Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.92 KB, 43 trang )

1
CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Khoản mục nợ phải thu là một khoản mục quan trọng trong vấn đề tài chính
của doanh nghiệp, quản lý không cẩn thận các khoản phải thu sẽ ảnh hưởng
không chi đến tình hình doanh thu lới nhuận trong kỳ của doanh nghiệp mà còn
ảnh hưởng tới tình hình thanh toán và sự lành mạnh trong tài chính.Chính vì vậy
việc theo dõi nghi chép các khoản phải thu có ý nghĩa quan trọng.
Sự ra đời của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và một số quy định của pháp luật
về nợ phải thu ra đời đã tạo một hành lang pháp lý quan trọng giúp cho KTV tiến
hành công việc nghiệp vụ của mình. Trong quá trình thực tập tại công ty Hợp
danh Kiểm toán Việt Nam, em đã tiến hành đi sâu tìm hiểu về các thủ tục kiểm
toán công nợ phải thu. Nhìn chung, CPA Việt Nam đã tiến hành công việc kiểm
toán công nợ phải thu phù hợp với những quy định trong chuẩn mực kiểm toán,
kế toán cũng như các quy định của Bộ tài chính có liên quan. Tuy nhiên, đi sâu
vào quá trình tác nghiệp thì việc kiểm toán khoản mục này vẫn còn một số vấn đề
bất cập cần được nghiên cứu và hoàn thiện.
2. Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài.
Tài chính là vấn đề mang tính chất sống còn của một DN,quyết định đến mọi
vấn đề của DN và quản lý nợ phải thu là một công việc quan trọng tác động trực
tiếp đến tính lành mạnh của tài chính trong DN. Dưới góc độ những KTV thì họ
tiến hành những công việc gì để có thể kiểm tra được tính trung thực của BCTC
nói chung và khoản mục nợ phải thu tại các các DN được kiểm toán? Quá trình
thu thập các bàng chứng kiểm toán được thực hiện bằng những biện pháp nào để
có thể có được đầy đủ thông tin cần thiết trình bày trong BCKT?Qua quá trình
thực tập tại công ty Hợp danh kiểm toán Việt Nam, với sự giúp đỡ của các anh
chị trong công ty em đã chọn cho mình đề tài “Quy trình kiểm toán công nợ phải
thu trong hoạt động kiểm toán BCTC tại công ty Hợp danh kiểm toán Việt Nam”
cho bài luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
Sau khi nghiên cứu vấn đề này, DN sẽ có cái nhìn khách hơn về quy trình kiểm


nói chung và quy trình kiểm toán công nợ phải thu nói riêng bởi lẽ để hoàn thành
2
bài luận văn này em đã thu thập một số tài liệu liên quan đến công ty, đã tiến
hành phỏng vấn với một số anh chi là nhân viên trong công ty. Bài nghiên cứu
này đã tổng hợp một số ý kiến của nhũng người đã và đang làm công việc kiểm
toán công nợ phải thu hoặc đã tùng nghiên cứu về quy trình này. Từ sự tổng hợp
đó, em đã đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện quy trình kiểm toán công nợ phải
thu tại công ty CPA Việt Nam cụ thể: giải pháp về công tác đánh giá hệ thông
kiểm soát nội bộ, giải pháp về quy trình kiểm toán mẫu, thủ tục kiểm tra chi tiết
và về việc đánh giá mức rủi ro và trọng yếu. Đây sẽ là một tài liệu để công ty có
thể tham khảo, từ đó xắp xếp lại hợp lý hơn, khoa học hơn, để công tác kiểm toán
công nợ phải thu trong DN hiệu quả và phù hợp hơn với điều kiện kinh tế hiện
nay.
4.Phạm vi nghiên cứu.
Trong một cuộc kiểm toán, các KTV cần phải thực hiện rất nhiều thủ tục, công
việc khác nhau để có thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán. Ở mỗi phần hành
khác nhau lại có những phương pháp làm việc khác nhau. Do thời gian có hạn
nên bài viết này chỉ giới hạn trong phạm vi, không gian và thời gian nhất định. Cụ
thể:
• Phạm vi nghiên cứu của đề tài:Quy trình kiểm toán nợ phải thu trong hoạt động
kiểm toán BCTC
• Không gian nghiên cứu :Tại công ty Hợp danh kiểm toán Việt Nam.
• Thời gian nghiên cứu:Tài liệu, số liệu của công ty CPA Việt Nam trong năm
2008.
4. Kết cấu luận văn.
Bài luận văn gồm 4 chương:
• Chương 1:Tổng quan nghiên cứu.
• Chương 2: Lý luận cơ bản về kiểm toán công nợ phải thu trong hoạt động kiểm
toán BCTC.
• Chương 3:Phương pháp nghiên cứu và thực trạng kiểm toán công nợ phải thu tại

