Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học tập làm văn lớp 2c trường TH thị trấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 25 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 2C
TRƯỜNG TIỂU HỌCTHỊ TRẤN NGA SƠN HỌC TỐT
PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN DẠNG BÀI KỂ NGẮN

Người thực hiện: Trịnh Thị Hiếu
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị Trấn
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

THANH HÓA, NĂM 2021


MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU
1. 1. Lý do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1 .3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
1 .4. Phương pháp nghiên cứu.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận:
2.1.1. Vị trí, vai trị của việc làm bài tập làm văn .
2.1.2. Phương pháp day học trong phân môn tập làm văn:
2.2.Thực trạng của việc dạy tập làm văn ở trường Tiểu học Thị Trấn
Nga Sơn:


2. 2.1. Về phía giáo viên.
2.2.2. Về phía học sinh.
2.2.3. Khảo sát thực trạng làm bài tập làm văn của học sinh đầu
năm học.
2.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Tập
làm văn lớp2.
2.3.1. Giải pháp 1: Giáo viên cần tìm hiểu, nắm vững nội dung
chương trình phân mơn Tập làm văn lớp 2.
2.3.2. Giải pháp 2:Giáo viên phải tích hợp lồng ghép khi dạy phân
môn tập làm văn dạng bài “Kể ngắn” .
2.3.3. Giải pháp 3 : Dạy học tốt các bài “Trả lời câu hỏi”, “Tập nói”,
… để làm nền cho HS kể ngắn tốt.
2.3.4. Giải pháp 4 : Tăng cường luyện nói, luyện kể, cho học sinh
thơng qua phân môn Tập đọc, Kể chuyện để dạy Phân môn Tập làm
văn đạt hiệu quả.
2.3.5.Giải pháp 5: Thực hiện tốt quan điểm tích hợp để nâng cao
chất lượng phân mơn Tập làm văn dạng bài “Kể ngắn”
2.4. Hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
3. 2. Kiến nghị.
Tài liệu tham khảo
Danh mục sáng kiến kinh nghiệm đã được Hội đồng SKKN Ngành
GD huyện, tỉnh và các cấp cao hơn đánh giá đạt từ loại C trở lên

TRANG
1
1
1
2

2
2
2
2
3
3
3
4
4
5
5
8
10
13
17
18
19
19
20


1. MỞ ĐẦU
1. 1. Lý do chọn đề tài.
Đất nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển. Cuộc sống vật
chất và tinh thần của người dân ngày một nâng cao. Hiện tại hầu hết các gia đình
đều có các loại máy móc phục phụ cho các nhu cầu sinh hoạt cuộc sống hàng
ngày cũng như nhu cầu vui chơi giải trí như: máy giặt, tủ lạnh, ti vi, điện thoại,
máy tính,… Nhiều gia đình đã mua sắm và thưởng cho con mình các trị chơi
hiện đại, đắt tiền. Các em được tiếp xúc với các máy móc trong gia đình ngày
nay là rất sớm, có nhiều em chưa đi học đã biết sử dụng thành thạo ti vi, điện

thoại… Điều này đã giúp cho các em tăng tính tị mị khám phá cái mới lạ, tạo
cho các em tăng tính tư duy. Nhưng cũng chính vì sự tập trung vào khám phá và
vui chơi với các đồ dùng sẵn có nên lớp trẻ ngày nay đang có biểu hiện lười đọc
và viết. Qua thời gian giảng dạy và chấm bài kiểm tra định kì của học sinh các
lớp. Nhiều em học sinh khối lớp 4, lớp 5 khi viết văn câu văn của các em viết
còn nghèo nàn chưa phong phú câu từ chưa phù hợp.
Môn Tiếng Việt có vai trị vơ cùng quan trọng trong q trình học tập
cũng như giao tiếp của các em. Mơn Tiếng Việt giúp các em có các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết phục phụ cho việc học và giao tiếp; ngồi ra mơn Tiếng Việt
cịn cung cấp cho các em vốn từ ngữ phong phú để các em sử dụng. Phân mơn
Tập làm văn (TLV) là phân mơn đóng vai trị quan trọng đối với việc phát triển
ngơn ngữ của học sinh nói chung và đối với học sinh lớp 2 nói riêng, là chìa
khóa mở ra kho tàng văn hóa trên mọi lĩnh vực đời sống, xã hội của con người.
Hơn nữa, phân môn TLV giúp học sinh lĩnh hội Tiếng Việt văn hóa, là cơng cụ
giao tiếp tư duy và học tập. Muốn viết hay, nói giỏi đều phải dùng từ. Từ là vật
liệu để cấu thành ngôn ngữ. Hiểu được nghĩa của từ đã khó cịn phải biết dùng
từ như thế nào cho hợp với văn cảnh cịn khó hơn. Vì vậy dạy cho học sinh nắm
vững kiến thức Tiếng Việt không thể không coi trọng phân mơn TLV, đặt nền
móng cho việc tiếp thu tơt các môn khác ở các lớp trên. Đối với học sinh lớp 2,
ở lứa tuổi này tâm lí các em cịn hồn nhiên, sự tập trung chú ý chưa cao. “Các
em chưa ý thức được rõ giới hạn giữa chơi và học nên gặp nhiều khó khăn trong
khi chuyển trạng thái từ hoạt động chơi sang học, chưa biết phân bố thời gian
giữa các mơn học cho phù hợp” (1)
Vì thế tơi nhận thấy mơn TLV là phân mơn khó trong các phân mơn của
Tiếng Việt. Trong q trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học sinh với
vốn kiến thức cịn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc phải nói ,các em
thường đọc lại bài viết đã chuẩn bị trước hoặc nói theo lời cơ giáo hoặc bạn
mình đã nói mẫu...Do đó giờ dạy chưa đạt hiệu quả cao. Trong q trình dạy
TLV lớp 2, tơi nhận thấy chất lượng nói và viết của học sinh cịn hạn chế. Mà
ngơn ngữ lại giữ vai trị quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của xã hội nói

chung. Đặc biệt ngày nay xã hội ta ngày càng phát triển thì nhu cầu địi hỏi về tri
thức con người ngày càng cao, trong đó ngơn ngữ nói và viết là vơ cùng cần
thiết cho mỗi người. Vì vậy, để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học tốt
phân môn TLV cho học sinh lớp 2 bản thân tơi ln cố gắng để tìm ra những
biện pháp đổi mới về phương pháp khi dạy phân môn TLV .Chính vì thế mà tơi
chọn nghiên cứu và thực nghiệm đề tài :“Một số giải pháp giúp học sinh lớp


2C Trường Tiểu học Thị Trấn học tốt phân môn Tập làm văn dạng bài kể
ngắn ”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu nội dung chương trình phân mơn tập làm văn, hệ thống thành
các dạng bài, từ đó nâng cao chất lượng học tập phân mơn TLV nói riêng, phân
mơn Tiếng Việt nói chung, giúp học sinh có khả năng sử dụng Tiếng Việt như
một công cụ giao tiếp, học tập.
- Nhằm nâng cao hiệu quả của việc viết văn cho học sinh lớp 2. Từ đó, rút
ra những kết luận sư phạm ứng dụng vào việc dạy nội dung Tập làm văn ở Tiểu
học nói riêng và giảng dạy các mơn học khác nói chung.
- Giúp học sinh rèn luyện kĩ năng viết văn của bản thân.
- Hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt
(như nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động
của lứa tuổi.
1 .3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu việc dạy học phân môn tập làm văn lớp 2C tại Ttrường Tiểu
học Thị Trấn - Huyện Nga Sơn - TỉnhThanh Hóa.
Nghiên cứu về các dạng bài tập làm văn, cách vận dụng các bài tập làm
văn trong dạy học tập làm văn cho học sinh lớp 2.
Lớp 2C gồm 35 học sinh trường Tiểu học Thị Trấn nơi tôi đang trực tiếp
chủ nhiệm và giảng dạy.
1 .4. Phương pháp nghiên cứu.

