Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Khó khăn tâm lý trong hoạt động giao tiếp của lứa tuổi thiếu niên tại làng trẻ em sos – thành phố đồng hới – tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 102 trang )

ỌC
N N
ỌC SƢ P
M
KHOA TÂM LÝ – ÁO DỤC

K ÓA LUẬN TỐT N

ỆP

ỌC

Khó khăn tâm lý trong hoạt động giao tiếp của lứa tuổi thiếu
niên tại Làng Trẻ Em SOS – Thành phố ồng ới
Tỉnh Quảng Bình

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Tuyết
Chuyên ngành: Tâm lý

iáo dục

Ngƣời hƣớng dẫn : Tô Thị Quyên

Đà Nẵng, tháng 5/ 2013

1


MỞ ẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giao tiếp là mặt đặc trưng nhất trong hành vi của con người, nó không những là


điều kiện quan trọng bậc nhất của sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách
mà còn đảm bảo cho con người đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả trong mọi lĩnh
vực hoạt động. Giao tiếp giúp cho chúng ta có những mối quan hệ xã hội, thỏa mãn các
nhu cầu, tiếp thu kinh nghiệm của người khác, áp dụng cho chính mình, mở mang hiểu
biết…Trong quá trình giao tiếp chúng ta học được cách đánh giá hành vi và thái độ, lĩnh
hội những tiêu chuẩn từ cuộc sống, kiểm tra và vận dụng các tiểu chuẩn đó vào thực tiễn.
Qua đó phát huy khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, giúp cho mỗi người ngày càng phát
triển.
Lứa tuổi thiếu niên thì giao tiếp với bạn bè là hoạt động chủ đạo của các em, giúp
cho các em thỏa mãn được các nhu cầu như: nhu cầu cung cấp thông tin, nhu cầu khẳng
định mình…giúp trẻ có sự đánh giá mình tốt hơn, giúp cho trẻ cân bằng và phát triển hài
hòa. Sự đòi hỏi về giao tiếp ở trẻ phải được thoả mãn để đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển nếu không các em sẽ trở nên cô đơn, thậm chí mắc các loại bệnh tật. Ngay từ khi
sinh ra con người đã có nhu cầu được tiếp xúc với người khác, khi lớn lên luôn mong
muốn được trao đổi thơng tin, sự hiểu biết, tâm tư tình cảm của mình với người khác. Và
các em ở lứa tuổi thiếu niên cũng vậy, các em cũng mong muốn được giao tiếp, được hài
hịa và từ đó giúp các em hình thành và phát triển nhân cách của chính mình.
Trẻ em, đối tượng cần được quan tâm đặc biệt do sự non nớt về mặt thể chất và
tinh thần, chúng cần được sự bảo vệ của những người trong gia đình và xã hội. Bên cạnh
đó trẻ em tại Làng Trẻ Em SOS là những trẻ có hồn cảnh đặc biệt thường có nhiều thiệt
thịi hơn so với trẻ em cùng lứa tuổi khác, chính vì điều đó chúng cần được sự quan tâm
đặc biệt hơn. Làng trẻ em SOS có nhiều em gặp rất nhiều khó khăn trong giao tiếpvà các
em khó có thể vượt qua được những khó khăn tâm lý trong giao tiếp. Thực trạng khó khăn
trên đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến sự hình thành và phát triển nhân cách của các em...
Vấn đề cấp thiết đặt ra ở đây là chúng ta cần nghiên cứu để biết được các em gặp khó
khăn gì trong giao tiếp? Nguyên nhân của những khó khăn đó? Các khó khăn thường ở

2



mức độ nào? Có ảnh hưởng như thế nào đến mọi hoạt động của các em? Các em đã làm gì
để vượt qua những khó khăn đó? Để từ đó chúng ta có các biện pháp, đề ra chương trình
thực nghiệm các giải pháp để giúp đỡ các em vượt qua những khó khăn, rào cản tâm lý
trong giao tiếp từ đó giúp trẻ phát triển lành mạnh hơn về thể chất và tinh thần, giúp trẻ
biết định hướng trong giao tiếp, truyền đạt suy nghĩ của mình, chủ động, tự tin trong giao
tiếp, giúp trẻ phát triển và hoàn thiện nhân cách? Đứng trước thực trạng đó nên chúng tơi
chọn đề tài “Khó khăn tâm lý trong hoạt động giao tiếp của lứa tuổi thiếu niên tại Làng
Trẻ Em SOS – Thành phố Đồng Hới – Tỉnh Quảng Bình” làm đề tài luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu những khó khăn tâm lý trong hoạt động giao tiếp của lứa tuổi thiếu niên
tại Làng Trẻ Em SOS – Thành phố Đồng Hới – Tỉnh Quảng Bình.
- Đề xuất những giải pháp cần thiết nhằm giúp các em vượt qua được những khó
khăn tâm lý trong giao tiếp.
3. ối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
3.1. ối tƣợng nghiên cứu:
Khó khăn tâm lý trong hoạt động giao tiếp của lứa tuổi thiếu niên tại Làng Trẻ Em
SOS – Thành phố Đồng Hới – Tỉnh Quảng Bình.
3.2. Khách thể nghiên cứu:
Trẻ em ở lứa tuổi thiếu niên tại Làng Trẻ Em SOS – Thành phố Đồng Hới – Tỉnh
Quảng Bình.
`3.3. Khách thể khảo sát
Chúng tơi tiến hành khảo sát 50 em ở lứa tuổi thiếu niên tại Làng Trẻ Em SOS –
Thành phố Đồng Hới – Tỉnh Quảng Bình.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Khó khăn tâm lý là một lĩnh vực rộng bao gồm khó khăn trong nhận thức, xúc cảm,
hành động (kỹ năng) và trong đề tài này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu sâu về khó
khăn tâm lý trong hành động (kỹ năng) giao tiếp của lứa tuổi thiếu niên như: tính chủ
động, tích cực trong giao tiếp (kỹ năng kiềm chế, kiểm tra người khác khi giao tiếp, kỹ
năng thuyết phục, chủ động, điều khiển quá trình giao tiếp); thể hiện khả năng nhạy cảm,


3


cân bằng trong khi giao tiếp (kỹ năng lắng nghe, nhạy cảm trong giao tiếp; thể hiện sự cân
bằng, phù hợp trong khi giao tiếp (khó khăn tiếp xúc, thiết lập và quan hệ với người khác,
khó khăn trong việc cân bằng nhu cầu cá nhân và đối tượng giao tiếp, tự chủ cảm xúc và
hành vi của mình khi giao tiếp; khó khăn trong cách diễn đạt bằng ngơn ngữ trong giao
tiếp và một số khó khăn trong giao tiếp với bạn bè…
5.

iả thuyết khoa học
Lứa tuổi thiếu niên tại Làng Trẻ Em SOS – Thành Phố Đồng Hới – Tỉnh Quảng

Bình gặp khó khăn tâm lý trong hoạt động giao tiếp. Khả năng giao tiếp của các em ở
mức độ thấp. Nếu có những biện pháp đúng đắn và phù hợp, tác động bằng những chương
trình thực nghiệm rỏ ràng sẽ tháo gỡ được khó khăn tâm lý trong giao tiếp.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề khó khăn tâm lý trong hoạt động giao tiếp
của lứa tuổi thiếu niên tại Làng Trẻ Em SOS – thành phố Đồng Hới – tỉnh Quảng Bình.
6.2. Nghiên cứu thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động giao tiếp: các yếu tố
gây khó khăn tâm lý, xác định mức độ các khó khăn tâm lý, nguyên nhân gây ra khó khăn
tâm lý trong giao tiếp của lứa tuổi thiếu niên tại Làng Trẻ Em SOS – thành phố Đồng Hới
– tỉnh Quảng Bình.
6.3. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp và tác động bằng những chương trình
thực nghiệm cụ thể, nhằm hóa giải những khó khăn tâm lý trong hoạt động giao tiếp của
các em.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu lý luận.
Tiến hành đọc, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá trong nghiên cứu
các nguồn tài liệu lý luận có liên quan đến đề tài nhằm xây dựng cơ sở lý luận chung cho

vấn đề nghiên cứu.
7.2. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn.
a/ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (Angket).
b/ Phương pháp trò chuyện

