Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Một số biện pháp giáo dục pháp luật về giao thông đường bộ cho học sinh trung học cơ sở bùi xuân chúc xã điền quang huyện bá thước, thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.06 KB, 25 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ
PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ
SỞ BÙI XUÂN CHÚC, XÃ ĐIỀN QUANG, HUYỆN BÁ
THƯỚC, THANH HÓA.

Người thực hiện: Hà Văn Tuyến
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Bùi Xuân Chúc

SKKN thuộc mơn: GDCD

THANH HĨA NĂM 2021



MỤC LỤC

I. PHẦN MỞ ĐẦU

1.1.Lý do chọn đề tài
1.2.Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu

Trang
1-2


2
2
2-3

II. PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

2.1. Cơ sở lí luận
3-4
2.2. Thực trạng của vấn đề
4-9
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng
9
sống cho học sinh ở trường THCS Bùi Xuân Chúc.
2.3.1. Giải pháp 1: Tăng cường sự lãnh chỉ đạo của Đảng, của cấp 9- 10
ủy; Củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật hàng năm
2.3.2. Giải pháp 2: Tăng cường vai trị của gia đình trong việc 10- 12
ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ của học
sinh trung học cơ sở.
2.3.3. Giải pháp 3: Tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà 12- 15
trường và xã hội trong việc giáo dục pháp luật về an tồn giao thơng
đường bộ cho học sinh trung học cơ sở
2.3.4. Giải pháp 4: Đổi mới công tác giáo dục pháp luật về an tồn 15 -17
giao thơng của nhà trường và các cơ quan chức năng.
2.4. Kết quả
17-18
III. KẾT LUẬN
18 -20



1
1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Đồng chí Đỗ Mười – Nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: Một xã hội có kỷ cương, kỷ luật phải được xây dựng trên ý thức
giáo dục mọi thành viên và cả cộng đồng trong xã hội thói quen và nếp sống
tuân theo Hiến pháp và Pháp luật[8].
Nghị quyết Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chỉ rõ: Tăng
cường tuyên truyền, GDPL nâng cao ý thức pháp luật cho toàn dân, gắn quyền
hạn với trách nhiệm, lợi ích với nghĩa vụ của cơng dân, tơn trọng kỷ cương, trật
tự xã hội...[8].
Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong quá trình
thực thi pháp luật, đặc biệt tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhà
trường là một phần không thể thiếu trong công tác trồng người, là cầu nối để
truyền tải pháp luật vào đời sống xã hội, đưa pháp luật đến được với cán bộ,
giáo viên và học sinh. Vì pháp luật muốn phát huy được tác dụng và hiệu quả
phải thông qua hành vi hợp pháp của con người. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta
quan tâm đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật,
nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Nghị quyết Đại hội XII,
Đảng ta khẳng định: "Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền, giáo dục pháp
luật, huy động lực lượng của các đồn thể chính trị, xã hội, các phương tiện
thông tin đại chúng tham gia cuộc vận dộng thiết lập trật tự, kỷ cương và các
hoạt động thường xuyên, xây dựng nếp sống và làm việc theo Hiến pháp và luật
pháp trong cơ quan nhà nước và trong toàn xã hội "[10].
Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong các nhà trường, đặc biệt
trong các trường THCS có ý nghĩa quan trọng, góp phần hình thành vững chắc
nhân cách của người cơng dân có ý thức chấp hành pháp luật, đáp ứng yêu cầu
của xã hội. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm tới việc đưa
giáo dục pháp luật vào các trường học, các cấp học từ phổ thông đến đại học,
đúng theo tinh thần Chỉ thị số 32 - CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư

trung ương Đảng và Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg của TTCP “Chú trọng việc
chuẩn hóa nội dung chương trình, tài liệu, sách giáo khoa giảng dạy pháp luật
chính khóa cũng như việc tổ chức các hoạt động giáo dục pháp luật ngoại khóa
bằng nhiều hình thức phong phú”[14].
Khi đất nước tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN), đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật, việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật (GDPL)
đã trở nên cần thiết và cấp bách hơn. Để việc chấp hành pháp luật trở thành ý


2
thức mang tính tự giác của mỗi người, nhất là trong việc chấp hành pháp luật về
an tồn giao thơng (ATGT), thì địi hỏi pháp luật phải được tun truyền, phổ
biến, giáo dục đến tất cả mọi người và phù hợp với từng đối tượng cụ thể và đây
là vấn đề phải nghiên cứu, nhất là việc tuyên truyền, phổ biến, GDPL về ATGT
cho lứa tuổi học sinh trung học cơ sở (THCS). Vì vậy, trường THCS Bùi Xuân
Chúc, xã Điền Quang, huyện Bá Thước thực sự coi trọng công tác tuyên truyền,
phổ biến giáo dục pháp luật, xác định kiến thức pháp luật là một phần quan
trọng hình thành nhân cách tồn diện của học sinh trường mình, từ đó lựa chọn
nội dung giảng dạy thiết thực, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng tuyên truyền,
phổ biến giáo dục pháp luật, giảm thiểu tình trạng học sinh phạm tội khi đang
ngồi trên ghế nhà trường hoặc vừa mới ra trường. Trang bị cho các em những
kiến thức pháp luật cần thiết để nâng cao ý thức pháp luật, chấp hành đúng quy
định của pháp luật.
Trong những năm qua, ý thức chấp hành pháp luật của người dân từng
bước được nâng lên. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm pháp luật (VPPL) nói chung
và VPPL về ATGT nói riêng cịn diễn ra nhiều trong đó có lứa tuổi HS THCS,
đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thơng. Để góp phần
giải quyết vấn đề trên, việc làm sáng tỏ tình hình vi phạm ATGT đường bộ của
học sinh THCS, đồng thời tìm hiểu, đánh giá được mặt tích cực, các mặt hạn chế

của cơng tác tun truyền, phổ biến, GDPL về ATGT sẽ góp
Vì những lí do trên, tơi mạnh dạn trình bày đề tài “Một số biện pháp Giáo
dục pháp luật về giao thông đường bộ cho học sinh trung học cơ sở Bùi Xuân
Chúc xã Điền Quang huyện Bá Thước, Thanh Hóa”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lí luận và thực trạng cơng tác Một số biện pháp Giáo dục pháp
luật về giao thông đường bộ cho học sinh trung học cơ sở Bùi Xuân Chúc xã
Điền Quang huyện Bá Thước, Thanh Hóa. Từ đó đề xuất những giải pháp cơ
bản góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục dục pháp luật về giao thông
đường bộ cho học sinh Trung học cơ sở tại trường Trung học cơ sở Bùi Xuân
Chúc trong thời gian tới.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp Giáo dục pháp luật về giao thông đường bộ cho học sinh
trung học cơ sở Bùi Xuân Chúc xã Điền Quang huyện Bá Thước, Thanh Hóa
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những quan điểm cơ bản của Đảng,
Nhà nước ta về hoạt động tuyên truyền, phổ biến, GDPL và pháp luật về ATGT


3
đường bộ. Trong đó coi trọng việc nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn trong việc
tuyên truyền, phổ biến và GDPL cho học sinh THCS.
- Phương pháp phân tích, so sánh thống kê và tổng hợp.
- Phương pháp khảo sát.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn.
- Phương pháp đọc báo cáo, đánh giá kết quả hoạt động;
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp thống kê số liệu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận.

Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, GDPL, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân “Ban cán sự Đảng Bộ Giáo dục
và Đào tạo phối hợp với Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp và các Bộ, Ngành địa
phương tiếp tục hoàn thiện chương trình, giáo trình, sách giáo khoa về pháp luật
phục vụ trực tiếp cho công tác phổ biến, GDPL trong nhà trường theo phương
châm kết hợp nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành. Việc đưa
nội dung pháp luật vào giảng dạy ở nhà trường phải được chọn lọc hợp lý có hệ
thống và được bảo đảm hiệu quả thiết thực” [14].
Khoản 4, Điều 3, Luật phổ biến, GDPL năm 2012 quy định: “GDPL trong
các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân được lồng ghép trong
chương trình giáo dục của các cấp học và trình độ đào tạo; là một nội dung trong
chương trình giáo dục THCS, trung học phổ thơng, giáo dục nghề nghiệp, giáo
dục đại học” [12].
Quyết định 3957/QĐ-BGDĐT ngày 28 tháng 9 năm 2017 ban hành kế
hoạch tiếp tục thực hiện, triển khai Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ
biến, GDPL trong nhà trường đến năm 2021”. Tại phần mục tiêu chung của kế
hoạch có nêu“... đưa việc phổ biến, GDPL trong nhà trường phát triển ổn định,
bền vững, đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, góp phần bảo đảm thực hiện
hiệu quả, đầy đủ quyền được thông tin về pháp luật của công dân” [6].
Thông tư liên tịch 30/2010/TTLT-BGDĐT-BTP, ngày 16 tháng 11 năm
2010, giữa Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Tư pháp hướng dẫn việc phối hợp thực
hiện công tác phổ biến, GDPL trong nhà trường. Tại khoản 1, Điều 2 quy định
về mục đích, u cầu của cơng tác phổ biến, GDPL:“a) Nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác phổ biến, GDPL trong nhà trường, góp phần nâng cao ý thức
pháp luật của cán bộ, nhà giáo và người học; b) Bổ sung, hoàn thiện các điều
kiện đảm bảo cho công tác phổ biến, GDPL trong nhà trường” [8, Điều 2].


4

Kế hoạch số 39/KH-UBND ngày 13 tháng 2 năm 2018 của Chủ tịch
UBND tỉnh Thanh Hóa về cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật; hòa giải cơ sở;
chuẩn tiếp cận pháp luật năm 2018. Tiếp tục thực hiện chương trình GDPL cho
các lớp 6, 7, 8, 9 theo hướng lồng ghép nội dung pháp luật trong môn giáo dục
công dân. Tổ chức báo cáo chuyên đề về pháp luật nhằm nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật, phòng ngừa VPPL trong học sinh.
GDPL là cách thức để giúp cho mọi người trong xã hội biết quyền và
nghĩa vụ của chính mình, từ việc tn thủ đến việc nghiêm chỉnh chấp hành các
quy định của pháp luật, về những việc mà pháp luật quy định được phép làm và
những việc mà pháp luật không cho phép làm hoặc nghiêm cấm, về cách thức
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình cũng như của cơng dân. GDPL
chính là sự hỗ trợ tích cực đối với học sinh THCS để họ nhận thức và điều chỉnh
hành vi của mình cho phù hợp với pháp luật, nhất là đối với luật giao thông
đường bộ khi tham gia giao thông
2.2. Thực trạng của vấn đề
Đặc điểm tình hình chung của địa phương và trường THCS Bùi Xuân
Chúc Điền Quang là một xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn 135 của huyện Bá
Thước, có diện tích tự nhiện 2561.68 ha, dân số 7421 người với 1832 hộ dân, có
3 dân tộc chủ yếu Thái, Mường, Kinh cùng sinh sống trong địa bàn xã, Trong đó
dân tộc Mường chiếm 82%, các dân tộc cịn lại chiếm 18%.
Thực trạng cơng tác tun truyền, phổ biến giáo dục pháp luật ở
trường THCS Bùi Xuân Chúc, xã Điền Quang, huyện Bá Thước
Để tìm hiểu thực trạng KNS của HS trường trung học cơ sở, chúng tôi sử
dụng phiếu khảo sát dành cho HS nhằm tìm hiểu mức độ nhận thức cũng như
biểu hiện về hành vi vi phạm pháp luật và luật giao thông đường bộ. Bên cạnh
đó, chúng tơi cũng tiến hành trưng cầu ý kiến của phụ huynh HS, CBQLvà giáo
viên để làm rõ thực trạng nhận thức hành vi vi phạm pháp luật và luật giao thơng
đường bộ dưới góc nhìn của những người trực tiếp nuôi dưỡng và những người
trực tiếp làm công tác GD. Chúng tôi tiến hành khảo sát 50 học sinh trên tổng số
351 học sinh nhà trường các khối lớp 6,7,8,9.

ST
T

1

Nội dung khảo sát
Hiện tượng điều khiển
xe máy, xe điện khi chưa
đủ tuổi theo quy định

Tổng số
học sinh Thường
được khảo xuyên xảy
ra
sát
50

15

30%

Mức độ nhận thức
Thỉnh
Hiếm
Không
thoảng
khi xảy xảy ra
xảy ra
ra
26


52%

7

14%

2

4%


5
2
3
4
5
6

Đi xe thả cả hai tay, đùa
nghịch khi đang tham
gia giao thông
Hành vi chở quá số
người quy định
Không đội mũ bảo hiểm
khi điều khiển xe máy,
xe điện
Đi không đúng phần
đường, Sang đường
không quan sát

Tụ tập tại cổng trường
gây ách tắc giao thông

50

35

70%

9

18%

5

10%

50

40

80%

8

16%

2

4%


50

50

100%

50

45

90%

3

6%

2

4%

50

50

100
%

1


2%

Từ những số liệu khảo sát 50 em học sinh ở trên bản thân đã kết hợp với
nhà trường để tuyên truyền lồng ghép vào các tiết học và buổi ngoại khóa và
sinh hoạt dưới cờ nhằm nâng cao ý thức an tồn giao thơng cho học sinh.
Hiện tượng điều khiển xe máy, xe điện khi chưa đủ tuổi theo quy định,
thường xuyên xảy ra khá cao chiếm tỷ lệ 30%, Đi xe thả cả hai tay, đùa nghịch
khi đang tham gia giao thông chiếm tỷ lệ 70%, Đi không đúng phần đường,
Sang đường không quan sát chiếm tỷ lệ 90%. Đặc biệt các em không đội mũ bảo
hiểm khi điều khiển xe máy, xe điện, Tụ tập tại cổng trường gây ách tắc giao
thông chiếm tỷ lệ 100%.

Ảnh thực trạng học sinh sau buổi tan học


6
Như đã biết trong những năm gần đây, tình hình học sinh trên địa bàn vi
phạm đạo đức, nội quy, kỷ luật trường học đang có xu hướng gia tăng, là vấn đề
phải quan tâm của gia đình, nhà trường và xã hội
Vi phạm của học sinh diễn ra với nhiều hình thức, số vụ việc vi phạm của
học sinh hàng năm không giống nhau, phổ biến nhất vẫn là những hành vi: trốn
tiết, vắng học khơng có lý do, chửi thề, nói tục, đánh bạc, đáng chú ý là bạo lực
học đường chiếm tỉ lệ cao trong các loại vi phạm với rất nhiều nguyên nhân
khác nhau, như đùa giỡn, bênh vực bạn, vì một lời nói khích, một va chạm nhỏ
đều có thể dẫn đến đánh nhau...thực trạng học sinh VPPL cũng là vấn đề bức
xúc trong những năm gần đây.
VPPL chủ yếu là vi phạm hành chính, với những lỗi chủ yếu như: điều
khiển xe máy, xe điện khi chưa đủ tuổi theo quy định, khơng có giấy phép lái xe,
chở quá số người quy định, không đội mũ bảo hiểm khi điều khiển xe máy, xe
điện, chạy quá tốc độ, đi không đúng phần đường...[1].

Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng các em VPPL như vậy?
- Thứ nhất, về văn hoá tinh thần, một nhóm nhỏ các em mong muốn thể
hiện sự khát khao của lứa tuổi là được khẳng định sự trưởng thành của cá
nhân.Vấn đề đặt ra là tại sao hiện tượng học sinh VPPL gia tăng, có phải sự hiểu
biết pháp luật còn hạn chế. Về mặt tâm lý đặc trưng của trẻ bây giờ còn nhiều
mâu thuẫn, mặc dù trẻ lớn về thể xác nhưng tâm lý chưa trưởng thành. Nhiều gia
đình lại làm cho trẻ thiếu sự tự tin vào bản thân của chính trẻ, khơng biết mình
đang ở giai đoạn nào, đã trở thành người lớn hay còn là trẻ con. Sự cứng rắn,
nghiêm khắc hay nuông chiều con cái quá mức đều là những phương pháp giáo
dục khơng tốt dẫn đến hình thành những phẩm chất và hành vi sai trái của các
em.
- Thứ hai, tự bản thân các em (một nhóm nhỏ) vi phạm pháp luật do
không thấy niềm vui trong cuộc sống. Điều này thể hiện ở chổ có thể bản thân
các em được xuất thân từ gia đình có hồn cảnh khơng tốt, như thiếu vắng sự
chăm sóc của cha, mẹ... Gia đình lựa chọn phương pháp quản lý, giáo dục con
cái không đúng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu vật chất một cách mù quáng. Sự nuông
chiều quá mức, sẳn sàng đáp ứng các yêu cầu về vật chất không cần thiết, không
để ý hoặc bỏ qua những lỗi lầm, sai phạm, nghĩa vụ của con cái, từ đó tạo ra thói
quen, tâm lý thích hưởng thụ, sống ích kỷ, đua địi, lười lao động. Ngược lại, có
gia đình do bố mẹ thiếu hiểu biết, ít kiến thức nên khi thấy con có lỗi lầm khơng
tìm cách khun răn mà lại dạy bằng cách dùng vũ lực. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân làm cho các em có hành vi VPPL


7
- Thứ ba, từ chỗ muốn khẳng định mình, khơng tìm thấy niềm tin, chỗ
dựa, các em khơng thấy đâu là tấm gương, hình mẫu từ đó sinh ra những tư
tưởng tiêu cực trong tâm lý dẫn đến có những hành vi sai phạm.
- Thứ tư, bản thân các em chưa có ý thức về bản thân mình cũng như cuộc
sống chính mình, cho dù các em sống ở thành thị hay nơng thơn, trong gia đình

khá giả hay nghèo khó nhưng thấy rằng các em vẫn có nhiều điều kiện hơn các
thế hệ trước đây, bây giờ các em ít bận tâm đến việc ai trực tiếp làm ra tiền để
ni sống bản thân mình và có điều kiện ăn mặc đẹp, học hành... Có thể nói
rằng, hiện nay các em có đầy đủ các điều kiện để phát triển một cách toàn diện
từ thể chất lẫn tinh thần, được quan tâm của xã hội, được chăm sóc, giáo dục tốt
hơn, nhưng lại VPPL nhiều hơn.
Rõ ràng, các em trong lứa tuổi người chưa thành niên trong đó có học sinh
THCS với nhận thức còn non nớt, chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh
thần. Do đó, không thể dồn hết trách nhiệm lên vai các em, khi các em có hành
vi VPPL mà khơng nhận thức được, hoặc nhận thức kém về hành vi phạm pháp
của chính mình.
Đa số các trường hiện nay chưa thực hiện hết chức năng, nhiệm vụ của
mình trong thực hiện mục tiêu giáo dục tồn diện học sinh.
Cơng tác quản lý hiện nay của các trường tập trung chủ yếu là quản lý về
sĩ số học sinh đến lớp, giờ giấc, điểm học tập, tác phong, kết quả học tập.., của
học sinh. Vì vậy, việc GDPL, GDPL về ATGT cho học sinh có lúc, có nơi cịn bị
xem nhẹ, chưa được chú trọng; thậm chí nhiều nơi vì lý do “tế nhị” nhà trường
đã “làm lơ” cho những vi phạm của học sinh. Điển hình như những vi phạm
trên lĩnh vực ATGT đường bộ, dù các em đã được nghe phổ biến, được GDPL về
ATGT từ trên lớp học cho đến các buổi chào cờ đầu tuần, các buổi sinh hoạt
ngoại khố. Theo quy định, học sinh chưa đủ tuổi, khơng có giấy phép lái xe mà
điều khiển xe gắn máy, xe mô tô trên 50 cm3, kể cả xe điện thì bị xử phạt vi
phạm hành chính, người chủ xe cũng có trách nhiệm liên đới, học sinh vi phạm
nhiều lần thì bị đuổi học. Quy định là vậy, nhưng trên các tuyến đường quanh
trường THCS, người dân vẫn thường chứng kiến cảnh những học sinh chở nhau
trên các phương tiện xe gắn máy, xe điện chạy ào ào. Khi lực lượng Cảnh sát
giao thông tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm giao thông trên các tuyến đường
ở những nơi gần trường học thì số học sinh sử dụng xe gắn máy, xe mô tô đến
trường mới giảm đi. Tuy nhiên, sau đó mọi việc “đâu lại vào đấy”.
Sự phối hợp của nhà trường với gia đình và xã hội thiếu chặt chẽ, công tác

này chủ yếu thông qua giáo viên chủ nhiệm. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, công
tác quản lý học sinh của giáo viên chủ nhiệm thường chỉ tập trung vào vấn đề
nắm sỉ số lớp, học tập. Việc tìm hiểu, nắm về điều kiện, hồn cảnh sống gia


8
đình, tâm lý của từng em để xây dựng các phương pháp giáo dục và uốn nắn kịp
thời những biểu hiện tiêu cực của học sinh chưa được quan tâm. Hầu như sự
phối hợp giữa nhà trường với gia đình bằng hình thức thơng qua các kỳ họp hội
phụ huynh học sinh và bằng sổ liên lạc. Các hình thức liên lạc bằng điện thoại,
qua mạng xã hội, qua cộng đồng dân cư nơi học sinh cư trú, cơ quan phụ huynh
học sinh cơng tác rất ít hoặc khơng được sử dụng, mặc dù đây là các hình thức
có hiệu quả và nhanh nhất, giúp cho việc trao đổi thông tin giữa gia đình với nhà
trường được thường xuyên, liên tục, nhanh chóng, kịp thời, huy động được
nhiều chủ thể tham gia công tác giáo dục.
Trong công tác quản lý, giáo dục học sinh, tổ chức đoàn thể ở cơ sở, chính
quyền địa phương, lực lượng Cơng an giữ vai trò quan trọng. Tuy nhiên, trên
thực tế các tổ chức này chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của mình. Điều
này một phần có ngun nhân từ sự phối hợp của nhà trường chưa được quan
tâm đúng mức.
Những hạn chế trên, xuất phát từ những nguyên nhân sau: gia đình chưa
nhận thức hết vai trị, trách nhiệm của mình trong việc quản lý, giáo dục con; tư
tưởng sống khép kín vốn có của con người Việt Nam; coi chuyện vợ, chồng, con
cái là chuyện riêng của gia đình nên ít có ý thức phối hợp với xã hội khi gia đình
xảy ra sự cố; ngồi ra việc kiếm sống, mưu sinh, áp lực công việc, kinh doanh,
sự thăng tiến, bất hồ, đổ vỡ gia đình.., cũng là một trong những nguyên nhân
khá phổ biến làm cho nhiều phụ huynh bng lỏng việc quản lý con em mình.
- Về phía xã hội: Hiện nay sự, phối hợp giữa ngành giáo dục với các
ngành như Công an, tư pháp chưa thường xuyên, việc phối hợp chỉ xoay quanh
mời báo cáo viên tuyên truyền pháp luật, báo cáo một số chuyên đề, hay tập

huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho giáo viên. Tuy nhiên, việc tuyên truyền,
báo cáo chuyên đề của báo cáo viên cũng chưa đều khắp ở các trường do điều
kiện về kinh phí, nhất là ở các trường thuộc vùng ven của các xã cịn điều kiện
khó khăn. Mặc khác, sự phối hợp của địa bàn dân cư nơi học sinh cư trú, thông
qua thôn, công an xã, phường, chính quyền chưa được quan tâm đúng mức, cơng
tác phòng ngừa những biểu hiện sai lệch trong thanh thiếu niên chưa được chú
trọng.
- Về phía Đồn Thanh niên: trong việc giáo dục học sinh, tổ chức Đồn
có vai trị rất quan trọng trọng việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống. Tuy nhiên, trên thực tế tại trường THCS Bùi Xuân Chúc, tổ chức đoàn với
tư cách là môi trường rèn luyện của thanh niên chưa phát huy hết vai trị của
mình.
Việc thực hiện tun truyền, giáo dục pháp luật giao thông đường bộ cho
đối tượng là học sinh THCS trên địa bàn tế tại trường THCS Bùi Xuân Chúc vẫn


9
cịn thực hiện mang tính dàn trải và được thực hiện thơng qua các buổi hoạt
động ngoại khố của các trường, lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ tuyên truyền,
giáo dục chủ yếu là lực lượng Công an.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để nâng cao hiệu quả giáo pháp luật về
an tồn giao thơng cho học sinh ở trường THCS Bùi Xuân Chúc.
2.3.1. Giải pháp 1: Tăng cường sự lãnh chỉ đạo của Đảng, của cấp ủy;
Củng cố, kiện tồn Ban chỉ đạo cơng tác tun truyền, phổ biến pháp luật
hàng năm
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, cần quán triệt Chỉ thị số 32/CT-TW
của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cơng tác phổ biến,
giáo dục pháp luật, qua đó tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của
các tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên về công tác giáo dục pháp luật.
Tiếp tục quán triệt, triển khai và thực hiện nghị quyết đại hội đảng toàn

quốc lần thứ XII, nghị quyết số 29 của ban chấp hành trung ương đảng khóa XI
về "Đổi mới căn bản tồn diện giáo dục và đào tạo"; Chỉ thị số 05- CT/TW ngày
15/5/2016 của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “ Học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Quyết định số 3957/QĐBGD&ĐT ngày 28 tháng 9 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
về việc ban hành Kế hoạch tiếp tục triển khai đề án: “ Nâng cao chất lượng công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường đến năm 2021”; Kế hoạch số
39/KH-UBND ngày 13 tháng 2 năm 2018 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa
về cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật; chuẩn tiếp cận pháp luật năm 2018.
Cấp ủy phải thường xuyên tiến hành xây dựng chương trình, kế hoạch
giáo dục pháp luật trong nhà trường và phải luôn xác định vai trò gương mẫu
của các đảng viên và vai trò tiên phong của họ trong việc tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật cho quần chúng và học sinh. Đồng thời phải thường xuyên
theo dõi, kiểm tra, giám sát hoạt động giáo dục pháp luật, kịp thời đôn đốc, chỉ
đạo xử lý những vướng mắc nảy sinh trong quá trình giáo dục pháp luật.
Bên cạnh việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thì sự tổ chức, chỉ đạo,
hướng dẫn của Ban giám hiệu nhà trường là một trong những yếu tố vô cùng
quan trọng. Để nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật, tăng cường pháp chế
XHCN
Triển khai đến CB,GV, HS các văn bản chỉ đạo của Đảng về cơng tác
PBGDPL, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trị, tầm quan trọng của cơng
tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường. Tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ báo cáo viên pháp luật là giáo viên trong nhà trường.
Củng cố, kiện tồn Ban chỉ đạo cơng tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
hàng năm


10
Hiệu trưởng đơn vị phải tham gia Ban chỉ đạo và xây dựng kế hoạch để
Ban chỉ đạo này hoạt động có hiệu quả, tránh hình thức. Phối hợp với sự án tầm
nhìn thế giới (Vision World), Tổ chức các câu lạc bộ pháp luật, tuyên truyền

pháp luật với những hình thức hấp dẫn các em như:
Tổ chức các phiên tịa giả định, thi trình bày các tiểu phẩm, thi giải quyết
các tình huống pháp luật mà học sinh thường gặp phải hàng ngày. Hàng năm có
thể mời báo cáo viên pháp luật đến trường nói chuyện về kiến thức pháp luật
cho GV, HS.
Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật với các nội dung phù hợp với học
sinh, hình thức tổ chức sinh động, phong phú như: Các sân chơi pháp luật, thi
rung chuông vàng với những câu hỏi liên quan đến pháp luật. Lồng ghép việc
tuyên truyền phổ biến pháp luật với các tiết chào cờ, các buổi sinh hoạt lớp,
chương trình phát thanh của trường

Thầy giáo hiệu trưởng Trần Công Lân đang tổ chức sinh hoạt dưới cờ, tun
truyền về tháng an tồn giao thơng năm học 2020 - 2021
2.3.2. Giải pháp 2: Tăng cường vai trị của gia đình trong việc ngăn
chặn hành vi vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ của học sinh trung
học cơ sở.
Hồ Chủ tịch đã nói: “Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, cịn cần
có sự giáo dục ngồi xã hội và trong gia đình, để giúp cho việc giáo dục trong
nhà trường tốt hơn. Giáo dục nhà trường dù tốt đến mấy, nhưng thiếu giáo dục
trong gia đình và ngồi xã hội thì kết quả cũng khơng hồn tồn” (Hồ Chí
Minh: Bài nói tại Hội nghị cán bộ Đảng trong ngành giáo dục tháng 6 năm
1957) ).[8].
Gia đình là nơi các em được sinh ra và lớn lên, là môi trường sinh hoạt
hàng ngày của mỗi người. Gia đình là mơi trường giữ một vai trò cực kỳ quan


11
trọng trong việc giáo dục nói chung và GDPL nói riêng, là nơi để rèn luyện và
hình thành nhân cách các em. Như chúng ta đã biết, gia đình là tế bào, là hạt
nhân của xã hội, để có một xã hội tốt thì trước tiên từng gia đình càng phải tốt.