Trong q trình nghiên cứu, thử nghiệm bản thân tơi đã áp dụng một số
nhóm phương pháp chính sau:
*Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Đọc các tài liệu liên quan đến đề tài: Sách hướng dẫn giảng dạy TV2,
Tạp chí giáo dục Tiểu học.
- Nghiên cứu chương trình TV lớp 2, tài liệu hướng dẫn về đổi mới nội
dung - phương pháp dạy học ở Tiểu học, Chương trình bồi dưỡng thường xuyên.
- Nghiên cứu tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng, nghị quyết số 29 của TW về
đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục.
- Tìm hiểu chương trình tài liệu bồi dưỡng giáo viên, sách tham khảo đến
dạy học phân môn tập làm văn.
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Khảo sát chất lượng làm bài tập làm văn của học sinh ngay từ đầu năm
học.
- Dự giờ đồng nghiệp. Sinh hoạt chuyên môn về phân môn tập làm văn cho
HS.
- Tiến hành dạy thực nghiệm, đối chứng, trao đổi rút kinh nghiệm, đánh giá của
việc vận dụng đổi mới nội dung - phương pháp dạy học về phương pháp dạy tập làm
văn ở lớp 2C Trường Tiểu học Thị Trấn.
- Thống kê chất lượng thông qua bài khảo sát các kĩ năng sống đầu năm học.
*Phương pháp thực nghiệm:


- Tiến hành dạy thực nghiệm, đối chứng, trao đổi rút kinh nghiệm, đánh giá
việc vận dụng đổi mới nội dung - phương pháp dạy học vào lớp 2C trường Tiểu học
Thị Trấn
- Quan sát việc học tập TLV của học sinh.
- Thống kê chất lượng thông qua bài khảo sát.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận:

2.1.1. Vị trí, vai trị của việc làm bài tập làm văn.
* Tập làm văn là gì?
Là một hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ thực hành hoạt động giao tiếp
nhằm nhằm rèn luyện cho học sinh các kỹ năng tạo lập vănbản trong quá trình
lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh biết cáchsử dụng tiếng
Việt có hiệu quả trong đời sống sinh hoạt .[1 ]
* Vì sao phải rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh?
Khi tham gia vào bất kỳ hoạt động học tập nào đều đòi hỏi chúng ta phải
thỏa mãn những kết quả học tập tương ứng. Rèn luyện kĩ năng viết văn cho học
sinh là nhằm giúp các em rèn luyện kĩ năng ứng xử thân thiện trong mọi tình
huống; kĩ năng hoạt động xã hội. Đối với học sinh tiểu học việc hình thành các
kĩ năng viết văn trong học tập là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình
hình thành và phát triển kỹ năng nghe ,nói đọc viết, tính tốn của các em.
Theo đó, tơi đã tập trung rèn luyện cho các em học sinh lớp 2 các nhóm
từng chủ đề .
* Kĩ năng giao tiếp - hòa nhập cuộc sống:
- Các em biết giới thiệu về bản thân, về gia đình, về trường lớp học và bạn
bè thầy cô giáo.
- Biết chào hỏi lễ phép trong nhà trường, ở nhà và ở nơi công cộng.
- Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi,lời an ủi...[ 2 ]
* Kĩ năng trong học tập, lao động - vui chơi giải trí:
- Các kĩ năng nghe, đọc, nói, viết, kĩ năng quan sát, kĩ năng đưa ra ý kiến
chia sẻ trong nhóm.
-Kĩ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung.
-Kĩ năng kiểm sốt tình cảm - Kĩ năng kìm chế thói hư tật xấu sở thích cá
nhân có hại cho bản thân và người khác.
-Kĩ năng hoạt động nhóm trong học tập vui chơi và lao động.
*Kĩ năngPhịng tránh tai nạn thương tích.
-Kĩ năng phịng chống đuối nước, KN khơng chơi các trị chơi nguy hiểm.
- Kĩ năng biết tự bảo vệ bản thân, tìm kiếm sự giúp đỡ...

2.1.2. Phương pháp day học trong phân môn tập làm văn:
Phương pháp học tập là hình thức học tập thông qua các phương pháp
khác nhau. Phương pháp không chỉ là một “cơng cụ” dạy học mà nó cịn là con
đường sáng tạo xuyên suốt quá trình học tập của học sinh. Phương pháp tổ chức
là sự đánh giá trong q trình dạy và học của thầy và trị mà nó cịn tạo cho ta
cảm giác thoải mái, tự tin, có sự sáng tạo, nhanh trí, có óc tư duy, tưởng tượng
của học sinh. Qua các hoạt động dạy học các tự lĩnh hội các kiến thức ,các em
ứng xử và tự mình giải quyết được các tình huống cụ thể mà bản thân mỗi học


sinh gặp phải. Chính vì thế dạy kết hợp với tổ chức trị chơi chính là việc giáo
viên hướng dẫn học sinh hoàn thành tốt phẩm chất của con người mới. Con
người xã hội chủ nghĩa, ứng xử văn hóa, thông minh, sáng tạo và nhanh nhẹn.
2.2.Thực trạng của việc dạy tập làm văn lớp 2 ở trường Tiểu học Thị Trấn
Nga Sơn:
2. 2.1. Việc dạy của giáo viên.
Trường Tiểu học Thị Trấn là một ngôi trường luôn dẫn đầu về phong trào
dạy tốt trong khối Tiểu học của Huyện Nga Sơn. Trường có đội ngũ giáo viên
vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ, 100% giáo viên của nhà trường có trình
độ trên chuẩn, có rất nhiều giáo viên là giáo viên giỏi các cấp, phương pháp dạy
học linh hoạt đã lôi cuốn được học sinh vào học tập tốt. Tuy nhiêntrong thực tế
giảng dạy, qua thao giảng, kiến tập của giáo viên trong khối 2 (qua một số tiết
tập làm văn ) bản thân tôi và đồng nghiệp đã áp dụng một số phương pháp dạy
học tích cực vào dạy học được coi trọng nhưng vẫn còn một số tồn tại:
Giáo viên chưa nắm hết bản chất, nội dung, vai trị của phân mơn tập làm
văn đối với học sinh lớp 2. Cịn một số ít giáo viên cịn chưa đầu tư vào các giờ
day mà mới chỉ soạn bài đầy đủ trước khi lên lớp .
Trong kế hoạch bài dạy của giáo viên đã soạn bài nhưng sơ sài, qua loa,
việc lựa chọn các phương pháp và hình thức dạy học cịn đơn điệu, chưa có sự
đầu tư nhiều đặc biệt là trò chơi học tập giải quyết các tình huống, giúp học sinh

học tập tốt và tránh được những điều khơng hay với bản thân mình.
Nhiều tiết dạy học giáo viên đã sử dụng phương pháp: trò chơi học tập, tuy
nhiên chủ yếu chỉ dạy ở những tiết thao giảng, dự giờ. Còn những tiết dạy hàng
ngày trên lớp giáo viên còn ngại tổ chức trò chơi cho học sinh. Việc sử dụng
phương pháp trò chơi trong dạy học chưa thực sự được chú trọng và chưa mang
lại hiệu quả. Sở dĩ có tình trạng trên là do mỗi giáo viên chưa thấy hết ý nghĩa
tác dụng của trò chơi trong giờ học tập làm văn cho học sinh, còn lệ thuộc nhiều
vào tài liệu hướng dẫn của các loại sách.
2.2.2. Việc học của học sinh.
Trường tiểu học Thị Trấn là một trong những trường chuẩn quốc gia mức
độ 2 tốp đàu tiên của tỉnh Thanh Hóa. Học sinh Trường Tiểu học Thị Trấn vốn
có truyền thống hiếu học và có bề dày trong thành tích về học tập. Học sinh chủ
yếu là con gia đình cán bộ, được các bậc phụ huynh quan tâm, tạo điều kiện về
vật chất, tinh thần cho các em học tập tốt. Vì vậy đai đa số học sinh của nhà
trường tự tin, giao tiếp tốt, chất lượng học tập khả quan
Bên cạnh những học sinh chăm học, vẫn còn một số em đang còn rất thờ
ơ với việc học. Học sinh lớp 2 học môn Tiếng Việt phải học nhiều phân môn.
Các em rất bỡ ngỡ khi học phân môn Luyện từ và câu và Tập làm văn. Đây là
một phân môn mới lạ với các em từ lớp một lên, có một số em bố mẹ cho đặt
câu, viết đoạn ở nhà là các em tỏ ra lo sợ và mệt nhọc (Phụ huynh em
MinhĐức , Thái sơn, Trương Đăng Tuấn, Trọng Đạt ... phản ánh lại). Vì vậy, kĩ
năng giao tiếp, vốn từ ngữ, kiến thức về câu của các em rất hạn chế, điều này
ảnh hưởng lớn đến chất lượng học tập của các em nói chung.
Một số phụ huynh chưa chú trọng đến việc dạy dỗ con em mình những kĩ
năng viết văn cần thiết trong học tập cũng như trong cuộc sống, vẫn còn một số


em đang còn rất thờ ơ với việc học, chưa hiểu biết về mơn tập làm văn, vì các
em mới từ lớp1 lên nên vốn từ cịn hạn chế. Có rất nhiều phụ huynh cho rằng
không dạy sau này các em lớn các em sẽ viết được văn, chỉ cần giỏi Tốn,