công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam.
3
• Chương 4:Các kết luận và đề xuất nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán công nợ
phải thu tại công ty Hợp danh kiểm toán Việt Nam.
CHƯƠNG 2:LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KIỂM TOÁN CÔNG NỢ PHẢI THU
TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
4
2.1 Một số khái niêm, định nghĩa và lý thuyết về kiểm toán công phải thu.
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản.
Việc kiểm toán công nợ phải thu liên quan tới một số khái niệm:lấy mẫu kiểm
toán, thông tin xác nhận từ bên ngoài.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 “ Báo cáo kiểm toán về
BCTC” đoạn 06 có viết: Báo cáo kiểm toán là loại báo cáo bằng văn bản do KTV
và công ty kiểm toán lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về báo
cáo htài chính của một đơn vị đã được kiểm toán.
Chuẩn mực kiểm toán số 530 trình bày về việc lấy mẫu kiểm toán và các thủ
tục lựa chon khác có quy định: Lấy mẫu kiểm toán (gọi tắt là lấy mẫu) là áp dụng
các thủ tục kiểm toán trên số phần tử ít hơn 100% tổng số phần tử của một số dư
tài khoản hay một loại nghiệp vụ, sao cho mọi phần tử đều có cơ hội để được
chọn. Lấy mẫu sẽ giúp kiểm toán viên thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán
về các đặc trưng của các phần tử được chọn, nhằm hình thành hay củng cố kết
luận về tổng thể. Lấy mẫu có thể tiến hành theo phương pháp thống kê hoặc phi
thống kê.
Chuẩn mực kiểm toán số 505 “ thông tin xác nhận từ bên ngoài” đoạn số 06 có
quy định: Việc xác nhận thông tin từ bên ngoài là quá trình thu thập và đánh giá
bằng chứng kiểm toán thông qua việc liên hệ trực tiếp với bên thứ ba để nhận
được phúc đáp của họ về các thông tin cụ thể ảnh hưởng đến cơ sở dẫn liệu được
Ban Giám đốc lập và trình bày trong báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán.
2.1.2 Lý thuyết về kiểm toán nợ phải thu.
Các khoản phải thu ở người mua phát sinh từ quá trình bán hàng nên có quan hệ

chặt chẽ với quá trình này tạo nên chu trình bán hàng- thu tiền. Tuy nhiên, do độ
trễ của quá trình thu tiền so với quá trình bán hàng nên số tiền ghi trên khoản mục
này của bảng cân đối tài sản, cũng là số dư của khoản phải thu khách hàng là số
luỹ kế từ các quá trình kinh doanh trước đến cuối kỳ kinh doanh này. Cùng với
thời điểm phát sinh và thời điểm thanh toán khác nhau, các khoản phải thu còn
liên quan đến nhiều người mua có đặc điểm, điều kiện kinh doanh, quản lý và
điều kiện thanh toán khác nhau và có thể dẫn đến các khoản nợ quá hạn, nợ khó
đòi và có thể không đòi được của người mua. Có nhiều cách phân loại nợ phải thu
5
tùy thuộc vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để phân loại nợ phải thu
giúp quản lý khoản mục này tốt hơn, cũng như kế hoạch thu hồi nợ và lập dự
phòng nợ phải thu khó đòi một cách tốt nhất:
• Đối với doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh, thương mại thì nợ
phải thu chia thành các loại chính như sau: nợ phải thu từ hoạt động bán
hàng, nợ phải thu từ hoạt động đầu tư tài chính.
• Đối với các doanh nghiệp thi công xây lắp thì tuổi nợ thường lớn nên nợ
phải thu được phân thành hai loại: nợ phải thu ngắn hạn và nợ phải thu dài
hạn.
• Ngoài ra đối với các tổ chức tín dụng căn cú vào khả năng thanh toán nợ
phải thu được phân thành: nợ đủ tiêu chuẩn, nợ cần chú ý, nợ dưới tiêu
chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn.
Do đó, các khoản phải thu này, việc trình bày, thuyết minh rõ các khoản phải
thu cần được coi là công việc kiểm soát nội bộ. Để kiểm soát được các khoản phải
thu và đảm bảo thu được tiền, các công ty phải theo dõi giám đốc thường xuyên
trên các bảng kê, nhật ký; Cuối kỳ cần lập ra bảng cân đối giữa doanh thu với các
khoản đã thu tiền và các khoản phải thu còn lại, bảng cân đối giữa các khoản nợ
quá hạn với các thời hạn khác nhau…Mục đích của công việc kiểm soát này là
góp phần giải quyết quan hệ thanh toán sòng phẳng và đảm bảo hiệu quả kinh
doanh nói chung. Theo đó, mục tiêu trình bày trong kiểm toán cần được quan tâm
đầy đủ. Cũng từ đó, các trắc nghiệm phân tích cần được sử dụng triệt để cả trong

lập kế hoạch, chương trình kiểm toán lẫn trong thực hành kiểm toán kết hợp trắc
nghiệm trực tiếp các số dư. Kiểm toán khoản mục phải thu khách hàng nhằm
kiểm tra tính:
+ Hiện hữu: Các khoản phải thu được ghi chép và có thực tại thời điểm lập báo
cáo tài chính.
+Quyền và nghĩa vụ: Các khoản phải thu đều thuộc quyền sở hữu của đơn vị.
+Đầy đủ: Tất cả các khoản phải thu có thực và thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp thì đều được ghi chép và báo cáo.
+Chính xác: Các khoản phải thu đều được tính toán tổng hợp số liệu chính xác,
phù hợp giữa sổ chi tiết phải thu khách hàng và sổ cái.
6
+Đánh giá: Các khoản dự phòng phải thu khó đòi được tính toán, đánh giá phù
hợp với chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán hiện hành. Cuối kỳ các khoản ngoại
tệ phải đánh giá theo tỷ giá bình quân liên ngân hàng.
+Trình bày và công bố: Các khoản phải thu được trình bày và khai báo đầy đủ.
Mặt khác, nếu hàng hoá và tiền mặt đã thu là những tài sản tồn tại trong đơn vị
được kiểm toán với hình thái vật chất cụ thể nên có thể kết hợp kiểm kê với các
phương pháp kiểm toán khác thì khoản phải thu khách hàng lại không thể tiến
hành dễ dàng như vậy. Do đó, trong kiểm toán các khoản phải thu, phương pháp
điều tra thông qua chọn mẫu và lấy xác nhận có thể coi là đặc thù riêng trong mục
tiêu và thủ tục kiểm toán các khoản phải thu.
Xác nhận các khoản phải thu là thủ tục quan trọng nhất để đáp ứng mục tiêu
hiệu lực, định giá và kịp thời. Theo thông lệ quốc tế, xác nhận các khoản phải thu
cùng với xem xét hiện vật các tài sản là hai yêu cầu phổ biến. Xác nhận này được
kết hợp với trắc nghiệm công việc để xác minh và phát hiện sai phạm liên quan
đến khoản phải thu không có thật, đến số tiền còn chưa rõ ràng hoặc đã trở thành
nợ khó đòi hoặc không đòi được. Mặc dù xác nhận này không đảm bảo xác nhận
mọi sai phạm nói trên nhưng vẫn tin cậy hơn các trắc nghiệm nghiệp vụ vì nó tạo
ra bằng chứng từ người độc lập ở bên ngoài đơn vị được kiểm toán. Tuy nhiên
việc xác nhận này ít có khả năng phát hiện hết các khoản bỏ sót do nó dựa vào

