Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Hình tượng con người cô đơn trong sáng tác của nam cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (975.68 KB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRẦN THỊ THU NGUYỆT

HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI CƠ ĐƠN
TRONG SÁNG TÁC CỦA NAM CAO
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. PHAN NGỌC THU

Đà Nẵng - Năm 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

Trần Thị Thu Nguyệt


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 5
4. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 5
6. Bố cục của luận văn .................................................................................. 6
Chương 1: CUỘC ĐỜI, CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
CỦA NAM CAO ................................................................................................... 7
1.1. Vài nét về cuộc đời và con người ................................................................ 7
1.1.1. Bi kịch “vỡ mộng” ............................................................................... 7
1.1.2. “Cái mặt không chơi được” ................................................................. 9
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao ............................................................. 11
1.2.1. Hành trình sáng tác ............................................................................ 11
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật ........................................................................ 16
1.2.2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người ............................................. 17
1.2.2.2. Quan niệm về tác phẩm văn chương ............................................ 21
1.2.2.3. Quan niệm về vai trò, trách nhiệm của nhà văn .......................... 24
Chương 2: CÁC DẠNG THỨC HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI CÔ ĐƠN
TRONG SÁNG TÁC CỦA NAM CAO ........................................................... 29
2.1. Khái niệm cô đơn và con người cô đơn ..................................................... 29
2.1.1. Khái niệm cô đơn . ............................................................................. 29
2.1.2. Khái niệm con người cô đơn ............................................................. 30
2.2. Những kiểu con người cô đơn trong sáng tác của Nam Cao .................. 32
2.2.1. Kiểu con người cơ đơn vì bị cơ lập trong đời sống cộng đồng ......... 32
2.2.2. Kiểu con người cô đơn vì những bi kịch tinh thần ........................... 49


2.3. Ý nghĩa của việc xây dựng hình tượng con người cô đơn trong sáng
tác Nam Cao ....................................................................................................... 65
2.3.1.Đối với văn nghiệp của Nam Cao ...................................................... 65
2.3.2. Đối với nền văn học hiện đại nước nhà ............................................. 69
Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI CƠ

ĐƠN TRONG SÁNG TÁC NAM CAO ........................................................... 77
3.1. Nghệ thuật miêu tả nhân vật ...................................................................... 77
3.1.1. Miêu tả ngoại hình ............................................................................. 77
3.1.2. Miêu tả tâm lí .................................................................................... 81
3.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện ................................................................... 86
3.2.1. Tạo tình huống .................................................................................. 86
3.2.2. Đan xen yếu tố ngồi cốt truyện ....................................................... 88
3.3. Khơng gian - Thời gian nghệ thuật .......................................................... 93
3.3.1. Không gian nghệ thuật ....................................................................... 93
3.3.2. Thời gian nghệ thuật .......................................................................... 99
3.4. Ngôn ngữ và giọng điệu ............................................................................ 102
3.4.1. Ngôn ngữ .......................................................................................... 102
3.4.2. Giọng điệu ....................................................................................... 108
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 111
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI CỦA ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
- Nam Cao (1917 - 1951) là nhà văn xuất hiện vào thời kì cuối (1940
- 1945) của trào lưu văn học hiện thực nước ta giai đoạn 1930 - 1945. Đời
sống và đời viết của ông tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại một sự nghiệp giàu
giá trị tư tưởng và nghệ thuật, vẫn có sức lơi cuốn giới nghiên cứu và nhiều
thế hệ bạn đọc. Ồng xứng đáng là một trong những nhà văn lớn của nền văn
xuôi hiện đại Việt Nam. Bởi vậy, cho dù đã có nhiều đề tài luận văn, luận
án nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nam Cao, nhưng vẫn còn rất
nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu.
- Thế giới nghệ thuật trong sáng tác Nam Cao có rất nhiều bình diện
cần được tiếp cận và tìm hiểu. Nhìn từ phương diện đề tài và nhân vật hầu

hết các cơng trình đều cho rằng, sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng
tháng Tám năm đã tập trung vào hai mảng chủ yếu: Viết về cuộc sống cùng
cực của những người cố nông nghèo khổ, lấy chất liệu ngay từ làng quê ông
và những người trí thức nghèo phải sống trong bi kịch “đời thừa”, “mòn ra”,
“rỉ lên”, “mốc đi” từ bản thân cuộc đời chính ơng và bạn bè cùng cảnh ngộ.
Tuy nhiên, nếu nhìn một cách khái quát hơn, nhưng cũng đi sâu hơn vào
bản chất của hình tượng nghệ thuật trong mối liên hệ với quan niệm của
một nhà văn luôn luôn khát vọng “vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới
hạn” để làm nên những tác phẩm “chung cho cả lồi người”. Từ góc nhìn
ấy, qua những tác phẩm kiệt xuất của Nam Cao, người đọc có thể thấy thêm
một hình tượng nổi bật rất giàu ý nghĩa nhân văn: Hình tượng nhân vật con
người cơ đơn trong sáng tác của Nam Cao.
- Mặt khác, Nam Cao đã từ lâu là một tác giả được đưa vào chương
trình dạy và học môn Ngữ Văn ở trường phổ thông (“Lão Hạc” ở Trung học
Cơ sở; “Chí Phèo”, “Đời thừa” ở Trung học Phổ thơng). Vì vậy, tìm hiểu đề


tài này, chúng tơi có dịp được phát hiện thêm những nét độc đáo về giá trị
tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm Nam Cao, qua đó có thêm những kiến
thức bổ ích cho việc giảng dạy tác gia Nam Cao trong nhà trường.
2. Lịch sử vấn đề
Nam Cao là đại biểu xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê phán
Việt Nam. Vì vậy, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều cuộc hội
thảo, nhiều luận văn, luận án nhận xét đánh giá, tìm tịi phát hiện những giá
trị văn chương trong sáng tác của ông.
Hầu hết bài viết về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nam Cao đều
tập trung ở những cơng trình lớn:
- Bài giới thiệu dài gần 50 trang của GS. Hà Minh Đức trong Nam
Cao - Tác phẩm, tập I, tập II, Nxb Văn học, 1976.
- Viện Văn học với công trình tập hợp của nhiều tác giả: Nghĩ tiếp về