Tiếng Anh mà khơng chú ý đến học các kĩ năng viết văn.
Việc hình thành cho học sinh kĩ năng viết văn là nhiệm vụ của gia đình,
nhà trường và xã hội. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả của việc
dạy phân môn tập làm trong các nhà trường chưa cao là do bản thân phụ huynh
còn chưa chú trọng, thiếu quan tâm đến con em mình, chưa chặt chẽ, sát sao,
cịn bng lỏng, lơ là, khốn cho giáo viên dạy…
2.2.3. Khảo sát thực trạng làm bài tập làm văn của học sinh đầu năm học.
Sau 2 tuần nhận nhận lớp và giảng dạy trực tiếp tại lớp 2C hai tiết học
TLV, tôi nhận thấy rằng, số học sinh nắm được bài, tích cực xây dựng bài và
mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp cũng như các kĩ năng vui chơi cịn rất nhiều hạn
chế. Tơi đã tiến hành khảo sát kết quả làm văn của học sinh đầu năm học như
sau:
Kết quả khảo sát đầu năm học:
Điểm
Thời gian
Đầu năm

Tổng số
học sinh
35

Điểm
(9 – 10)

Điểm
(7 – 8)

Điểm
(5 – 6)


Điểm
(1 - 4)

5

12

15

3

Qua bảng khảo sát trên cho thấy chất lượng làm bài tập làm văn chưa có
gì khả quan, với tỷ lệ làm văn như trên có thể nói là chưa phù hợp. Vì vậy để
nâng cao hiệu quả dạy học tập làm văn trong nhà trường, vai trò của người giáo
viên chủ nhiệm và giảng dạy là quyết định. Chính vì mục tiêu đó, tơi chọn đề
tài :“Một số giải pháp giúp học sinh lớp 2C Trường Tiểu học Thị Trấn học tốt
phân môn Tập làm văn dạng bài kể ngắn ”.
2.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Tập làm văn
lớp2.
Để chất lượng học tập, rèn luyện và vui chơi đạt hiệu quả cao, tôi đã áp
dụng một số phương pháp đổi mới trong đó có phương pháp dạy truyền thống và
các phương pháp hiện đại để gây hứng thú trong việc học tập làm văn cho học
sinh. Bởi kĩ năng là cái khơng phải là có sẵn, các kĩ năng đó được hình thành và
phát triển trong quá trình học tập và rèn luyện, thực hành, trải nghiệm trong cuộc
sống hàng ngày ở trường, ở gia đình và ngồi xã hội, việc giáo viên khơi dậy
hứng thú, niềm say mê học tập, các em được liên hệ và thực hành sau mỗi nội
dung bài học, tạo khơng khí sơi nổi cho một giờ học. Điều đó địi hỏi giáo viên
phải xác định rõ yêu cầu cần đạt. Trên cơ sở đó xác định cần lựa chọn phương
pháp nào? Dạy các em ở sau bài tập tình huống nào? Liên hệ ở nội dung bài học
nào? Trò chơi nào? Bài học chủ đề nào? Cách tổ chức ra sao? Nếu giáo viên

không xác định được các phương pháp thì khơng gặt hái được kết quả như mong
muốn. Bản thân học sinh không vận dụng được những điều đã học vào việc viết
văn. Chính vì vậy việc giảng dạy để nâng cao chất lượng dạy học tập làm văn ở


lớp 2 được tiến hành ra sao để học sinh chủ động, hào hứng lĩnh hội tri thức, biết
vận dụng vào những tình huống cụ thể để viết ra những câu văn hay, đó là điều
tơi đã nghiên cứu và tìm hiểu được một số giải pháp sau:
2.3.1. Giải pháp 1: Giáo viên cần tìm hiểu, nắm vững nội dung chương trình
phân mơn Tập làm văn lớp 2.
Năm học 2020 – 2021 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp
2C .Sau khi nhận lớp và trực tiếp giảng dạy các em. Bản thân tơi nhận thấy các
em chỉ thích học Tốn và một số mơn học khác. Nói đến học Tiếng Việt các em
rất ngại học, nhưng học Tập đọc hay Kể chuyện các em còn hướng thú nhưng
khi nói đến học phân mơn Tập làm văn thì đa số các em không hứng thú học
tập .Một phần là do các em vừa ở lớp 1 lên , nên các em chưa hiểu như thế nào
là tập làm văn, kỹ năng diễn đạt của các em còn rất hạn chế. Điều này cũng dễ
hiểu bởi vì vốn từ của các em còn nghèo, cơ hội để các em rèn luyện cịn ít. Mục
tiêu của mơn Tiếng Việt lớp Hai là tiếp tục rèn luyện cho HS bốn kĩ năng, trong
đó có kĩ năng nói – kể ngắn. Thơng qua dạy học, các em được rèn luyện kĩ năng
nói. Đặc biệt phân môn Kể chuyện và Tập làm văn rèn cho các em diễn đạt trôi
chảy, kĩ năng gắn kết các câu nói với nhau. Trong chương trình Tập làm văn lớp
2, dạng bài kể ngắn gần như được học trọn trong học kì I, đến cuối học kì II các
em chỉ học thêm có 2 tiết. Qua các bài “kể ngắn”, các em sẽ được trau dồi kĩ
năng diễn đạt.
Chương trình Tập làm văn lớp Hai gồm ba dạng bài cơ bản:
Dạng bài thứ 1. Là dạng bài luyện tập về nghi thức lời nói tối thiểu;
Dạng bài thứ 2. Là dạng bài luyện tập các kĩ năng phục vụ học tập và đời
sống hằng ngày .
Dạng bài thứ 3. Là dạng bài kể ngắn.

Ba dạng bài này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Bài tập của dạng bài
này ngoài tác dụng rèn luyện kĩ năng cho chính dạng bài đó cịn có tác dụng hỗ
trợ cho dạng bài khác.
Ví dụ: Bài 1 (tuần 1): Tự giới thiệu – Câu và bài.
Bài này ngoài việc rèn luyện kĩ năng về nghi thức lời nói (tự giới thiệu) cịn có
tác dụng hỗ trợ cho việc rèn luyện kĩ năng nói, kể cho học sinh. Chẳng hạn bài
tập 2: Nghe các bạn trong lớp trả lời các câu hỏi ở bài tập 1. Nói lại những điều
em biết về một bạn. Hay bài tập 3: Kể lại nội dung mỗi tranh dưới đây bằng 1, 2
câu để tạo thành một câu chuyện. Để tiện việc nghiên cứu, soạn bài và chuẩn bị
tốt cho các tiết dạy dạng bài kể ngắn, tơi lập nội dung chương trình như sau:
Tuần
1
3
5
7

Nội dung bài dạy
Tự giới thiệu – câu và bài
Sắp xếp câu trong bài – lập
danh sách học sinh
Luyện tập về mục lục sách
Kể ngắn theo tranh – luyện
tập về thời khoa biểu

Lưu ý
Bài tập 3 có tác dụng rèn kĩ năng kể
Bài tập 1 có tác dụng rèn kĩ năng kể
Bài tập 1 có tác dụng rèn kĩ năng kể
Bài tập 1: kể ngắn



8
10
13
15
16

Mời nhờ, yêu cầu, đề nghị –
kể ngắn theo câu hỏi
Kể về người thân

Bài tập 2: kể ngắn

Trọng tâm cả tiết là rèn luyện kĩ
năng kể ngắn.
Kể về gia đình
Trọng tâm cả tiết là rèn luyện kĩ
năng kể ngắn.
Chia vui – kể về anh, chị, em Bài tập 3 có tác dụng rèn kĩ năng kể
Khen ngợi – kể về con vật – lập Bài tập 2: kể ngắn
thời gian biểu.

