anh phải biết rõ nó sâu nơng, hiền dữ ra sao, cá tơm nhiều ít. Khi leo núi, anh phải
biết rõ ngọn núi kia cao thấp đến đâu. [29].
Ông đồng ý với các nhà nghiên cứu khi họ định nghĩa về tiểu thuyết và dù mỗi
người có một cách nói khác nhau nhưng ơng đều khẳng định họ đúng theo cách
nhìn nhận và quan niệm riêng của từng người. Điều này cho thấy Dương Hướng
cũng ý thức rõ về cái mênh mông vô tận của tiểu thuyết. Vẫn biết rằng tiểu thuyết là
“cỗ máy cái của văn học” song theo suy nghĩ của ơng thì người cầm bút khơng mấy
quan tâm đến điều đó. Quan trọng đối với người viết tiểu thuyết là “chỉ tâm niệm
viết thế nào cho hay, mình thích chắc độc giả sẽ hài lịng” [29]. Dương Hướng
khơng ít lần nói đến cái tình, cái nghĩa của người cầm bút đối với con người và cuộc
đời, cụ thể hơn đó là những mảnh đời, những số phận, những nguyên mẫu từ chính
làng q của nhà văn. Chính cái tình đó đã thơi thúc ông cầm bút, viết bằng cái tâm
và không hề ngại ngần bất cứ điều gì. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của

Dương Hướng luôn được soi rọi trong cái tình của nhà văn nên dù là nhân vật phản
diện, thậm chí độc ác và xấu xa nhưng rồi cuối cùng cũng quay về hoặc ít ra cũng
có ý thức hướng về cái thiện. Điều này khiến cho nhân vật phản diện của Dương
Hướng được người đọc chấp nhận và thứ tha mà khơng hề phải băn khoăn. Đó là
cái duyên và cũng là cái tài của nhà văn.


Dương Hướng cũng không phát biểu hay đưa ra những tun ngơn nghệ
thuật to tát, có tính chất khai phá gì cho thực tiễn sáng tác và tiếp nhận văn học Việt
Nam hiện đại. Ông chỉ nêu lên những quan niệm hết sức giản dị: “Là người cầm
bút, với tôi ln quan niệm một tác phẩm văn học dứt khốt phải mang hơi thở chân
thực của thời đại” [29]. Để có được “hơi thở chân thực của thời đại”, nhà văn đã
nói thẳng, nói thật, khơng hề né tránh những vấn đề nhức nhối của xã hội, thời cuộc.
Những điều Dương Hướng suy nghĩ, trăn trở và viết ra đáp ứng được nhu cầu của
đời sống xã hội và đời sống văn học trong khơng khí đổi mới từ sau Đại hội Đảng
lần thứ VI (1986). Nhiều nhà văn trong đó có Dương Hướng đã chân thành bày tỏ
những suy nghĩ, tâm huyết về thực tế sáng tác, vai trò, vị trí của nhà văn trong mối
quan hệ với hiện thực đời sống, với cơng chúng và với chính mình. Điều đáng nói
nhất là văn nghệ sĩ đã được “cởi trói” trong tư tưởng, mạnh dạn hơn trong việc
“phát huy đầy đủ chức năng xã hội của văn học nghệ thuật, khắc phục tình trạng
văn nghệ chỉ làm nhiệm vụ “minh họa chính trị” dẫn đến “chức năng phản ánh bị
hiểu một cách thơ thiển”, khắc phục thói quen chỉ nói một chiều” [43]. Theo
PGS.TS Nguyễn Thị Bình - tác giả cơng trình nghiên cứu “Văn xi Việt Nam
1975-1995, những đổi mới cơ bản” thì kể từ sau đổi mới (1986), quan niệm về nhà
văn đã có nhiều thay đổi, nhà văn đã ý thức rõ hơn vai trò là “nghệ sĩ - nhà tư
tưởng”, họ đã “...từ chỗ nhập cuộc chủ yếu bằng nhiệt tình đến chỗ nhập cuộc bằng
cả nhiệt tình và tư tưởng riêng, từ người phát ngôn nhân danh kinh nghiệm cộng
đồng đến chỗ khẳng định giá trị của kinh nghiệm cá nhân” [5.17]. Kinh nghiệm cá
nhân được đúc kết từ chính sự trải nghiệm, tư tưởng, tình cảm và tâm hồn của nhà
văn đứng trước cuộc đời rộng lớn với bao điều phức tạp, trăn trở, day dứt. Dương