Nam Cao, Nxb Hội Nhà văn, 1992.
- GS. Phong Lê với cơng trình Nam Cao - Phác thảo sự nghiệp và
chân dung, Nxb Khoa học Xã hội, 1997.
- GS. Hà Minh Đức với cơng trình Nam Cao - Đời văn và tác phẩm,
Nxb Văn học, 1998.
- GS. Nguyễn Đăng Mạnh cũng đã có những bài viết sâu sắc về Nam
Cao trong Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và phong cách, Nxb Trẻ,
2000.
- Nhiều tác giả, Nam Cao - Con người và tác phẩm, Nxb Hội Nhà
văn, 2000.
- Bích Thu đã tập hợp và tuyển chọn các bài viết về Nam Cao trong
Nam Cao - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, tái bản, 2007.
Nhìn chung các bài viết trong các cơng trình kể trên có thể chia làm
hai loại:


Loại nghiên cứu đi sâu tìm hiểu về sự nghiệp và giá trị tư tưởng, nghệ
thuật của sáng tác Nam Cao.
Loại đi sâu tiếp cận phân tích thế giới nhân vật trong sáng tác của
Nam Cao.
Tiếp thu và kế thừa ý kiến của người đi trước, dưới đây chúng tôi chỉ
lược lại một số bài viết có liên quan đến đề tài.
- GS Phong Lê trong bài “Sự sống và sức sống trong văn Nam Cao”
mở đầu cho cơng trình “Nghĩ tiếp về Nam Cao” nhận xét: “Toàn bộ thế giới
truyện của Nam Cao là một nỗi đau lớn vì những nỗi khổ - hiện ra trong rất
nhiều dạng của con người; cũng đồng thời là một niềm khắc khoải lớn, vì
nhu cầu phát triển của con người. [54, tr 20]
- GS Nguyễn Văn Hạnh, “Nam Cao và khát vọng về một cuộc sống
lương thiện, xứng đáng” lại viết: “Nam Cao trân trọng mọi biểu hiện của sự
sống, trăn trở, đau buồn, nhưng không bao giờ mất hi vọng. Đọc Nam Cao,

con người muốn sống chu đáo hơn, nhân ái hơn” [54, tr 23].
- Vũ Dương Quỹ trong “Những nhân vật, những cuộc đời và nẻo
đường đi tìm nhân cách” in chung trong cuốn Nam Cao về tác gia và tác
phẩm nhận định trong sáng tác của Nam Cao, các kiểu nhân vật có ba con
đường đi tìm nhân cách. Trong đó kiểu nhân vật thứ nhất như Chí Phèo đi
tìm nhân cách là “tìm lại cuộc đời”, lầm lũi trong nỗi đau của kiếp người để
“cố thắp sáng mình lên nhằm tìm lại tất cả, trong đó cái quan trọng nhất là
bản tính người hiền lành, lương thiện” [42, tr 186]. Kiểu nhân vật thứ hai
như Lão Hạc, Hộ thì đi tìm “con đường của tình thương và danh dự” [42, tr
187]. Và cuối cùng kết lại rằng: “Trong cuộc sống, dù ở đâu, xã hội nào,
giai cấp nào, lứa tuổi nào, con người cũng biết tự xấu hổ, tự phê phán, sám
hối…”; “Con đường thứ ba đi tìm nhân cách là cách nhìn đời, nhìn người,
cảm thơng và những công việc cụ thể” [42, tr 189]. Và “Nhân vật của Nam


Cao có số phận khác nhau, có con đường đi tìm nhân cách cũng khác nhau,
vì họ bị những quan hệ xã hội, những hoàn cảnh sống va đập chi phối. Song
họ đều giống nhau ở chỗ bản tính làm người, cái khát vọng được gần người
hơn”. [42, tr 191]
- Cũng trong cuốn Nam Cao về tác gia và tác phẩm, Quế Hương khai
thác ở góc độ “Vẻ đẹp con người”: “Soi vào bức tranh đời hôi hổi niềm
đau, tạp lẫn xấu - đẹp vẫn thấy mình, thấy người trong đó. Lẽ sống cũng từ
những cái khơng ngun vẹn, trịn trịa, yên lành ấy đi ra…” [42, tr 333]
- Nguyễn Văn Trung với“Con người bị từ chối quyền làm người
trong truyện Chí Phèo của Nam Cao”, in trong “Nam Cao về tác gia và tác
phẩm”, cũng đề cập đến yếu tố con người: “Con người sinh ra là để làm
người, nghĩa là để được sống, bằng những dự định, ước muốn, tình cảm,
xác định bản chất của người khác với con vật. Nhưng đơi khi nó bị từ chối
cái quyền sống chính đáng đó. Nó là người nhưng khơng được làm
người”…[42, tr 252]

- Đinh Trí Dũng viết “Bi kịch tự ý thức, nét độc đáo trong cảm hứng
nhân đạo của Nam Cao” in trong cuốn “Nghĩ tiếp về Nam Cao” khẳng
định: “Ở các tác phẩm của Nam Cao, sự phê phán những thói hư tật xấu bao
giờ cũng đi kèm với những cảm thông nâng đỡ đối với con người (…)Rõ
ràng Nam Cao quan tâm đến việc chạy chữa, băng bó vết thương cho tâm
hồn con người nhiều hơn là xoáy sâu vào những vết thương ấy”. [54, tr 39]
- Phạm Xuân Nguyên trong “Nam Cao và sự lựa chọn một chủ nghĩa
hiện thực mới” in chung trong cuốn “Nghĩ tiếp về Nam Cao” lại có những
nhận xét rất chí lí: “Nhân vật (trong tác phẩm Nam Cao) ln đứng giữa
giáp ranh giữa thiện - ác, hiền - dữ; luôn luôn ở thế giằng co, chống chọi
giữa cái bên trong và nghịch cảnh bên ngồi; ln ln ở trạng thái hối hận,
tiếc nuối và cô đơn”…[54, tr 73]


- Hà Minh Đức và “Nam Cao và đôi nét sáng tạo nghệ thuật tâm lí”,
Tạp chí văn học, số 6 năm 1982 viết rằng: “Nhân vật của Nam cao hay ân
hận. Họ không rơi vào những lỗi lầm lớn mà chỉ rơi vào những khuyết điểm
đáng trách, đáng thương”…[42, tr 480]
Nhìn chung, các bài viết trên đều có đề cập đến phương diện con
người và nhân cách con người trong sáng tác của Nam Cao nhưng về vấn đề
con người cơ đơn thì hầu như chưa ai đề cập, nghiên cứu một cách hệ thống
và tỉ mỉ. Chúng tôi chọn đề tài này nhằm góp một tiếng nói nhỏ của mình về
phương diện con người trong sáng tác của Nam Cao.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hình tượng nhân vật con người cơ đơn trong sáng tác của Nam Cao
từ quan niệm nghệ thuật, ý nghĩa tư tưởng đến phương thức nghệ thuật thể
hiện.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Qua một số truyện ngắn nổi bật: Dì Hảo, Chí Phèo, Lão Hạc, Giăng

sáng, Đời thừa…
- Qua tiểu thuyết Sống mịn.
4. Mục đích nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu một cách tỉ mỉ, có hệ thống về hình tượng con
người cơ đơn trong các tác phẩm để từ đó thấy được tính hiện đại của chủ
nghĩa nhân văn và phong cách nghệ thuật độc đáo của Nam Cao.
- Qua việc nghiên cứu này, chúng tôi muốn góp thêm tài liệu tham
khảo dạy học văn học hiện đại Việt Nam trong chương trình Đại học, Trung
học Phổ thông và Trung học cơ sở.
5. Phương pháp nghiên cứu