Để đạt hiệu quả khi dạy dạng bài văn kể ngắn thì giáo viên phải lồng
ghép vào tất cả các mơn học khác như Tập đọc, kể chuyện, chính tả và luyện từ
và câu. Ngồi ra giáo viên cịn phải lồng ghép cả vào mơn Tốn, vì mơn tốn
khả năng tư duy cao, Môn tự tự nhiên- xã hội là khả năng phán đốn và khả
năng nhận biết … Có như vậy thì các em mới tiếp thu và lĩnh hội được những gì
mà giáo viên cung cấp và truyền đạt cho các em.
Ví dụ như dạy bài. Tự giới thiệu – Câu và bài. Tuần 1. Bài này có 3 bài
tập.Yêu cầu cần đạt khi dạy bài này là.

Biết nghe và trả lời đúng một số câu hỏi về bản thân.
Biết nghe và nói lại được những điều em biết về một bạn trong lớp.
Bước đầu kể được câu chuyện theo tranh ( Đối với học sinh khá giỏi)
Như vậy ngoài việc rèn luyện kĩ năng về nghi thức lời nói (tự giới thiệu)
cịn có tác dụng hỗ trợ cho việc rèn luyện kĩ năng nói, kể cho học sinh. Thơng
thường thì các giáo viên theo tơi được biết thì khi dạy bài này giáo viên thường
xuyên dùng phương pháp hỏi đáp. Giáo viên hỏi và Học sinh trả lời. Nhưng cá
nhân tôi khi dạy bài này cụ thể bài là bài tập 1. Thì tơi sẽ tổ chức cho các em
thảo luận theo nhóm nói nói cho nhau nghe về mình và nơi ở của mình…theo
yêu cầu của đề. Sau khi các em nói với nhau trong nhóm thì tơi sẽ tổ chức các
em thi các nói trước lớp cá nhân. Vì bài này các em đã được học bài Tập đọc .
Tự Thuật nên các em ít nhiều cũng gần như nắm chắc được bài nên không cần
sử dụng hình thức hỏi đáp sẽ khơng gây hứng thú cho học sinh. Mà dẫn đến lớp
ồn học sinh khơng u thích mơn học với hình và phương pháp tôi vừa nêu trên
lớp học tôi rất sôi nổi các em chăm chú học bài.


Hình ảnh học sinh thảo luận nhóm thơng qua giờ học Tập làm văn.
Như vậy sau khi học sinh thảo luận xong các em sẽ xung phong lên trước
lớp giới thiệu về mình cho cả lớp nghe.


Hình ảnh học sinh của Trường Tiểu học Thị Trấn đang giới thiệu về mình.
2.3.2. Giải pháp 2:Giáo viên phải tích hợp lồng ghép các phân mơn Tiếng việt
khi dạy phân môn Tập làm văn dạng bài “Kể ngắn” .
Chúng ta biết rằng tư duy trừu tượng của học sinh lớp Hai còn rất hạn chế.
Việc yêu cầu học sinh kể ngay một sự việc nào đó dù là ngắn cũng rất khó khăn
với các em. Bởi vì vốn từ của các em còn hạn chế và nhất là việc sắp xếp ý để
thành câu chuyện ngắn càng khó khăn hơn. Vì thế tơi đã vận dụng chun đề
phân mơn Kể chuyện, để tôi tổ chức cho học sinh lồng ghép các mơn học trong

chương trình lớp 2 để phục vụ cho việc dạy dạng bài kể ngắn cho học sinh lớp
2C Trường Tiểu học Thị Trấn.
Khi dạy tập làm văn giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp kiến thức giữa các
phân môn: Tiếng Việt, Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập viết và tất cả
các môn học khác như Toán, Tự nhiên và xã hội .Đạo Đức ... để giảng dạy và tạo
đà cho học sinh học tốt phân môn tập làm văn. Mối quan hệ này thể hiện rất rõ
trong cấu trúc của sách giáo khoa, các bài học được biên soạn theo chủ đề, chủ
điểm hay đơn vị học xoay quanh một chủ điểm ở tất cả các phân mơn.
Trong q trình giảng dạy, giáo viên cần liên hệ những nội dung kiến thức
có liên quan đến các chủ đề học tập trong các phân môn Tập đọc, Kể chuyện,
Luyện từ và câu và các môn học khác, những môn không phải trong môn tiếng
việt mà cả mơn tốn Tự nhiên và xã hội .Đạo Đức ... Có như vậy thì mới cung
cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về sự vật, hiện tượng xoay quanh các chủ đề
để học sinh có kiến thức, không bỡ ngỡ khi gặp những đề bài mới chưa được


luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có hiểu biết về đề tài, vận dụng kỹ năng thực
hành để bài viết đạt kết quả.
Ví dụ: Dạy bài “ Kể về gia đình em” Ở chủ đề này các các đã học các bài
Tập đọc như: Sáng kiến của bé Hà. Quà của bố. Em Nụ …và một số bài khác.
Nên các em đã biết được người thân của mình là những ai và mọi người đều yêu
thương yêu nhau, dùm bọc lẫn nhau. Thơng thường thì ở dạng dạy bài“ Kể về
gia đình em” Giáo viên chủ quan là các em đã biết được người thân trong gia
đình thơng qua các bài Tập đọc đã học. Do vậy cứ đến giờ dạy tập làm văn giáo
viên thường cho các em kể về người thân của mình. Nhưng thực tế chỉ một số ít
em kể được. Mà các em có kể được cũng chỉ kể được một hoặc hai câu nhưng
phải nhờ sự giúp đỡ của giáo viên. Vì các em chưa hiểu được nội dung là phải
kể từ đâu trước, kể như thế nào? Do vậy đã dẫn đến giờ học không hiệu quả,
nhàm chán mà học sinh cũng không hứng thú học tập. Chính vì lẽ đó mà khi nói
đến học Tập làm văn các em rất ngại học. Nắm bắt được tâm lí của học sinh bản

thân tơi khi dạy đến bài này “ Kể về gia đình em” Tôi đã đặt ra kế hoạch như
sau.
Khi dạy hết bài Tập làm văn của tiết trước, tơi dặn dị học sinh về nhà dựa
vào câu hỏi gợi ý của bài Tập làm văn tiết sau là các em ở nhà chuẩn bị tìm ra
các từ then chốt cho tiết Tập làm văn tuần tới (khoảng 4 – 5 từ). Mà từ then chốt
ở đây là những từ nói về người thân của mình, đức tính của mỗi người... Trong
tuần trước khi học tập làm văn, tôi thường xuyên kiểm tra và nhắc nhở các em
việc tìm từ then chốt. Có kiểm tra thường xun như vậy thì những em hơm nay
chưa làm thì ngày mai về các em sẽ phải làm. Môt lần kiểm tra là một lần các
em sẽ ghi nhớ. Tôi không những kiểm tra mà tôi cịn u cầu các em ghi các từ
tìm được vào vở đã chuẩn bị. Có như vậy thì đến giờ học Tập làm văn khi cco
hướng dẫn các em đã phần nào hiểu được kể về người thân thì phải kể như thế
nào ? Ngoài việc tổ chức học sinh tìm từ then chốt,bản thân tơi cũng tìm từ
then chốt và ghi vào bảng phụ để chuẩn bị cho tiết dạy. Để cho học sinh thấy
được khơng phải mình các cem chuẩn bị mà cô cũng phải chuẩn bị. Như vậy là
rèn cho học sinh thói quen phải chuẩn bị bài đầy đủ trước khii đến lớp. Cũng
như học bài mới.Ví dụ:Hệ thống các từ then chốt dạy bài Kể về gia đình: 5
người Ơng nội, Cha, mẹ, chị và em; Nơng dân, cần cù, vui tính, học giỏi; u
q, tự hào. Đến giờ tập làm văn, tôi cho các em cầm vở ghi từ chốt để kể. Đối
với học sinh khá giỏi tơi khuyến khích các em thốt ly vở từ chốt để kể tự nhiên
hơn. Đối với học sinh yếu, khơng tìm được từ chốt, tơi cho các em nhìn vào hệ
thống từ chốt của giáo viên để kể. làm như vậy tôi chất lương trong giờ tập làm
văn đã được cải thiện đáng kể, học sinh tự tin mạnh dạn hơn.
Để đánh giá hiệu quả của biện pháp này, tôi tổ chức một tiết thao giảng và
mời giáo viên trong tổ dự giờ, góp ý.Bài dạy: “Kể về người thân ”
Qua tiết dạy, giáo viên nhận xét biện pháp đạt hiệu quả tốt và đồng tình
vận dụng vào thực tế dạy học.