bảng kê các khoản phải thu trong đó thường không có nghiệp vụ bỏ sót và có thể
khoản bỏ sót này có thể bản thân người mua cũng không liên quan hoặc không
xác minh được. Do đó, việc kết hợp gữa trắc nghiệm nghiệp vụ một cách hệ thống
với xác nhận là đòi hỏi tất yếu.
Khi áp dụng thủ tục xác nhận cho các khoản phải thu, KTV phải giải quyết về
loại xác nhận, về ngày thực hiện, và về kích cỡ mẫu chọn và về khoản mục phải
chọn.
Về xác nhận : có hai loại xác nhận cho khoản phải thu là xác nhận phủ định và
xác nhận khẳng định. Xác nhận khẳng định đòi hỏi thông báo quả quyết cho công
nợ(người mua) trên mọi giấy yêu cầu xác nhận về khoản nợ tiền hàng của chủ
nợ(người bán): hoăch đúng hoặc sai hoặc có phần lưu ý. Trong trường hợp này,
mọi giấy yêu cầu của KTV đều được trả lời. Xác nhận phủ định chỉ đòi hỏi thông
7
báo của con nợ(người mua) khi không đồng tình với số tiền ghi trên giấy yêu cầu
xác nhận và găm trên báo cáo hàng tháng của người mua.
Về thời gian (định ngày):Giấy xác nhận gửi đến người mua để xác nhận các tài
khoản phải thu ghi trên bảng cân đối tài sản. Do đó ngày gửi giấy xác nhận cần
gần với ngày lập bảng. Tuy nhiên, có thể do yêu cầu phải hoàn thành công việc
kiểm toán trong thời gian gấp nên giấy xác nhận có thể phải gửi trước khi lập
bảng. Trường hợp này có thể chấp nhận nếu hệ thống kiểm soát nội bộ hiện hữu
và không có những rủi ro dẫn đến khả năng thanh toán. Do vậy, nếu quyết định
các khoản phải thu trước ngày cuối năm thì cần trắc nghiệm những nghiệp vụ xảy
ra giữa ngày xác nhận và ngày lập bảng cân đối tài sản.
Về kích cỡ mẫu chọn : có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến xác nhận gửi đi như:
+Tính trọng yếu của các khoản phải thu: nếu số dư các khoản phải thu có quy mô
lớn so với số dư các tài khoản phải thu có quy mô lớn hơn so với số dư các tài
khoản khác thì kích cỡ mẫu chọn lớn hơn.
+Số lượng các khoản phải thu: Tất nhiên, số xác nhận sẽ nhiều với đơn vị chuyên
bán hàng với quy mô lớn, chủng loại hàng hoá nhiều và quan hệ mua bán mở
rộng ở nhiều người mua và ngược lại.

+ Mức độ đồng đều về quy mô các khoản phải thu: Nếu tất cả các khoản phải thu
có quy mô xấp xỉ bàng nhau thì xác nhận cần có sẽ ít hơn khi quy mô các tài
khoản phải thu rải ra hàng loạt số tiền khác nhau.
Về các khoản mục phải chọn để xác nhận: Cần chú ý đến cả quy mô của số dư
và độ dài thời gian của các khoản phải thu. Thông thường, trọng điểm của xác
nhận là những số dư lớn và đã kéo dài nhiều tháng. Tuy nhiên cũng cần phải kết
hợp chọn ngẫu nhiên các khoản còn lại.
2.2 Tổng quan nghiên cứu về nợ phải thu trong hoạt động kiểm toán BCTC.
Đã có nhiều công trình kiểm toán những năm trước nghiên cứu về khoản mục
nợ phải thu, mỗi người lại có những quan điểm khác nhau khi nghiên cứu về vấn
đề này.
8
Anh Trần Hữu Văn, trưởng phòng nghiệp vụ hai CPA Việt Nam, trong khoá
đào tạo nghiệp vụ kiểm toán cho nhân viên của mình đã soạn thảo một bài giảng
về quy trình kiểm toán, trong đó có đoạn viết về bản chất các tài khoản công nợ
phải thu:”Về cơ bản , các tài khoản thuộc nhóm này phản ánh giá trị hàng hoá,
dịch vụ và các khoản thanh toán hộ…mà DN cung cấp cho các đối tượng khác
nhau như khách hàng, nhân viên, đơn vị trong nội bộ… và chưa thu lại được tiền.
Về tính thanh khoản, các tài khoản phải thu thường có thể chuyển hoá thành tiền
trong thời gian ngắn”. Mục đích KTV kiểm tra các khoản phải thu :”Xác định giá
trị các khoản mà DN phải thu từ đối tượng khác. Đánh giá khả năng nhận thanh
toán từ các đối tượng nợ. Xem xét lập dự phòng cho các đối tượng nợ khó đòi và
khả năng thu hồi nợ khó đòi”.
Bạn Vũ Phương Trang, sau quá trình thực tập tại công ty Hợp danh Kiểm
toán Việt Nam cũng đã lựa chọn đề tài kiểm toán công nợ phải thu. Trong bài
luận văn của mình bạn đã tiến hành đánh giá những ưu nhược điểm trong công
tác kiểm toán công nợ phải thu đồng thời đã đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện
quy trình kiểm toán này.Theo bạn thì CPA Việt Nam nên sử dụng bảng câu hỏi
với lưu đồ hoặc với bảng tường thuật khi mô tả hệ thống KSNB. Trong đó, thì sử
dụng bảng tường thuật tức là việc KTV mô tả cơ cấu KSNB của khách hàng