Trong q trình thực hiện đề tài, chúng tơi vận dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu văn học để giải quyết yêu cầu của luận văn đề ra. Tuy
nhiên, các phương pháp chủ yếu sau được sử dụng nhiều nhất trong quá
trình thực hiện:
5.1. Phương pháp tiếp cận - hệ thống
Ở phương pháp này, chúng tôi xem xét, tiếp cận những tác phẩm của
Nam Cao và hệ thống lại, lựa chon những tác phẩm thể hiện những hình
tượng nhân vật con người cơ đơn để tìm hiểu những đặc trưng về cách thức
biểu hiện, về các kiểu con người cô đơn cũng như phương thức nghệ thuật
biểu hiện hình tượng nhân vật trong tác phẩm.
5.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Kết hợp với phương pháp hệ thống để đưa ra những dữ kiện nhằm
thấy rõ được giá trị của hình tượng nghệ thuật về con người cô đơn trong
tác phẩm, từ đó đưa ra những đánh giá về tài năng của Nam Cao.
5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Nhằm làm rõ, so sánh những nét độc đáo, mới lạ trong phong cách
cũng như trong quan niệm về văn chương, về con người trong các tác phẩm
khác nhau của Nam Cao, giữa tác phẩm của Nam Cao với các nhà văn khác.

Từ đó thấy được sự ổn định, bền vững và sự phát triển phong cách nghệ
thuật nhà văn theo hướng vừa thống nhất, vừa đa dạng.
5.4. Phương pháp giải mã từ góc độ thi pháp học
Phương pháp này chúng tơi sẽ giải mã những nét kĩ thuật, thao tác
trong cách xây dựng hình tượng nhân vật với những hình thức nghệ thuật đa
dạng, phong phú, độc đáo trong những tác phẩm của Nam Cao
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3
chương:


- Chương 1: Về cuộc đời, con người và sự nghiệp sáng tác của Nam Cao
- Chương 2: Các dạng thức hình tượng con người cơ đơn trong sáng tác của
Nam Cao
- Chương 3: Nghệ thuật thể hiện hình tượng con người cô đơn trong sáng
tác của Nam Cao
Chương 1:

CUỘC ĐỜI, CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
CỦA NAM CAO
1.1. Vài nét về cuộc đời và con người
1.1.1. Bi kịch “vỡ mộng”
Xuất thân trong một gia đình trung nơng, Nam Cao là người có điều
kiện học hết bậc thành chung. Thời đại mà Nam Cao sống tuy đất nước còn
nằm trong vịng nơ lệ nhưng với vốn học vấn Tây học, ý thức về cá nhân cá
thể đã được thức tỉnh, một lớp người cùng thế hệ đã xuất hiện và khẳng
định mình, Nam Cao đã từng mơ ước, khát vọng đi xa để làm nên nghiệp
lớn, nhưng do nhiều hồn cảnh, ước vọng khơng thành, lại trở về q với bi
kịch “vỡ mộng” - bi kịch của một người “khát bay mà khơng có chân trời”.
Dạy học tư, làm văn, làm báo để kiếm sống trong nỗi đau tự thấy “đời thừa”

- là cuộc đời của Nam Cao và cũng là một mảng thế giới nhân vật giàu chất
tự thuật trong sáng tác của nhà văn.
Trong các sáng tác về đề tài người trí thức như “Giăng sáng”, “Đời
thừa”, “Sống mịn”, “Đơi mắt”… Người đọc sẽ thấy được hình tượng tác
giả hóa thân vào từng nhân vật của mình. Chính là Điền trong “Giăng
sáng”, Hộ trong “Đời thừa”, Thứ trong “Sống mịn”… ơm những ước mơ
cháy bỏng về nghề văn, về mộng viễn du, về tư cách đạo đức làm người…
Nhưng cuối cùng họ không thực hiện được, thậm chí những bước đi trong
cuộc đời hồn tồn tỉ lệ nghịch với mơ ước và hồi bão của họ. Đó chính là


nguyên nhân làm nên bi kịch “vỡ mộng”. Bi kịch đó cũng chính là bi kịch
của chính cuộc đời nhà văn.
Nguyên nhân làm nên bi kịch “vỡ mộng” của nhà văn khơng chỉ do
hồn cảnh gia đình, bản thân nhà văn mà cịn bắt nguồn từ hồn cảnh xã
hội. Nam Cao sống trong một hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt, những năm
1930 - 1940 là thời kì đen tối nhất của xã hội Việt Nam thời thuộc Pháp.
Làng Đại Hoàng, quê hương của nhà văn cũng như bao làng quê khác bị
bóc lột thậm tệ, bị bọn cường hào ác bá hoành hành, đục khoét, nhân dân bị
đẩy vào tình trạng bần cùng hóa, phá sản khơng lối thoát. Nhiều người phải
bỏ quê hương đi tha phương cầu thực, có người tìm đến cái chết… Tâm
trạng bất an của mỗi con người có lẽ càng được tơ đậm hơn với những thất
bại của các cuộc nổi dậy để chống lại sự áp bức của ngoại bang, và kéo theo
nỗi thất bại ấy, hiển nhiên là những vết thương, những cái chết đau đớn.
Những phong trào yêu nước mở ra đều bị thực dân Pháp khủng bố và bắt
bớ, những người yêu nước đều bị đưa ra đoạn đầu đài, chiến tranh thế giới
thứ hai bùng nổ với hàng triệu người chết… Bản thân nhà văn có nhiều ước
mơ hoài bão lúc bấy giờ cũng chịu hậu quả của nó bởi trường tư mà ơng
đang dạy phải đóng cửa... Như vậy, trong “hành trang vốn liếng có được”
về nghiệp sáng tác của Nam Cao, khơng chỉ có vấn đề cái nghèo đói, sự áp