Hướng đã lấy kinh nghiệm cá nhân để soi chiếu cuộc đời và phản ánh hiện thực đời
sống với tất cả “cái hôm nay bề bộn, ngổn ngang bóng tối và ánh sáng” (Nguyễn
Khải). Ơng khơng chỉ gắn bó, đồng cảm, yêu thương, hờn trách... con người và quê
hương, nhà văn còn lặn sâu, đi vào mọi ngóc ngách sâu kín nhất của tâm hồn và tình
cảm con người để thấu hiểu những đổi thay của từng cuộc đời, từng số phận trước
biến thiên của thời cuộc. Ông cho rằng: “Cái đích cuối cùng của văn học, theo tôi


là phản ánh những nỗi niềm của con người trong xã hội. Cũng có người trước sau
cứ nói đến cá nhân, nhưng cá nhân đó phải gắn với xã hội thì tác phẩm mới lớn
được, mới có tầm được... một khi người viết viết bằng cả cái tâm của mình thì tơi tin
sẽ được xã hội chấp nhận” [49]. Khi viết tiểu thuyết, Dương Hướng không đặt nặng
cũng như không coi trọng đề tài cũ hay mới. Cái quan trọng đối với ơng đó là nhà
văn khơng chỉ có cái tâm mà cịn phải biết “...kiếm tìm cái đẹp và phải biết khai
thác tới tận cùng để nhìn cho thấu cả nỗi khổ đau và niềm đam mê khát vọng trong
tâm hồn con người”, “...người cầm bút nói được tiếng nói của nhân dân, nỗi lịng
của người cần lao” [49]. Thực tế, trong bộ ba tiểu thuyết Bến không chồng, Trần
gian người đời, Dưới chín tầng trời của Dương Hướng ta thấy đề tài không hề
mới: chiến tranh, nông dân - nông thôn, cải cách ruộng đất, phong trào xây dựng
hợp tác xã của một thời, đổi mới mở cửa...nhưng những tác phẩm đó vẫn có sức hấp
dẫn, lơi cuốn độc giả một cách kỳ lạ. Đó phải chăng là kết quả của một cái đẹp giản
dị nhưng không cũ kỹ và đơn điệu, sâu sắc và giàu tính nhân văn của tiểu thuyết
Dương Hướng.
Những vấn đề Dương Hướng trăn trở và viết ra rất gần gũi, luôn được bạn
đọc hào hứng đón nhận bởi nó nói rất đúng và rất trúng những điều mọi người quan
tâm. Có những tiếng lịng, những nỗi niềm xót xa nhức nhối nhưng vì những lý do
nhạy cảm của thời cuộc mà bản thân nhiều nhà văn trước đây không thể cất lên
được. Dương Hướng đã nói lên được những tiếng lịng, nỗi niềm đó với tất cả sự
chân thực và khao khát về một cuộc đời dù có thể vẫn cịn những đau thương nhưng
rồi sẽ hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn. Tiểu thuyết của Dương Hướng mang

cảm hứng bi kịch là vì thế, nhưng đó khơng phải là thứ bi kịch đau đớn, chán nản,
bi quan mà là “bi kịch lạc quan”. Chững chạc, vững vàng, lặng lẽ với lối đi riêng
song tiểu thuyết của Dương Hướng cũng vẫn hòa trong dòng chảy chung của tiểu
thuyết đương đại khi đề cập đến những vấn đề cấp thiết của đời sống xã hội. Đó là
sự khai thác đến các tầng vỉa của hiện thực qua số phận con người trong các mối
quan hệ phức tạp, nhiều chiều, trong sự nhận thức và đánh giá lại các giá trị của đời
sống tưởng như đã vĩnh hằng:


