Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Bộ máy hành chính của nhật bản dưới thời minh trị (1868 1912)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (956.62 KB, 61 trang )

1


N N
Ọ SƯ P
M
K OA LỊ
SỬ

K ÓA LUẬN TỐT N

ỆP



Bộ máy hành chính của Nhật Bản dưới thời
Minh Trị (1868 - 1912)

Sinh viên thực hiện : Lê Thị Bích Thảo
Người hướng dẫn : Nguyễn Văn Sang

Đà Nẵng, tháng 5/ 2013


2

MỞ ẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhật Bản là một đảo quốc, nằm trên biển Thái Bình Dương. Trong tiến trình
phát triển của lịch sử dân tộc mình, Nhật Bản vừa du nhập vào những bước tiến chung
của lịch sử, văn hố khu vực Đơng Bắc Á, vừa tạo cho mình một bản sắc văn hố riêng


với những dấu ấn bản địa sâu đậm. Nhật Bản cũng là trường hợp duy nhất ở châu Á
trong thế kỉ XIX có bước chuyển mình độc đáo để trở thành một cường quốc tư bản số
một ở phương Đông. Sự phát triển vượt bậc của Nhật Bản đã làm cho cả thế giới phải
kinh ngạc bởi trong bối cảnh chung, khủng hoảng lạc hậu trì trệ của cả châu Á vào thế
kỉ XIX Nhật Bản đã nhanh chóng trở thành một cường quốc tư bản duy nhất ở phương
Đơng q trình này bắt nguồn từ kỷ nguyên Minh Trị.
Minh Trị Duy tân là một bước ngoặt vĩ đại trong quá trình phát triển của lịch sử
dân tộc Nhật Bản. Kỷ nguyên Minh Trị bắt đầu từ năm 1868 đến đầu năm 1912 đánh
dấu một giai đoạn phát triển thần kỳ của nền kinh tế Nhật Bản. Duy tân Minh Trị là
một cuộc biến đổi xã hội khá tồn diện, với những thành cơng từ cuộc Duy tân Minh
Trị tạo điều kiện cho sư phát triển cơng nghiệp hóa của Nhật Bản, khiến nền kinh tế
Nhật Bản phát triển mạnh mẽ trong 30 năm cuối của thế kỷ XIX. Với Minh Trị Duy
tân đã đưa Nhật Bản trở thành một cường quốc kinh tế đầu tiên ở châu Á, đồng thời
làm bước đệm cho đất nước đi lên trong những chặng đường tiếp theo.
Để đảm bảo sự phát triển, nhiều quốc gia đã xem cải cách hành chính là một
yêu cầu tất yếu, một mũi đột phá nhằm thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh
của nền kinh tế, đẩy mạnh dân chủ và góp phần nâng cao chất lượng đời sống của
người dân. Cuộc Minh Trị Duy tân theo đó cũng đã mở đầu q trình đổi mới về hành
chính ở Nhật Bản. Hệ thống phong kiến bị hủy bỏ và thay vào đó là nhiều thể chế
phương Tây, quyền lực tập trung vào tay Thiên hoàng, các đẳng cấp trong xã hội
phong kiến bị hủy bỏ. Mặc dù chế độ nhà nước của Thiên hoàng Minh Trị ra đời trong
hoàn cảnh đặc biệt, dựa vào lực lượng tầng lớp võ sĩ và các lãnh chúa có tư tưởng cải
cách. Tuy nhiên, cuộc cải cách và xây dựng bộ máy hành chính đã có vai trị quan
trọng trong sự chuyển mình mạnh mẽ của đất nước góp phần vào những thành tựu to
lớn mà Nhật Bản đạt được trong cuộc cải cách của Thiên hồng Minh Trị. Vì vậy,
nghiên cứu bộ máy hành chính của Nhật Bản thời Minh Trị là một điều hết sức cần
thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.


3


Với những lý do đó, chúng tơi chọn vấn đề: Bộ máy hành chính của Nhật Bản
dưới thời Minh Trị (1868 - 1912) làm luận văn tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Minh Trị Duy tân là một trong những sự kiện quan trọng nhất của lịch sử Nhật
Bản. Minh Trị Duy tân đã đưa Nhật Bản từ một nước phong kiến theo chế độ quân chủ
chuyên chế thành một cường quốc trên thế giới và là cường quốc duy nhất ngoài Âu Mĩ. Cho đến nay khi Nhật Bản ngày càng giàu mạnh, người ta càng thấy rõ ý nghĩa to
lớn của Minh Trị Duy tân đối với Nhật Bản và thế giới. Vì vậy, đây là một trong
những vấn đề của lịch sử Nhật Bản được giới học giả quan tâm nghiên cứu:
Tác giả Nguyễn Tiến Lực có cơng trình Minh Trị duy tân và Việt Nam đã đề cập
đến việc cải cách Duy tân ở Nhật Bản và cách nhìn nhận của các sĩ phu yêu nước Việt
Nam về phong trào Duy tân.Tác giả cũng đã trình bày trình bày hàng loạt các cuộc cải
cách được tiến hành vào thời kì đầu của Minh Trị nhằm “xoá bỏ cái cũ”, tức là chế độ
Baku Han và những tàn dư của nó và “xây dựng cái mới”, tức là những nền tảng của
quốc gia độc lập, tư bản chủ nghĩa và tiên tiến, quá trình ban hành Hiến pháp đầu tiên,
tạo ra sự thay đổi kì diệu trên tất cả các lĩnh vực, đưa Nhật Bản trở thành một cường
quốc trên thế giới. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu tác giả chú trọng về cơng
cuộc cải cách toàn diện, mà chưa đi sâu về bộ máy hành chính thời kỳ này.
Cuốn Minh Trị Duy Tân - Cải cách hay cách mạng của tác giả Hoàng Văn Việt
đã bàn về tính chất của cuộc Duy tân Minh Trị. Trong cuốn sách này tác giả thừa nhận
những thuộc tính của cải cách và cách mạng và sự khác biệt căn bản của chúng về cả
nội dung lẫn hình thức. Thơng qua đó tác giả khẳng định Duy tân Minh Trị là một
cuộc cải cách chứ chưa phải là cuộc cách mạng xã hội. Cơng trình này cũng chỉ mới đề
cập đến một mức độ nhất định về cải cách hành chính của Nhật Bản thời Minh Trị.
Ngồi ra, trong các tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông
Bắc Á, Phát triển Khoa học và Cơng nghệ cũng có nhiều bài viết về Nhật Bản thời
Minh Trị như: Thử bàn về cuộc Minh Trị Duy Tân ở Nhật Bản và Thái Bình Thiên
Quốc ở Trung Quốc (Nguyễn Thanh Bình); Quan hệ Nhật Bản với châu Âu thời kì
trước kỉ ngun Minh Trị: Đóng cửa nhưng khơng cài then (Ngơ Xn Bình); Vai trị
của Duy Tân Tam Kiệt trong cuộc cải cách Minh Trị (Huỳnh Phương Anh);… Hầu hết

các bài viết chủ yếu bước đầu đề cập tới cuộc cải cách Minh Trị và đã cung cấp một số
thông tin liên quan đến bộ máy hành chính Nhật Bản.