Giáo viên đã chuẩn bị bảng phụ từ then chốt để dạy bài.“Kể về người

thân .”
Như vậy thông qua việc lồng ghép các kiến thức từ các môn học đã giúp
cho các em hăng say học tập, mạnh dạn tự tin khi làm việc trước tập thể, làm
cho tinh thần các em thoải mái, thi đua nhau giành chiến thắng cho mình và cho
tổ của mình, động viên, khích lệ tinh thần học tập tự tin, đoàn kết, các em thích
thú, khơng ngại ngùng khi gặp thầy cơ, bạn bè, giao tiếp mạnh dạn trước tập thể,
các em luôn thi đua nhau học tập, vượt qua thử thách, vượt qua chính mình
2.3.3. Giải pháp 3: Dạy học tốt các bài “Trả lời câu hỏi”, “Tập nói”, để làm
nền cho HS kể ngắn tốt.
Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các
hoạt động học tập một cách chủ động tích cực. Người giáo viên cần thay đổi
nhiều hình thức học tập để tạo cơ hội cho nhiều học sinh cùng được tham gia
trình bày ý kiến của mình, như: Tổ chức học chung tồn lớp, tổ chức học theo
nhóm (tổ chức lớp thành viên nhiều nhóm, các nhóm cùng đóng vai, trao đổi bàn
bạc để thực hiện nội dung bài học); Tổ chức để từng cá nhân làm việc độc lập nhằm
thực hiện nhiệm vụ học tập. Qua đó học sinh lĩnh hội kiến thức, tích cực, tự giác.
Khơng khí học tập thoải mái khiến học sinh mạnh dạn, tự tin khi nói. Các em
dần có khả năng diễn đạt ,phát biểu ý kiến ,đánh giá trước đơng người một cách
lưu lốt, rành mạch, dễ hiểu, cũng như biết nói trong các tình huống giao tiếp
nơi cơng cộng, ở gia đình, trong trường học.
Kiến thức – kĩ năng Tập làm văn lớp 2 được sắp xếp từ dễ đến khó một
cách hợp lý. Đầu lớp 2, các em được thực hiện các bài tập “Trả lời câu hỏi”
(Tuần 1, tuần 5, tuần 8, tuần 14), bài tập “Nói lại – nhắc lại” (Tuần 1, tuần 2),
sau đó nâng lên một bước HS được làm các bài tập “Sắp xếp lại thứ tự các


tranh và dựa theo nội dung các tranh để kể lại câu chuyện”, “Sắp xếp lại các
câu cho đúng thứ tự của truyện …” Do đó để giúp HS kể tốt, tôi tổ chức các
biện pháp để giúp các em thực hiện tốt các bài tập trên. Ngoài việc yêu cầu HS
trả lời đúng nội dung, tôi yêu cầu các em phải trả lời đủ câu.

Ví dụ: Bài Tập làm văn .Trả lời câu hỏi.
Đối với dạng bài này thường giáo viên nêu câu hỏi học sinh trả lời nhưng
khi giáo viên cho trả lời nhiều khi không chú trọng đến câu trả lời của học sinh
vì có những học sinh trả lời câu câu cụt như :
Câu hỏi: Bạn trai đang vẽ ở đâu?
Trả lời: Đang vẽ ở trên tường. (đây là câu cụt)
Các câu khác cũng tương tự. Vì đối tượng là học sinh lớp 2 các em vừa ở
lớp 1 lên, nên vốn từ các em chưa phong phú và các câu trả lời thường chưa đầy
đủ thành phần. Vậy làm thế nào để cho các em trả lời các câu hỏi đầy đủ tành
phần. Bản thân cũng rất băn khoăn và trăn trở cho nên tôi đã có biện pháp yêu
cầu các em khi trả lời thì phỉ trả lời đầy đủ thành phần của câu như sau .
Cũng là câu hỏi trên : Bạn trai đang vẽ ở đâu?
Trả lời đầy đủ: Bạn trai đang vẽ ở trên tường.
Tôi yêu cầu các em phải trả lời lại cho đủ thành phần của câu. Thực hiện
nhiều lần như thế, kết quả các em có thói quen trả lời đủ câu. Đây cũng là cơ sở
để các em kể chuyện tốt.
Ví dụ: Đối với dạng bài tập “Kể lại theo tranh”, “Sắp xếp lại thứ tự
các tranh, sau đó dựa theo nội dung các tranh ấy, kể lại câu chuyện”, “Dựa
vào tranh, trả lời câu hỏi”, “Dựa vào tranh vẽ, kể chuyện…”,
Tôi gợi ý cho HS thêm thắt các từ ngữ để kết nối ý giữa các tranh cho câu
chuyện thêm sinh động. Đầu tiên tôi gợi ý để các em khá giỏi thực hiện trước,
sau đó nhân ra cho cả lớp.
Ví dụ: Tuần 1, HS làm bài tập “Kể lại nội dung dưới đây bằng 1, 2
câu để tạo thành một câu chuyện. ”
Theo yêu cầu của đề bài HS có thể kể:
“Huệ cùng các bạn vào vườn hoa (tranh 1). Huệ thấy một khóm hồng
đang nở rất đẹp (tranh 2). Huệ giơ tay định ngắt bông hồng. Tuấn thấy thế vội
ngăn lại (tranh 3).Tuấn khuyên Huệ không được ngắt hoa (tranh 4).
Khi Tôi dạy bài tập này tôi sẽ gợi ý để cho HS thêm một số từ cho câu
văn thêm sinh động như sau:

“Một hôm, Huệ cùng các bạn vào vườn hoa (tranh 1). Thấy một khóm
hồng đang nở rất đẹp, Huệ thích lắm(tranh 2). Huệ len lén giơ tay định ngắt
một bông hồng. Tuấn thấy thế vội ngăn lại (tranh 3). Tuấn khuyên Huệ không
nên ngắt hoa trong vườn. Hoa của vườn hoa phải để cho tất cả mọi người
cùng ngắm (tranh 4). Chú thích: các từ gạch chân và in đậm là các từ thêm
Như vậy khi đọc lại chúng ta thấy nội dung hay hơn những câu văn đày
đủ thành phần mà học sinh cũng rất đẽ nhớ .


Hình ảnhhọc sinh trả lời câu hỏi của giáo viên.
* Ví dụ khi dạy Chia buồn an ủi: Tuần 11.
Ơng em (hoặc bà em) bị mệt. Em hãy nói với ông (hoặc bà) 2-3 câu để tỏ
rõ sự quan tâm của mình. Để dạy được dạng bài này tơi thường xác định định
được mục tiêu đúng trọng tâm. Giáo viên cần phải làm gì ? Học sinh cần làm gì?
Tổ chức các hình thức dạy học nào? Khi dạy bài này cần có những hoạt động
nào? Sau khi tơi đã xác đinh được những vấn đề đã nêu thì tơi sẽ tiến hành dạy
học sinh theo các bước đã chuẩn bị .
Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh nắm yêu cầu của bài tập, định hướng cho học
sinh giao tiếp. Giáo viên dùng câu hỏi: Bài tập yêu cầu gì? nói gì? nói với ai, nói
với hình ảnh nào? Nói để làm gì? Thái độ, tình cảm của các nhân vật khi nói với
nhau như thế nào?
Hoạt động2: Hướng dẫn mẫu: Giáo viên hướng dẫn, tổ chức cho một học sinh
nói mẫu.
Hoạt động 3: Hướng dẫn, tổ chức cho học sinh nói.
Căn cứ tình huống giao tiếp được đặt ra trong đề bài. Giáo viên tổ chức
cho nói theo nhóm.
Chia lớp thành các nhóm nhỏ để luyện tập. Mỗi nhóm nhỏ hoạt động
dưới hình thức trị chơi sắm vai (1 em đóng vai bà, 1 em đóng vai cháu). Trong
khi học sinh thực hành: Để tạo khơng khí hào hứng, tơn trọng học sinh, khuyến
khích học sinh muốn nói, mạnh dạn nói thì giáo viên cần động viên khen ngợi