Có thể nói, chưa bao giờ những vấn đề thuộc về đời sống xã hội mà văn học
quan tâm hiện lên chân thực, sống động mà xót xa nhức nhối như thế trong tiểu
thuyết bởi các nhà văn đã khai thác tới tầng vỉa của hiện thực đời sống qua số phận
con người, có khi qua những mảnh vỡ từ bi kịch làm người của con người. Vì vậy ta
gặp trong tiểu thuyết hôm nay cái chật hẹp của “cõi nhân gian” rộng lớn và cái
mênh mông, thăm thẳm sâu của cõi lòng bé nhỏ, qua số phận của những con người
[58.13].
Phải nhấn mạnh rằng, ở Dương Hướng hội tụ đầy đủ các yếu tố của một cây bút có
tầm, tích cực trong đổi mới quan niệm sáng tác. Ngịi bút tiểu thuyết Dương Hướng
thể hiện một bản lĩnh, kinh nghiệm sống và viết phong phú. Sự từng trải, cái nhìn
sắc sảo, sự dũng cảm của nhà văn trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm của cuộc
sống đã khiến cho những trang viết của ông vô cùng chân thật, sinh động và sâu sắc.
Đánh giá về những cái mới và đóng góp của tiểu thuyết Bến khơng chồng, GS
Phong Lê cho rằng tác phẩm đã: “...góp được một cái nhìn mới về bức tranh đất
nước trong thời chiến và hậu chiến… với gánh nặng không phải chỉ là chiến tranh,
về phía khách quan; mà cịn là những lầm lạc của con người, trong một bối cảnh có
quá nhiều biến động và thử thách, mà tất cả những ai “do lịch sử để lại” đã không
đủ tầm và sức để vượt qua” [35]. Vị thế của Dương Hướng trên văn đàn tiếp tục
được khẳng định với sự xuất hiện của tiểu thuyết Dưới chín tầng trời. Theo GS
Phong Lê thì tác phẩm cho thấy sự trưởng thành, bước tiến vượt bậc về mọi mặt của
nhà văn. Ở tiểu thuyết này, mặc dù nhà văn vẫn trung thành với lối viết truyền

thống song quy mơ và tầm vóc phản ánh cũng như cái nhìn hiện thực mới mẻ đã tạo
cho tác phẩm một giá trị vượt trội so với những tác phẩm cùng thời. Tác phẩm cũng
cho thấy quan niệm nghệ thuật nhất quán của Dương Hướng, đó là xác định nhiệm
vụ cao cả của nhà văn đối với con người và cuộc đời. Nhà văn tâm sự: “Nhiệm vụ
cao cả của nhà văn là tìm cái chân, cái thiện, cái mỹ và chống cái ác. Có viết về cái
ác cũng để cho cái thiện trường tồn...” [15]. Đó cũng là cảm hứng chính của nhà
văn khi viết về hiện thực cuộc sống đầy rẫy những mối quan hệ phức tạp, những thủ
đoạn và toan tính, niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau. Tuy nhiên, cái đích
đến của nhà văn vẫn là tạo ra một “bi kịch lạc quan”; theo cách nói của nhà phê