4

Nhìn chung, các cơng trình, bài viết nghiên cứu liên quan đến hành chính Minh
Trị (1868 - 1912) mới bước đầu nghiên cứu về cải cách Minh Trị chứ chưa có một
cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn diện, sâu sắc và có hệ thống về tổ chức hành
chính Nhật Bản thời Minh Trị (1868 - 1912).
3. ối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. ối tượng nghiên cứu
Đề tài này coi bộ máy hành chính của Nhật Bản dưới thời Minh Trị (1868 –
1912) làm đối tượng chính. Bên cạch đó, chúng tơi cịn tìm hiểu về bối cảnh, nội dung
chính của cuộc Duy Tân Minh Trị để từ đó làm nổi bật được vai trị của bộ máy hành
chính trong sự phát triển cường thịnh của đất nước Nhật Bản.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian và không gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về cơ cấu, tổ chức
bộ máy hành chính Nhật Bản dưới thời Minh trị Duy tân từ 1868 - 1912. Ngoài ra,
chúng tơi cịn tìm hiểu về bộ máy hành chính Nhật Bản Thời Tokugawa để thấy được
sự kế thừa trong mô hình tổ chức hành chính, cùng với q trình tiếp thu mơ hình nhà
nước phương Tây thời Minh Trị Duy tân (1868 - 1912).
- Về nội dung nghiên cứu: Thực hiên đề tài này, bước đầu chúng tôi đã nêu một
cách khái quát các nhân tố ảnh hưởng, bộ máy tổ chức, những đóng góp, đặc điểm của
hành chính Nhật Bản thời Minh Trị.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi đã đứng trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam về nghiên cứu.
Bên cạnh đó, trong q trình thực hiện chúng tơi cịn sử dụng các phương pháp

chính của chuyên ngành lịch sử là phương pháp lôgic và phương pháp lịch sử, đồng
thời kết hợp với các thao tác phân tích, tổng hợp, mơ tả, so sánh - đối chiếu để tiến
hành phân loại - chọn lọc tư liệu từ đó rút ra những kết luận mang tính khoa học, bảo
đảm tính khách quan và chân thực của lịch sử.
5. óng góp của đề tài
Đề tài hồn thành sẽ cung cấp nguồn tư liệu có tính hệ thống giúp cho chúng ta
tái hiện được một cách chân thực và khách quan về cơ cấu, tổ chức bộ máy hành chính
của Nhật Bản dưới thời Minh Trị (1868 -1912). Thơng qua đó giúp người đọc hiểu hơn


5

về cơng cuộc cải cách hành chính của Nhật Bản, thấy rõ mục tiêu cải cách của Nhật
Bản là xây dựng một chính phủ có bộ máy hành chính gọn nhẹ, hiệu quả cao nhằm
tăng cường vai trò lãnh đạo của Thiên hoàng. Đồng thời nhận thức được tầm quan
trọng của bộ máy hành chính trong tiến trình phát triển của đất nước Nhật Bản.
Trên cơ sở tìm hiểu về những đặc điểm của bộ máy hành chính Nhật Bản dưới
thời Minh Trị (1868 -1912) để từ đó rút ra được những kinh nghiệm trong việc cải
cách hành chính của Nhật Bản về việc xây dựng mơ hình chính quyền từ trung ương
đến địa phương hiện nay.
Nếu như cơng trình thành công sẽ là nguồn tài liệu tham khảo rất hữu ích cho
việc nghiên cứu, học tập và giảng dạy lịch sử Nhật Bản thời cận đại, cải cách Minh Trị
đối với sinh viên ngành lịch sử và các chuyên ngành khác.
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo , nội dung đề tài
gồm ba chương:
Chương 1: Các nhân tố tác động q trình thiết lập bộ máy hành chính Nhật
Bản thời Minh Trị (1868 - 1912).
Chương 2: Tổ chức bộ máy hành chính của Nhật Bản dưới thời Minh Trị (1868
- 1912).

Chương 3: Một số nhận xét, đánh giá về bộ máy hành chính Nhật Bản thời
Minh Trị (1868 - 1912).


6

NỘI DUNG
Chương 1:
CÁC NHÂN TỐ TÁ

ỘN

ẾN QUÁ TRÌNH THIẾT LẬP BỘ MÁY HÀNH

CHÍNH NHẬT BẢN THỜI MINH TRỊ (1868 - 1912)
1.1. Công cuộc Minh Trị ở Nhật Bản
1.1.1. Bối cảnh Nhật Bản tiến hành Minh Trị
Nhật Bản là một trung tâm kinh tế lớn của châu Á trong các thế kỷ XVI –
XVIII. Bước sang thế kỷ XIX, sau hơn 200 năm thống trị chế độ Mạc phủ
Tokugawa lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy thối nghiêm trọng về mọi mặt
không thể nào đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, không đủ sức chống lại sự
xâm nhập của đế quốc Âu – Mỹ.
Đến giữa thế kỷ XIX, Nhật Bản vẫn là một quốc gia phong kiến với vị trí tối
cao thuộc về Thiên hồng nhưng quyền hành thực tế lại thuộc về Mạc phủ Tokugawa.
Những chính sách mà Mạc phủ Tokugawa thi hành để củng cố sự thống trị của mình
đã làm cho kết cấu xã hội - chính trị Nhật Bản lúc bấy giờ trở nên xơ cứng. Các chính
sách đó khống chế chặt chẽ các tầng lớp xã hội, nhất là quần chúng lao động bao gồm
nông dân và tầng lớp công thương và làm cho mâu thuẫn xã hội dưới chính quyền
Mạc phủ càng trở nên sâu sắc hơn. Trong nước, phong trào bài ngoại chống Mạc phủ
lên cao với khẩu hiệu “chống ngoài, ủng hộ Thiên hoàng” cùng với nhiều cuộc đấu

tranh của nông dân và thị dân ngày càng gia tăng. Theo thống kê, thế kỷ XVII có 188
cuộc khởi nghĩa, thế kỷ XVIII có tới 514 cuộc và trong 67 năm của thế kỷ XIX có tới
538 cuộc [32, tr.305]. Tình hình đó, khiến cho chính trị Nhật Bản thêm hỗn loạn.
Trong khi đó, bên ngồi các nước tư bản phương Tây đang tìm mọi cách thâm
nhập vào Nhật Bản. Để duy trì sự ổn định chính trị trong nước và tránh cho Nhật Bản
bị phụ thuộc vào các nươc phương Tây, năm 1635 Mạc phủ thi hành chính sách “bế
quan tỏa cảng”. Từ thế kỷ XIX, sức ép đòi mở cửa từ các nước Anh, Nga, Pháp, Mỹ
đối với Mạc phủ Edo ngày càng tăng song đều bị chính quyền Mạc phủ từ chối. Tuy
nhiên, trước sức ép mạnh mẽ của các nước phương Tây và phong trào bài ngoại trong
nước, chính quyền Mạc phủ buộc phải kí Hiệp định thương mại với Mỹ (1854), Hà
Lan (1855), Nga (1855), Anh và Pháp (1858). Các hiệp ước này cho phép nước ngồi
bn bán đồng thời lập lãnh sự qn tại Nhật Bản. Những hiệp ước bất bình đẳng nói