các em. Giáo viên có thể sử dụng câu hỏi gợi mở để dẫn dắt học sinh nói khi các
em gặp khó khăn. Bên cạnh đó giáo viên cũng phải chú trọng rèn học sinh diễn
đạt đúng, đủ, rõ ý bằng lời văn tự nhiên, chân thành, giàu cảm xúc. Khi học sinh
diễn đạt cần phải thể hiện nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ... để làm tăng sức
biểu cảm của lời nói. Và giáo viên ln là người định hướng cho học sinh khác
nghe và nhận xét kết quả trình bày của bạn về nội dung nói, về cách thể hiện nội
dung đó để học sinh thấy rõ ưu khuyết điểm mình.
Hoạt động 4: Tổ chức nhận xét, rút kinh nghiệm.
Ở hoạt động này tôi thường chia ra làm hai phần. Phần thứ nhất là
nhận xét chung trước lớp. Cịn phần thứ hai thì tơi sẽ tiến hành nhận xét
bằng lời trực tiếp vào bài làm của các em.
Phần thứ nhất là. Tơi thường tổ chức các hình thức hỏi đáp để cho cả
lớp trả lời và nhận xét như sau. Từng bạn đã đóng đúng vai của mình chưa:
các câu nói của vai bạn đã đúng nghi thức lời nói chưa? (mở đầu, kết thúc
cuộc gặp, cách trị chuyện, cách xưng hơ...).
Nội dung lời nói đã thực hiện đúng yêu cầu và đạt mục đích đề ra chưa?
Cách dùng từ ngữ, diễn đạt ngữ điệu, thể hiện được nét mặt, ánh mắt chỗ
nào cần học và cần sửa. Qua đó giáo viên nhấn mạnh những nghi thức lời nói
cần thực hiện (với đề bài trên là nghi thức lời nói khi chia buồn, an ủi).
Phần thứ hai là. Khi tôi chấm bài tôi đã nhận xét cụ thể về những lỗi sai
của HS để khi các em đọc lại bài các em sẽ khắc phục trong lần sau. Giáo viên
ln định hướng cho các em các thói quen ghi chép lại trong sổ tay của mình.
đoạn văn hay hoặc bài làm của bạn, từ sách báo hoặc tham khảo.Có như vậy thì
khi dạy các tiết học sau sẽ mang lại hiệu quả rất cao trong giị học.
Vì vậy, Phân mơn Tập làm văn có tính tổng hợp (đòi hỏi học sinh phải
bộc lộ cả năng lực tư duy, năng lực giao tiếp, năng lực Tiếng Việt lẫn khả năng
cảm thụ, thái độ, cảm xúc cá nhân). Phân môn Tập làm văn hơn bất kỳ một phân
môn nào khác đặt lên hàng đầu yêu cầu phát huy tính chủ động, sáng tạo, bản

lĩnh, cá nhân của học sinh. Do đó, dạy Tập làm văn phải tích cực hố được hoạt
động học tập của học sinh, phải tạo điều kiện để học sinh chủ động, tự do thể
hiện cái "tơi" của mình một cách rõ ràng, bộc bạch cái riêng của mình một cách
trọn vẹn.
2.3.4. Giải pháp 4: Tăng cường luyện nói, luyện kể, cho học sinh thơng qua
phân môn Tập đọc, Kể chuyện để dạy Phân môn Tập làm văn đạt hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, sở dĩ HS diễn đạt còn hạn chế do một phần trong
học tập các em ít được nói, nhất là những em có tính rụt rè (Lệ, Quốc, Thịnh,
Thương). Do đó tơi tạo điều kiện cho các em được nói, kể nhiều trong học tập.
Không những chỉ trong phân môn Tập làm văn mà trong các phân môn Tập đọc,
Kể chuyện tơi cũng tạo điều kiện mọi HS được nói, được kể. Chương trình mơn


Tiếng Việt lớp Hai có thuận lợi là các bài Tập đọc đầu tuần đều là những truyện
kể và cũng là nội dung để HS tập kể chuyện. Tôi đã tận dụng thuận lợi này để
giúp các em được rèn luyện kĩ năng nói, kể như sau:
* Đối với phân môn Tập đọc:
Để giúp HS hiểu nội dung, ý nghĩa của bài Tập đọc thì phải chú ý rèn
luyện khả năng đọc đúng. Đọc diễn cảm cho học sinh. Đây là việc làm quan
trọng đối với học sinh lớp 2. Ngược lại, có hiểu được nội dung bài văn, bài thơ
thì mới có cách đọc đúng, đọc hay và diễn cảm được. Hiệu quả của đọc khả
năng thông hiểu nội dung văn bản vừa đọc. Do đó, dạy đọc học sinh tập đọc là
dạy đọc có ý thức, đọc để hiểu.Tức là tồn bộ những gì đọc được.
Do vậy khi dạy Tập đọc Tơi tiến hành các bước dạy bình thường nhưng
khi đến bước tìm hiểu bài tơi thừơng cho 2 đến 3 em đọc lại đoạn đó và tơi sẽ
nêu câu hỏi để học sinh suy nghĩ và trả lời nhưng khi HS trả lời câu hỏi, tôi
hướng dẫn HS trả lời theo giọng kể cho phù hợp với văn kể chuyện làm như vây
sẽ có tác dụng giúp HS trau dồi kĩ năng kể ngay trong khi trả lời câu hỏi của giờ
tập đọc. Đây là tiết Tập đọc nên việc rèn đọc cũng rất quan trọng. Nhưng tôi
luôn lồng ghép giữa rèn đọc và rèn kể chuyện nên cứ mỗi bài Tập đọc tôi thường

dành thời gian 5 phút cho HS tập kể lại từng đoạn của truyện.Cứ như vậy sau
mỗi giờ học các em đã tự tin mạnh giạn hơn khi giao tiếp với mọi người tụ tin
đứng trước đám đơng để câu chuyện ngắn. Vì vậy khi học đến phân môn tập làm
văn các sẽ tự tin hơn .Chính vì thế mà tơi ln ln lồng ghép Phân môn tập làm
văn với tất cả các Phân mơn khác trong chương trình của lớp 2 nói riệng.
* Ví dụ khi dạy dạng bài nói.
Các em mới từ lớp 1 lên vốn từ cịn hạn chế, ít nhiều cũng ảnh hưởng
trong việc nghe - nói - viết - kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình. Do vậy tôi
đã tổ chức tốt hoạt động quan sát tranh, cho học sinh sử dụng gợi ý trong sách
giáo khoa, lắng nghe cô kể, bạn kể để nhớ được các ý chính cuả câu chuyện .
Ví dụ như dạy bài. Nói lời an ủi của em với ơng( hoặc bà). Khi cây hoa
của ông ( hoặc bà) bị chết.
Giáo viên chú trọng về lời văn kể và sử dụng ngôn từ. Giáo viên cần hướng
dẫn các em cách lựa chọn, sử dụng từ ngữ, hình ảnh để diễn đạt sao cho dễ hiểu,
sinh động. Có như vậy người nghe đọc sẽ dễ dàng hình dung, tưởng tượng, nắm
bắt được sự việc, suy nghĩ tình cảm mà các em muốn thể hiện qua lời nói, bài
viết. Người nghe, người đọc tuy khơng trực tiếp nhìn diện mạo cuả nhân vật,
xem bối cảnh của sự việc như xem phim, xem kịch nhưng vẫn thấy được thế
giới nội tâm cuả nhân vật, quá trình diễn biến của sự việc qua những hình ảnh
miêu tả, so sánh cùng với những tình cảm, thái độ, sự đánh giá cuả các em .