4


c/ Phương pháp quan sát
d/ Phương pháp thống kê toán học.
e/ Phương pháp thực nghiệm
8. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, thì đề tài
gồm có 3 chương nội dung chính.
Chương 1. Những cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3. Kết quả nghiên cứu

5


B. NỘ DUNG
Chƣơng . N ỮN

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN Ề N

ÊN CỨU

1.1. Tổng quan các nghiên cứu về vấn đề “khó khăn tâm lý trong giao tiếp”.
1.1.1. Trên thế giới

Bàn về vấn đề này, chúng ta có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu sau:
- Cơng trình nghiên cứu của hai tác giả H.Hippơ và M.Phorvec trong “Nhập môn
tâm lý học xã hội”, các ông đã nêu ra các nhân tố gây khó khăn cho giao tiếp như:
Người phát tin khơng có khái niệm chính xác về người cùng giao tiếp với mình:
đánh giá sai trình độ văn hoá, nhu cầu, quyền lợi và những phẩm chất của người nhận...
Ngoài ra, do cách kiến giải khác nhau về khái niệm sử dụng và trao đổi thông tin tạo nên
những: “Hàng rào khái niệm” ngăn cản giao tiếp. Trong cơng trình này, hai tác giả đã nêu
ra một loạt các nhân tố gây khó khăn cho giao tiếp. Nhưng những yếu tố gây ra khó khăn
giao tiếp là gì? Cách phân loại nó ra sao? Thì cơng trình nghiên cứu này chưa đề cập tới.
- Trong cơng trình nghiên cứu của G.M. Andreva khi phân tích chức năng thông
tin về giao tiếp đã chỉ ra một vài nguyên nhân làm nảy sinh các KKTL trong quá trình
giao tiếp. Tác giả cho rằng, những khó khăn này có thể nảy sinh do sự khác biệt về tôn
giáo, ngôn ngữ, nghề nghiệp, thiếu đồng nhất trong nhận thức tình huống giao tiếp giữa
các thành viên tham gia giao tiếp, hoặc do đặc điểm tâm lý cá nhân. Như vậy, ở cơng trình
nghiên cứu này, tác giả đã phát hiện ra một số nguyên nhân làm nảy sinh các KKTL trong
giao tiếp, nhưng để đưa ra khái niệm KKTL trong giao tiếp là gì? Thì tác giả chưa đề cập
tới.
- Đến năm 1987, E.V.Sucanova đã đánh dấu một mốc quan trọng cho việc nghiên
cứu vấn đề KKTL trong giao tiếp bằng việc đưa ra cuốn sách: “Những khó khăn của giao
tiếp liên nhân cách”. Trong cơng trình này tác giả có đề cập đến những vấn đề sau:
Bản chất tâm lý của những khó khăn trong giao tiếp liên nhân cách.
Vị trí của hiện tượng giao tiếp, khó khăn trong cấu trúc của các vấn đề tâm lý - xã
hội.
Những đặc điểm của việc nhận thức các nguyên nhân gây ra khó khăn trong giao
tiếp cơng việc.

6


Nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của các yếu tố khó khăn đến q trình giao

tiếp cơng việc.
Qua cơng trình nghiên cứu này, tác giả đã phát hiện được một số KKTL trong giao
tiếp và nguyên nhân nảy sinh chúng. Tuy nhiên cũng chưa đưa ra được định nghĩa về
KKTL trong giao tiếp và chưa phân loại chúng một cách cụ thể.
- Cùng năm 1987, trong cơng trình nghiên cứu về nhân cách sư phạm của giáo
viên, V.A.Cancalic đã nêu ra một số trở ngại trong giao tiếp của sinh viên sư phạm như:
Không biết cách dàn xếp, tổ chức một cuộc tiếp xúc, không hiểu lập trường của đối
tượng giao tiếp, thụ động trong giao tiếp, có tâm trạng lo lắng, sợ hãi, lúng túng khi điều
khiển trạng thái tâm lý của bản thân trong giao tiếp, không biết cách xây dựng mối quan
hệ qua lại và đổi mới quan hệ đó theo nhiệm vụ sư phạm, bắt chước máy móc cách ứng
xử của giáo viên khác…
1.1.2. Ở Việt Nam
Khi nghiên cứu KKTL các tác giả trong nước thường đi theo hướng cơ bản là khó
khăn tâm lý trong giao tiếp.
- Trong cuốn “Vấn đề giao tiếp” của Nguyễn Văn Lê, dưới góc độ thơng tin, tác
giả đã bàn đến KKTL trong giao tiếp như:
+ Sự chênh lệch giữa người phát và người thu.
+ Khả năng xây dựng và trình bày thơng điệp (diễn đạt) của người phát thông tin.
- Tác giả Huyền Phan với bài viết: “Những trở ngại tâm lý trong giao tiếp” đã cho
thấy, nhiều khi giao tiếp khơng đạt mục đích vì bị các trở ngại tâm lý ngăn cản. Muốn
giao tiếp muốn đạt mục đích cần phải vượt qua các trở ngại tâm lý, đó là:
+ Bức tường thành kiến do có ác cảm với một người nào đó, do cái nhìn thiên lệch
đã tạo ra ấn tượng không tốt đẹp khi giao tiếp.
+ Bức tường ác cảm nẩy sinh, khi có định kiến với đối tượng do có thơng tin sai
lệch về đối tượng.
+ Bức tường sợ hãi xuất hiện do những suy nghĩ băn khoăn dẫn đến tiếp xúc gượng
ép, thiếu tự nhiên.

7



+ Bức tường thiếu hiểu biết nẩy sinh do khi tiếp xúc không hiểu nhau hoặc không
hiểu đúng về nhau.
Trong bài viết này tác giả mới đề cập tới bốn trở ngại tâm lý, mà chưa đề cập tới lý
luận về trở ngại tâm lý.
- Năm 1995, để phục vụ cho cơng trình nghiên cứu của mình, tác giả Mạnh Tồn
đã trích ra ý kiến của bác sỹ người Mỹ Rabbi Kahler về năm nguyên nhân cản trở những
cuộc tiếp xúc giữa người với người đó là: Kiêu ngạo, hay lo, mặc cảm, nhút nhát, ln
cảm thấy có lỗi.
Ở đây tác giả chỉ nêu và giải thích qua năm nguyên nhân mà chưa bàn tới lý luận
cũng như khơng có nghiên cứu thực nghiệm về KKTL trong giao tiếp.
- Đến năm 1997, trong luận án bảo vệ PTS, tác giả Nguyễn Thị Thanh Bình đã đi
sâu nghiên cứu về trở ngại tâm lý (Khái niệm, bản chất, biểu hiện, nguyên nhân, phân loại
và ảnh hưởng). Tác giả đã tiến hành khảo sát những KKTL trong giao tiếp của sinh viên
sư phạm với học sinh khi thực tập tốt nghiệp, đồng thời thử nghiệm biện pháp tác động
nhằm hạn chế những khó khăn này.
1.2. Lí luận chung về khó khăn tâm lý trong giao tiếp.
1.2.1. Cơ sở lí luận chung về giao tiếp
1.2.1.1. Khái niệm giao tiếp
Nhìn chung khi định nghĩa về giao tiếp các tác giả xuất phát từ hai hướng tiếp cận
sau:
Hướng tiếp cận thứ nhất: xuất phát từ các chuyên ngành tâm lý học ứng dụng
Từ các ngành tâm lý học ứng dụng, các liên ngành tâm lý học du lịch, tâm lý học
kinh doanh, tâm lý học trị liệu, tâm lý học tuyên truyền, tâm lý học y học...
- Nhấn mạnh đến vấn đề thông tin, thông báo trong giao tiếp.
- Tính đến hiệu quả mang tính đặc thù trong lĩnh vực riêng biệt đó.
Hướng tiếp cận thứ hai: xem xét giao tiếp theo 3 xu hướng cơ bản
* Hướng thứ nhất: “Thu hẹp hoặc mở rộng nội hàm khái niệm giao tiếp”.
+ Xu hướng thu hẹp khái niệm giao tiếp: chỉ nhấn mạnh một khía cạnh nhất định nào
đó trong giao tiếp.