7

trên đã chấm dứt thời kì biệt lập của Nhật Bản, buộc Nhật Bản phải mở cửa giao
thương với bên ngoài khiến Nhật Bản rơi vào địa vị phụ thuộc và Mĩ nắm quyền lũng
đoạn. Điều này cho thấy sự suy yếu quyền lực của chính quyền Mạc phủ trước những
thay đổi lớn của tình hình. Những nhượng bộ của Mạc phủ đối với phương Tây đã
gây nên một làn sóng phẫn nộ trong các tầng lớp nhân dân. Vì thế, phong trào chống
Mạc phủ ngày càng phát triển mạnh mẽ khiến cho tình hình xã hội Nhật Bản thêm rối
ren.
Nằm ở châu Á, nền tảng kinh tế chủ yếu của Nhật Bản thời Tokugawa vẫn chủ
yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp tự nhiên, sản lượng nông nghiệp chiếm vai trò quan
trọng trong nền kinh tế. Đến thế kỷ XVII, nền kinh tế hàng hóa từng bước phát triển,
quan hệ kinh tế hàng hóa đã xâm nhập vào nơng nghiệp. Một hiện tương mới ở nông
thôn là sự xuất hiện chế độ làm thuê năm, thuê tháng, thuê ngày. Qua đó đã đẩy nơng
dân phụ thuộc mạnh hơn vào giai cấp địa chủ phong kiến, các lãnh chúa phong kiến
tiến hành phát canh ruộng đất cho nông dân để thu tơ, đồng thời tăng cường bóc lột

nơng dân bằng thuế khóa. Nhiều khoản thuế được đưa ra như thuế đất, thuế phụ thu,
thuế cơng ích,… để tăng tiềm lực kinh tế cho lãnh chúa, nông dân phải nộp 60 - 80%
hoa lợi của mình làm ra. Chính sách thuế khóa này đã đưa lại tình trạng bần cùng hóa
trong nông thôn, khiến cho đời sông nông dân ngày càng cơ cực lầm than. Bên cạnh
nông nghiệp, thủ công nghiệp thời Tokugawa cũng có bước phát triển đáp ứng nhu
cầu của giai cấp phong kiến. Có nhiều mặt hàng nổi tiếng như dệt lụa, dệt vải, làm
giấy, tiêu biểu như giấy xứ Mino, rượu của xứ Nisino Miya,…. Thời kì này bắt đầu ra
đời một số công trường thủ công trong khai thác khoáng sản, luyện kim và những chủ
kinh doanh lớn về thương mại, ngân hàng,… trong những năm 50 - 60 đã xuất hiện
công nghiệp luyên thép và cơng xưởng đóng tàu ở các cơng quốc phía Tây Nam. Đặc
biệt, dưới thời Tokugawa, nhiều thành thị mới ra đời ngày càng nhiều và rất hưng
thịnh. Vào thời Tokugawa đã có hơn 200 thành phố, thi trấn và hải cảng có những
thành phố lớn với trên 100.000 dân. Ở đó tập trung các phường hội độc quyền sản
xuất một loại hàng hóa và là trung tâm sản xuất thủ cơng nghiệp cung cấp cho thị
trường. Chính điều này đã đem lại sự thịnh vượng cho buôn bán và thương mại nội
địa Nhật Bản.
Về xã hội, chính quyền Tokugawa dựa trên quan điểm Khổng giáo đã chia xã
hội thành 4 đẳng cấp: Sĩ, nông, công, thương. Tầng lớp Daimyo gồm những quý tộc


8

phong kiến, quản lý các vùng lãnh địa trong nước, có quyền lực tuyệt đối trong lãnh
địa của họ, tầng lớp Samurai, chừng hơn 1 triệu người khơng có rng đất chỉ phục vụ
các Daimyo bằng việc huấn luyện và chỉ huy quân đội để hưởng bổng lộc. Hai đẳng
cấp dưới gọi là thị dân, chiếm khoảng 6% đến 7% dân số, đây là đẳng cấp thấp nhất
trong xã hội, khác biệt so với đẳng cấp trên nhất là đẳng cấp võ sĩ (Samurai). Sự phát
triển của kinh tế hàng hóa đã làm thay đổi trật tự xã hội truyền thống dựa trên nền
tảng nông nghiệp, đưa đến sự phân hóa giữa các đẳng cấp và các tầng lớp trong xã hội.
Vào thời Tokugawa để thốt khỏi tình trạng vay nặng lãi (với lãi suất luôn ở mức 15%

– 20%) và khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nghiêm trọng, các lãnh chúa
phong kiến đều phải ít nhiều tham gia vào những hoạt động kinh tế phi nông nghiệp.
Nhiều Samurai đã phải “tạm quên” nguồn gốc cao quý và địa vị xã hội của mình tham
gia vào các cơng việc sản xuất, kinh doanh, và một số đã trở thành các chủ hãng,
thương nhân thậm chí là người đứng đầu cơ sở kinh doanh tiền tệ. Bên cạnh đó, quan
hệ kinh tế hàng hóa cũng xâm nhập và ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ đến nông dân,
từ đây xuất hiện nơng dân giàu có chuyển sang sản xuất, chế biến sản phẩm ra thị
trường. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp trong xã hội rất gay gắt, bên cạnh tầng lớp tư bản
thương nghiệp đã ra đời từ lâu, tầng lớp tư sản cơng nghiệp đã hình thành và ngày
càng giàu có. Song giai cấp tư sản cơng thương lại khơng có quyền lực về chính trị,
nơng dân là đối tượng bóc lột chủ yếu của giai cấp phong kiến, thị dân chịu sự bóc
lột của cả bọn phong kiến, bọn nhà buôn và bọn cho vay nặng lãi. Do bị áp bức, bóc
lột nặng nề nên các tầng lớp nông dân lao động, chủ yếu là nông dân và thị dân liên
tiếp nổi dậy chống phong kiến.
Cùng với sự xuất hiện của kinh tế tư bản mới, thì những giá trị văn hóa mới từ
phương Tây cũng được du nhập vào Nhật Bản, đó là sự xuất hiện của bộ phận trí thức
Tây học đã mang theo các luồng các luồng tư tưởng và học thuật mới như Quốc học
(Kokugaku), Khai quốc học (Kaikoku), Hà Lan học (Rangaka), Tây Dương học
(Seiyoyaku). Sự xuất hiện của các trường phái mới này có ý nghĩa rất quan trọng, nó
khơng chỉ góp phần trong việc mở rộng tầm nhận thức của dân tộc mà cịn phá vỡ xu
thế độc tơn của Nho giáo, hướng tư duy xã hội đến mơ hình phát triển mới và những
giá trị mới của văn minh phương Tây.
Như vậy, đầu thế kỷ XIX xã hội Nhật Bản lâm vào tình trạng khủng hoảng
trầm trọng, các cuộc khởi nghĩa nơng dân liên tiếp nổ ra cho thấy chính quyền