Hình ảnh đóng vai trong giờ học Tập làm văn
*Đối với phân môn Kể chuyện, tôi thực hiện như sau:
Dạy tốt kể chuyện, rèn kĩ năng kể chuyện tốt ở các em, giáo viên sẽ tạo
điều kiện tốt cho sự phát triển năng khiếu ở học sinh tạo điều kiện ươm mầm
cho những nhân tài mai sau. Tiết kể chuyện như tên gọi là đặc trưng kể chứ
không phải đọc hay là giảng, là làm bài tập. Khi dạy người giáo viên phải biết
hướng dẫn các em kể lại bằng ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ. Biết vận dụng vào các
tranh vẽ để nhớ lại nội dung từng đoạn của câu chuyện. Do kể chuyện có tính

chất tổng hợp nên tiết kể chuyện yêu cầu các em rèn luyện. Học sinh tiểu học
cịn mang tính tư duy cụ thể trực quan, nó được chuyển dần từ cụthể trực quan
sang trìu tượng, khái quát. Vì thế khi dạy giáo viên cần chú ý đến trực quan.
Suốt những năm ở tiểu học, nếu các em được nghe và học kể chuyện đầy đủ thì
cácem được bồi dưỡng nhận thức, tình cảm, được làm giàu vốn từ ngữ và phát
triển tư duy,đặc biệt là tư duy hình tượng. Ta thấy phân mơn kể chuyện trở nên
đa dạng và phong phú. Luyện kỹ năng kể lại câu chuyện diễn cảm là một nhiệm
vụ hết sức quan trọng, nó vừahình thành những phẩm chất. Chính vì vậy tơi ln
tìm mọi cách để giúp cho tất cả các em đều phải kể được câu chuyện. Đối với
những em có tính rụt rè, ít nói, tơi kiên trì giúp đỡ các em kể cho bằng được.Lúc
đầu chỉ yêu cầu các em kể được một đoạn, sau đó nâng dần yêu cầu lên.
Cách làm như sau: Đầu tiên tơi gợi ý cho các em trả lời từng câu.
Ví dụ dạy bài “Có cơng mài sắt, có ngày nên kim”.
Tơi dùng que chỉ và chỉ vào hình vẽ số 1 và hỏi học sinh: “Ngày xưa có
một cậu bé như thế nào?” (làm việc gì cũng mau chán).
Hỏi tiếp: “Khi học bài cậu học như thế nào?” ( chỉ đọc vài dòng đã ngáp
ngắn ngáp dài rồi bỏ dở).


Hỏi tiếp: “Lúc tập viết cậu thế nào?” ( chỉ nắn nót được mấy chữ đầu, rồi
lại viết nguệch ngoạc). Cứ như thế sau mỗi câu trả lời, tôi khen ngợi để khích lệ,
động viên.Sau khi các em trả lời xong, tơi chuyển qua cho các em trung bình,
khá tập kể.một lát sau, tôi quay lại cho em HS lúc nảy kể lại đoạn 1. Trong một
tiết, chỉ cần giúp đỡ cho một đến hai em yếu, rụt rè. Tôi kiên trì, bằng mọi cách
làm cho các em mở miệng trả lời cho được. Chỉ cần tiết nào các em cũng đứng
lên trả lời cho dù là các em trả lời các câu chưa đầy đủ thì tơi lại cho một bạn
học sinh khá giỏi trả lời và em đó nhắc sẽ nhắc lại câu trả lời của bạn. Cứ như
vậy qua mỗi tiết học các sẽ mạnh dạn hơn . Như vậy cần phải rèn cho học sinh
được nói ít nhất là một đến hai câu, đối với học sinh yếu .Và những câu chuyện
liên quan đến Phân tập làm văn. Có như vậy thì đến giờ học tập làm văn các em

sẽ thích học và tích cức xây dựng bài.

Hình ảnh giáo viên đang chỉ vào tranh cịn sinh đang trả lời. Khi dạy
dạy bài kể chuyện theo tranh . Có cơng mài sắt, có ngày nên kim.
Sau khi tôi đã dạy lồng ghép những dạng bài trên vào phân môn Tập làm
văn cá nhân tôi nhận thấy học sinh đã tích cực học tập và các em đã u thích
mơn học hơn, giúp học sinh hiểu được những người thân xung quanh mình là
ơng bà, ba mẹ, cơ chú..., biết những cơng việc của họ, u q và kính trọng
người thân, học sinh nói kể tích cực, hồ hởi và nhanh nhẹn, các em hịa mình


vào niềm vui của tập thể, biết đoàn kết, chia sẻ an ủi , yêu thương cùng các bạn
trong tổ, trong lớp, trong trường,trong gia đình mỗi khi có bạn gặp khó khăn là
các em nhiệt tình ủng hộ, lan tỏa yêu thương, gắn kết đến mọi người không chỉ
là ở lứa tuổi học sinh mà còn cả những người lớn tuổi...
2.3.5.Giải pháp 5: Thực hiện tốt quan điểm tích hợp để nâng cao chất lượng
phân môn Tập làm văn dạng bài “Kể ngắn”.
Quan điểm biên soạn sách giáo khoa Tiếng Việt 2 thể hiện rõ 3 quan điểm;
Quan điểm dạy học giao tiếp, quan điểm tích hợp, quan điểm tích cực hóa hoạt
động học tập của học sinh. Theo quan điểm tích hợp, các phân mơn (Tập đọc,
Kể chuyện, chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn) trước đây ít gắn bó với
nhau, nay được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm; các nhiệm vụ cung cấp
kiến thức và rèn luyện kĩ năng cũng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trước. Thực
hiện tốt quan điểm tích hợp góp phần khắc phục tình trạng “nghèo” ý tưởng và
vốn từ cho học sinh, giúp học sinh diễn đạt tốt.
* Khi dạy phân môn Tập đọc, trong khâu củng cố tôi khắc sâu một số
kiến thức nhằm chuẩn bị cho HS học phân môn Tập làm văn.
Phân môn Tập đọc còn được kết hợp chặt chẽ với các phân mơn khác của
chương trình Tiếng Việt. Qua các bài văn được học, học sinh vừa cảm thụ được
cái hay, cái đẹp vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng,

sinh động , được luyện tập về chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn.
Ở bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng phân mơn tập đọc có hai
u cầu cơ bản là:
Một là. Rèn kĩ năng đọc (dạy tập đọc ), rèn trí nhớ ( dạy học thuộc lịng).
Hai là. Giúp học sinh cảm thụ tốt bài văn.
Học phân môn Tập đọc, việc đọc và cảm thụ là hai khâu có quan hệ mật
thiết với nhau, gắn bó hỗ trợ đắc lực cho nhau, cảm thụ tốt giúp việc đọc đúng,
diễn cảm tốt. Ngược lại đọc đúng và diễn cảm tốt giúp cho việc cảm thụ bài văn
thêm sâu sắc. Học sinh có đọc đúng, đọc thơng thạo và trên cơ sở đã hiểu nội
dung câu thơ, câu văn, đoạn thơ, đoạn văn thì các em mới thể hiện được cảm
xúc, tức là đã hiểu tường tận về nội dung và nắm được ý nghĩa giáo dục của bài.
Điều đó khẳng định rằng trong tiết tập đọc lớp 2, việc rèn kĩ năng đọc đúng, đọc
diễn cảm cho học sinh là rất cần thiết. Trong tiết học, học sinh có đọc đúng, biết
đọc diễn cảm thì viết chính tả, dùng từ, đặt câu mới đúng; viết tập làm văn mới
hay. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập làm văn
bản thân cần phải làm tốt ở tất cả các môn chứ không phải rieng Môn Tậpvăn .
Do vậy khi tôi dạy Phân môn Tập đọc tôi chú trọng tất cả các khâu nhưng trong
khâu cúng cố kiến thức tôi dành nhiều cho học sinh trung bình và học sinh yếu .
Tơi sẽ tiến hành như sau.
Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc “Cơ giáo lớp em”.
Khi dạy bài này tơi cũng sẽ tiến hành trình tự các bước của môn học
nhưng khi đến khâu củng cố, tơi cho nhiều HS, nhất là các em cịn yếu nhắc lại
hình ảnh cơ giáo (Cơ đến lớp sớm, cơ rất chịu khó, thương u HS, ln tươi
cười với HS), tình cảm của HS đối với cơ giáo (u quý cô giáo, ngắm mãi
những điểm mười cô cho).