bức về mặt vật chất, thể chất mà rõ ràng có sự khủng hoảng đến tận cùng
trong đời sống tinh thần con người với một không khí tối tăm, u ám, ngột
ngạt. Và chúng tơi tin rằng, trước tình thế bi đát của lịch sử, trước thảm
trạng thân phận con người, Nam Cao hẳn đã cảm nhận một cách sâu sắc sự
bấp bênh của mỗi kiếp người, và đó là những nhận thức mang ý nghĩa triết
học, khơng hề cảm tính. Ơng cũng sẽ thấy sự bất an, sự thất vọng, tâm trạng
chán nản… khơng cịn là tâm trạng của riêng ông mà là một thứ trạng thái
tinh thần của cả cộng đồng. Tất cả những điều đó in đậm dấu ấn hình tượng


tác giả trong đề tài người trí thức. Đó là những cơn đói vật vã, sự sự tha hóa
đến tột độ của con người, ở trong đó cũng thấy những văn sĩ, những nhà
giáo câm lặng trong sự thui chột của tài năng và khát vọng, những con
người sống phấp phỏng bất an trong nỗi cô đơn và kiếp lưu đày. Nam Cao
đã cảm thấy được những thân phận đời thừa, thân phận nhỏ bé, những bi
kịch cô đơn của con người “vỡ mộng” trong một xã hội đầy những trầm
luân, biến loạn lúc bấy giờ.
1.1.2. “Cái mặt không chơi được”
Trong nhiều truyện ngắn của mình, khơng ít lần Nam Cao đã đưa ra
những lời tự bạch: “Chẳng may trời phú cho mình cái mặt khơng chơi được
ấy thì mình phải chịu”; Trong “Những chuyện khơng muốn viết”, Nam Cao
có tự họa mình một lần nữa:
Tơi sẽ chẳng bao giờ đã động đến tôi - cái tôi đáng ghét… cái
tôi rất xồng. Bởi tơi rất xồng. Trọn đời tơi, tơi chỉ lo chết
đói. Như thế cịn nghĩ đến cái to tát làm sao được? Nguyện
vọng của tôi? Ấy là làm sao cho vợ có tiền đong gạo, mua
nước mắm và mua ba xu thuốc chốc đầu của bà lang lùn về
cho con. Khơng có mộng. Nói như vậy sợ hơi q quắt. Thực
ra tơi cũng có chút mộng văn chương, nhưng cái mộng văn
chương ấy cũng hơi…khi khỉ. Tôi cũng muốn vừa có sự phụng

sự nghệ thuật lại vừa có thể kiếm tiền nuôi cả nhà. Nghĩa là tôi
ham viết lắm. Nhưng giá thử viết mà không được một đồng xu
nhỏ thì tơi cũng ham vừa vừa thơi. Cái tơi của tơi sự thật thì nó
bỉ ổi như thế đấy. thơi cịn nói đến tơi làm gì? [8, tr 102-103].
Đó chính là cái mặt khơng chơi được, là cái tơi đáng ghét của một
con người có bề ngồi lạnh lùng, ít nói - một đặc điểm nổi bật của con
người Nam Cao. Qua câu chuyện mà ông viết về cái tơi của mình, rõ ràng


bên cạnh ý thức “tự giới thiệu bản thân”, ông cịn tự châm biếm mình một
cách tế nhị, và cũng nêu được hoàn cảnh bản thân sống giữa cuộc đời: Nhà
văn phải đối mặt với điều kiện cho sự sống lúc bấy giờ luôn thiếu thốn,
người cầm bút như ông cứ đau đáu một điều làm sao cho đủ miếng cơm ăn
thì sống vì nghệ thuật sao cho cam lịng? Vậy mà khi tiếp xúc với tâm hồn
tác giả qua những sáng tác, người đọc lại thấy hiện lên đó không phải là
một tâm hồn lạnh lùng vô cảm, một tâm hồn… “không chơi được” mà
ngược lại, là một con người luôn nhạy cảm, một trái tim nồng hậu chan
chứa yêu thương, nhất là đối với người nông dân nghèo và những thân phận
nhỏ bé trong xã hội cũ. Qua rất nhiều câu chuyện về những điều nhỏ bé,
thầm kín, riêng tư trong sáng tác của mình, Nam Cao đã tự biểu hiện là một
con người - nhà văn có nội cảm sâu sắc, luôn soi xét và lục vấn lương tâm,
ln tự thấy mình “có lỗi” để cố gắng hồn thiện bản thân mình. Câu
chuyện “Mua nhà” mà tác giả kể lại là một minh chứng tiêu biểu. Sau khi
bỏ nhiều công sức ra làm ăn lương thiện, kiếm được một số tiền, mua được
căn nhà gỗ mà chủ nhân xấu số của nó là một kẻ cờ bạc phải bán đi để gán
nợ. Thế là nơi đây, để một gia đình ấm cúng thì một gia đình khác lại khơng
có chốn nương thân. Tấm lịng của nhân vật “tơi” trong tác phẩm (cũng
chính là hình ảnh tác giả) đã quặn đau, ray rứt và cứ tự xỉ vả mình mãi, dù
đã tìm được lí do để tự động viên mình: “Nếu mình khơng mua thì người
khác cũng mua” nhưng khi nghe một tiếng trẻ con khóc nức nở và hờ “Mẹ

ơi!” thì “tim tơi động một cái như bước hụt. Rồi nó đập loạng choạng. Tơi
hơi lão đảo” và cái tơi đó tự nói với mình: “Tơi ác quá!, Tôi ác quá! Tôi đã
tự thú với tôi rất nhiều rồi” [8, tr178]. Điều ao ước mà nhân vật “tơi” nói
thay tác giả cuối câu chuyện là “Giá người ta vẫn có thể nghĩ đến mình mà
chẳng thiệt đến ai” [8, tr 179]. Viết như vậy khơng có nghĩa đây đơn thuần
chỉ là việc “bán nhà” hay “mua nhà” mà nó cịn có tính chất triết lí sâu xa