8


- Nhấn mạnh đến khía cạnh cảm xúc của sự giao tiếp như tác giả L.Stecxon (Pháp)
coi giao tiếp là sự trao đổi ý nghĩ, tình cảm và cảm xúc giữa con người với nhau.
- Nhấn mạnh khía cạnh hành động, hành vi của giao tiếp T.Chuccon (Mỹ) và ba nhà
tâm lý học Pháp P.Oaathaanit; D.Giăcson; G.Bivanh coi giao tiếp là một tổ hợp hành vi,
q trình này tích hợp nhiều loại hành vi gồm: ngôn ngữ, hành vi điệu bộ, hành vi cử chỉ.
Xu hướng thu hẹp này đã xác định được chính xác từng mặt trong nội hàm khái niệm
giao tiếp, nhưng chưa đủ vì giao tiếp với tư cách là một hiện tượng tâm lý con người phải
bao gồm cả ba mặt: Nhận thức (thông tin), xúc cảm và hành động. Mặt khác xu hướng
này chỉ dừng lại ở việc mơ tả bề ngồi của q trình giao tiếp, chưa nêu rõ bản chất bên
trong của quá trình này.
- Xu hướng mở rộng nội hàm khái niệm giao tiếp đến mức đồng nhất giao tiếp với
giao lưu chung cho cả ở người và động vật.
Như B.V.Xocolop cho rằng: Giao tiếp là sự tác động lẫn nhau và giữa những động
vật tâm lý với nhau. Nếu thu hẹp hơn thì có thể hiểu “giao tiếp là mối quan hệ giữa con
người với những động vật ni trong nhà”.
Ngồi ra một số nhà khoa học khác đã dùng thuật ngữ: “Giao tiếp thính giác chim”,
“giao tiếp ở khỉ” để mơ tả khía cạnh thơng báo gữa các động vật.
Như vậy có thể thấy, xu hướng mở rộng khái niệm giao tiếp đã làm mất đi bản chất
xã hội của giao tiếp; không thấy được sự khác biệt về bản chất giữa giao tiếp người và
thông báo ở động vật. Về nội dung giao tiếp ở người mang tính chất truyền đạt một khối
lượng thông tin lớn phức tạp gồm cả tính chất cụ thể và tính chất trừu tượng, cịn động vật
chỉ mang tính chất cụ thể (thơng báo về tình huống cụ thể bên ngồi hoặc trạng thái của
con vật).
* Hướng thứ hai: nhìn nhận bản chất giao tiếp trong việc xác định vị trí của nó trong
hệ thống các khái niệm phạm trù tâm lí học.
A.A.Leeonchiep nghiên cứu trên cơ sở hệ thống hoạt động, theo ông: giao tiếp là

một dạng đặc biệt của phạm trù hoạt động, nhưng khơng phải lúc nào nó cũng là hoạt
động hoàn chỉnh ở bậc cao và độc lập. Giao tiếp có thể tham gia vào một hoạt động khơng

9


giao tiếp khác, với chức năng như hoạt động lý thuyết tham gia vào hoạt động thực hành.
Và trong trường hợp này giao tiếp cũng khơng khác gì so với dạng khác của hoạt động.
Chủ thể hoạt động của hoạt động giao tiếp là một nhóm người đồng nhất hay một
nhóm người giao tiếp. Cịn đối tượng của giao tiếp là sự tác động lẫn nhau đó chính là
động cơ của giao tiếp. Giao tiếp được quyết định bởi mối quan hệ lẫn nhau, cũng như hoạt
động được quyết định bởi động cơ của mình, giao tiếp là một hệ thống những q trình có
mục đích và động cơ đảm bảo sự tương tác giữa người này với người khác trong hoạt
động tập thể, thực hiện các quan hệ xã hội và nhân cách, các quan hệ tâm lý và sử dụng
các phương tiện đặc thù, mà trước hết là ngôn ngữ.
Từ tất cả những vấn đề đã nêu trên, A.A.Leonchiep cho rằng, không nên đưa “giao
tiếp” thành một phạm trù trong tâm lý học.
Khác với A.A.Leonchiep, B.Ph.Lomop cho rằng giao tiếp không phải là một dạng
đặc biệt của hoạt động mà là một phạm trù độc lập vì:
+ Sự khác nhau cơ bản để phân chia hoạt động và giao tiếp là trong hoạt động thể
hiện mối quan hệ chủ thể - khách thể, còn trong giao tiếp thể hiện mối quan hệ chủ thể chủ thể, “hoạt động” - đây là sự tác động cá thể lên đối tượng: cịn “giao tiếp” là một q
trình.
+ Mặt khác nếu coi giao tiếp là một dạng của hoạt động thì gặp những khó khăn sau:
- Thứ nhất khơng tìm thấy được vị trí của giao tiếp trong hệ thống các dạng hoạt
động như đã được phân loại trước đây.
- Thứ hai khó xác định động cơ giao tiếp vì mỗi thành viên của giao tiếp có động cơ
riêng của mình. Trong q trình giao tiếp chúng có thể xích lại gần nhau, vì vậy khơng thể
dùng phương pháp nghiên cứu của hoạt động để áp dụng vào nghiên cứu giao tiếp.
Các nhà tâm lý học đã khẳng định: “Hoạt động là quy luật chung nhất của tâm lý
học”.

Giao tiếp là hoạt động phản ánh mối quan hệ giao tiếp giữa chủ thể - chủ thể. Cịn
hoạt động có đối tượng phản ánh mối quan hệ chủ thể - khách thể. Hai khái niệm ngang
bằng nhau và có mối quan hệ gắn bó khăng khít với nhau trong phạm trù hoạt động, và
hai mặt thống nhất của con người, của sự phát triển tâm lý.