9

Tokugawa sau mấy thế kỷ tồn tại đã đến lúc khơng đủ sức điều hịa các mâu thuẩn xã
hội và giải quyết con đường phát triển cho đất nước Nhật Bản. Bên cạnh đó, là sự

xuất hiện của nhiều yếu tố mới với những tiền đề mới. Do đó, việc lựa chọn con
đường mới phù hợp hơn, tiến bộ hơn đối với đất nước Nhật Bản là điều vô cùng cần
thiết. Cuộc Minh Trị Duy tân 1868 nổ ra là một điều tất yếu để đưa Nhật Bản đi theo
con đường tư bản chủ nghĩa. Với một thể chế mới được xác lập theo mơ hình các
nước phương Tây.
1.1.2. Nội dung của công cuộc Minh Trị
Trong bối cảnh xã hội Nhật Bản tồn tại nhiều mâu thuẫn, chế độ Mạc phủ
Tokugawa lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, cùng với sự đe dọa của các
nước phương Tây đã đưa Nhật Bản đứng trước hai con đường lựa chọn: Một là tiếp tục
duy trì chế độ phong kiến lạc hậu nguy cơ trở thành một nước thuộc địa, hai là lật đổ
chế độ phong kiến Mạc phủ thiết lập một thể chế chính trị mới tạo điều kiện cho nền
kinh tế tư bản phát triển ở Nhật Bản.
Tháng 12 - 1867, chế độ Mạc phủ Tokugawa bị lật đổ. Ngày 3 - 1 - 1868, chính
quyền mới do Thiên hồng Minh Trị đứng đầu đã được thành lập. Ngay sau khi lên
nắm quyền, Thiên hoàng Minh Trị đã ban hành một số pháp lệnh nhằm phát triển kinh
tế tư bản, tiến hành cuộc cải cách hành chính dựa theo ý nguyện của nhân dân
Thành phố Edo từ lâu đã là thủ đơ chính trị thực sự của Nhật Bản trong nhiều
thập kỷ nay được đổi tên thành Tokyo hay “Đông Kinh” tức là thủ đơ phía Đơng. Để
tận dụng ưu thế trung tâm chính trị của Edo, ngày 4 - 9 - 1868, triều đình Minh Trị đã
dời Kyoto về đóng đơ tại Giang Tơ và triều đình đã đổi tên Đơng Kinh thành Tokyo.
Thành phố Tokyo là nơi có điều kiện thuận lợi về địa lý, kinh tế, chính trị giúp Thiên
hồng dễ dàng trị vì hơn. Ngày 29 - 8 - 1871, chính phủ mới ra lệnh “Phế phiên, lập
huyện” nhằm thủ tiêu chế độ lãnh chúa phong kiến. Để xóa quyền lực của các đại
danh, triều đình đã thực hiện phế phiên, lập huyện, bãi bỏ hệ thống lãnh địa và danh
hiệu của các đại danh. Năm 1871, chính quyền Minh Trị thơng qua đạo luật mới để
thay thế hệ thống phiên phong kiến truyền thống Nhật Bản nhằm xóa bỏ tình trạng cát
cứ phong kiến thống nhất đất nước dưới quyền chỉ đạo của chính quyền trung ương.
Chính phủ cũng ra lệnh xóa bỏ ranh giới các cơng quốc, xóa bỏ đặc quyền và tước
hiệu của quý tộc phong kiến, đồng thời Thiên hoàng cho thành lập “tam viện” quy
định quyền lực của từng viện, đến năm 1889 chỉ còn 2 viện viện Quý tộc và viện Dân



10

biểu. Bên cạnh đó, năm 1889 Hiến pháp mới được ban hành chế độ quân chủ lập hiến
được thiết lập, Thiên hồng là ngun thủ tối cao, có quyền hạn rất lớn. Cải cách pháp
lý đã được tiến hành với một ý định để đạt được mình trong và bình đẳng với phương
Tây. Họ nhằm xoá bỏ thêm các hiệp ước ngoại giao bất bình đẳng. Cuối cùng, một loạt
các luật mới xuất hiện: Luật Hình sự (1882), bộ luật Dân sự (1898)..., những thay đổi
khác trong hệ thống tư pháp bao gồm việc bãi bỏ tra tấn, thành lập một cơ quan tư
pháp đào tạo, và thiết lập các quy tắc của chứng cứ và thủ tục tòa án.
Trong lĩnh vực kinh tế, nhằm gạt bỏ những trở lực của sự phát triển kinh tế tư
bản chủ nghĩa trong nơng nghiệp, gia tăng tài chính cho chính phủ trong điều kiện kinh
tế cơng thương nghiệp hãy cịn thấp, từ năm 1872 - 1873 chính phủ Minh Trị ban hành
một loạt sắc lệnh về cải cách ruộng đất, xác lập quyền sở hữu ruộng đất cho người
đang chiếm hữu, đánh thuế đất dựa trên giá đất và đánh vào người sở đất đai. Thuế đất
có nhẹ hơn nhưng chỉ có chủ đất có lợi. Cải cách ruộng đất đã góp phần tăng nguồn
thu nhập cho quốc gia để giải khó khăn về tài chính ban đầu. Chính sách cải cách
ruộng đất là một trong những địn bẩy tích lũy tư bản nguyên thủy của chủ nghĩa tư
bản Nhật Bản. Tháng 8 - 1867, chính phủ phát hành cơng trái. Nhà nước đã phát hành
công trái hoặc lấy danh nghĩa nhà nước lập “Quỹ tài trợ công ty” để hỗ trợ vốn khuyến
khích tư nhân kinh doanh, tính ra từ năm 1875 đến 1885 quỹ này đã hỗ trợ đến
1.470.000 yên” [47, tr.86]. Nhờ đó, nền kinh tế nơng nghiệp đã được giải phóng, thúc
đẩy sự phát triển của thị trường tiêu thụ hàng hoá, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
phát triển ở nông thôn, tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá, cầu cống phục vụ
giao thông liên lạc. Trong lĩnh vực công nghiệp, dưới khẩu hiệu: “Phú quốc cường
binh, thực sản hưng nghiệp”, chính quyền Minh Trị nhận thức đúng đắn tầm quan
trọng của công thương nghiệp. Vì vậy, ngay từ khi lên nắm quyền Minh Trị đã khuyến
khích phát triển cơng thương nghiệp, cho thi hành các chính sách thống nhất tiền tệ, đo
lường, thống nhất thị trường. Trong công nghiệp, chú ý phát triển công nghiệp nặng,