hơn để thấy được nội tâm của tâm hồn một nhà văn Nam Cao dịu dàng và
phong phú: trong truyện là tiếng nói thể hiện sự ước mong cho con người
được sống hạnh phúc, được yên bình, đồng thời con người nhà văn luôn thể
hiện sự suy ngẫm về vấn đề hạnh phúc giữa cá nhân và xã hội. Nam Cao
đau đớn vì nhận ra giữa một chế độ người bóc lột người, hạnh phúc của
người này được bù vào chính do sự mất mát, tổn thương của kẻ khác. Nói
như tác giả “ở cảnh như chúng ta bây giờ, hạnh phúc chỉ là chiếc chăn quá
hẹp mà người này co thì người kia bị hở”. Cái đáng quý của tâm hồn một
nhà văn như Nam Cao là biết đau xót trước nỗi đau người khác, nhìn con
người với tấm lịng đơn hậu chan chứa u thương. Từ những câu chuyện
vụn vặt hàng ngày mà tác giả ghi lại để thấy rằng Nam Cao là người có trái
tim nhân hậu nóng hổi được giấu trong một khn mặt “khó ưa, lạnh lùng,
không chơi được”. Độc giả cũng nhận ra một điều sau những câu chuyện
mà tác giả gửi gắm, thì ra muốn nhìn nhận một con người khơng phải chỉ
nhìn nhận vẻ bề ngồi của họ bởi đơi khi con người nhìn bề ngồi đơn giản,
khơng có gì đặc biệt nhưng bên trong lại là một tiểu vũ trụ thăm thẳm và
bao la.
Qua những lời tự thuật mà nhà văn mượn lời nhân vật trong tác phẩm
để phát biểu, để nói thay mình, người đọc phần nào hiểu được con người
Nam Cao. Bề ngồi khó gần, “khơng chơi được” nhưng trong ông lại là con
người chan chứa niềm tin yêu đối với cuộc sống, một trái tim nặng nợ với
đời, với quê hương và những người nghèo khổ bị áp bức, khinh miệt trong

xã hội cũ.
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao
1.2.1. Hành trình sáng tác
Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao là nhà văn sáng tác theo
khuynh hướng hiện thực. Tác phẩm của ông viết ra đều thông qua quá trình


thai nghén đầy xúc cảm, qua sự suy nghĩ chín chắn về sự thể nghiệm ý thức
chính trị xã hội của nhà văn trong đời sống thực tế. Trước Cách mạng, mặc
dù điều kiện sáng tác khó khăn nhưng ơng vẫn cố gắng thể hiện rõ quan
điểm sáng tác của mình dưới nhiều hình thức. Văn của ơng thường thể hiện
hình ảnh con người mang nặng tâm sự u uất, bất đắc chí. Đó khơng phải là
tâm sự của một người “Tài cao, phận thấp, chí khí uất” (Tản Đà), mà còn là
nỗi bi phẫn của một người giàu tâm huyết trong cái xã hội bóp nghẹt sự
sống của con người khi đó. Song ở Nam Cao khơng phải vì bất mãn mà có
cái nhìn khinh bạc, trái lại, ơng có cái nhìn đơn hậu, chan chứa u thương
đối với con người. Chính tình cảm đó là một sức mạnh bên trong giúp nhà
văn vượt qua những lối sống thoát li hưởng lạc, tự nguyện tìm đến và trung
thành với con đường “nghệ thuật vị nhân sinh”. Thời kì 1938 - 1940 là thời
kì Nam Cao cịn nặng về khuynh hướng lãng mạn, chưa có ý thức và
phương châm rõ rệt trong sáng tác. Bước sang thời kì 1940 - 1943, thời kì
mà nhà văn chính thức bước lên văn đàn với tư cách là một nhà văn hiện
thực, Tập truyện “Đôi lứa xứng đôi” đánh dấu thành công đầu tiên của Nam
Cao trong sáng tác đồng thời cắm cái mốc quan trọng của trào lưu hiện
thực. Thời kì 1943 - 1945 là thời kì Nam Cao bắt đầu sinh hoạt trong tổ văn
hóa cứu quốc. Sự kiện này có ý nghĩa quyết định đối với Nam Cao, xem
văn học nghệ thuật là một bộ phận của Cách mạng dân tộc, các nhà văn tiến
bộ thấy mình phải có nhiệm vụ chống lại nguy cơ thống trị của văn hóa phát
xít, chống lại những tư tưởng và học thuật của giai cấp tư sản phản động,
với những trường phái nghệ thuật suy đồi. Tác phẩm của Nam Cao thời kì

này là lưỡi dao sắc nhọn rạch vào cơ thể ung nhọt của xã hội cũ, phơi bày
thực trạng xấu xa của một chế độ sắp đến ngày sụp đổ. Căm thù chế độ
thống trị bao nhiêu, Nam Cao lại càng cảm thông và yêu thương những nạn
nhân của chế độ đó bấy nhiêu. Đó là điểm nổi bật xác định những giá trị của


tác phẩm Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã lột tả được
những mảnh đời cơ cực, tù túng, bế tắc của nông thôn và thành thị, ông còn
vẽ ra khung cảnh xã hội Việt Nam ở thời kì đen tối nhất dưới chế độ phát
xít Nhật Pháp. Trong đêm tối dày đặc của chế độ cũ ấy, một số tác phẩm
của Nam Cao vẫn ánh lên những tia sáng của một niềm hi vọng vào ngày
mới, thể hiện ước mơ và khát vọng một sự thay đổi đưa tới một xã hội ấm
áp, có tình u thương và hạnh phúc hơn. Sáng tác của Nam Cao trước
Cách mạng tập trung vào hai đề tài chính: cuộc sống người nơng dân nghèo
và cuộc sống của người trí thức nghèo.
Ở đề tài người nông dân, Nam Cao thường quan tâm đến hạng cố
cùng, những số phận hẩm hiu, bị ức hiếp nhiều nhất. Họ càng hiền lành
nhẫn nhục thì càng bị chà đạp đến phũ phàng. Ông đặc biệt đi sâu vào
những trường hợp con người bị lăng nhục một cách độc ác, bất công mà xét
đến cùng chẳng qua chỉ vì họ nghèo đói khốn khổ. Tuy giọng văn lắm khi
lạnh lạnh lùng nhưng kì thực, Nam Cao đã dứt khoát bênh vực quyền sống
và nhân phẩm của con người bất hạnh, bị đẩy vào tình cảnh nhục nhã đó
trong “Chí Phèo”, “Một bữa no”, “Trẻ con khơng được ăn thịt chó”, “Tư
cách mõ”, “Lang Rận”…
Viết về những người nơng dân bị lưu manh hóa, nhà văn đã kết án
sâu sắc cái xã hội tàn bạo đã nhẫn tâm tàn phá cả thể xác lẫn linh hồn người
dân lao động, đồng thời ông vẫn phát hiện và khẳng định bản chất lương
thiện đẹp đẽ ở họ. Nam Cao thường chú ý đến những số phận bi thảm. Ơng
khơng đặt nhân vật của mình trong mối quan hệ xã hội rộng lớn mà chỉ đi
vào những vấn đề thuộc quan hệ gia đình nhỏ hẹp diễn ra âm thầm từ những

túp lều tăm tối. Từ những đơn vị gia đình trong q trình bần cùng hóa và li
tán ấy, ông đã phản ánh được chế độ thực dân trong những ngày cuối cùng
đã bóc lột, vơ vét người lao động để đẩy những người nông dân đi vào vực