Gia đình ổn định, hồ thuận, mọi người thương yêu, đùm bọc, quan tâm,
chăm sóc lẫn nhau là cơ sở hình thành một xã hội ổn định, trật tự, văn minh... Vì
vậy, cần phải nêu cao trách nhiệm của gia đình, của từng thành viên của gia
đình, nhất là trách nhiệm của các bậc làm cha, làm mẹ trong việc giáo dục, hình
thành nhân cách mỗi con người, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi
người và là tế bào lành mạnh của xã hội. Ông, bà, cha, mẹ, anh, chị phải là
những tấm gương sáng cho con, em học tập, noi theo.
Công tác giáo dục gia đình được thể hiện cụ thể như việc lựa chọn phương
pháp và hình thức giáo dục đúng, tăng cường trách nhiệm của các bậc phụ
huynh trong quản lý và giáo dục con cái, kiểm tra các hoạt động hằng ngày của
các em để kịp thời uốn nắn, sửa chữa các lệch lạc trong suy nghĩ và hành động,
không để các em bị lợi dụng, lôi kéo vào con đường tiêu cực là việc làm hết sức
cần thiết và có ý nghĩa nhất.
Các bậc cha, mẹ cần được trang bị những kiến thức về phòng, chống
VPPL, tội phạm, tệ nạn xã hội, phải hiểu được hành vi nào được xem là VPPL,
là tội phạm và tệ nạn xã hội; nguyên nhân dẫn đến việc gây ra các hành vi này;
cách nhận biết người phạm tội, VPPL, nghiện ma túy; tội phạm và tệ nạn xã hội
gây ra tác hại gì cho bản thân, gia đình, xã hội; có thể cai nghiện ma túy được
không; cai nghiện bằng cách nào.., để họ có định hướng và có biện pháp quản lý,
giáo dục con cái mình được an tồn trước sự phức tạp của bên ngồi xã hội.
Xây dựng gia đình thực sự là tổ ấm, là môi trường tốt cho các em lớn
khôn và trưởng thành, không VPPL, không phạm tội và không tham gia các hoạt
động tệ nạn xã hội; đảm bảo được đời sống vật chất, tinh thần của gia đình để trẻ
em có được những điều kiện sống tốt và được học hành.
Thực tế cho thấy, có rất nhiều trẻ em trong lứa tuổi học sinh VPPL là do
sự thiếu xót của gia đình trong vai trị giáo dục và vai trò giám hộ từ những
người trưởng thành trong gia đình đối với các em. Bởi vậy, các bậc phụ huynh
phải có ý thức thức trách nhiệm hơn trong việc giáo dục con cái và thực hiện tốt
quyền bảo hộ của mình đối với con cái.
Ơng, bà, cha, mẹ nên dành nhiều thời gian ở bên trẻ, nhất là cần phải có

các buổi sinh hoạt chung của gia đình, như những lúc ăn cơm gia đình, xem ti vi
hoặc khi đi chơi, trong những thời gian đó nên chủ động tiếp xúc, trao đổi về
tình hình học tập của con cái, cũng như những mối quan tâm khác của con cái,
tăng cường sự giao lưu trực tiếp với trẻ, hiểu và nắm bắt được tình hình phát
triển tâm lý, sinh lý của con em mình ở mỗi thời kỳ phát triển, kịp thời tháo gỡ


12
những khó khăn về tâm, sinh lý của con em mình trong quá trình phát triển,
trong việc nhận thức bản thân và nhận thức xã hội. Giảm bớt, hạn chế đến mức
thấp nhất sự phụ thuộc của các con vào mạng Internet, những thơng tin khơng
chính thống trên mạng xã hội hiện nay hay những người khác thiếu tin cậy ngoài
xã hội. Khi cha, mẹ thực sự trở thành những người bạn lớn của con trẻ thì sự
quan tâm của cha, mẹ sẽ mang đến cho trẻ nhỏ cảm giác an toàn, làm giảm bớt
khuynh hướng bạo lực và xu hướng hành vi tiêu cực của con cái.
Giáo dục gia đình phải mang tính định hướng, và tạo ra nhiều cơ hội cho
con trẻ được thể hiện mình; bầu khơng khí tâm lý gia đình phải mang tính dân
chủ, bình đẳng giúp trẻ bồi dưỡng năng lực tự đánh giá, tự sửa sai mỗi khi mắc
phải lỗi; giúp trẻ học được kỹ năng tự kiểm soát cảm xúc, hành vi và kỹ năng
giải quyết vấn đề theo hướng tích cực; tránh để trẻ hình thành thói quen bị dồn
nén cảm xúc, dễ bị kích động... Ngồi ra, GDPL cũng là một nhiệm vụ mà các
bậc làm cha, làm mẹ cần phải làm trong q trình giáo dục con cái. Có thể thấy,
việc lồng ghép GDPL trong giáo dục gia đình là điều rất cần thiết. Công việc
này nên được tiến hành từ khi trẻ cịn nhỏ. Gia đình chính là cái gốc, là nền
móng trong việc phịng ngừa và ngăn chặn trẻ em VPPL, cha, mẹ cần xây dựng
nền móng này thơng qua việc làm trịn trách nhiệm và quyền lợi được chăm sóc,
ni dưỡng, giáo dục, bảo hộ con cái; đồng thời chủ động tạo dựng mối quan hệ
gần gũi, cởi mở, cơng bằng với con trẻ; có nội dung và phương pháp giáo dục
con cái phù hợp nhất với điều kiện, hồn cảnh của gia đình.
2.3.3. Giải pháp 3: Tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường

và xã hội trong việc giáo dục pháp luật về an tồn giao thơng đường bộ cho
học sinh trung học cơ sở
Quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo đã tiếp tục khẳng định “Giáo dục nhà trường kết hợp
với giáo dục gia đình và xã hội”. Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành
giáo dục tháng 6/1957, Bác Hồ căn dặn “Phải nhất thiết liên hệ mật thiết với gia
đình học sinh. Bởi vì giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần, cịn cần có
giáo dục ngồi xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà
trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo
dục trong gia đình và ngồi xã hội thì kết quả cũng khơng hồn tồn”.
Sự kết hợp chặt chẽ giữa bộ ba: nhà trường, gia đình và xã hội để giáo dục
cho các em là vấn đề rất quan trọng, nhưng hiện nay vấn đề này dường như chưa
được chú trọng lắm và có chăng chỉ là sự kết hợp giữa nhà trường và gia đình
bằng hình thức thơng qua các cuộc họp phụ huynh học sinh với nhà trường,
thông qua sổ liên lạc, song hiện tại sự liên lạc này chưa thật sự đảm bảo, cịn
mang nặng tính hình thức. Trong mối quan hệ này các bên đều phải chủ động để


13
liên lạc với nhau để nắm bắt tình hình về các em, để kịp thời uốn nắn các em
chưa ngoan, cá biệt và biểu dương những em ngoan ngoãn và có những hành
động tốt. Cụ thể là:
Về phía nhà trường: Như đã phân tích, nhà trường là nơi các em nhận
được sự giáo dục một cách hệ thống, bài bản và có cơ hội phát triển năng lực
bản thân một cách tồn diện. Theo đó, muốn ngăn chặn hành vi VPPL của các
em từ gốc rễ thì nhà trường nhất định phải tăng cường giáo dục giá trị sống tích
cực cho người học. Nhà trường ngồi việc nâng cao trình độ văn hóa cho học
sinh, cũng phải quan tâm bồi dưỡng tình cảm, lịng đam học tập cho các em,
những kiến thức xã hội khác. Hàng tháng nhà trường có sự tổng hợp về kết quả
học tập, hạnh kiểm của học sinh, của từng khối, từng lớp và thông báo về gia