10


* Hướng thứ ba: để hiểu rõ được bản chất giao tiếp trong tâm lý học giao tiếp, các
nhà tâm lý học còn phân biệt khái niệm giao tiếp với các khái niệm liên quan như “thông
tin”, “quan hệ xã hội”, “ứng xử” như các tác giả E.Đ.Giarcopva, A.K.Uledova,
B.D.Parughin, V.N.Xocopnin.
- Giao tiếp và thông tin: hai khái niệm này khác nhau ở 3 điểm sau:
Một là: Khái niệm “giao tiếp” rộng hơn “thông tin” giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý có
biểu hiện ở thơng tin hay thơng báo.
Hai là: Căn cứ vào tính chất của mối liên hệ cơ bản tham gia vào hệ thống tác động
qua lại. Thông tin là mối liên hệ cơ bản tham gia vào hệ thống tác động qua lại. Thông tin
mối liên hệ thông báo của chủ thể đối với các đối tượng khác nhau: con người, động vật,
máy móc.
Cịn giao tiếp chỉ quan hệ chủ thể - chủ thể trong đó có sự tác động qua lại lẫn nhau
và điều khiển nhau.
Ba là: “thơng tin” chỉ các số lượng q trình thông báo, sự chuyển giao thông báo
này hay thông báo khác, cịn “giao tiếp” có nội dung, tính chất thực tiễn, vật chất và cả
tinh thần, thông báo.
Theo B.D.Parughin giao tiếp là “Q trình phức tạp và nhiều mặt, nó đồng thời cũng
có thể bộc lộ vừa như là một quá trình tác động của các cá nhân, vừa như là một q trình
thơng tin, như là những mối quan hệ của con người với nhau, như là quá trình ảnh hưởng
qua lại của người này đến người kia của họ”
Như vậy là trong giao tiếp có chứa đựng một nội dung thơng tin cịn thơng tin là một
mặt của giao tiếp, một nội dung.

- Giao tiếp và quan hệ xã hội: đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau
Quan hệ xã hội là quan hệ khách quan, phi nhân cách, bản chất của nó khơng phải
quan hệ giữa các cá nhân cụ thể. Nó khơng phải quan hệ gữa người với người một cách
thuần tuý mà đại diện cho các nhóm người quan hệ với nhau.
Cịn giao tiếp là sự tiếp xúc giữa các nhân cách cụ thể là sự hiện thực hoá quan hệ xã
hội. Giao tiếp là biểu hiện của các mối quan hệ xã hội, quan hệ xã hội chỉ được biểu hiện
qua các quá trình giao tiếp và hai khái niệm này có quan hệ chặt chẽ với nhau.

11


- Giao tiếp và ứng xử là hai thuật ngữ khác nhau “ứng xử” là phản ứng của cơ thể
đối với các tác động bên ngoài thể hiện thái độ hành động theo một cách nào đó đối với
người khác trong hoàn cảnh cụ thể nhất định.
Như vậy, giao tiếp và ứng xử có những điểm chung được thực hiện bởi các cá nhân
khác nhau, thực hiện trong các mối quan hệ xã hội, chịu sự chế ước bởi các chuẩn mực xã
hội. Bên cạnh đó chúng cịn có những điểm khác biệt riêng:
Một là: khái niệm giao tiếp rộng hơn khái niệm ứng xử, giao tiếp là một quá trình,
ứng xử mang tính chất tình huống nằm trong q trình giao tiếp.
Hai là: trong giao tiếp người ta chú ý đến nội dung và mục đích của cơng việc.
Thước đo của giao tiếp là hiệu quả cơng việc. Cịn ứng xử chủ yếu chú ý đến nội dung
tâm lý biểu hiện trong thái độ, hành vi, cử chỉ. Thước đo của ứng xử là thái độ của cá
nhân và những “thuật” biểu hiện qua thái độ, hành vi giao tiếp.
Ba là: trong giao tiếp chú ý đến cái “ý thức” cịn trong ứng xử vừa có cái “ý thức”
vừa có cái “vơ thức”.
Tóm lại qua việc phân tích ở trên cho thấy rằng, khái niệm giao tiếp đến nay chưa có
sự thống nhất rõ ràng, dựa trên những quan điểm của các tác giả, chúng tôi rút ra khái
niệm về giao tiếp làm cơng cụ cho đề tài mình nghiên cứu như sau.
Giao tiếp là quá trình tiếp xúc tâm lý giữa hai hay nhiều người với nhau, chứa đựng
một nội dung xã hội - lịch sử nhất định có chức năng tác động, hỗ trợ lẫn nhau: thơng

báo, điều khiển, nhận thức, hành động và tình cảm…nhằm thực hiện mục đích nhất định
của một hoạt động nhất định.

12


1.2.1.2. ặc trƣng của hoạt động giao tiếp
- Giao tiếp là quá trình mà con người ý thức được mục đích, nội dung, và phương
tiện cần thiết để đạt được hiệu quả khi tiếp xúc với người khác. Trong quá trình giao tiếp
mỗi cá nhân vừa là chủ thể, vừa là khách thể của sự tác động (quan hệ chủ thể - chủ thể)
- Giao tiếp là sự trao đổi thơng tin, tư tưởng, tình cảm, vốn sống, vốn hiểu biết, thế
giới quan, nhân sinh quan, nhu cầu... của những người tham gia vào quá trình giao tiếp.
Nhờ vậy quá trình xã hội hóa cá nhân mới được thực hiện, nhân cách của mỗi người được
hình thành và phát triển theo yêu cầu xã hội đặt ra.
- Giao tiếp là q trình cụ thể hóa các quan hệ xã hội. Nếu quan hệ xã hội là quan
hệ trên nhân cách thì giao tiếp là quan hệ trực tiếp, trực diện giữa nhân cách người này
với nhân cách người khác. Sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người là cụ thể hóa các quan
hệ xã hội, tức chuyển quan hệ gián tiếp thành quan hệ trực tiếp thông qua phương tiện đặc
thù là ngơn ngữ. Vì dấu hiệu này giao tiếp được coi là hành vi đặc thù của con người, chỉ
có con người mới có giao tiếp thực sự khi sử dụng ngôn ngữ.
- Giao tiếp xảy ra trong điều kiện tồn tại xã hội nhất định, trong không gian, thời
gian cụ thể, chịu sự chi phối của những quan hệ xã hội, phong tục tập quán, thể chế pháp
luật, dư luận xã hội... Do vậy giao tiếp mang tính kế thừa, lựa chọn những gì q khứ đã
trải qua, tạo thành một thành phần của nền văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng, của
mỗi quốc gia trong giai đoạn lịch sử nhất định.
1.2.1.3. Cấu trúc quá trình giao tiếp
a. Chủ thể giao tiếp
Là con người cụ thể tham gia vào quá trình giao tiếp: một người hay nhiều người?
đó là ai? với những đặc điểm sinh lý, tâm lý và xã hội ra sao? Tri thức và trình độ hiểu
biết…như thế nào? Tất cả các đặc điểm của chủ thể giao tiếp đều ảnh hưởng đến hiệu quả

giao tiếp.
Giao tiếp người - người thì cả hai đều là chủ thể giao tiếp và đều là đối tượng giao
tiếp, vai trò này được chuyển đổi linh hoạt thường xun trong q trình giao tiếp. Họ
khơng chỉ là người nói và người nghe vì mọi giác quan đều tham gia vào quá trình này, từ
dáng điệu, cử chỉ, ánh mắt, vẻ mặt, thậm chí cả mùi nước hoa…

13


b. Nội dung giao tiếp
Nội dung giao tiếp là những vấn đề mà chủ thể đề cập đến khi giao tiếp với người
khác.
Nội dung thơng tin có thể đem lại điều tốt lành hoặc gây thất thiệt hoặc chỉ đơn
giản là một điều thông báo…
Trong nội dung giao tiếp người ta thường chia ra hai loại: nội dung tâm lý và nội
dung công việc.
+ Nội dung tâm lý trong giao tiếp
Nội dung tâm lý trong giao tiếp bao gồm các thành phần cơ bản là nhận thức, thái
độ xúc cảm và hành vi.
- Ở bất kỳ một cuộc giao tiếp nào giữa con người với con người đều để lại trong
chủ thể và đối tượng giao tiếp một phẩm chất nhất định về nhận thức. Thông qua giao tiếp
để người ta trao đổi vốn kinh nghiệm, tranh luận về quan điểm, thái độ. Sau mỗi lần giao
tiếp mọi thành viên đều nhận thức thêm được những điều mới mẻ. Thông qua giao tiếp để
người ta truyền đạt và lĩnh hội những tri thức về tự nhiên, xã hội. Cũng chính thông qua
giao tiếp để người ta hiểu biết lẫn nhau.
Như vậy, nội dung nhận thức có thể xảy ra trong suốt cả quá trình giao tiếp hoặc
chỉ xảy ra mạnh mẽ tại thời điểm gặp gỡ. Dù ở thời điểm nào thì kết thúc quá trình giao
tiếp cũng đưa lại cho con người một nhận thức, một hiểu biết mới.
- Thành phần thái độ cảm xúc: Từ thời điểm bắt đầu, qua diễn biến rồi đến kết thúc
của một quá trình giao tiếp đều biểu hiện một trạng thái xúc cảm nhất định của chủ thể và