đặc biệt là công nghiệp quân sự, đồng thời phát triển công nghiệp nhẹ một cách tương
ứng. Nhà nước tham gia điều tiết sự phát triển của kinh tế, chú ý phát triển cả công
nghiệp quốc doanh và cơng nghiệp tư nhân.
Về xã hội, chính phủ Minh Trị ban bố quyền bình đẳng giữa các cơng dân với
khẩu hiệu “tứ dân bình đẳng”, nghĩa là bốn tầng lớp gồm võ sĩ, nông dân, thợ thủ
công và thương nhân giờ đây khơng cịn bị phân biệt. Điều này gây bất bình ở tầng lớp


11

võ sĩ, nên triều đình Minh Trị phải vừa đàn áp vừa xoa dịu bằng cách bồi thường bằng
tiền. Khoản tiền nhận được từ triều đình cộng với tri thức mà tầng lớp võ sĩ được trang
bị đã biến tầng lớp võ sĩ thành giai cấp tư sản.
Đặc biệt, nhiều cải cách quan trọng về giáo dục được thi hành, chính phủ Minh
Trị rất coi trọng lĩnh vực này, xem giáo dục như là chìa khóa cho cơng cuộc hiện đại
hóa. Chế độ giáo dục bắt buộc được thi hành, cho thành lập các trường đại học để đào
tạo tầng lớp lãnh đạo chính quyền và kinh doanh. Đồng thời, đưa những thành tựu
khoa học khoa học - kỹ thuật vào giảng dạy và áp dụng chế độ giáo dục bắt buộc,
những thanh niên ưu tú được cử đi du học du học ở phương Tây. Các môn học được
chuyển chủ yếu từ học thuộc kinh sử sang khoa học - kỹ nghệ - thương mại. Năm
1871, bộ Giáo dục được thành lập, với một hệ thống trường học dựa chặt chẽ trên mơ
hình của Mĩ, trong đó thúc đẩy một chương trình tiện dụng, nhưng với hệ thống hành
chính trực thuộc trung ương, kiểm soát trường học được sao chép từ Pháp. Năm 1872,
một hệ thống giáo dục quốc gia đã được đặt ra dưới sự giám sát của bộ Giáo dục
(1871). Chất lượng dạy học cũng như chương trình chịu ảnh hưởng Hoa Kỳ và phương
Tây nhiều mặt. Điển hình như việc soạn sách: 80% sách vở và tài liệu chuyên ngành
được biên soạn theo mẫu phương Tây, các sách học và các cơng trình khảo cứu của
phương Tây cũng được phiên dịch sang tiếng Nhật, đồng thời với các cơng trình biên
khảo của các nhà bác văn người Nhật giỏi về phương Tây. Nhà biên khảo lừng danh
nhất là Fukuzawa Yukichi, người đã từng qua phương Tây nhiều lần kể từ năm 1860,

đã viết rất nhiều sách, chẳng hạn như cuốn “Tình Trạng Tây Phương”. Chính ơng
Yukichi cũng đã lập nên một cơ sở giáo dục tư rất uy tín, để sau này trở thành Đại học
Keio lừng danh. Phương châm của nền giáo dục mới cũng xác định “Học đi đôi với
hành, nền học thuật không tách rời với đời sống, dựa trên tinh thần khoa học độc lập
có phê phán”, đặc biệt dựa trên nguyên tắc “Khoa học phương Tây, đạo đức Nhật
Bản” [51]. Hệ thống giáo dục Nhật Bản trên cơ sở tham khảo mơ hình nền giáo dục
Pháp được chia làm 8 khu Đại học trong cả nước, mỗi khu có 32 khu Trung học, mỗi
khu trung học có 10 khu tiểu học, ngồi ra cịn có hệ thống trường chùa hoặc các
trường tư. Bên cạch đó, chính phủ Nhật Bản cho mời các chuyên gia giáo dục ngoại
quốc sang dạy nhằm tăng chất lượng giáo dục. Đồng thời, chính phủ mới cịn cho mở
các trường ngoại ngữ tạo điều kiện cho Nhật Bản tiếp thu văn minh phương Tây có
hiệu quả hơn.


12

Nước giàu binh mạnh là mục tiêu cuối cùng của cải cách, muốn vậy phải tăng
cường sức mạnh của quân đội và khả năng quốc phòng của đất nước. Năm 1870, chính
phủ ban hành sắc lệnh cải tổ qn đơi theo khuân mẫu các nước phương Tây. Quân đội
cũng áp dụng chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ trưng binh và tăng cường mua
và sản xuất vũ khí, đạn dược. Năm 1896, đã có tổng cộng 13 đơn vị thường xuyên và
toàn bộ lực lượng được trang bị súng trường hiện đại và pháo binh, chủ yếu là Nhật
Bản thực hiện. Kèm theo đó là mời các giảng viên quân sự nước ngoài về để giảng dạy
và gửi các sinh viên sĩ quan đến một số nước như Anh, Pháp học tập. Cải cách quân sự
đã được tiến hành chủ yếu bởi các cựu Samurai của Choshu và nó tiếp thu đầu tiên của
Pháp và sau này là mơ hình của Đức. Ngồi những chính sách cải cách cơ bản trên,
Thiên hồng Minh Trị cịn tiến hành những cải cách về văn hóa tư tưởng…, tạo nên
những chuyển biến sâu rộng trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội Nhật Bản.
Cơng cuộc Duy tân Minh Trị có một ý nghĩa vô cùng to lớn. Với cuộc cải cách
hành chính Minh Trị đã đưa đất nước Nhật Bản thốt khỏi tình trạng khủng hoảng và

tiến lên theo con đường tư bản chủ nghĩa. Nhờ cuộc cách mạng này mà nước Nhật đã
tạo được những thay đổi thần kỳ, là nền móng cơ bản đưa Nhật Bản trở thành một
trong những cường quốc trên thế giới. Trong đó 10 năm đầu là giai đoạn quan trọng
nhất mà người Nhật gọi là “thời kỳ Văn minh khai hóa”. Cuộc cách mạng 1868 đã mở
đường cho việc biến nước Nhật Bản phong kiến thành một nước tư bản chủ nghĩa,
thoát khỏi số phận một nước thuộc địa hay nửa thuộc địa như các nước châu Á cùng
thời. Cuộc cách mạng Minh Trị cũng dẫn đến q trình cơng nghiệp hóa của Nhật Bản
khiến nền kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh mẽ trong 30 năm cuối của thế kỷ XIX
khiến nước này trở thành một cường quốc quân sự năm 1905 sau khi đánh bại Hải
quân Hoàng gia Nga (1904 – 1905) và trước đó là chiến thắng trong cuộc chiến tranh
với nhà Thanh (1894 - 1895). Đưa Nhật Bản từ nguy cở trở thành một nước thuộc địa
trở thành một đế quốc hùng mạnh đầu tiên ở châu Á, khiến nhiều nước phải kinh ngạc
và nể phục.
1.2. Các nhân tố tác động tới quá trình thiết lập bộ máy hành chính
1.2.1. Tác động của cuộc Duy tân Minh Trị đến hình thức chính thể và tổ chức bộ
máy nhà nước tư sản Nhật Bản
Công cuộc Duy tân Minh Trị là một cuộc cách mạng không triệt để, giai cấp tư
sản chưa đủ mạnh để tự mình lập ra chính quyền riêng, do thế lực còn non yếu, nên