đình, những em học sinh có những biểu hiện xấu, không lành mạnh như hay bỏ
học, chơi game, vô lễ với thầy cô, hay đánh nhau.., giáo viên chủ nhiệm lớp phải
kịp thời nắm bắt từ những hành vi tiêu cực ấy báo cáo với nhà trường và trường
phải thơng báo với gia đình, chính quyền địa phương, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh
niên.., ở địa phương nơi học sinh cư trú để các tổ chức Đoàn, Hội này kết hợp
với gia đình có kế hoạch khun bảo, giáo dục các em

Hình ảnh nhà trường trao thưởng cho học sinh xuất sắc trong cuộc thi và
đội viên giỏi trong thực hiện ATGT
Về phía xã hội: Chính quyền địa phương và các đoàn, hội phải chủ động
trong việc kết nối với gia đình, nhà trường để tuyên truyền, GDPL cho các em,
đặc biệt là đối với những em có những biểu hiện chưa tốt, học sinh cá biệt đã
được nhà trường gửi thơng báo về địa phương và gia đình. Ngồi ra, chính


14
quyền địa phương, đoàn hội.., nơi các em cư trú phải chủ động, kịp thời phát
hiện những biểu hiện tiêu cực của các em để kịp thời uốn nắn, dạy dỗ hay những
gương các em có những hành động tốt ở tại địa phương để kịp thời biểu dương,
khích lệ tinh thần các em, đồng thời thông báo với gia đình và nhà trường để
theo dõi, giáo dục uốn nắn đối với số em này.

Công tác tuyên truyền pháp luật cho học sinh
Về phía gia đình: Cha, mẹ và những người thân khác trong gia đình là
những người ln gần gũi và nắm bắt được tình hình về con em mình một cách
nhanh nhất, vì vậy gia đình phải là nơi đầu tiên thực hiện việc giáo dục, uốn nắn
và dạy dỗ con em mình. Tuy vậy, trong thực tế vẫn có trường hợp mặc dù gia
đình đã phát hiện con em có biểu hiện chưa tốt nhưng gia đình không tày nào
dạy dỗ, giáo dục, uốn nắn, xuất phát từ đặc điểm tâm lý của lứa tuổi này, do
không dạy bảo được, một số gia đình vì một lý do nào đó cố che giấu mọi hành

động xấu của con em mình, việc làm này đã vơ tình tạo điều kiện cho các em có
cơ hội ni dưỡng những thói hư tật xấu ở mức độ cao hơn. Vì vậy, khi rơi vào
tình trạng này gia đình cần khuyên bảo các em và cần thông báo với nhà trường,
với chính quyền địa phương và các đồn hội để cùng tham gia giáo dục các em.
Khi được thông báo về những em chưa ngoan thì về hình thức giáo dục cả
nhà trường, gia đình và các đồn, hội, chính quyền địa phương ngoài việc phối,
kết hợp chặt chẽ như đã phân tích ở trên thì cả ba nơi này cịn phải chú ý đến
phương pháp giáo dục các em. Ở lứa tuổi này, các em rất cứng đầu, khó bảo
nhưng bằng nhiều phương pháp như song song với việc nhẹ nhàng khuyên bảo,
nêu những tấm gương người tốt việc tốt, những hành vi xấu trên thực tế đã bị lên
án như thế nào, bị xử lý ra làm sao, thì các đồn thể, chính quyền địa phương
cịn có thể tổ chức định kỳ hàng tuần những buổi vui chơi mang ý nghĩa tác
động tâm lý và GDPL, cho các em xem các đoạn băng nói về những hành vi


15
VPPL đã gây hậu quả xấu cho xã hội như thế nào và bị xử lý ra sao để các em
thấy được những hành vi VPPL và tránh xa những hành động đó. Sự kết hợp
giữa gia đình, nhà trường và xã hội phải là kết hợp thực sự với mục đích là để
GDPL, giáo dục nhân cách cho người chưa thành niên như là một cơng việc
thường xun, thì hiệu quả của công tác này sẽ mang lại rất cao. Các em kịp thời
được giáo dục đến nơi, đến chốn về ý thức pháp luật và từ đó giúp cho các em
hiểu và tự giác chấp hành pháp luật. Nếu việc kết hợp giữa gia đình, nhà trường
và xã hội chỉ mang tính hình thức, qua loa, chiếu lệ thì cơng tác GDPL sẽ khơng
mang lại hiệu quả và ngày càng có nhiều em có những hành động xấu và dần
dẫn đến VPPL là điều có thể xảy ra.
2.3.4. Giải pháp 4: Đổi mới công tác giáo dục pháp luật về an tồn
giao thơng của nhà trường và các cơ quan chức năng.
Việc GDPL nói chung và GDPL về ATGT ở các nhà trường hiện nay chủ
yếu được thực hiện thông qua việc dạy và học môn giáo dục cơng dân, tổ chức

các hoạt động ngoại khóa, hoạt động tập thể, thông qua công tác quản lý học
sinh ở trường học, các hoạt động tuyên truyền pháp luật ATGT của các cơ quan
chức năng trong lực lượng Công an nhân dân. Do đó, để nâng cao hiệu quả
GDPL trong nhà trường chính là nâng cao chất lượng của các hoạt động trên.
Thứ nhất: Nâng cao vị trí, vai trị, chất lượng giảng dạy môn giáo dục
công dân: Hiện nay, ở các trường THCS việc dạy và học môn giáo dục công dân
chưa được xem trọng, chưa được xem là mơn học chính. Để nâng cao vai trị, vị
trí và chất lượng giảng dạy môn giáo dục công dân ở các trường THCS hiện nay
cần thực hiện tốt các biện pháp sau: Đối với Ban Giám hiệu nhà trường: Cần
phải quán triệt nhiệm vụ dạy chữ, dạy người thông qua các môn học, tiết học,
kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng thiếu toàn diện trong dạy học; quán triệt
trong cán bộ, giáo viên nhận thức về vai trị, vị trí của môn giáo dục công dân
trong nhà trường; tham mưu, đề xuất với Sở Giáo dục và Đào tạo bổ sung giáo
viên được đào tạo chính quy mơn giáo dục công dân ngay từ đầu năm học, đưa
giáo viên dạy môn giáo dục công dân đi học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ;
thường xuyên kiểm tra việc thực hiện chương trình, giáo án, dự giờ các tiết lên
lớp của giáo viên dạy môn giáo dục công dân; đầu tư mua sắm sách, báo, tài liệu
như trang bị đầy đủ các loại sách pháp luật, cũng như các loại sách liên quan đến
công tác GDPL; tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên tham khảo và cập nhật
kiến thức phục vụ cho việc giảng dạy môn học; tổ chức các buổi thao giảng, hội
giảng, nhằm đánh giá rút kinh nghiệm tiết dạy môn giáo dục công dân về
phương pháp, kết quả tiếp thu của học sinh.
Đối với giáo viên: Giáo viên là đối tượng giáo dục trực tiếp quyết định
việc nâng chất lượng giáo dục, do đó giáo viên nói chung, giáo viên phụ trách