đối tượng giao tiếp. Trong giao tiếp, ngồi sự định hướng về hình thể, nội dung giao tiếp,
con người bao giờ cũng thể hiện thái độ của mình trước khi bắt đầu tiếp xúc: Thiện chí,
hữu nghị hay lãnh đạm, thiếu quan tâm…Những thái độ cảm xúc này mang tính định
hướng cho q trình giao tiếp, chúng thay đổi cùng với nội dung và hồn cảnh giao tiếp,
có thể từ thiện chí đến khơng thiện chí, từ thờ ơ đến quan tâm…
- Hành vi, một nội dung tâm lý quan trọng trong quá trình giao tiếp. Nó được biểu
hiện qua hệ thống những vận động của đầu, chân tay, nét mặt, ánh mắt, miệng, ngơn
ngữ…sự vận động của tồn bộ những bộ phận trên hợp thành hành vi giao tiếp. Tất cả

14


những hành vi đó đều chứa đựng một nội dung tâm lý nhất định trong một hoàn cảnh cụ
thể.
+ Nội dung công việc.
Bất kỳ một tiếp xúc nào giữa chủ thể và đối tượng giao tiếp đều tìm thấy một nội
dung nhất định. Ngay trong nội dung công việc cũng phải có nội dung tâm lý biểu hiện.
Giao tiếp trong cơng việc bao giờ cũng mang tính chất hồn cảnh, tình huống, xảy ra
trong thời gian ngắn, nhưng chính thái độ và hành vi ứng xử của chủ thể và đối tượng
giao tiếp ở những tình huống này chứa đựng một bản chất thực vốn có của mọi người.
Như vậy, nội dung giao tiếp có thể ln được thể hiện ở bất kỳ một q trình giao
tiếp nào, đó là một trong những đặc trưng của giao tiếp.
Nội dung giao tiếp chịu ảnh hưởng của lứa tuổi, nghề nghiệp, giới tính…của các
chủ thể giao tiếp. Ngồi ra nó cịn chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, điều kiện giao tiếp cũng
như trạng thái tâm lý của chủ thể.
c. Phƣơng tiện giao tiếp
Được thể hiện thơng qua các hệ thống tín hiệu giao tiếp ngơn ngữ (gồm tiếng nói
và chữ viết) và giao tiếp phi ngơn ngữ (nét mặt, giọng nói, cử chỉ, tư thế…)
d. Hoàn cảnh giao tiếp
Là bối cảnh trong đó diễn ra q trình giao tiếp, bao gồm cả khía cạnh vật chất và

khía cạnh xã hội.
Khía cạnh vật chất ví dụ như địa điểm, kích thước khơng gian gặp gỡ, khí hậu, ánh
sáng, tiếng ồn, màu sắc đồ vật xung quanh…Đây là những khía cạnh nằm bên ngồi các
đối tượng đang giao tiếp.
Khía cạnh xã hội ví dụ như mục đích giao tiếp, quan hệ giao tiếp.
+ Mục đích giao tiếp
Nhằm thoả mãn nhu cầu nào - nhu cầu trao đổi thơng tin, nhu cầu chia sẻ tình cảm,
nhu cầu tiếp xúc giải trí, nhu cầu được khẳng định trước người khác…
+ Quan hệ giao tiếp
Thể hiện mối tương quan giữa các chủ thể giao tiếp. Chẳng hạn như mức độ thân
sơ, vai vế, uy tín, địa vị xã hội, tuổi tác… giữa họ.

15


e. Kênh giao tiếp
Là đường liên lạc giữa chủ thể và đối tượng giao tiếp. Vì vậy phải tổ chức kênh
sao cho quá trình giao tiếp đạt được hiệu quả nhất. Thí dụ: Kênh giao tiếp là thị giác thì
cần phải cấu trúc bài viết ra sao và làm thế nào để đối tượng giao tiếp nhìn thấy rõ các
chữ viết…
1.2.1.4. Vai trò của hoạt động giao tiếp đối với sự phát triển và hoàn thiện
nhân cách
* Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội.
- Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người. Nếu khơng có giao tiếp với người
khác thì con người khơng thể phát triển, cảm thấy cơ đơn và có khi trở thành bệnh hoạn.
- Nếu khơng có giao tiếp thì khơng có sự tồn tại xã hội, vì xã hội ln là một cộng
đồng người có sự ràng buộc, liên kết với nhau.
- Qua giao tiếp chúng ta có thể xác định được các mức độ nhu cầu, tư tưởng, tình
cảm, vốn sống, kinh nghiệm…của đối tượng giao tiếp, nhờ đó mà chủ thể giao tiếp đáp
ứng kịp thời, phù hợp với mục đích và nhiệm vụ giao tiếp.

- Từ đó tạo thành các hình thức giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân
với nhóm, giữa nhóm với nhóm hoặc giữa nhóm với cộng đồng.
* Giao tiếp là nhu cầu sớm nhất của con người từ khi tồn tại đến khi mất đi.
- Từ khi con người mới sinh ra đã có nhu cầu giao tiếp, nhằm thõa mãn những nhu
cầu của bản thân.
- Ở đâu có sự tồn tại của con người thì ở đó có sự giao tiếp giữa con người với con
người, giao tiếp là cơ chế bên trong của sự tồn tại và phát triển con người.
- Để tham gia vào các quan hệ xã hội, giao tiếp với người khác thì con người phải
có một cái tên, và phải có phương tiện để giao tiếp.
- Lớn lên con người phải có nghề nghiệp, mà nghề nghiệp do xã hội sinh ra và quy
định. Việc đào tạo, chuẩn bị tri thức cho nghề nghiệp phải tuân theo một quy định cụ thể,
khoa học… khơng học tập tiếp xúc với mọi người thì sẽ khơng có nghề nghiệp theo đúng
nghĩa của nó, hơn nữa muốn hành nghề phải có nghệ thuật giao tiếp với mọi người thì
mới thành đạt trong cuộc sống.