13

giai cấp tư sản Nhật Bản không giữ được vai trò độc quyền lãnh đạo cách mạng tư sản,
mà việc cải tạo Nhật Bản phong kiến trở thành một nước tư bản là nhiệm vụ vơ cùng
khó khăn, do vậy cần phải có một chính quyền đủ mạnh để hồn thành nhiệm vụ này.
Vì thế, giai cấp tư sản buộc phải liên minh với tầng lớp phong kiến tư sản hố để lãnh
đạo cách mạng. Cho nên hình thức chính thể của Nhật Bản sau năm 1868 là “quân chủ
lập hiến nhất ngun”.
Theo hình thức này, Thiên hồng vẫn là người đứng đầu đất nước nắm quyền
hành rất lớn. Ở Nhật Bản, tín ngưỡng truyền thống phát triển rất mạnh, đặc biệt là

Thần đạo, chính tư tưởng này đã chi phối toàn bộ đời sống tinh thần cũng như tổ chức
bộ máy nhà nước Nhật Bản. Thiên hoàng được đặt ngang hàng với thần linh và được
xem là biểu tượng của đất nước, vì vậy mà mặc dù tiếp thu mơ hình qn chủ lập hiến
của phương Tây nhưng Thiên hoàng vẫn được trao cho rất nhiều quyền lực chứ khơng
phải chỉ nắm hư quyền như hồng đế nước Anh. Thiên hồng chỉ bị hạn chế quyền lập
pháp cịn quyền hành pháp vẫn rộng rãi. Chính điều này đã tạo một nét đặc trưng trong
mơ hình hành chính Nhật Bản tạo nên tính “nhất nguyên” trong tổ chức bộ máy nhà
nước. Hình thức chính thể qn chủ lập hiến nhất nguyên chính là một trong hai biến
dạng của chế độ quân chủ lập hiến. Với hình thức này quyền hạn của Thiên hồng
khơng phải là vơ hạn như thời phong kiến mà được giới hạn trong Hiến pháp. Trong
cơ cấu tổ chức nhà nước cịn có nghị viện là cơ quan nắm quyền lập pháp. Bên cạnh
đó, cuộc cách mạng tư sản thành cơng khơng thể thiếu vai trị quần chúng lao động đội quân chủ lực của cuộc cách mạng. Tuy nhiên, sự liên minh giữa quý tộc - tư sản đã
đưa đến hậu quả là, vấn đề ruộng đất trong cách mạng tư sản không được giải quyết và
từng bước hình thành chính thể qn chủ nghị viện, trong đó quyền lực của vua rất
lớn.
Như vậy, nền chính trị Nhật Bản được thành lập dựa trên nền tảng của thể chế
quân chủ lập hiến nhất nguyên, một hình thức mang tính đặc trưng của Nhật Bản, tuy
nhiên sự tồn tại của chế độ quân chủ lập hiến cũng có tác động lớn đến q trình hình
thành tổ chức bộ máy nhà nước Nhật Bản. Mặc dù Thiên hoàng có quyền hạn rất lớn
nhưng khơng vơ hạn như thời phong kiến mà được giới hạn trong Hiến pháp và trong
cơ cấu tổ chức nhà nước cịn có nghị viện là cơ quan nắm quyền lập pháp. Đồng thời,
bộ máy nhà nước Nhật Bản Minh Trị còn kế thừa một lực lượng quan lại trước đây


14

trong bộ máy cũ, chính vì vậy nó đã giữ gìn được sự ổn định cho tầng lớp quý tộc
phong kiến.
Bên cạnh đó, thành cơng từ cuộc cải cách Minh Trị cũng ảnh hưởng rất lớn đến
cơ cấu tổ chức của chính quyền Nhật Bản, một số tầng lớp trong xã hội ngoài phong

kiến đã bắt đầu tham gia vào bộ máy nhà nước, đặc biệt trong bối cảnh chính quyền
trung ương đang loay hoay tìm mơ hình nhà nước thích hợp, ở Nhật Bản đã xuất hiện
phong trào đấu tranh chính trị địi quyền tự do, dân chủ của nhân dân thông qua việc
thành lập Quốc hội và ban hành Hiến pháp, phong trào đã lôi cuốn nhiều tầng lớp xã
hội tham gia. Đồng thời, bộ phận trí thức Nhật Bản cũng sớm nhận ra những điểm hạn
chế trong bộ máy chính quyền cũ và kiên quyết đấu tranh để xây dựng một chính
quyền mới theo hướng dân chủ hiện đại. Đóng vai trị quan trọng nhất vào việc dân
chủ hóa, hiện đại hóa bộ máy nhà nước Minh Trị là nhóm Meirokusha do Fukuzawa
Yukichi đứng đầu, ơng đề nghị chính quyền mới nên từ bỏ lối cai trị cũ theo quan
niệm lỗi thời của Nho giáo, để cai trị theo đường lối dân chủ văn minh, theo ông con
đường duy nhất mà Nhật Bản phải đi là mở chử tiếp thu văn minh minh phương Tây,
chỉ có thế Nhật Bản mới giữ được nền độc lập dân tộc. Mặt khác, cuộc cải cách Minh
Trị với sự thiết lập chính quyền mới đã đưa đến sự phân quyền trong bộ máy nhà nước
với các quyền lập pháp, tư pháp và hành pháp.
Tóm lại, cơng cuộc Duy tân Minh Trị Nhật Bản khơng chỉ giúp nước Nhật thốt
ra khỏi sự khủng hoảng về chính trị mà cịn đưa Nhật đi theo con đường tư bản chủ
nghĩa. Do tính chất khơng triệt để của nó đã xác lập hình thức chính thể quân chủ lập
hiến nhất nguyên của Nhật. Để sau này khi mà giai cấp tư sản đã đã đủ mạnh, nó thiết
lập một hình thức chính thể khác qn chủ lập hiến nhất nguyên.
1.2.2. Tác động của cải cách hành chính Nhật Bản
Cuộc cải cách hành chính Minh Trị do Thiên hoàng Mutsuhito khởi xướng đã
mở ra một kỷ nguyên hiện đại được bắt đầu từ năm 1868. Cuộc cải cách này “đã tạo
nên một thời đại mới cho nước Nhật với những cải cách xã hội, chính trị phi thường.
Nếu tính chính xác thì chỉ trong vịng có 2 thập kỉ, một khung cảnh hoàn chỉnh về một
xã hội hiện đại đã được thiết lập, và Nhật Bản trên cơ sở của bộ khung đó thêm gia
đắp thịt và ngày càng hoàn thiện” [26, tr.115 - 116]. Từ một xã hội phong kiến nông
nghiệp lạc hậu suốt mấy thế kỷ liền tự cơ lập với bên ngồi, Nhật Bản nhanh chóng trở
thành một cường quốc trên thế giới.