thẳm như thế nào, tình trạng người nơng dân đơn độc chống chọi với cái
đói, với sự khắc nghiệt của xã hội mà tình trạng người bóc lột người diễn ra
trước mắt, và khó khăn hơn nữa là chống lại sự tha hóa của chính bản thân
mình ra sao? Đó chính là hình tượng con người cơ đơn trong mảng đề tài về
người nơng dân.
Ở đề tài về người trí thức tiểu tư sản, những truyện ngắn như “Những
truyện không muốn viết”, “Giăng sáng”, “Mua nhà”, “Chuyện tình”, “Quên
điều độ”, “Cười”, “Nước mắt”, “Đời thừa” và đặc biệt là tiểu thuyết “Sống
mòn”, Nam Cao đã miêu tả hết sức chân thành cảnh nghèo khổ, dở sống dở
chết của những nhà văn nghèo, những giáo khổ trường tư… Nhà văn đặc
biệt đi sâu vào bi kịch tâm hồn họ, qua đó đặt vấn đề về ý nghĩa xã hội to
lớn. Đó là những tấn bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của những
người có ý thức sâu sắc về giá trị sống và nhân phẩm nhưng lại bị gánh
nặng cơm áo và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn”, phải sống
cuộc sống “đời thừa”. Những tác phẩm đó đã phê phán xã hội bóp nghẹt sự
sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời thể hiện sự tự đấu tranh bên
trong của người trí thức tiểu tư sản cố vươn tới một cuộc sống đẹp đẽ, thực
sự có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người. Nếu so sánh chủ đề viết
về nông dân nghèo với chủ đề về người trí thức nghèo thì đề tài về người trí
thức có phần thuận lợi hơn với Nam Cao bởi trước hết cuộc sống tiểu tư sản
là cuộc sống của chính tác giả, ngay bản thân tác giả. Nam Cao đã có một
cái nhìn mạnh dạn, khơng thỏa hiệp với cuộc sống đương thời, phủ định nếp
sống và nếp nghĩ quen thuộc của tầng lớp mình. Tầm mắt của Nam Cao ít
nhiều đã vượt ra khỏi giới hạn giai cấp, dám nhìn thẳng vào cuộc sống và đi
vào nội tâm người tri thức tiểu tư sản để thấy những biểu hiện tốt đẹp về

đạo đức của họ. Ông nêu lên quá trình đấu tranh day dứt giữa cái thiện và
cái ác, đấu tranh chống lại những cám dỗ vật chất trong con người tiểu tư


sản. Ở một mức độ cao hơn, Nam Cao đã thấy được tâm trạng điển hình của
tầng lớp tiểu tư sản nghèo đang mạnh dạn chống lại sự hoen gỉ của tâm hồn,
chống lại nếp sống quen thuộc của một cuộc sống sợ thay đổi và hi vọng
vươn tới một xã hội ấm áp hơn, cơng bằng hơn. Và có lẽ trong tất cả các
cuộc chiến, theo chúng tôi, cuộc chiến chống lại chính bản thân mình - đấu
tranh với chính bản thân mình là cuộc chiến thầm lặng nhưng lại cam go,
dai dẳng và đau đớn nhất mà những người trí thức phải trải qua. Nỗi cơ đơn
cũng bắt nguồn chính từ trong những cuộc đấu tranh ấy.
Tóm lại, những sáng tác của Nam Cao ở cả hai mảng đề tài trước
Cách mạng đưa đến cho người đọc thấy được khung cảnh đen tối nhất của
xã hội Việt Nam thời bấy giờ. Đời sống của nông dân ở nông thơn cũng như
các tầng lớp trí thức nghèo ở thành thị đều khổ cực về mọi mặt. Sau lũy tre
làng không phải là những mái rạ nên thơ, những cuộc đời êm ả, bình dị mà
là những kiếp sống đắng cay, cơ cực đang chết dần, chết mòn, chết một
cách thê thảm đau đớn. Trong những sáng tác của Nam Cao, dù viết về
người nơng dân hay trí thức, mỗi trang văn của ơng đều chan chứa tình u
thương đối với con người, điều đó cũng xuất phát từ trái tim nhân hậu của
một nghệ sỹ đích thực, khơng cho phép nhìn con người bề ngồi phiến diện
mà phải xem xét đằng sau những biểu hiện tưởng như là khùng điên, lưu
manh (như Chí Phèo), có vẻ gàn dở, lẩm cẩm (như Lão Hạc), dù là so đo,
tính tốn (như Thứ, San, Oanh…) nhưng họ vẫn là người có những phẩm
chất tốt đẹp, lương thiện, chân chính mà chỉ con người mới có. Chỉ trong
nỗi cơ đơn họ mới là mình thật sự, mới nhìn thấy được mình đẹp hơn, sống
cho phãi nhẽ hơn. Suy tư, dằn vặt, trăn trở về cuộc sống, về kiếp người,
những trang viết của Nam Cao thường đạt tới một tầm khái quát nhân sinh
sâu sắc nên đề tài dù hẹp mà tư tưởng thì lại rộng lớn và thiết thực đối với

cuộc sống hôm nay.


Sau Cách mạng tháng Tám, ơng đón chào sự kiện lớn của lịch sử với
tất cả niềm hân hoan của người trí thức đã giác ngộ con đường đi của cách
mạng dân tộc. Là một nhà văn sớm được sự dẫn đường trực tiếp của Đảng
trong những năm trước Cách mạng nên ơng đã nhạy cảm và chuyển mình
rất nhanh theo những bước đi của thời đại mới. Trước đó, chính ơng đã
thấm thía sự tủi nhục của người dân mất nước, đã sống một cuộc đời “mốc
lên, rỉ đi, mục ra” của lối sống quẩn quanh vô vị, đã từng chứng kiến biết
bao đau thương uất hận trong cuộc sống nên khi Cách mạng tràn về, Nam
Cao không ngần ngại lao mình vào cuộc đấu tranh của quần chúng nhân
danachoongs lại kẻ thù xâm lược. Ông tự nguyện làm người cán bộ tuyền
tryền vô danh của Cách mạng và có ý thức rèn luyện, cải tạo mình trong
thực tế kháng chiến. “Đôi mắt” (1948) là tác phẩm thành công được xem là
“mốc nhận đường” của chính tác giả và cũng là tác phẩm xuất sắc của văn
nghệ kháng chiến chặng đầu khi đó. Nhìn vào hình ảnh một tri thức cũ đi
tản cư theo kháng chiến nhưng vẫn giữ nguyên lối sống trưởng giả, nhởn
nhơ với đôi mắt khinh bạc tệ hại với quần chúng, hình ảnh thật lạc lõng lúc
bấy giờ, người trí thức đi theo Cách mạng càng thêm dứt khoát từ bỏ con
người cũ, lối sống cũ và quyết tâm “cách mạng hóa quần chúng, tư tưởng
hóa sinh hoạt”, trở thành chiến sỹ trên mặt trận văn hóa. Thiên tùy bút
“Đường vơ nam” là lời reo vui đầy nhiệt tình trước nhiệm vụ cách mạng;
“Nhật kí ở rừng” (1948) viết trong thời kì nhà văn cơng tác ở vùng rừng sâu
Bắc Cạn và tập kí sự “Chuyện biên giới” (1950) viết khi ông đi chiến dịch
Cao - Lạng, đều là những giá trị của nền văn xi cách mạng cịn non trẻ
lúc bấy giờ đồng thời đó cũng là một trong những viên gạch đầu tiên góp
phần xây dựng nền văn học mới. Nhà văn hi sinh giữa lúc tư tưởng và tài
năng đang độ phát triển chín muồi nhất, hứa hẹn những sáng tác có tầm vóc
mới.