thông qua văn bản. Bảng tường thuật sẽ cung cấp thêm sự phân tích về cơ cấu
kiểm soát giúp KTV hiểu biết đầy đủ hơn về hệ thống KSNB. Còn việc sử dụng
lưu đồ là việc KTV trình bày toàn bộ các quá trình kiểm soát áp dụng cũng như
mô tả các chứng từ, tài liệu kế toán cùng quá trình vận động và luân chuyển
chúng bằng các kí hiệu và bản đồ. Bạn cũng đưa ra giải pháp cho thủ tục chọn
mẫu, dựa trên bảng số ngẫu nhiên.
Bạn Trần Thị Thảo cũng lựa chọn nghiên cứu vê quy trình kiểm toán công
nợ phải thu tại công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán AASC
cho bài chuyên đề tốt nghiệp của mình.Trong bài chuyên đề của mình, bạn đã
trình bày khái quát về công ty AASC,quy trình kiểm toán chung và đi sâu nghiên
cứu quy trình kiểm toán công nợ phải thu mà công ty AASC thực hiện. Từ sự
hiểu biết về công ty AASC,bạn đưa ra những ý kiến nhận xét đánh giá ưu, nhược
điểm trong công tác kiểm toán công nợ phải thu của công ty. Cuối cùng bạn đưa
ra những giải pháp để hoàn thiện quy trình kiểm toán này.
Còn bạn Vũ Như Thành, sau quá trình thực tập tại (luận văn hoặc chuyên
đề)công ty kiểm toán và định giá Việt Nam VAE đã tổng hợp trong chuyên đề tốt
9
nghiệp của mình về khoản mục phải thu khách hàng. Trong bài viết của mình, bạn
có trình bày về các bước phân tích khi kiểm toán khoản mục phải thu trong công
ty VAE. Theo đó KTV tiến hành lập trang số liệu tổng hợp và thu thập các sổ
sách kế toán và BCTC. Sau đó, KTV đối chiếu các bảng tổng hợp và sổ sách kế
toán. Kết quả của việc đối chiếu này sẽ được ghi lại trong giấy tờ làm việc. Sau
khi tiến hành các thủ tục phân tích, KTV tiến hành kiểm tra chi tiết nghiệp vụ
phát sinh và kiểm tra chi tiết số dư khoản mục phải thu khách hàng. KTV tiến
hành các công việc như: rà soát sổ tổng hợp và sổ chi tiết; đánh giá tính hợp lý số
dư khoản mục phải thu khách hàng; tiến hành gửi thư xác nhận đến một số khách
hàng để đảm bảo số dư trên sổ là đúng; kiểm tra chon mẫu một số khoản mục
phát sinh; kiểm tra việc chia cắt niên độ trong hoạch toán khoản phải thu khách
hàng; kiểm tra việc lập dự phòng phải thu khó đòi.
Bàn luận trên diễn đàn kiemtoan.com,bài đăng ngày 5 tháng 6 năm 2008 có

viết: kiểm toán phần hành nợ phải thu thường gắn liền với doanh thu, tuy nhiên
người này cũng lưu ý một số vấn đề:
• Thứ nhất: không thực hiện kiểm toán chi tiết vào từng khách hàng trước khi phân
tích tổng quát về biến động các khoản phải thu tương ứng với biến động của
doanh thu và luồng tiền. Một công ty có doanh số và lãi lớn nhưng nhưng lại có
số dư công nợ và tiền mặt giảm mạnh trong khi các chỉ tiêu khác không thay đổi-
đó là một việc bất thường.
• Thứ hai: Khi tiến hành kiểm tra chi tiết thì phải tìm hiểu các đối ứng bất thường
phát sinh trong quá trình hoạch toán định khoản kế toán, các đối ứng này nhiều
khi chưa đựng những sai sót trọng yếu của DN đó.
• Thứ ba : Chỉ nên chọn mẫu kiểm tra chi tiết, lấy bảng cân đối phát sinh công nợ
theo đối tượng trước để phân tích tổng quát và chọn mẫu theo đối tượng để
test(các đối tượng không phát sinh, có khoản ứng trước quá lớn…).
• Gửi thư xác nhận đối với một số khoản nợ chưa được đối chiếu. Nếu tỷ lệ nhận
được thư trả lời thấp, thủ tục kiểm tra thay thế không đảm bảo độ tin cậy thì nên
trình bày ý kiến trong BCKT.
Cũng trên diễn đàn kiểm toán đăng 20 tháng 4 năm 2008, bạn hoangyenaudit
nói về quy trình kiểm toán khoản mục phải thu khách hàng mà bạn đã thực hiện:
tiến hành thu thập bảng tổng hợp phát sinh theo công nợ, đối chiếu số liệu giữa
10
bảng tổng hợp với sổ chi tiết và BCTC, gửi thư xác nhận . Theo bạn thì việc gửi
thư xác nhận là công việc trọng tâm của kiểm toán khoản mục này để đảm bảo
tinh có thật của khoản mục và tính trọn vẹn của khoản dự phòng.Trước khi tiến
hành gửi thư xác nhận thì kTV cần phải phỏng vấn kế toán đảm nhận về khoản
mục này để láy thông tin về khách hàng.
2.3 Quy trình kiểm toán nợ phải thu trong hoạt động kiểm toán BCTC.
2.3.1 Nội dung kiểm toán nợ phải thu quy định trong VSA và VAS
2.3.1.1 Theo VSA
*Lập kế hoạch kiểm toán.
Chuẩn mực kiểm toán số 300 quy định về việc lập kế hoạch kiểm toán.