16


- Trong q trình lao động con người khơng thể tránh được các mối quan hệ với
nhau. Đó là một phương tiện quan trọng để giao tiếp và một đặc trưng quan trọng của con
người là tiếng nói và ngơn ngữ.
- Giao tiếp giúp con người truyền đạt kinh nghiệm, thuyết phục, kích thích đối
tượng giao tiếp hoạt động, giải quyết các vấn đề trong học tập, sản xuất kinh doanh, thỏa
mãn những nhu cầu hứng thú, cảm xúc tạo ra.
- Qua giao tiếp giúp con người hiểu biết lẫn nhau, liên hệ với nhau và làm việc cùng
nhau.
* Thông qua giao tiếp con người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội
nền văn hóa xã hội, đạo đức, chuẩn mực xã hội.
- Trong quá trình giao tiếp thì cá nhân điều chỉnh, điều khiển hành vi của mình cho
phù hợp với các chuẩn mực xã hội, quan hệ xã hội, phát huy những mặt tích cực và hạn

chế những mặt tiêu cực.
- Cùng với hoạt động giao tiếp con người tiếp thu nền văn hóa, xã hội, lịch sử biến
những kinh nghiệm đó thành vốn sống. Kinh nghiệm của bản thân hình thành và phát
triển trong đời sống tâm lý, đồng thời góp phần vào sự phát triển của xã hội.
- Nhiều nhà tâm lý học đã khẳng định, nếu khơng có sự giao tiếp giữa con người thì
một đứa trẻ khơng thể phát triển tâm lý, nhân cách và ý thức tốt được.
- Nếu con người trong xã hội mà không giao tiếp với nhau thì sẽ khơng có một xã hội
tiến bộ, con người tiến bộ.
- Nếu cá nhân không giao tiếp với xã hội thì cá nhân đó sẽ khơng biết phải làm những
gì để cho phù hợp với chuẩn mực xã hội, cá nhân đó sẽ rơi vào tình trạng cơ đơn, cô lập
về tinh thần và đời sống sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
- Trong khi giao tiếp với mọi người thì họ truyền đạt cho nhau những tư tưởng , tình
cảm, thấu hiểu và có điều kiện tiếp thu được những tinh hoa văn hóa nhân loại, biết cách
ứng xử như thế nào là phù hợp với chuẩn mực xã hội.
* Thơng qua giao tiếp con người hình thành năng lực tự ý thức.
- Trong quá trình giao tiếp, con người nhận thức đánh giá bản thân mình trên cơ sở
nhận thức đánh giá người khác. Theo cách này họ có xu hướng tìm kiếm ở người khác để

17


xem ý kiến của mình có đúng khơng, thừa nhận khơng. Trên cơ sở đó họ có sự tự điều
chỉnh, điều khiển hành vi của mình theo hướng tăng cường hoặc giảm bớt sự thích ứng
lẫn nhau.
- Tự ý thức là điều kiện trở thành chủ thể hành động độc lập, chủ thể xã hội.
- Thơng qua giao tiếp thì cá nhân tự điều chỉnh, điều khiển hành vi theo mục đích tự
giác.
- Thơng qua giao tiếp thì cá nhân có khả năng tự giáo dục và tự hồn thiện mình.
- Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội tâm, tâm hồn, những
diễn biến tâm lý, giá trị tinh thần của bản thân, vị thế và các quan hệ xã hội.

- Khi một cá nhân đã tự ý thức được thì khi ra xã hội họ thường nhìn nhận và so sánh
mình với người khác xem họ hơn người khác ở điểm nào và yếu hơn ở điểm nào, để nổ
lực và phấn đấu, phát huy nhũng mặt tích cực và hạn chế những mặt yếu kém.
- Nếu khơng giao tiếp cá nhân đó sẽ khơng biết những gì mình làm có được xã hội
chấp nhận khơng, có đúng với những gì mà xã hội đang cần duy trì và phát huy hay
khơng.
- Nếu con người khi sinh ra mà bị bỏ rơi, mà được động vật ni thì những cử chỉ và
hành động của bản thân con người đó sẽ giống như cử chỉ và hành động của con vật mà
đã nuôi bản thân con người đó.

18


1.2.2. Cơ sở lý luận chung về khó khăn tâm lý
1.2.2.1. Khái niệm khó khăn tâm lý
Theo từ điển tiếng Việt căn bản thì: khó khăn có nghĩa là sự trở ngại hoặc sự thiếu
thốn [số 36; tr357].
Theo từ điển tiếng Việt tiếng “láy” thì khó khăn nghĩa là có nhiều trở ngại làm mất
nhiều công sức. [số11; tr201]
Trong từ điển Anh - Việt thì từ “Hardship” hoặc từ “difficulty” đều được dùng
chỉ sự khó khăn, sự gay go, sự khắc nghiệt đòi hỏi nhiều nỗ lực để khắc phục. [số37;
tr485]
Như vậy, qua các từ điển nói trên khi bàn về khó khăn, cho phép chúng tơi đưa ra
khái niệm “khó khăn là những sự gay go, sự khắc nghiệt, sự thiếu thốn... gây ra những trở
ngại đòi hỏi nhiều nỗ lực để vượt qua”.
“KKTL là toàn bộ những nét tâm lý của cá nhân, nẩy sinh ở chủ thể trong q
trình hoạt động khơng phù hợp (gây cản trở) với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt
động nhất định, làm ảnh hưởng xấu tới tiến trình và kết quả của hoạt động đó”.
1.2.2.2. Khái niệm khó khăn tâm lý trong giao tiếp
Khi nói đến KKTL trong giao tiếp thì người ta thường cho rằng đó là yếu tố gây

cản trở, ngăn cản, kìm hãm hoạt động giao tiếp đạt hiệu quả. Những KKTL này chính là
những “Hàng rào tâm lý”.
Theo từ điển tâm lý học do tác giả Vũ Dũng (chủ biên) cho rằng: “Hàng rào tâm lý
là trạng thái tâm lý thể hiện ở tính thụ động quá mức của chủ thể gây cản trở trong việc
thực hiện hành động.

chế tình cảm của hành rào tâm lý là sự gia tăng những mặc cảm

và tâm thế tiêu cực, h th n, cảm giác tội lỗi, sợ hãi, lo lắng, tự đánh giá thấp mình.
Trong hành vi xã hội của con người, hàng rào tâm lý xuất hiện như những ngăn cách
trong giao tiếp” [số10, tr89]
Trong từ điển tâm lý học của tác giả Nguyễn Khắc Viện (chủ biên) thì khó khăn,
trở ngại tâm lý trong giao tiếp là: “Giữa bên phát tín hiệu và bên nhận có khi không thể
trao đ i, và thường là d hiểu lầm nhau, do khác nhau về tu i tác, về nghề nghiệp, lối
sống, trình độ kinh tế văn hóa…” [số44, tr56 ].

19


Tập hợp các nghiên cứu về khó khăn, trở ngại tâm lý trong giao tiếp, có thể khái
quát lại có ba nhóm ý kiến sau:
- Thứ nhất: KKTL trong giao tiếp là tổ hợp các thuộc tính, các trạng thái, các đặc
điểm của chủ thể không phù hợp với đối tượng, làm cho q trình giao tiếp gặp phải khó
khăn dẫn đến chủ thể không phát huy được khả năng của mình, cuối cùng hiệu quả giao
tiếp bị hạn chế.
- Thứ hai: KKTL là sự thiếu thích ứng, thiếu linh hoạt của chủ thể khi thực hiện
mục đích trong quá trình giao tiếp, làm cho chủ thể khơng kịp thời huy động những đặc
điểm cá nhân, sử dụng các phương tiện giao tiếp phù hợp với nội dung, đối tượng và hoàn
cảnh giao tiếp.
- Thứ ba: KKTL trong giao tiếp là trạng thái tâm lý thể hiện tính thụ động, lúng

túng của chủ thể khi gặp những tình huống mới, tình huống khó hoặc trong những điều
kiện hồn cảnh thay đổi dẫn đến làm cản trở, kìm hãm quá trình giao tiếp đạt được hiệu
quả.
Như vậy, KKTL trong giao tiếp theo chúng tôi là những đặc điểm tâm lý và
phư ng thức hành động của chủ thể, thể hiện sự khơng phù hợp giữa nhận thức, xúc cảm
– tình cảm, hành vi – ứng xử và phư ng tiện giao tiếp của chủ thể với đối tượng, nội dung
và hoàn cảnh giao tiếp làm cản trở, kìm hãm quá trình giao tiếp.
1.2.2.3. ặc điểm trở ngại khó khăn tâm lý trong giao tiếp
- KKTL trong giao tiếp là một hiện tượng tâm lý phổ biến, bất kể các nhân nào khi
tham gia vào hoạt động giao tiếp cũng đều có thể gặp phải.
- Tính đa dạng của KKTL trong giao tiếp phụ thuộc vào mức độ phù hợp giữa kiểu
nhân cách với đặc điểm của tình huống, điều kiện nảy sinh tình huống.
- KKTL trong tâm lý mang tính chủ thể rõ nét
- Một trong những nguyên nhân cơ bản làm giảm hiệu quả của giao tiếp là do
những KKTL gây nên.
- Cũng như những hiện tượng tâm lý khác, KKTL trong giao tiếp có nguồn gốc từ
hiện thực khách quan.
1.2.2.4. Biểu hiện khó khăn tâm lý trong giao tiếp