16
môn học giáo dục công dân phải được đào tạo chính quy đúng chuyên ngành,
thường xuyên được bồi dưỡng chuyên mơn nghiệp vụ, phải có nhận thức đúng
đắn về vai trị, vị trí mơn học, phải xác định được trách nhiệm của người thầy,

chú trọng đầu tư cho giảng dạy. Trước hết, để nâng cao chất lượng giảng dạy
môn giáo dục công dân phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy
môn học này đủ về số lượng, đáp ứng về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như phẩm
chất chính trị, đạo đức.
Để bảo đảm cho việc giảng dạy môn giáo dục công dân, đặc biệt là giảng
dạy pháp luật, Sở Giáo dục và Đào tạo cần phối hợp với các ngành Tư pháp tổ
chức bồi dưỡng, cập nhật kiến thức pháp luật cho giáo viên, nhất là khi có thay
đổi về luật, những văn bản mới có liên quan đến bài giảng, cụ thể nhất là các văn
bản quy phạm pháp luật về ATGT. Về lâu dài, Sở Giáo dục cần có kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên trẻ được bố trí giảng dạy môn
giáo dục công dân đáp ứng tốt yêu cầu chun mơn. Đồng thời, cũng có những
chính sách đãi ngộ hợp lý để tạo động lực cho giáo viên trong giảng dạy... Người
giáo viên cần phải tích cực hơn trong đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động tương tác của học sinh. Dù sử dụng phương
pháp nào, giáo viên cũng phải lấy học sinh làm trung tâm. Hiện nay, nhiều
trường còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, về cơng cụ phục vụ
cho việc giảng dạy, vì vậy người giáo viên cần tích cực sưu tầm, sáng tạo, cải
tiến đồ dùng dạy học hiện có để tạo hứng thú cho học sinh khi học trên lớp. Cần
thiết phải thay đổi hình thức GDPL cho học sinh theo hướng trực quan, sinh
động hơn.
Ví dụ, có thể tập trung học sinh theo khối lớp để cho các em cùng xem
một vụ xử án trực tiếp qua truyền hình có đối tượng liên quan đến lứa tuổi học
sinh, hoặc tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật, hoặc tổ chức các phiên tịa
giả định do chính các em nhập vai để chính các em trải nghiệm cảm giác của
người bị xử phạt... Khi các em tận mắt được chứng kiến buổi xét xử, tận mắt
nhìn thấy những người bạn cùng trang lứa với mình bị xét xử vì VPPL, các em
sẽ chủ động hơn trong việc nâng cao kiến thức pháp luật cho mình. Qua đó, các
em cũng nhận thức được điều gì là đúng, điều gì là khơng đúng với pháp luật.
Mục đích cuối cùng của GDPL cho học sinh là giúp các em hình thành ý thức
pháp luật, ý thức tự giác phòng tránh những hành vi VPPL và luôn cố gắng thực

hiện những hành vi hợp pháp.Trong nhà trường, cần phải đa dạng hóa các loại
hình hoạt động ngoại khóa để thực hiện việc GDPL cho các em. Từ đó, gắn việc
giảng dạy kiến thức, pháp luật với các hoạt động xã hội, hoạt động tập thể thiết
thực, bổ ích. Nhà trường cần nâng cao trách nhiệm trong việc quản lý các em từ


17
việc quản lý học tập đến việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, thái độ ứng xử của
các em đối với những người xung quanh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi áp dụng các biện pháp này cho học sinh trong tồn trường năm
học 2019 – 2020 tơi nhận thấy việc thay đổi nhận thức của học sinh và đạt kết
quả nhất định. Học sinh đã có ý thức trong việc thực hiện an tồn giao thơng.
Sau khi áp dụng tuyên truyền các giải pháp giáo dục ATGT
STT

Nội dung khảo sát

1

Hiện tượng điều khiển
xe máy, xe điện khi
chưa đủ tuổi theo quy
định,
Đi xe thả cả hai tay,
đùa nghịch khi đang
tham gia giao thông

2


3
4

5

6

Hành vi chở quá số
người quy định
Không đội mũ bảo
hiểm khi điều khiển xe
máy, xe điện
Đi không đúng phần
đường, Sang đường
không quan sát
Tụ tập tại cổng trường
gây ách tắc giao thông

Tổng số
học sinh
được
khảo sát

Thường
xuyên
xảy ra

Mức độ nhận thức
Thỉnh
Hiếm

thoảng khi xảy
xảy ra
ra

Khơng
xảy ra

50

3

6%

5

42

84%

50

5

10%

7

14%

38


76%

50

6

12%

5

10%

39

78%

4

8%

46

92%

3

6%

41


82%

50

100%

50

50
50

6

12%

10%

Như vậy nhìn vào bảng so sánh số liệu ở trên cho thấy sau khi áp dụng
một số giải pháp đã có sự thay đổi rõ rệt cụ thể:
- Hiện tượng điều khiển xe máy, xe điện khi chưa đủ tuổi theo quy định từ 30%
giảm xuống cịn 6% và tăng lên 84% khơng xảy ra.
- Hay việc 100% học sinh không đội mũ bảo hiểm khi đi xe đạp điện đã
giảm đáng kể tăng lên không xảy ra là 92%.
- Hiện tượng học sinh tụ tập trước cổng trường khơng cịn.


18
Đối với bản thân: đã nhận thức sâu sắc về cơng tác tun truyền giáo dục
pháp luật an tồn cho học sinh trong nhà trường và nhân rộng ra nhiều nơi khác

giúp giảm thiểu tai nạn giao thơng.

Hình ảnh học sinh trước khi ra về
Đối với đồng nghiệp: trao đổi thêm một cách dạy mới, cách tuyên truyền
Phổ biến và hướng dẫn học sinh phong phú và hiệu quả trong cơng tác phổ biến
an tồn giao thơng. Sáng kiến kinh nghiệm là tài liệu tham khảo cho giáo viên
bộ môn giáo dục công dân.
.
Đối với nhà trường: Sáng kiến kinh nghiệm đã góp phần nâng cao hiệu
quả giáo dục đạo đức, giáo dục về pháp luật an tồn giao thơng cho học sinh.
3. KẾT LUẬN
3.1. Kết luận
Giáo dục Việt Nam đã và đang hướng đến mục tiêu giáo dục toàn diện,
cùng với việc GDPL cho nhân dân nói chung thì việc quan tâm GDPL đến các
em ở lứa tuổi học sinh nói riêng là vấn đề hết sức cần thiết và phù hợp với tình
hình thực tiễn của đời sống xã hội hiện nay. Xuất phát từ sự hiểu biết pháp luật
của xã hội, của một bộ phận các em ở lứa tuổi học sinh THCS hiện nay mà đặt
ra yêu cầu cần phải GDPL nhất là pháp luật về ATGT cho các em lứa tuổi
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã làm sáng tỏ những vấn đề như: vai
trị, vị trí của pháp luật trong đời sống xã hội, sự cần thiết phải GDPL cho trẻ ở
lứa tuổi học sinh THCS, đặc điểm của lứa tuổi THCS. Nghiên cứu về pháp luật,


19
các chuẩn giá trị pháp luật đối với quá trình hình thành hành vi xã hội của các
em trong lứa tuổi THCS.
GDPL là một trong những điều kiện quan trọng để hình thành ý thức pháp
luật, động cơ pháp lý, đi đến hành vi pháp luật đúng đắn. Đây là nhân tố quan
trọng để việc thực hiện pháp luật của mọi người mang tính tự giác. Các em ở lứa
tuổi học sinh THCS, đây là lứa tuổi có những biến đổi về tâm sinh lý: năng