Theo đó, kế hoạch kiểm toán gồm 3 bộ phận: Kế hoạch chiến lược, lập kế hoạch
tổng thể, chương trình kiểm toán. Kế hoạch chiến lược phải được lập cho cuộc
kiểm toán lớn về uy mô, tính chất phức tạp, địa bàn rộng hoặc kiểm toán BCTC
của nhiều năm. Khi lập kế hoạch tổng thể, KTV cần phải xem xét và trình bày
những vấn đề chủ yếu :
+Hiểu biết về hoạt động của đơn vị được kiểm toán: Hiểu biết chung về kinh tế và
đặc điểm của lĩnh vực kinh doanh có tác động đến đơn vị được kiểm toán; các đặc
điểm của khách hàng như lĩnh vực kinh doanh, kết quả tài chính và nghĩa vụ cung
cấp thông tin kể cả những thay đổi từ lần kiểm toán trước; năng lực của ban giám
đốc.
+ Hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống KSNB: Các chính sách kế toán mà
đơn vị áp dụng và những thay đổi trong chính sách đó; ảnh hưởng của chính sách
mới về kế toán và kiểm toán; hiểu biết của KTV về hệ thống kế toán và hệ thống
KSNB và những điểm quan trọng mà KTV dự kiến thực hiện trong thử nghiệm
kiểm soát và thử nghiệm cơ bản.
+ Đánh giá rủi ro và mức độ trọng yếu: đánh giá rủi ro tiềm tàng, RRKS và xác
định những vùng kiểm toán trọng yếu; xác định mức độ trọng yếu cho từng mục
tiêu kiểm toán; khả năng có những sai sót trọng yếu theo kinh nghiệm của những
năm trước và rút ra từ những gian lận và sai sót phổ biến; xác định các nghiệp vụ
và sự kiện kế toán phức tạp bao gồm cả ước tính kế toán
11
+ Nội dung, lịch trình và phạm vi các thủ tục kiểm toán. Trong giai đoạn này
KTV cần phải xác định những tahy đổi quan trọng của các vùng kiểm toán, ảnh
hưởng của công nghệ thông tin đối với công việc kiểm toán; công việc kiểm toán
nội bộ và ảnh hưởng của nó tới thủ tục của kiểm toán nội bộ và ảnh hưởng của nó
tới thủ tục kiểm toán.
+Phối hợp, chỉ đạo, giám sát và kiểm tra.
+Các vấn đề khác như: khả năng liên tục hoạt động kinh doanh của đơn vị, sự
hiện hữu của các bên có liên quan, điều khoản hợp đồng kiểm toán và những
trách nhiệm pháp lý khác, nội dung và thời hạn lập báo cáo hoặc những thông tin

định gửi cho khách hàng
Lập chương trình kiểm toán: khi xây dựng chương trình kiểm toán, kTV phải
xem xét và đánh giá các rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, cũng như mức độ đảm
bảo phải đạt được thông qua thử nghiệm cơ bản. KTV cần phải xem xét : thời
gian thực hiệnthủ tục kiểm soát và thử nghiệm cơ bản, sự phối hợp từ phía khách
hàng, từ trợ lý kiểm toán trong nhóm và sự tham gia của KTV khác hoặc các
chuyên gia khác.
(*) Liên quan đến việc đánh giá hệ thống KSNB, chẩn mực kiểm toán số
400”Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” quy định: Trong phạm vi kiểm toán
BCTC, KTV chủ yếu quan tâm đến các chính sách, thủ tục của hệ thống kế toán
và hệ thống kiểm soát nội bộ có liên quan đến cơ sở dẫn liệu của BCTC( cụ thể là
công nợ phải thu). Việc này sẽ giúp KTVxác định được khối lượng các khoản
phải thu được kiểm tra cũng như việc thiết lập được các thủ tục kiểm toán chi tiết.
Việc tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được
kiểm toán và việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát sẽ giúp cho KTV:
- Xác định được phạm vi kiểm toán cần thiết đối với những sai sót trọng yếu có
thể tồn tại trong BCTC;
- Xem xét những nhân tố có khả năng gây ra sai sót trọng yếu;
- Xây dựng các thủ tục kiểm toán thích hợp.
12
Nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ
thống kiểm soát nội bộ đối với chu trình bán hàng- thu tiền có thể thay đổi tuỳ
theo các điều kiện cụ thể sau:
- Quy mô, tính chất phức tạp của đơn vị và của hệ thống tin học của đơn vị (Ví
dụ: áp dụng chương trình vi tính từng phần hoặc toàn bộ; sử dụng từng máy đơn
lẻ hoặc nối mạng, ...);
- Mức độ trọng yếu theo xác định của KTV và công ty kiểm toán;
- Kiểm soát nội bộ của chu trình bán hàng.
- Nội dung các qui định của đơn vị đối với những thủ tục kiểm soát quá trình bán
hàng