Những sáng tác của Nam Cao trong thời kì kháng chiến đã phản ánh
được những nét sinh hoạt của nhân dân trong chiến đấu và sản xuất phần
nào đã nêu lên được hình ảnh người chiến sỹ, người cơng dân ngoài mặt
trận. Trong các sáng tác sau Cách mạng của Nam Cao, con người nhà văn
thống nhất với con người cuộc đời. Ý thức trách nhiệm đối với ngòi bút của
ơng ngày càng rõ rệt hơn. Ơng đã vẽ lên được những nét khá tiêu biểu của
quần chúng công nông binh đang hăng hái đóng góp, hi sinh cho kháng
chiến.
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật
Trước Nam Cao, các nhà văn cũng đã thể hiện quan điểm nghệ thuật
của mình nhưng cịn riêng lẻ, chưa thành một hệ thống. Chỉ đến Nam Cao
thì ý thức nghệ thuật của ơng mới trở thành một hệ thống quan niệm hoàn
chỉnh. Từ quan niệm về văn học đến quan niệm về đánh giá tác phẩm, quan
niệm về nghề nghiệp của nhà văn. Đồng thời ông đã thể hiện hệ thống quan
niệm ấy bằng một thế giới nghệ thuật hết sức sinh động, độc đáo qua những
nhân vật - hình tượng điển hình.
1.2.2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người
Con người là đối tượng hàng đầu của văn chương, là trung tâm chú ý
của nhà văn. Điều này đã thành ngun lí có tính phổ qt, không cần phải
bàn cãi. Khác biệt chăng là ở cách hiểu, cách vận dụng nguyên lí, nhận thức
khác nhau sẽ đưa tới cách giải quyết vấn đề khác nhau. Và nếu ai nhận thức
sâu sắc hơn sẽ đưa đến những trang văn tồn bích hơn bởi suy cho cùng văn
học dù viết về cái gì, có ý nghĩa như thế nào cũng đều hướng đến con
người. Như vậy, ai có quan niệm sâu sắc hơn ắt sẽ được chú ý nhiều hơn và
sẽ thành công hơn trong nghiệp viết văn.
Quan niệm nghệ thuật về con người hướng người ta khám phá cách
cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, biểu hiện trong cấu trúc



của tác phẩm văn học. Nó là nguyên tắc cảm thấy, hiểu và miêu tả con
người trong văn học. Nó cũng là sản phẩm của văn hóa tư tưởng, và là sự
khám phá về con người mang dấu ấn sáng tạo của người nghệ sĩ.
Trong các sáng tác của mình, Nam Cao luôn chú ý đến những số
phận phải gánh chịu những bi kịch đau đớn của tâm hồn, họ có thể là những
con người bị xúc phạm đến thơ bạo về nhân phẩm, về tư cách đạo đức…
dẫn đến việc hủy hoại nhân tính, biến dạng nhân cách, có lúc cuộc sống áo
cơm đẩy đến chỗ bất lực, đầu hàng hồn cảnh, phải biến ước mơ của mình
thành những giọt nước mắt đầy sự thương xót… Nam Cao ln đau đáu
một vấn đề về nhân cách con người trước nguy cơ bị hủy hoại. Những khát
vọng, mong ước cống hiến sức lực, tài năng của những người trí thức chân
chính đã khơng được thỏa mãn, khát vọng được quay về cuộc sống lương
thiện như bao nhiêu người khác mà không được đáp ứng. Chứng kiến
những nỗi đau ấy, Nam Cao tìm cách lí giải và phân tích ngun do…. Điều
thú vị hơn hết là con người trong sáng tác Nam Cao dù vẫn lâm vào bế tắc
họ vẫn luôn tìm cách hành động cải tạo, thay đổi hồn cảnh để cứu vãn
lương tri, nhân phẩm của mình. Cách nhìn con người nhân đạo tích cực ấy
đã quy định cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của ông. Nam Cao cũng là
nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lí bậc thầy và luôn hứng thú khám phá
“con người trong con người”. Đối với ông, từ những trang sách đi ra là
những con người phức tạp đa chiều, khơng có con người hồn tồn thánh
thiện, cũng khơng có con người hoàn toàn xấu xa, con người trong quan
niệm của Nam Cao là con người hiện diện với tất cả các mặt đối lập: Vừa
đẹp đẽ vừa xấu xa, vừa cao thượng vừa tầm thường nhỏ nhen, vừa nhân đạo
vừa độc ác, vừa đáng khinh vừa đáng trọng. Đó là những tâm hồn khơng
đốn định trước những bước đi, diễn biến của hành động để thể hiện nhân
cách: Một Chí Phèo là quỷ dữ bất cần đời nhưng cũng là một Chí Phèo