Chính nội dung củng cố của bài tập đọc này lại là nội dung chính của tiết
Tập làm văn của tiết sau là bài “ Bút của cô giáo” và bài “Kể ngắn về cơ
giáo”. . Vì thế Tơi mới khắc sâu kiến thức cho các em yếu và học sinh trung

bình vì trí tuệ và độ nhớ cúa các em kém hơn các bạn khác nên tooiddac tập
trung váo các em để tiết tập làm văn sau các em làm bài sẽ tốt hơn. Nhờ thực
hiện biện pháp này trong tiết tập làm văn, học sinh khá giỏi kể chuyện mạch lạc,
tự nhiên cịn học sinh trung bình và học sinh yếu cũng đã giảm đáng kể so với
trức khi tôi chưa áp dụng.
2.4. Hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Ngay từ đầu năm học 2020 - 2021, tôi đã áp dụng:“Một số biện giúp học
sinh lớp 2C học tốt phân môn Tập làm văn dạng bài kể ngắn ”. Trong năm học
vừa qua, khi vận dụng những phương pháp trên vào giảng dạy cho học sinh, tôi
nhận thấy rất khả quan khi dạy phân môn này. Thành tích học tập của các em
cao hơn, chất lượng hơn và học sinh học tập cũng tích cực hơn. Các em đã làm
quen với phân môn này để được giao tiếp, để được thể hiện. Trước đây các em
chưa biết chào hỏi, chưa biết đáp lời trong các tình huống (chia vui, chia buồn,
xin lỗi, cảm ơn ...) chưa biết diễn đạt thành câu trọn vẹn. Thế mà giờ đây các em
đã biết giao tiếp với bạn bè, người thân, thầy cô giáo một cách tự nhiên và lịch
sự, không lúng túng như trước nữa.
* Học sinh:
So với những năm học trước, tôi nhận thấy các em HS có hứng thú, say
mê và ham thích học hơn. Sau mỗi bài học, học sinh có được kiến thức, kĩ năng
vững vàng, sâu rộng hơn, chính vì vậy mà các em đã viết được bài văn hoàn
chỉnh theo yêu cầu nội dung đầy đủ câu văn ngắn gọn nhưng đã thể hiện hết
những lời mà các em muốn nói cho người đọc, người nghe dẽ hiểu, biết làm
những công việc vừa sức mình, hiểu biết nhiều kĩ năng ứng xử trong cuộc sống,
biết nhiều điều hay, lẽ phải diễn ra xung quanh.
Giờ học mà giáo viên dạy vận dụng phương pháp đổi mới đã đem đến cho
học sinh sự say mê học tập, mất hẳn sự trầm lắng.100% số học sinh đều thích
các mơn học.
Chất lượng lớp thực nghiệm đi lên rõ rệt. Bằng cách vận dụng các giải pháp
trên để thực hiện vào phân môn tập làm văn, so với đầu năm học, kĩ năng viết
văn của học sinh lớp 2C Trường Tiểu học Thị Trấn Nga Sơn, không còn học sinh

ngại viết văn.
* Giáo viên:
Nhờ việc biết vận dụng và lồng ghép các phương pháp đổi mới trong
công tác giảng dạy ở tất cả các mơn học nói chung và phân môn Tập làm văn
cho học sinh lớp 2 nói riêng, cho nên các giờ học đã trở nên sôi nổi, tạo được
hứng thú cho học sinh, các em hăng hái xây dựng bài, tìm tịi và phát hiện kiến
thức, biết được nhiều kĩ năng trong học tập và lao động, biết phịng và tránh
những việc khơng tốt cho mình và cho bạn, điều đó làm cho chất lượng giờ dạy học được nâng cao.
Giáo viên và học sinh có sự phối hợp nhịp nhàng, giữa dạy và học tập. Từ
đó các em hứng thú hơn và ứng xử nhanh các tình huống ngay tại lớp.


Kết quả khảo sáttại thời điểm cuối tháng 4 - 2021.
Điểm

Tổng số
học sinh

Điểm
(9 – 10)

Điểm
(7 – 8)

Điểm
(5 – 6)

Điểm
(1 - 4)


Thời gian
Đầu năm
35
5
12
15
3
Kết quả cuối
35
18
10
7
0
tháng 4
Từ kết quả trên tôi có thể khẳng định rằng giáo viên vận dụng phương pháp
đổi mới là một hướng đúng mở ra triển vọng tốt phân mơn tập làm văn nói riêng.
Tơi thấy kết quả đạt được rất khả quan, học sinh tự làm bài tập, tự chiếm
lĩnh tri thức qua hình thức tổ chức dạy học của giáo viên, các em làm việc rất
hào hứng, thành thạo với mỗi bài, mức độ yêu cầu khác nhau. Tôi đã nắm được
vấn đề cơ bản của chương trình về nội dung đổi mới phương pháp, kiến thức, kỹ
năng trong giảng dạy phân môn Tập làm văn. Chính vì thế kết quả học tập của
các em không ngừng đi lên.
Tôi hy vọng với một chút kinh nghiệm nhỏ bé này sẽ phần nào giúp cho
đồng nghiệp gỡ rối trong cơng tác giảng dạy của mình (nhất là với phân môn
Tập làm văn).
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Trước hết người giáo viên phải tâm huyết với nghề ln tìm tịi học hỏi
cập nhật vấn đề mới của xã hội. Khơi dậy lịng say mê thích học hỏi của học
sinh làm cho học sinh cảm thấy thực sự u trường, u thích học tập khơng nên

gị ép các em theo một khuôn thước nhất định. Biết trân trọng sự sáng tạo của
mỗi học sinh về các kĩ năng cách ứng xử.
Giáo viên cần đặc biệt chú ý sử dụng phối hợp tốt phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học phù hợp với trình độ học sinh, phù hợp với yêu cầu từng
loại bài sao cho tiết học được tổ chức thành chuỗi hoạt động sôi nổi, nhẹ nhàng,
nhằm lôi cuốn học sinh tham gia thực hành luyện tập các kỹ năng.
Giáo viên luôn học hỏi các đồng chí đồng nghiệp, đọc thêm tài liệu để nâng
cao chất lượng dạy và học theo phương pháp đổi mới.
Người giáo viên phải là người mẫu mực trong mọi giao tiếp, cử chỉlà tiếng
nói chuẩn mực để học sinh học tập.
Thường xuyên trao đổi phụ huynh để thông báo và cùng bàn bạc khắc phục
những nhược điểm của học sinh.
Dạy học phân mơn Tập làm văn nên lồng ghép, tích hợp với các môn học
khác để mở rộng thế giới kiến thức cho học sinh và vừa có tính ơn tập vừa cung
cấp thêm cho các em vốn kiến thức để hỗ trợ đắc lực cho phân môn Tập làm
văn.
3. 2. Kiến nghị.
Người giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung kiến thức yêu cầu của mỗi bài
dạy theo từng chủ đề, từ đó lựa chọn phương pháp dạy phù hợp với đối tượng


học sinh của lớp mình. Phải có kiến thức chắc và hiểu biết về kĩ năng sống cho
mọi lứa tuổi học sinh.
Trang bị thêm một số tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh.
Nhà trường cùng địa phương tạo điều kiện cơ sở vật chất cho các em học
tập tốt hơn.
Tổ chức các chuyên đề đúc rút SKKN. Qua đó nhân rộng các điển hình,
sáng kiến hay có tính khả thi cao đã được xếp loại cấp huyện, cấp tỉnh, từ đó góp
phần nâng cao chất lượng dạy và học của mỗi nhà trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn !.

Xác nhận của thủ trưởng cơ quan.

Nga Sơn, ngày1 4 tháng 4 năm 2021
Tôi xin cam đoan SKKN này là của cá
nhân tôi viết không sao chép của ai.
Người thực hiện

Trịnh Thị Hiếu


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Sách giáo viên , sách giáo khoa – Lớp 2.
2.Hướng dẫn luyện tập làm văn lớp 2.
3.Một số tài liệu khác: đổi mới PPDH, Nghị quyết 29 TW về giáo dục….
4.Vở Bài tập Tiếng Việt lớp 2.


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên: Trịnh Thị Hiếu
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, Trường Tiểu học Thị Trấn Nga Sơn
TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại


Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

1

Nâng cao chất lượng giảng dạy
mạch kiến thức giải tốn có lời văn
cho học sinh lớp 1.

Ngành GD cấp
huyện

B

2015 -2016

2

Nâng cao chất lượng dạy học môn
đạo đức cho học sinh lớp 1

Ngành GD cấp
huyện


C

2016 -2017

3

Giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt
bài toán liên quan đến rút về đơn
vị.

Ngành GD cấp
tỉnh

C

2017 -2018


×