- Mức độ nhiều hay ít của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, việc lưu giữ các tài liệu
kiểm soát nội bộ của khách hàng;
- Đánh giá của KTV về rủi ro tiềm tàng là cao hay thấp.
(*) Thực hiện kiểm toán
(1)Quy trình phân tích: Đây là một thủ tục quan trọng trong kiểm toán nợ phải
thu để KTV có thể thấy được sự biến động các khoản phải thu năm nay so
với năm trước. VSA 520 “Quy trình phân tích” quy định:
- Quy trình phân tích bao gồm việc so sánh các thông tin tài chính, như:
+ So sánh thông tin tương ứng trong kỳ này với các kỳ trước;
+ So sánh giữa thực tế với kế hoạch của đơn vị
+ So sánh giữa thực tế với ước tính của kiểm toán viên
+ So sánh giữa thực tế của đơn vị với các đơn vị trong cùng ngành có cùng
quy mô hoạt động, hoặc với số liệu thống kê, định mức cùng ngành.
- Quy trình phân tích cũng bao gồm việc xem xét các mối quan hệ:
+ Giữa các thông tin tài chính với nhau.
+ Giữa các thông tin tài chính với các thông tin phi tài chính.
Đối với khoản mục nợ phải thu, quy trình phân tích này bao gồm việc: So
sánh số dư Nợ phải thu phân tích theo tuổi Nợ của cuối kỳ so với đầu kỳ về tên
các khách hàng chủ yếu, tỷ trọng của từng nhóm Nợ (trong hạn, quá hạn)…; Tính
số vòng quay Nợ phải thu (hoặc số ngày thu tiền bình quân), so sánh với số liệu
13
kỳ trước, với chính sách bán chịu của đơn vị và số liệu bình quân ngành; Tính tỷ
lệ dự phòng Nợ phải thu khó đòi trên doanh thu, trên số dư Nợ phải thu cuối kỳ
và so sánh với kỳ trước.
(2).Gửi thư xác nhận.Gửi thư xác nhận đóng vai trò quan trọng trong việc thu
thập bằng chứng kiểm toán về sự hiện hữu khoản mục phải thu khách hàng. VSA
501 quy định:
- Trường hợp các khoản phải thu xác định là có trọng yếu đến BCTC và có khả
năng khách nợ sẽ phúc đáp thư yêu cầu xác nhận các khoản nợ thì kiểm toán viên
phải lập kế hoạch yêu cầu khách nợ xác nhận trực tiếp các khoản phải thu hoặc

các số liệu tạo thành số dư của khoản phải thu.
- Sự xác nhận trực tiếp sẽ cung cấp bằng chứng kiểm toán đáng tin cậy về sự hiện
hữu của các khoản phải thu và tính chính xác của các số dư. Tuy nhiên, sự xác
nhận này thông thường chưa cung cấp đầy đủ bằng chứng về khả năng thu hồi các
khoản phải thu hoặc còn các khoản phải thu khác không được hạch toán.
-Trường hợp kiểm toán viên xét thấy các khách nợ sẽ không phúc đáp thư xác
nhận các khoản phải thu thì phải dự kiến các thủ tục thay thế; Ví dụ: Kiểm tra các
tài liệu tạo thành số dư phải thu.
- Kiểm toán viên có thể chọn ra các khoản nợ phải thu cần xác nhận để đảm bảo
sự hiện hữu và tính chính xác của các khoản phải thu trên tổng thể, trong đó có
tính đến các khoản phải thu có tác động đến rủi ro kiểm toán đã đợc xác định và
các thủ tục kiểm toán dự kiến khác.
- Thư yêu cầu xác nhận nợ phải thu do kiểm toán viên gửi, trong đó nói rõ sự uỷ
quyền của đơn vị được kiểm toán và cho phép khách nợ trực tiếp cung cấp thông
tin cho kiểm toán viên.
- Thư yêu cầu xác nhận nợ phải thu (có thể gồm cả xác nhận nợ phải trả) bằng
Đồng Việt Nam và bằng ngoại tệ (nếu có) của kiểm toán viên có 2 dạng:
+ Dạng A: ghi rõ số nợ phải thu và yêu cầu khách nợ xác nhận là đúng hoặc
bằng bao nhiêu .
+ Dạng B: không ghi rõ số nợ phải thu mà yêu cầu khách nợ ghi rõ số nợ
phải thu hoặc có ý kiến khác .
14
- Sau khi gửi thư xác nhận nợ một khoảng thời gian hợp lý, nếu các khách nợ
chưa phúc đáp thì kiểm toán viên phải gửi thư thúc giục. Thư xác nhận các trường
hợp ngoại lệ cần được điều tra đầy đủ hơn.
- Kiểm toán viên phải thực hiện các thủ tục thay thế hoặc phải tiếp tục điều tra,
phỏng vấn khi:
+Không nhận được thư phúc đáp;
+Thư phúc đáp xác nhận số nợ khác với số dư của đơn vị được kiểm toán;
+ Thư phúc đáp có ý kiến khác.