bình Bùi Việt Thắng thì bao trùm lên tác phẩm vẫn là niềm tin vào những gì tốt đẹp
của cuộc đời: “...tôi vẫn nghĩ rằng bao trùm lên từng câu chữ, hình ảnh, sự kiện,
nhân vật là niềm tin vào con người” [56].
Có thể nói rằng, hịa chung vào khơng khí đổi mới văn học, Dương Hướng
với những thành tựu về tiểu thuyết đã xứng đáng có một vị trí quan trọng trên văn
đàn. Ơng góp phần khơng nhỏ vào việc chủ trương đẩy mạnh khuynh hướng văn
học “nhận thức lại”. Không lệ thuộc vào chủ nghĩa đề tài và kinh nghiệm cộng
đồng, Dương Hướng đã có một cái nhìn riêng, đầy đủ và sâu sắc về hiện thực. Mặc
dù khơng có những đột phá về nghệ thuật tự sự song tiểu thuyết của Dương Hướng
vẫn luôn lôi cuốn độc giả bằng lối viết mộc mạc, giản dị nhưng có chiều sâu. Điều
quan trọng là nhà văn đã lấy số phận con người làm tâm điểm để soi chiếu. Vì thế,
tiểu thuyết của Dương Hướng như có một ma lực lơi cuốn, xốy vào tâm hồn bạn
đọc, như một đồng hành và sẻ chia giữa nhà văn với độc giả. Giá trị của tiểu thuyết
Dương Hướng chính là ở điểm mạnh đó mà khơng phải nhà văn nào cũng có được.
Nếu nói Dương Hướng là người có duyên với văn chương cũng khơng sai.
Chỉ tính riêng tiểu thuyết với số lượng khá khiêm tốn nhưng sức lan tỏa, cuốn hút
của ngịi bút Dương Hướng khơng hề thua kém những nhà văn nổi tiếng cùng thời.
Ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tay Bến không chồng xuất hiện, người ta đã thấy một
Dương Hướng với tài năng nổi bật và sự chững chạc, chín chắn của một ngịi bút

tiểu thuyết đúng nghĩa. Không kể Giải thưởng danh giá của Hội nhà văn Việt Nam
(Giải A, 1991), tác phẩm được bạn đọc hào hứng đón nhận, được tái bản 12 lần,
được dựng thành phim và dịch ra tiếng Pháp, tiếng Ý. Cùng với những tác phẩm nổi
tiếng như Thời xa vắng của Lê Lựu, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn
Khắc Trường, Thân phận của tình u của Bảo Ninh..., Bến khơng chồng của
Dương Hướng đã góp mặt làm nên hiện tượng nổi bật của văn học thời kỳ đổi mới.
Tác phẩm đưa tên tuổi Dương Hướng lên một vị trí cao trên văn đàn, góp phần làm
cho đời sống văn học thêm phần sơi động. Một thời, cứ nói đến Bến không chồng
là phải nhắc đến Dương Hướng và ngược lại, thậm chí nhà văn cịn được bạn đọc
u mến gắn cho một định danh là “Ơng bến khơng chồng”. Khơng hề cường điệu,


chúng ta có thể nói rằng tiểu thuyết Bến khơng chồng đã điểm tô cho bức tranh văn
học thời đổi mới thêm một gam màu sáng, sinh động và hấp dẫn hơn.
Theo những bộc bạch của Dương Hướng thì ơng viết tác phẩm Bến không
chồng với lý do rất đơn giản: nhân một chuyến về thăm quê ông thấy cảnh làng q
từ ruộng đồng, dịng sơng, bến nước, bạn bè, người thân đều khác đi quá nhiều. Ký
ức của tuổi thơ với những kỷ niệm êm đềm của quê hương ùa về làm cho nhà văn
vô cùng xúc động. Những con người của quê hương đều cũ kỹ, già đi; dịng sơng,
bến nước đều nhỏ lại nhưng tất cả hình ảnh của xóm làng, người thân đều lung linh,
sống động trước mắt nhà văn. Tất cả vừa lắng sâu, vừa dữ dội, vừa vui, vừa buồn,
vừa đau đớn uất giận vừa thương cảm xót xa. Ơng thấy cần phải viết một cái gì đó
về q hương, bạn bè và người thân của mình. Các nhân vật trong tiểu thuyết từ
Nguyễn Vạn cho đến Nghĩa, Hạnh, Dâu, Thắm...đều được nhà văn lấy từ những
nguyên mẫu cuộc đời có quan hệ gắn bó thân thương với mình. Có những kỷ niệm
đẹp khiến cho nhà văn mang theo suốt cả cuộc đời, đó là mối tình đơn phương vụng
dại của ơng dành cho cô gái làng Đông năm nào. Điều khiến cho nhà văn xót xa
nhất là chiến tranh đã tàn phá quê hương, hủy hoại tuổi xuân của những cô gái làng
Đông, khiến cho họ khơng có chồng hoặc có chồng cũng như không. Khi Dương
Hướng bước chân ra đi, những cô gái của quê hương vẫn còn non tơ, tràn đầy sức