20


Trong quá trình giao tiếp của mỗi chủ thể, KKTL là một hiện tượng tâm lý khá phổ
biến, nó làm cho giao tiếp khơng đạt được hiệu quả, có khi nó kìm hãm khơng cho giao
tiếp diễn ra. Những KKTL đó được thể hiện ở các mặt: nhận thức, xúc cảm – tình cảm,
hành vi – ứng xử, ngơn ngữ.
 Mặt nhận thức
Trong thực tế, con người không phải lúc nào cũng nhận thức đúng đắn trước các
vấn đề phức tạp của cuộc sống, đối với quá trình giao tiếp cũng vậy, nhiều lúc không thể
nhận thức đúng đắn về một vấn đề nào đó, dẫn đến có sự KKTL trong quá trình giao tiếp

là do quá trình giao tiếp khơng đạt hiệu quả. Những người có khó khăn giao tiếp về mặt
nhận thức thường được thể hiện ở những điểm sau: nhận thức không đúng về bản thân;
hiểu biết không đầy đủ về đối tượng giao tiếp; đánh giá giao tiếp tình huống khơng chính
xác.
 Mặt xúc cảm – tình cảm
Xúc cảm – tình cảm là thái độ mà con người biểu lộ trong q trình giao tiếp, nó
ảnh hưởng sâu sắc đến hiệu quả giao tiếp. Tuy nhiên, trong thực tế lại có những người gặp
phải những trở ngại do xúc cảm – tình cảm gây ra. Những trở ngại này được biểu hiện
như: Thiếu khả năng kiềm chế cảm xúc, lúc này có thể làm cho chủ thể hoặc là quá phấn
khích dẫn đến giao tiếp đi theo hướng tiêu cực hoặc là qua trầm lắng làm cho giao tiếp
không thể diễn ra được nữa; xúc cảm – tình cảm biểu hiện khơng phù hợp với đối tượng,
tình huống giao tiếp…
 Mặt hành vi – ứng xử
Hành vi – ứng xử ở đây được hiểu là sự phối hợp vận động của toàn bộ các bộ
phận, tư thế, giác quan… của cơ thể hướng vào một đối tượng nhất định. Hành vi sẽ mang
rất nhiều các thông tin và nó cũng thể hiện nhiều chức năng. Do đó, khơng phải lúc nào
cũng có sự phối hợp nhịp nhàng thống nhất, mặt khác hành vi là nơi biểu hiện của nhận
thức, xúc cảm – tình cảm. Nếu nhận thức và xúc cảm - tình cảm khơng đúng thì hành vi
thể hiện trong giao tiếp cũng không phù hợp, từ đó sẽ làm cho giao tiếp gặp phải những
khó khăn nhất định. Sự trở ngại này thường biểu hiện cụ thể ở các mặt sau: lúng túng

21


trong lời nói, cử chỉ, điệu bộ, thiếu nhịp điệu cần thiết làm cho thao tác, điệu bộ không tự
nhiên, thoải mái, hành động thường không ăn khớp với lời nói.
 Mặt ngơn ngữ
Ngơn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu, đặc trưng trong quan hệ người – người.
Nhưng thực tế cho thấy, đôi khi ngôn ngữ lại làm cho chủ thể gặp phải những trở ngại
nhất định, dẫn đến kìm hãm hoặc hạn chế hiệu quả giao tiếp. Trở ngại về mặt ngôn ngữ

được biểu hiện ở các mặt sau: các bên không sử dụng chung một mã ngơn ngữ, cách chọn
từ, đặt câu khơng thích hợp với đối tượng giao tiếp; vốn từ ít ỏi và cách dùng từ khơng
chính xác…
1.2.2.5. Mức độ khó khăn tâm lý trong giao tiếp
Đối tượng của tâm lý học là các hiện tượng tâm lý với tư cách là một hiện tượng tinh
thần. Do vậy, khó có thể cân đo, xác định rạch ròi từng cấp độ, từng mức độ các hiện
tượng tâm lý riêng rẽ tồn tại trong một chủ thể. Mặt khác, trong đời sống hằng ngày, thế
giới tâm lý của con người bao la, rộng lớn, bao gồm nhiều sắc thái và ln có sự đan xen
vào nhau giữa các hiện tượng tâm lý với nhau. Tuy rằng từng cấp độ của giao tiếp khó để
xác định rạch rịi, nhưng để phục vụ cho đề tài mình nghiên cứu được tiến hành thuận lợi,
dễ dàng hơn chúng tôi sẽ xác định có ba mức độ KKTL cơ bản trong đề tài là: mức độ rất
khó khăn, mức độ ít khó khăn, mức độ khơng khó khăn.
Ở mức độ rất khó khăn, thiếu niên sẽ ln gặp phải trở ngại khi giao tiếp nó được
biểu hiện ở mặt nhận thức, xúc cảm – tình cảm, hành vi ứng xử và ngơn ngữ. Sự khó khăn
có thể kìm hãm khơng để q trình giao tiếp diễn ra hoặc có thể ngăn cản, làm q trình
giao tiếp khơng đạt hiệu quả.
Ở mức độ ít khó khăn, KKTL có thể diễn ra nhưng không phải liên tục, thường
xuyên, mà chỉ biểu hiện ở một và mặt hoặc từng khía cạnh khác nhau của một mặt nào đó
trong q trình giao tiếp của thiếu niên. Điều đó làm cho giao tiếp diễn ra khơng như
mong đợi và q trình giao tiếp đạt hiệu quả khơng cao.
Ở mức độ khơng khó khăn, khi tiến hành xác định mức độ này sẽ nhằm vào hai mục
tiêu: thứ nhất là khẳng định chủ thể rất có năng lực trong giao tiếp và không bị mắc phải