15

Trước khi tiến hành cuộc cải cách Nhật Bản vẫn là nước phong kiến trung ương
tập quyền, quyền lực nằm trong tay Thiên hoàng và tầng lớp quý tộc tư sản. Tuy nhiên,
ngay sau khi chính quyền Minh Trị được thành lập, chính phủ mới đã xúc tiến mạnh
mẽ cơng cuộc Duy tân vĩ đại để xác định con đường chính trị mới mà Nhật Bản phải
đi. Do đó, Thiên hồng đã tiến hành cuộc cải cách hành chính thành lập một chính phủ
mới theo kiểu châu Âu. Cuộc cải cách hành chính được thực hiện vào giữa tháng 6 1869. Các công quốc trao trả quyền quản lý đất đai và cùng cư dân trong lãnh địa tạo
nên một nước Nhật thống nhất về mặt hành chính dưới quyền lãnh đạo của chính phủ
trung ương, các giai cấp cũ bị xóa bỏ và mọi người thừa nhận quyền bình đẳng trước
pháp luật. Mọi quyền hành nhà nước tập trung vào tay Thiên hoàng, “Thiên hoàng là
người đứng đầu đất nước nắm quyền lãnh đạo tối cao, các lãnh chúa được bổ nhiệm
chức vụ tri huyện. Xóa bỏ tước hiệu của các Daimyo đổi thành Kadoku (quý tộc cấp
cao) và tầng lớp Samurailà Shidoku (sĩ tộc) và Xôdudoku (tốt tộc), các tầng lớp khác
là bình dân. Chế độ đẳng cấp của Nhật Bản bước đầu thay đổi. Chế độ thu tô lãnh địa
thay thế bằng chế độ lương bổng” [32, tr.309]. Bên cạnh đó, tháng 7 - 1869, chính
quyền Minh Trị tiến hành cải cách quan chế và thành lập các bộ trưởng, trong đó đóng
vai trị quan trọng là các quý tộc tư sản hóa (Samurai). Năm 1889, bản Hiến pháp đầu
tiên xây dựng trên nguyên tắc phân quyền được ban bố đã xác nhận về mặt pháp lý thể
chế chính trị Nhật Bản, thiết lập chế độ quân chủ lập hiến. Hiến pháp xác định rõ
Thiên hoàng là nguyên thủ tối cao có quyền hạn rất lớn, quyền triệu tập và giải tán
Quốc hội, quyền ban hành Hiến pháp, đạo luật, quyền chỉ đạo nội các.... Quốc hội gồm
2 viện: viện Quý tộc (Thượng viện) và viện Nguyên lão (Hạ viện), đại biểu Thượng
viện do Thiên hoàng chỉ đạo, Hạ viện do bầu cử với điều kiện cử tri là nam giới trên
25 tuổi đóng thuế cao và cư trú ổn định. Ở địa phương, các phiên bị xóa bỏ, các lãnh
chúa phong kiến trở thành các tổng trấn ở địa phương. Cả nước được chia thành quận,
huyện và thành phố. Quân đội các tầng lớp vương công bị giải tán, quân đội thường
trực của Thiên hoàng được thành lập trên cơ sở chế độ nghĩa vụ quân sự được quy
định trong sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự do Thiên hoàng ban hành năm 1872.
Thực chất bộ máy hành chính Nhật Bản thời Minh Trị là một nhà nước quân

chủ chuyên chế khoác áo đại nghị, mặc dù Nghị viện được thành lập nhưng nằm dưới
sự chỉ đạo của Thiên hồng, vai trị của Thiên hồng trong bộ máy nhà nước rất lớn.
Công cuộc cải cách hành chính Nhật Bản cho thấy sự tiến bộ của chính quyền mới,


16

thích hợp với điều kiện của Nhật Bản lúc bấy giờ. Đồng thời, tạo điều kiện để chính
phủ mới dễ dàng quản lý nhà nước, đảm bảo ở một mức nhất định về quyền tự do dân
chủ cho nhân dân. Cuộc cải cách hành chính 1868 đã định hướng được mơ hình nhà
nước mà Nhật Bản phải đi như thế nào để dễ dàng quản lý được đất nước từ trung
ương đến địa phương, đồng thời phù hợp với nhu cầu của xã hội, phù hợp với nguyện
vọng của nhân dân, xóa bỏ chế độ phong kiến đang trong tình trạng khủng hoảng và
suy thoái trầm trọng. Thực hiện cuộc cải cách để đưa Nhật Bản phát triển theo con
đường tư bản chủ nghĩa tiếp nhận những thành tựu từ phương Tây để thấy rõ sự lạc
hậu của Nhật Bản và kịp thời sửa đổi.
Như vậy, cuộc cải cách hành chính năm 1868 đã tác động rất lớn đến quá trình
thiết lập bộ máy hành chính nhà nước của Nhật Bản, công cuộc Minh Trị đã đưa Nhật
Bản từ một nước phong kiến lạc hậu đi lên thành một nước tư bản có nền cơng nghiệp
hiện đại, có lực lượng quân sự hùng mạnh, văn hóa giáo dục tiên tiến,…. nước Nhật đã
trở thành một quốc gia trung ương tập quyền với đúng nghĩa của nó, bắt đầu đặt nền
tảng cho sự hình thành thị trường thống nhất trong cả nước. Cải cách về hành chính vì
thế là cải cách có ý nghĩa tiên quyết, nhờ đó Nhật Bản đã rút ngắn được khoảng cách
phát triển với các quốc gia Âu - Mỹ.
1.2.3. Kế thừa mơ hình thời Tokugawa (1603 – 1868)
Mặc dù trong cơng cuộc Duy tân, Thiên hồng Minh Trị đã xác định con đường
mà nước Nhật phải đi lúc này là dựa theo mơ hình qn chủ lập hiến của các nước
phương Tây. Tuy nhiên, Minh Trị Thiên hồng khơng phủ nhận những thành tựu trong
những năm đầu thống trị của Tokugawa hướng tới mục tiêu xây dựng một Nhật Bản
hịa bình, ổn định và thống nhất. Do đó, cùng với q trình thiết lập bộ máy hành chính

mới của riêng mình, Thiên hồng Minh Trị đã có sự kế thừa và chọn lọc mơ hình nhà
nước thời Tokugawa.
Thời kỳ Tokugawa (1603 – 1868) là giai đoạn phát triển cuối cùng và cao nhất
của chế độ phong kiến Nhật Bản. Diễn trình của giai đoạn lịch sử này hết sức đa dạng
và phức tạp. Đó vừa là thời kỳ chuyển mình mạnh mẽ của dân tộc Nhật Bản trên tất cả
mọi lĩnh vực, chính trị, kinh tế, xã hội… đồng thời chuẩn bị những tiền đề, điều kiện
hết sức quan trọng để rồi những nhà lãnh đạo Nhật Bản tiếp thu và đưa Nhật Bản sánh
ngang với các quốc gia phương Tây.