động, sáng tạo, nhiều hoài bão, ước mơ, hướng tới cái mới, cái lạ... Đặc điểm
này có thể dẫn đến 2 xu hướng trong hành vi: nếu được giáo dục tốt các em sẽ
phát triển về nhân cách đạo đức theo hướng tích cực, ngược lại nếukhơng sống
trong mơi trường giáo dục tốt, có thể các em sẽ sa ngã, vi phạm các chuẩn mực
pháp luật và điều tồi tệ nhất là VPPL, thậm chí phạm tội.
Để GDPL đạt hiệu quả cần có sự phối hợp của các lực lượng giáo dục, đó
chính là gia đình, nhà trường và xã hội. Sự phối hợp đồng bộ giữa bộ ba chủ thể
giáo dục này thì con người mới được giáo dục toàn diện. Để đi đến mục tiêu
giáo dục toàn diện, chủ thể giáo dục phải biết điều chỉnh, thay đổi phương pháp
và hình thức GDPL cho phù hợp với nhu cầu và thực tiễn đời sống xã hội. Việc
triển khai các nội dung GDPL đến với các em học sinh THCS là vô cùng quan
trọng góp phần hình thành nhận thức, hành vi, thói quen cho các em. Do đó, nội
dung chương trình giáo dục cần phải được bổ sung cụ thể các nội dung mới của
pháp luật và phương pháp giáo dục phù hợp với các em học sinh THCS.
Chủ thể GDPL cần triển khai cơng tác GDPL với tính chất như một nội
dung quan trọng trong nhà trường, gia đình, xã hội... Bên cạnh đó, cần có kế
hoạch đào tạo cho những lực lượng làm công tác GDPL để nâng cao hiệu quả
công tác GDPL cho các em ở ghế nhà trường THCS. Cần đa dạng hóa các hình
thức GDPL để thu hút các em học sinh quan tâm tham gia. Trong công tác
GDPL cần xem xét gắn kết giữa quyền lợi và nghĩa vụ của các em để góp phần
nâng cao nhận thức của các em về GDPL.
Trong các cuộc thi tìm hiểu pháp luật cần hướng cho các em tham gia với
vai trò là người tổ chức, người điều khiển hay người thực hiện để phát huy tính
tích cực của các em học sinh.
Trong nhà trường cần bổ sung nhiều hơn nữa sách giáo khoa, tài liệu
hướng dẫn và đặc biệt là các sách, báo, tạp chí pháp luật nói chung và pháp luật
về ATGT nói riêng. Nhà trường cần có nhiều hoạt động ngoại khố hơn, có lồng
ghép các hoạt động GDPL nói chung và GDPL về ATGT nói riêng để học sinh
được tiếp cận hơn tình hình và những kiến thức, những thông tin cần thiết về trật
tự xã hội, về trật tự an tồn giao thơng hình thành nhận thức đi đến hành vi đúng

đắn khi tham gia giao thơng... Ngồi ra, nhà trường phải biết tận dụng các giờ ra


20
chơi mà thông qua kênh thông tin từ đài truyền thanh nhà trường để phổ biến nội
dung GDPL cho các em học sinh.
3.2. Kiến nghị
Thứ nhất: Cần có một giáo viên chuyên môn riêng biệt về giáo dục pháp
luật trong mỗi trường THCS.
Thứ hai: Đối với các cấp lãnh đạo, chính quyền có liên quan cần tăng
cường đầu tư sở vật chất cho công tác giáo dục pháp luật (Phương tiện nghe
nhìn, truy cập, tìm hiểu thơng tin....) để giáo viên sử dụng các phương tiện trong
tiết dạy một cách hợp lí, thiết thực và có hiệu quả đồng thời thu hút được sự tập
trung và tạo hứng thu học tập cho học sinh trong mỗi giờ lên lớp.
Thứ ba: Đối với nhà trường cần xây dựng được tủ sách pháp luật phong
phú, đa dạng trong kì nhiều sách giáo dục pháp luật phù hợp với nhu cầu tìm
hiểu của giáo viên và học sinh, đồng thời phát động và duy trì văn hóa đọc trong
nhà trường, tránh hình thức, phơ trương mà tập trung vào hình thành văn hóa
đọc sách tự giác, đam mê trong các em.
Thứ tư: Đối với xã hội, cần quan tâm và có các hình thức quyết liệt hơn
nữa trong việc cùng với nhà trường tăng cường cơng tác giáo dục pháp luật cho
tồn xã hội nói chung và thế hệ thanh, thiếu niên và học sinh nói riêng.
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG
......................................................
......................................................
......................................................

Bá Thước, ngày 02 tháng 4 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép, poto copy nội

dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT

Hà Văn Tuyến


21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ths. Nguyễn Huy Bằng (2007), Sáu mối quan hệ cơ bản liên quan đến
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống tội phạm trong học sinh,
sinh viên, Tạp chí Giáo dục.
2. PGS.TS Nguyễn Thanh Bình (2004), Về giáo dục kỹ năng sống ở Việt
Nam, Tạp chí giáo dục.
3. Bộ Cơng an và Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Thông tư liên tịch số
06/2015/TTLT/BCA-BGDĐT ngày 28/8/2015 về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an
ninh quốc gia và đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội
phạm, vi phạm pháp luật khác trong ngành Giáo dục.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Kế hoạch số 366/KH-BGDĐT ngày 28
tháng 6 năm 2010 về thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến,
GDPL trong nhà trường”.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Quyết định 3957/QĐ-BGDĐT ngày 28
tháng 9 năm 2017 ban hành kế hoạch tiếp tục thực hiện, triển khai Đề án “Nâng
cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường đến năm
2021”.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Tư pháp (2010), Thông tư liên tịch
30/2010/TTLT-BGDĐT-BTP, ngày 16 tháng 11 năm 2010, hướng dẫn việc phối
hợp thực hiện công tác phổ biến, GDPL trong nhà trường.
7. Ths. Phạm Thị Kim Dung biên soạn và tổng hợp (2011), Phổ biến giáo
dục pháp luật cho học sinh, sinh viên trong các trường thuộc hệ thống giáo dục
quốc dân, Đặc san tuyên truyền pháp luật, (03).

8. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
11. Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo
12. Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật được thơng qua ngày 20 tháng 6
năm 2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2013.
13. Nghị định 100/2019/NĐ-CP về xử phạt giao thông sẽ phần nào giảm
bớt được tai nạn giao thông.
14. Chỉ thị số 32 - CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư trung ương
Đảng


22

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Hà Văn Tuyến
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường THCS Bùi Xuân Chúc.

TT

1.

2.


3.

4.

Tên đề tài SKKN
Vận dụng một số phương
pháp vào dạy học GDCD cho
HS lớp 6
Giáo dục phòng chống tệ nạn
Ma tuý qua các tiết hoạt động
ngoại khoá GDCD ở trường
THCS Thành Sơn.
Một số phương pháp tạo hứng
thú học tập cho học sinh
trong các giờ học đạo đức
môn Giáo dục công dân lớp 9
trường THCS Hạ Trung.
Một số giải pháp Giáo dục
pháp luật về giao thông
đường bộ cho học sinh trung
học cơ sở Bùi Xuân Chúc xã
Điền Quang huyện Bá Thước,
Thanh Hóa

Cấp đánh giá
xếp loại

Kết quả
đánh giá

xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

(A, B, hoặc C)

Huyện

C

2008

Huyện

B

2012

Huyện

B

2019

Huyện


B

2021


×