sống. Lúc bước chân trở về, họ đã già sụ, đen nhẻm, gương mặt hằn in dấu tích của
tháng năm và những nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh. Làng quê nhà văn trở nên xơ
xác do đời sống khó khăn, những vết thương của bom đạn đã khoét sâu vào vết
thương lòng làm nảy sinh những mâu thuẫn. Những mâu thuẫn, xung đột ấy xuất
phát không phải ở cái ác, cái xấu mà ở ngay chính những con người chân chất tốt
bụng. Chính điều này đã tạo nên bi kịch cho những cuộc đời, những số phận với bao
ngang trái, éo le bởi thời cuộc đổi thay, vết thương chiến tranh khơng dễ gì hết nhức
nhối trong một sớm một chiều. Bến không chồng chứa đựng biết bao cảm xúc và
nỗi lịng thương cảm, đau đớn, xót xa của nhà văn là vì thế.
Bến khơng chồng là một cuốn tiểu thuyết cỡ vừa với độ dài khoảng hơn 330
trang [Theo ấn bản mới nhất được tái bản vào quý IV năm 2011-NXB Văn hóa


Thơng tin]. Tác phẩm viết về đề tài mang tính truyền thống khá quen thuộc đó là
chiến tranh, nơng thơn và nơng dân. Tuy đề tài có vẻ cũ nhưng tác phẩm vừa xuất
hiện gần như đã tạo nên một cơn chấn động trong đời sống văn học đầu những năm
90 sau đổi mới. Nhà nghiên cứu Phong Lê gọi đây là là một tác phẩm “sáng giá” xét
trên nhiều bình diện ở thời điểm này. Tác giả lấy bối cảnh không gian chủ yếu là
một vùng nông thôn với tên gọi là làng Đông, một vùng quê thân thương của đồng
bằng Bắc bộ. Nhà văn đã soi chiếu vào đời sống hậu phương thời chiến, thời hậu
chiến qua số phận của những người phụ nữ nói chung và người phụ nữ nơng thơn
nói riêng. Cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược vừa đi qua với
bao đau thương mất mát, niềm vui chiến thắng chưa trọn vẹn thì những người lính,
người mẹ, người vợ, người u lại phải tiếp tục với cuộc kháng chiến chống Mỹ tàn
khốc bội phần. Gánh chịu nhiều đau thương mất mát nhất khơng chỉ là những người
lính ở chiến trường mà còn là những người phụ nữ ở hậu phương. Nỗi đau ở những
người phụ nữ luôn âm ỉ, kéo dài dai dẳng, trong âm thầm lặng lẽ; vết thương của
thời chiến chưa lành lại tiếp tục bị khoét sâu trong thời bình. Cuộc đời họ là một
chuỗi những bi kịch khơng thể thốt lên được, nếu có sẻ chia thì cũng trong niềm đau
thương nhức nhối. Tập trung khắc họa nhân vật trung tâm là người phụ nữ với

những cuộc đời, những số phận bất hạnh gói gọn trong Bến không chồng, Dương
Hướng đã “...đem đến cho bạn đọc những thức nhận mới và cảm xúc mới trước một
lịch sử quá nghiệt ngã đối với dân tộc, vào thời điểm mở đầu 90 còn trĩu nặng bao
ưu tư trong đời sống” [35].
Nhân vật trung tâm trong tác phẩm là Hạnh, một người con gái làng Đông
đẹp người đẹp nết. Vậy mà cuộc đời Hạnh là chuỗi những bi kịch, bất hạnh. Hạnh
yêu Nghĩa, một cuộc tình đẹp như mơ của đơi trai tài gái sắc. Ngặt nỗi, giữa hai
dịng họ Nguyễn ( họ của Nghĩa ) và Vũ ( họ của Hạnh ) lại có mối thâm thù lâu đời
khơng thể hóa giải được. Để bảo vệ tình u, Hạnh và Nghĩa đã vượt lên mọi đàm
tiếu, thành kiến của hai dòng họ và dân làng để đến được với nhau. Ngỡ như hạnh
phúc hiện hữu khi đôi lứa được sự tác hợp của chính quyền và chi đồn thanh niên.
Vậy mà, những tháng ngày làm dâu Hạnh đã phải chịu bao điều tiếng, oan ức không