Sau khi thực hiện các thủ tục thay thế hoặc tiếp tục điều tra, phỏng vấn, nếu
vẫn không có đủ bằng chứng tin cậy hoặc không thể thực hiện được thủ tục thay
thế, thì sự khác biệt được coi là sai sót. Ví dụ: Thực hiện thủ tục thay thế như
kiểm tra hóa đơn bán hàng và các phiếu thu tiền của khoản nợ phải thu không
nhận được thư phúc đáp.
-Trường hợp Giám đốc đơn vị được kiểm toán yêu cầu kiểm toán viên không gửi
thư yêu cầu xác nhận đến một số khách nợ thì kiểm toán viên phải xem xét yêu
cầu này có chính đáng hay không. Ví dụ: Trường hợp một khoản phải thu đang
còn tranh chấp giữa hai bên, hoặc trường hợp yêu cầu xác nhận nợ phải thu sẽ ảnh
hởng không tốt đến những thương lợng đang diễn ra giữa đơn vị và khách nợ.
Trước khi chấp thuận yêu cầu này, kiểm toán viên phải xem xét những bằng
chứng chứng minh cho giải thích của Giám đốc. Trường hợp này, kiểm toán viên
phải áp dụng các thủ tục thay thế đối với số dư của những khoản phải thu không
được gửi thư xác nhận.
Chuẩn mực kiểm toán 505” thông tin xác nhận từ bên ngoài” cũng quy định về
việc sử dụng thông tin xác nhận tử bên ngoài doanh nghiệp. Theo chuẩn mực này
thì xác nhận từ bên ngoài về một khoản phải thu, cung cấp bằng chứng kiểm toán
đáng tin cậy về sự hiện hữu của một khoản tài sản tại một thời điểm nhất định.
Xác nhận từ bên ngoài cũng có thể cung cấp bằng chứng về sự hạch toán đúng kỳ
của khoản phải thu. Thông tin xác nhận từ bên ngoài thường phải được Ban Giám
đốc đơn vị được kiểm toán đồng ý và cung cấp thông tin cho KTV. Khi KTV đề
nghị gửi thư xác nhận các số dư nào đó hoặc thông tin khác, nhưng Ban Giám đốc
đơn vị được kiểm toán không đồng ý, KTV và công ty kiểm toán cần xem xét liệu
15
điều đó có hợp lý không và thu thập bằng chứng để chứng minh sự không đồng ý
của Ban Giám đốc có hợp lý hay không. Nếu KTV đồng ý với quyết định của Ban
Giám đốc đơn vị được kiểm toán là không cần gửi thư xác nhận từ bên ngoài liên
quan đến một vấn đề cụ thể nào đó thì KTV và công ty kiểm toán phải áp dụng
các thủ tục thay thế để thu thập đầy đủ bằng chứng thích hợp về vấn đề đó. Khi
thực hiện các thủ tục xác nhận từ bên ngoài, KTV và công ty kiểm toán phải kiểm

soát thủ tục lựa chọn đối tượng gửi yêu cầu xác nhận và hình thức thư phản hồi từ
bên ngoài . KTV và công ty kiểm toán phải thực hiện các thủ tục kiểm toán khác
thay thế khi không nhận được thư xác nhận từ bên ngoài. Các thủ tục kiểm toán
bổ sung đó phải cung cấp đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp về các cơ sở
dẫn liệu của BCTC mà yêu cầu xác nhận định đưa ra.
Trước khi tiến hành gửi thư xác nhận, KTV thường tiến hành chọn mẫu để gửi
thư xác nhận. Chọn mẫu kiểm toán được quy định trong chuẩn mực kiểm toán số
530”Lấy mẫu kiểm toán và các thủ tục lựa chọn khác”. Theo chuẩn mực này thì
việc lấy mẫu kiểm toán là việc áp dụng các thủ tục kiểm toán trên một số phần tử
ít hơn 100% tổng số phần tử của một số dư tài khoản phải thu khách hàng, sao
cho mọi phần tử đều có cơ hội để được chọn. Khi thiết kế thủ tục kiểm toán, KTV
phải xác định các phương pháp thích hợp để lựa chọn các phần tử kiểm tra. Khi
lấy mẫu kiểm toán, KTV phải xem xét các mục tiêu thử nghiệm và các thuộc tính
của tổng thể dự định lấy mẫu. KTV cần phải xác định các điều kiện gây ra sai sót
liên quan đến mục tiêu thử nghiệm. Dự đoán hoặc kết luận các sai sót trên khoản
mục phải thu KTV phải xem xét đến các điều kiện gây ra sai sót. KTV phải đảm
bảo tính phù hợp và đầy đủ của tổng thể khoản mục phải thu.
Hiệu quả cuộc kiểm toán sẽ tăng lên nếu KTV phân nhóm một tổng thể bằng
cách chia tổng thể thành các nhóm riêng biệt có cùng tính chất. Tính chất của các
nhóm cần được xác định rõ ràng để cho một đơn vị lấy mẫu chỉ thuộc về một
nhóm duy nhất.Khi tiến hành các thử nghiệm cơ bản, số dư một tài khoản hoặc
một loại nghiệp vụ thường được phân nhóm theo giá trị. Tổng thể cũng có thể
được phân nhóm theo một đặc điểm riêng biệt thể hiện khả năng sai sót cao hơn.
Khi kiểm tra tổng giá trị các khoản phải thu, các phần tử có thể được phân nhóm
theo tuổi nợ. Kết quả mẫu của nhóm nào thì chỉ được dùng để dự đoán sai sót cho
nhóm đó. Để đưa ra kết luận cho tổng thể, KTV cần xem xét rủi ro và tính trọng
yếu liên quan đến các nhóm khác trong tổng thể. KTV phải đảm bảo rủi ro kiểm
toán do áp dụng phương pháp lấy mẫu giảm xuống mức có thể chấp nhận được
16
khi xác định cỡ mẫu. Cỡ mẫu chịu ảnh hưởng bởi mức rủi ro kiểm toán. Rủi ro có