22


những khó khăn gì trong giao tiếp dù đối tượng và hồn cảnh thay đổi. Thứ hai nó là
thước đo, là cái đối chiếu để nhận ra các mức độ khác của sự KKTL trong giao tiếp.
Như vậy, việc phân chia các mức độ KKTL trong giao tiếp là rất cần thiết. Với ba
mức độ nêu trên sẽ làm cho q trình nghiên cứu có thể thấy rõ giới hạn biểu hiện của

từng dấu hiệu khác nhau về KKTL trong giao tiếp của thiếu niên.
1.2.2.6. Nguyên nhân gây khó khăn tâm lý
Mỗi một hiện tượng tâm lý xảy ra là do những nguyên nhân nhất định của nó.
KKTL trong giao tiếp cũng vậy, đều có những căn nguyên sâu xa dẫn đến làm cản trở,
kìm hãm quá trình giao tiếp đạt hiệu quả. Từ việc ngiên cứu, tập hợp các ý kiến khác nhau
về nguyên nhân gây KKTL có hai nhóm nguyên nhân gây nên KKTL trong giao tiếp, đó
là:
+ Nguyên nhân khách quan (bên ngoài): sự khác biệt về văn hóa, phong tục, tập
qn, ngơn ngữ của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền; môi trường giao tiếp hạn chế, thiếu
thơng tin; ít có các hoạt động chung để giao lưu, trao đổi, trò chuyện với nhau; sự khác
biệt về lối sống…
+ Nguyên nhân chủ quan (bên trong): đo đặc diểm tính cách cá nhân; do vốn sống,
vốn kinh nghiệm hạn chế; do rụt rè trước những đối tượng và hoàn cảnh khác; mặc cảm,
tự ti.
Đối với trẻ em nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lý cho trẻ phức tạp và do nhiều
nguyên nhân:
- Khi có sự tương phản quá lớn giữa thực trạng và những mong đợi hợp lý của trẻ,
như trẻ rất muốn được giao lưu với rất nhiều người, được nói chuyện, vui chơi học hành
như các bạn cùng trang lứa. Nhưng thực tế khả năng của trẻ đang cịn bị hạn chế trẻ ít
kinh nghiệm, ít kiến thức, ít vốn từ…nên trẻ hạn chế mình lại.
- Các yếu tố tiêu cực khác như: bị bỏ bê do gia đình bố mẹ bận đi làm khơng có
thời gian, hoặc các em mồ cơi khơng có sự quan tâm từ cha mẹ và người thân, bệnh tật,
thất học, bị lạm dụng…bị hành hạ về mặt thể xác và tinh thần từ đó tâm lý của các em bị
hoảng loạn, tự ti không muốn giao lưu với bạn bè và người xung quanh.

23


- Khơng đủ các yếu tố tích cực: u thương, cơ hội…trẻ thiếu sự quan tâm từ gia
đình và người thân, trẻ ít được tạo cơ hội để tiếp xúc với nhiều người…từ đó cũng có thể

gây nên những khó khăn cho trẻ.
Các yếu tố gây khó khăn khác như: Thiếu ăn thiếu mặc, thiếu chổ trú thân, thiếu sự
chăm sóc y tế, thiếu tình thương và quan tâm hỗ trợ, thiếu cơ hội học hành, vui chơi, giải
trí, người có trách nhiệm thiếu kiến thức về nhu cầu của trẻ, người có trách nhiệm thiếu
phương tiện đáp ứng nhu cầu của trẻ, thiếu sự bảo vệ quá nhiều cám dỗ và thử thách, quá
nhiều trách nhiệm trước tuổi.
Ngoài ra các nguyên nhân cũng có thể là do các vấn đề như thiên tai, chiến
tranh…Nguyên nhân từ môi trường xã hội như: nghèo đói, cha mẹ có vấn đề…hoặc do
các ảnh hưởng như: Những vấn đề gắn bó lúc nhỏ, ảnh hưởng của hành vi vơ ích của cha
mẹ, ảnh hưởng việc bị lạm dụng…cũng có thể là những nguyên nhân gây ra những khó
khăn trong tâm lý cho các em
Trẻ ở Làng trẻ em SOS gặp khó khăn trong giao tiếp do nhiều nguyên nhân nhưng
trong đó đa số các em là trẻ mồ côi (mồ côi bẩm sinh, bị bỏ rơi, hoặc do chấn động gia
đình mà trở thành mồ cơi) nên ít có được sự dạy dỗ, thiếu tình thương từ cha mẹ, quan
tâm từ bạn bè, tâm lý mặc cảm tự ti nên thụ động, không muốn rèn luyện để nâng cao khả
năng giao tiếp của mình…
1.2.2.7. Các loại khó khăn tâm lý trong hoạt động giao tiếp
+ Khi căn cứ vào yếu tố thông tin trong giao tiếp, H.Hípsơ và M.Phorveg có thể
phân loại KKTL trong giao tiếp thành sáu dạng: KKTL có tính chất tình huống; KKTL về
ý nghĩa; KKTL có tính chất động cơ; KKTL do biểu tượng về đối tượng giao tiếp không
đầy đủ; KKTL do mối liên hệ ngược và do đặc điểm của hình thức thơng tin; KKTL có
tính chất ứng dụng (thực tế) của thông tin.
+ Căn cứ vào phương tiện giao tiếp có: KKTL trong giao tiếp ngơn ngữ; KKTL
trong giao tiếp phi ngôn ngữ.
+ Căn cứ vào các mặt biểu hiện của KKTL trong giao tiếp có: KKTL trong giao
tiếp thuộc về khía cạnh nhận thức; KKTL trong tâm lý thộc về khía cạnh xúc cảm – tình
cảm; KKTL trong giao tiếp thuộc về khía cạnh hành vi ứng xử.

24



+ Căn cứ vào thành phần dân tộc có những KKTL do bất đồng ngơn ngữ, văn hóa,
phong tục tập quán gọi chung là tính đặc trưng của mỗi dân tộc.
Trong cơng trình nghiên cứu này, chúng tơi sẽ lựa chọn và sử dụng cách phân loại
dựa vào các mặt biểu hiện cụ thể là: KKTL thuộc về khía cạnh hành vi ứng xử. Vì với
cách phân loại này, chúng ta có thể thấy được sự biểu hiện rất rõ nét của các KKTL trong
khi nghiên cứu (trong quan sát, đàm thoại và tác động) thiếu niên tại làng Trẻ em SOS.
1.2.2.8. Tâm trạng của trẻ khi gặp khó khăn tâm lý
Trẻ trong hồn cảnh khó khăn thường biểu lộ các tâm trạng như sau:
- Khi gặp khó khăn trẻ đau khổ, lo lắng hoặc sợ sệt có thể ngồi n một chổ suốt
ngày, khơng ham thích một hoạt động nào, mất hết cả sinh lực.
- Ít tập trung và nhiều bứt rứt: Trẻ buồn, lo lắng thường khó tập trung tư tưởng.
Đôi khi căng thẳng quá, trẻ trở nên hết sức năng động, bứt rứt thể hiện chạy nhảy khắp
nơi, khơng thể ngồi n và có thái độ gàn dỡ, dễ bị kích động.
- Có nhiều trẻ khơng tin tưởng vào người lớn nếu trẻ đã từng bị người lớn đối xử
hung bạo. Tuy nhiên, những trẻ mồ côi lại bám chặt lấy người lớn như sợ sẽ bị bỏ rơi, có
trẻ lại khơng muốn đem lịng thương mến ai.
- Có trẻ thì mang tâm trạng buồn bã, cứ ngồi buồn bã suốt ngày mà không muốn
tâm sự cùng ai…và khó tính, rất dễ nổi cáu.
- Khó diễn tả cảm xúc bằng lời: Có thể do bị chống ngợp bởi chính tâm trạng của
mình và muốn đè nén những tâm trạng đó hoặc trẻ chưa bao giờ được khuyến khích để tự
nói về mình và khơng có đủ lời để diễn tả tâm trạng.
- Hoài nghi, thiếu tin tưởng: Trẻ sống trong hồn cảnh khó khăn về tâm lý thường
có đủ lý do để ngờ vực, ngờ vực chính bản thân mình, ngờ vực tất cả mọi người xung
quanh.
- Có nhiều em giận dữ và có ác cảm vơ cớ với nhiều người: Một số trẻ tức giận
người lớn vì bị bạc đãi hoặc khơng được chăm sóc thích đáng hoặc có thể do các em cứ
đinh ninh sẽ bị phê bình hoặc trừng phạt.
- Có nhiều trẻ mang tâm trạng ln ln bị mặc cảm có tội, tự trách mình: Trẻ hổ
thẹn vì những gì đã xảy đến cho mình như bị cưỡng dâm, bị làm nhục hoặc các em tự


25


×