thể sẻ chia cùng ai. Trong khi Nghĩa đi chiến đấu biền biệt ngồi mặt trận thì ở nhà
Hạnh khơng chỉ phải chịu cảnh cô đơn, cô luôn bị những người trong dịng họ
Nguyễn nguyền rủa vì đã dám vi phạm lời nguyền của hai họ. Đau đớn và xót xa
hơn, Hạnh khơng có được niềm vui, niềm hạnh phúc quá đỗi bình dị là làm mẹ vì
Nghĩa bị di chứng của chiến tranh, khơng thể có con được. Mặc dù rất yêu Nghĩa
nhưng Hạnh chấp nhận gánh lấy thiệt thịi về mình, cơ quyết định ly hơn để cho
Nghĩa có được bến đỗ hạnh phúc mới với hy vọng có một đứa con nối dõi. Cịn nỗi
đau nào hơn khi người phụ nữ vò võ đợi chồng, chịu bao điều tiếng giờ lại vẫn cơ
đơn, chiếc bóng. Đổ vỡ và thương đau nhưng Hạnh vẫn còn niềm tin vào cuộc sống
và tình người. Cơ đã vượt lên chính những rào cản bên trong mình để rồi đến với
chú Vạn- người đàn ông đau khổ là bạn của mẹ Hạnh mà cơ hằng q trọng- và có
một đứa con với Vạn. Bên cạnh nhân vật Hạnh, trong tác phẩm còn có nhiều người
phụ nữ khác với nhiều cảnh ngộ nhưng cùng chung một nỗi bất hạnh, bi kịch. Mẹ
Nhân của Hạnh, một người phụ nữ mà có lẽ trên đời cũng khơng có ai đau khổ và
mất mát bằng chị. Chồng và hai con hy sinh ngoài mặt trận, chị nuốt nước mắt vào
trong để sống. Tình yêu chị dành cho Vạn cũng đành chơn kín nơi đáy lịng vì

khơng thể vượt qua được những định kiến hẹp hòi, những rào cản vơ hình khác.
Ngồi ra, các nhân vật nữ khác như Thắm, Dâu, Cúc, Nhài, Thủy...cũng có những
bi kịch riêng. Ước mơ vơ cùng bình dị của họ là được làm mẹ, làm vợ, được chăm
sóc gia đình nhưng không thể thành hiện thực bởi do cuộc chiến tranh tàn khốc và
bởi những hạn chế của ý thức con người.
Ngồi nhân vật người phụ nữ, Dương Hướng cịn dành nhiều trang viết cho
nhân vật người lính. Tiêu biểu cho kiểu nhân vật này là Nguyễn Vạn - người lính
Điện Biên năm xưa trở về làng Đơng. Đó là một con người tốt bụng, ngay thẳng,
yêu quê hương và luôn tự hào về truyền thống. Ở nhân vật này vừa có cái đáng u
của một tấm lịng chân thật, một sự hy sinh cao cả lại có cái đáng trách của sự thô
vụng, ấu trĩ của một thời. Vào cuối đời, Nguyễn Vạn tự mình tách ra khỏi cái cộng
đồng họ Nguyễn và làng Đông, anh sống và làm việc lặng lẽ trong vườn ươm. Bên
trong Nguyễn Vạn luôn tồn tại nhiều mâu thuẫn giằng xé, đặc biệt là mâu thuẫn


×