“hiền như đất” và khát khao lương thiện, thậm chí chọn cái chết để được
lương thiện; Một anh giáo Thứ có tâm hồn thanh cao nhưng cũng có lúc lại
là một người nhỏ nhen ích kỉ và hành động rất lỗ mãng; Một nhà văn Hộ có
những suy nghĩ và hành động rất cao cả nhưng cũng có lúc cũng rất tàn
nhẫn và tầm thường…
Thường trực trong sáng tác của Nam Cao, người đọc luôn bắt gặp
những con người với những khắc khoải khôn nguôi về ngày mai, cho dù ở
mảng sáng tác nào. Nếu là người nông dân như Chí Phèo, Lão Hạc thì nỗi
khắc khoải ấy có thể nói là bình dị những cũng hết sức lớn lao: Làm sao để
sống mà vẫn giữ vẹn nguyên được chất người cao cả? Họ đã chọn cái chết
để giữ gìn phẩm hạnh (lão Hạc), hay đã mất phẩm hạnh rồi nhưng vẫn chọn
cái chết để giữ gìn khát khao được phẩm hạnh trở lại (Chí Phèo); Cịn
những người trí thức như Hộ, Thứ, Điền… thì lại băn khoăn được làm gì đó
lớn hơn thế, khơng chỉ cho bản thân mình mà cho cả tồn nhân loại (Hộ thì
khao khát sẽ sáng tác được những tác phẩm thật giá trị để “ca ngợi tình
thương, lịng bác ái và sự cơng bình, sẽ làm cho người gần người hơn”, cịn
Thứ thì lại khao khát “mỗi một con người khi mất đi là phải để lại chút gì
cho nhân loại”…)
Nhưng cuối cùng, nhân vật của Nam Cao hầu như đều có một điểm
chung: Họ đều rơi vào vực thẳm của sự bất lực, họ đau đớn khắc khoải
khôn nguôi khi cố vẫy vùng để thoát khỏi vũng lầy đen tối của xã hội. Điều
đáng quý là tất cả những nhân vật của Nam Cao đều biết vượt qua những
ranh giới của sự tha hóa, hay đứng trong tha hóa mà vẫn ln hướng về
những cái cao cả thuộc phạm trù con người, tiếp tục chống chọi với cơn bão
cuộc đời để giữ gìn chất người mà tạo hóa đã ưu ái hay nói đúng hơn là giao
phó cho họ. Dưới ngịi bút của ông, những con người hiện lên thật chân
thực với những hoàn cảnh thử thách chất người khốc liệt nhưng cuối cùng


chất người vẫn chiến thắng hết thảy để nhân vật trong sáng tác Nam Cao lấp

lánh một vẻ đẹp đáng trân trọng nhất, đó là vẻ đẹp mang ý nghĩa nhân văn.
Quả đúng như Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh từng nhận xét: “Trong tác phẩm
Nam Cao, con người sống trong một xã hội thật dữ dằn, cay nghiệt, hoàn
cảnh như muốn nghiền nát con người đi, nhưng con người vẫn không chịu
khuất phục, vẫn cố ngoi lên để sống, để bộc lộ tính cách, để làm người.
Cuộc đấu tranh khi quyết liệt, khi âm thầm của con người với hoàn cảnh và
với chính bản thân mình để tìm lối ra, để vươn tới ánh sáng, giữ gìn các giá
trị nhân bản ngay trong những hồn cảnh sống tưởng như khơng thể nào
chịu đựng nỗi…” [54, tr 28]. Trang sách của Nam Cao có chiều sâu nhân
bản, có sức hút lâu bền đối với người đọc chính nhờ kim chỉ nam trong sáng
tác là quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh (nghệ thuật phải viết về con người
và hướng đến những điều tốt đẹp của con người). Hướng đến những điều tốt
đẹp đó, chắc hẳn yếu tố đầu tiên là khát vọng, suy tư ở họ, là những khoảnh
khắc rất riêng tư, những khao khát rất thầm kín khó có thể tỏ bày. Hơn ai
hết, nhà văn sẽ cảm thông, sẽ thấu hiểu họ. Và có lẽ điều cần cảm thơng
nhất, cần thấu hiểu nhất là cảm giác cô đơn, khi người ta thấy lạc lõng và
chơi vơi nhất…. Đó là dấu ấn của hình tượng con người cơ đơn.
Khi xây dựng hình tượng nhân vật con người cơ đơn trong sáng tác
của mình, tác giả đã vận dụng lối tả chân trong văn học. Đó khơng phải chỉ
chân thực khi phản ánh xã hội mà còn là chân thực khi khám phá thế giới
nội tâm nhân vật. Bởi vậy, dù ông xuất hiện sau các nhà văn đã nổi tiếng
khác và hầu như các đề tài đã được các nhà văn khác đề cập. Ví như ở mảng
thành thị đã có cây bút xuất sắc Vũ Trọng Phụng; Chốn quan trường đã có
Nguyễn Cơng Hoan; Về người nơng dân đã có Ngơ Tất Tố với hình tượng
Chị Dậu sừng sững; về người trí thức đã có Tản Đà, Thạch Lam… Nhưng
Nam Cao vẫn chọn cho mình một lối đi rất sáng tạo mà trước đó chưa có:


Trong mảng sáng tác về người nông dân, ông vẫn tập trung những
vấn đề bức xúc nhất như cái đói, miếng ăn, sự áp bức bóc lột tàn tệ của giai

cấp thống trị… Thế nhưng, ngòi bút Nam Cao đã xoáy sâu vào vấn đề nhân
phẩm - nhân cách, cảnh báo nguy cơ con người bị tha hóa. Và tha hóa ở đây
khơng chỉ do hồn cảnh xã hội gây nên nữa mà cịn do người ta tự làm mình
tha hóa, từ yếu tố tha hóa đó để tạo nên sự khác biệt, dựng lên hàng rào
ngăn cách giữa nhân vật với cộng đồng và vì thế mà nhân vật trong văn học
của Nam Cao mang nặng cảm giác cô đơn.
Trong đề tài về người trí thức, vẫn miêu tả chân thực cái đói, hồn
cảnh khắc nghiệt của xã hội bóp nghẹt những mơ ước và làm thui chột đi
những tài năng của người trí thức… Nhưng cao hơn cả điều ấy, Nam Cao
lại đi vào khám phá miêu tả nỗi khổ hơn hết thảy những vấn đề mà con
người phải khổ: Đó là sự giằng xé nội tâm ở những người trí thức nghèo,
tạo nên kiểu con người cơ đơn trong trào lưu văn học hiện thực phê phán
lúc bấy giờ.
Hai kiểu nhân vật với hai mảng đề tài nổi bật của Nam Cao có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau tao nên tính trí tuệ và trữ tình, chiến đấu và nhân
văn trong sáng tác của Nam Cao. Những điều đó là minh chứng để nói rằng
chỉ đến Nam Cao, chủ nghĩa hiện thực nước ta mới đi đến giai đoạn tự giác,
chỉ đến Nam Cao thì vấn đề con người trong trào lưu văn học hiện thực mới
được bóc tách để thấy được vượt qua những vấn đề cần thiết nhất trong
cuộc sống như cái ăn cái mặc để tồn tại, ngòi bút Nam Cao hướng đến một
chiều sâu nhân bản hơn đó là nhân cách, là tâm hồn, là khát vọng, những
rung động, những trạng thái tâm lí rất con người.
Từ việc xây dựng, khắc họa và diễn biến cuộc đời nhân vật để kết
luận rằng, trong quan niệm nghệ thuật về con người, Nam Cao đã sâu sắc và
có cái nhìn tiến bộ hơn các nhà văn khác cùng thời như Ngô Tất Tố,


×