thể chấp nhận được càng thấp, thì cỡ mẫu cần thiết sẽ càng lớn.Cuối cùng khi
đánh giá kết quả mẫu KTV phải đánh giá kết quả mẫu để khẳng định tính phù hợp
và đầy đủ của tổng thể hoặc quyết định xem có cần phải điều chỉnh cho phù hợp
không? Khi đánh giá kết quả lấy mẫu dẫn đến phải điều chỉnh những đánh giá
ban đầu của KTV về tính chất của tổng thể thì KTVcần phải:
+ Đề nghị Giám đốc đơn vị được kiểm toán kiểm tra lại những sai sót đã phát
hiện và những sai sót còn có thể có và thực hiện những điều chỉnh cần thiết.
+ Điều chỉnh thủ tục kiểm toán đã định.
+ Xem xét ảnh hưởng của nó đến BCKT.
*Kết thúc kiểm toán: KTV tiến hành trao đổi với khách hàng và hoàn tất công
việc để chuẩn bị cho việc lập báo cáo kiểm toán, hoàn chỉnh hồ sơ kiểm toán và
sử lý các sự kiện phát sinh sau ngày ký BCKT.
2.3.1.2 TheoVAS.
Việc ghi chép và trình bày trên sổ sách kế toán tại đơn vị kiểm toán phải phù
hợp với quy định của chuẩn mực kế toán. VAS 01 “chuẩn mực chung” quy định
và hướng dẫn các nguyên tắc và yêu cầu kế toán cơ bản, các yếu tố và ghi nhận
các yếu tố của BCTC của doanh nghiệp.
VAS 01 quy định các nguyên tắc kế toán cơ bản:
+ Cơ sở dồn tích: Mọi nghiệp vụ kinh tế tài chính của doanh nghiệp liên quan đến
tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi sổ kế
toán vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế
chi tiền hoặc tương đương tiền. BCTC lập trên cơ sở dồn tích phản ánh tình hình
tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
+Hoạt động liên tục: BCTC phải được lập trên cơ sở giả định doanh nghiệp sẽ
hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động bình thường trong tương lai gần.
+Giá gốc: Tài sản phải được ghi nhận theo giá gốc.
+Phù hợp: Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải phù hợp với nhau.
17
+Nhất quán: Các chính sách và phương pháp kế toán doanh nghiệp đã chọn phải
được áp dụng thống nhất trong ít nhất một kỳ kế toán năm. Trường hợp có sự

thay đổi phải có giải trình trong thuyết minh báo cáo tài chính.
+Thận trọng: Nguyên tắc thận trọng đòi hỏi: Phải lập các khoản dự phòng nhưng
không quá lớn; Không được đánh giá cao hơn giá trị các tài sản và thu nhập;
Không được đánh giá thấp hơn giá trị các khoản nợ phải trả và chi phí; Doanh thu
và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có căn cứ chắc chắn về khả năng thu được lợi
ích kinh tế, còn chi phí phải ghi nhận khi có bằng chứng về khả năng phát sinh
chi phí.
+Trọng yếu: Thông tin được coi là trọng yếu trong trường hợp nếu thiếu thông tin
hoặc thiếu chính xác về thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài chính,
ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC.
Kiểm toán công nợ phải thu mà thành phần chủ yếu là phải thu khách hàng có
mối liên hệ chặt chẽ tới doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ. Thời điểm nghi
nhận doanh thu có tác động lớn tới việc ghi chép khoản nợ phải thu. VAS 14 trình
bày các quy định và hướng dẫn các nguyên tắc phương pháp kế toán doanh thu và
thu nhập khác.
Theo nội dung của chuẩn mực này, doanh thu được xác định theo giá trị hợp lý
của các khoản đã thu hoặc sẽ thu được. Doanh thu phát sinh từ các giao dịch được
xác định được thỏa thuận giữa bên mua hoặc bên sử dụng tài sản. Nó được xác
định bằng giá trị hợp lý của các khoản đã thu được và sẽ thu được sauy khi trừ đi
các khoản chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán và hàng bán bị trả lại. Đối
với các khoản tiền hoặc tương đương tiền không nhận được ngay thì doanh thu
được xác định bằng cách quy đổi giá trị danh nghĩa các khoản sẽ thu được trong
tương lai về giá trị thực tế tại thời điểm ghi nhận doanh thu theo tỷ suất hiện
hành.
Tiêu chuẩn nhận biết giao dịch tạo ra doanh thu trong chuẩn mực này quy định
riêng biệt trong từng giao dịch cụ thể. Trong một số trường hợp, các tiêu chuẩn
nhận biết giao dịch cần ấp dụng tách biệt cho từng bộ phận của một giao dịch đơn
lẻ để phản ánh bản chất của giao dịch đó. Ví dụ, khi trong giá bán của một sản
phẩm có một khoản đã định trước cho việc cung cấp dịch vụ sau bán hàng thì
khoản doanh thu từ việc cung cấp dịch vụ sau bán hàng sẽ được dời lại cho đến

×