17

Tokugawa là một người nhìn xa trơng rộng nhưng cũng hết sức thận trọng,
Tokugawa đã chuẩn bị những bước đi vững chắc, hết sức khôn khéo nhằm giải
quyết một cách căn bản các vấn đề thực tại của xã hội Nhật Bản lúc đó đồng thời
hướng tới xây dựng một thể chế chính trị ổn định, tái thiết nền hồ bình và thống nhất
quốc gia. Minh Trị đã học hỏi mơ hình chính quyền phong kiến tập trung đặc biệt là
thông qua việc củng cố sức mạnh tập trung nhằm đạt tới sự điều hành hữu hiệu, trực
tiếp của chính quyền trung ương với các địa phương thông qua một cơ chế vận động
song song - Mơ hình song hành lưỡng chế ở Nhật Bản với chính quyền kép Mạc phủ
và Thiên hoàng. Trên danh nghĩa, Thiên hoàng ở kinh đô Kyoto là người thống trị ở
Nhật Bản, là người đứng đầu bộ máy nhà nước của Nhật Bản, nhưng thực tế chính
quyền Thiên hồng chỉ là danh nghĩa. Chính quyền Mạc phủ thâu tóm mọi quyền
hành. Cho nên, hoạt động của hai chính quyền song song này gắn liền với quá trình
hình thành, phát triển và suy vong của các chính quyền qn sự. Nhận thấy hạn chế
trong mơ hình này, Minh Trị đã ra sức củng cố lại hình ảnh Thiên hồng trong nhân
dân. Nếu trước đây hình ảnh Thiên hồng rất ít được phổ biến trong dân chúng thì
trong cuộc cải cách của mình Thiên hồng Minh Trị và triều đình Nhật khơng để cho
hình ảnh của Thiên hồng bị mờ nhạt như xưa nữa. Chính vì vậy, họ dùng đủ mọi biện
pháp tuyên truyền để nâng cao uy tín Thiên hồng.

Đồng thời, Tokugawa đã thi hành nhiều biện pháp để xây dựng và củng cố tiến
tới từng bước hồn chỉnh hệ thống hành chính. Trong hệ thống đó, gồm có các cơ quan
chính là viện Ngun Lão, Hội đồng các quan đầu ngành, Hội đồng xét xử. Theo đó,
viện Nguyên Lão thực hiện chức năng tư vấn về những chính sách lớn cho Tướng
quân như quan hệ giữa Mạc phủ với triều đình Thiên hồng, việc kiểm soát của Mạc
phủ đối với các lãnh chúa phong kiến… Hội đồng các quan đầu ngành đảm nhiệm
chức năng cai trị và tư vấn, dưới Hội đồng này còn có một số cơ quan, chức danh có
chức năng giúp việc cho Hội đồng. Hội đồng xét xử với thành viên gồm một số người
thuộc Hội đồng các cơ quan đầu ngành, quan chức của các cơ quan, chính quyền trung
ương và địa phương, đền chùa. Thời Tokugawa chưa phân biệt rõ ràng về chức năng
lập pháp và hành pháp nên Hội đồng xét xử vừa có chức năng xét xử, vừa có chức
năng cai trị. Chính quyền địa phương bao gồm hệ thống hành chính cơ sở, về cơ bản
xây dựng theo khn mẫu của chính quyền trung ương. Các lãnh chúa phong kiến
được hưởng đầy đủ quyền tự trị cho nên muốn thay thế phương pháp cai trị và gia luật


18

ở các lãnh địa mà khơng va chạm với tình cảm và tập quán địa phương. Như vậy, hệ
thống chính quyền Mạc phủ Tokugawa dựa trên quyền cai trị trực tiếp của Tướng quân
ở trung ương, quyền tự trị của các lãnh chúa phong kiến ở các địa phương với khoảng
250 lãnh địa (Han).
Dựa trên bộ máy hành chính thời Tokugawa, Thiên hoàng Minh Trị đã rút ra
những ưu điểm và hạn chế của chính quyền cũ, trên cơ sở đó áp dụng vào cơng cuộc
xây dựng hệ thống hành chính của mình để phù hợp với u cầu của lịch sử Nhật Bản
lúc bấy giờ. Chính quyền mới gồm các cơ quan chính Thiên hồng vẫn là người nắm
giữ vai trị tối cao trong đất nước. Ngồi ra, cịn có chính viện (chính phủ), tả viện (lập
pháp), tất cả đều do Thiên hoàng điều hành, quyền hạn của viện dân biểu tương đương
với quyền của viện nguyên lão thời Tokugawa. Các phiên Quốc hội bị xóa bỏ, các lãnh
chúa phong kiến trở thành các tổng trấn ở địa phương.

Như vậy, dựa trên mơ hình nhà nước thời Tokugawa Thiên hồng Minh Trị đã
có sự chon lọc và kế thừa. Ông đã nhận thấy những điểm tiến bộ và hạn chế của mơ
hình nhà nước song hành lưỡng chế, để xây dựng nên bộ máy hành chính của mình
nhằm đưa đất nước đi lên thoát khỏi nanh vuốt của các nước phương Tây.
1.2.4. Sự học hỏi và tiếp thu mô hình nhà nước phương Tây
Khi nói về cuộc canh tân Minh Trị, người ta thường nghĩ đơn giản đó là sự mở
cửa để giao thương và học kỹ thuật tân tiến của phương Tây. Thực tế cho thấy rằng,
học hỏi kỹ thuật của phương Tây chỉ là một trong những nét tiêu biểu nhất, còn thực
chất của cuộc Minh Trị Duy tân là quá trình người Nhật muốn học những tinh hoa văn
minh của người phương Tây để tự khai hóa mình và để gìn giữ được nền độc lập quốc
gia.
Vào thập niên 60 của thế kỷ XIX, một nhóm trí thức Nhật Bản vì niềm hãnh
diện dân tộc cùng với ý thức trách nhiệm đối với tiền đồ đất nước, quyết định tìm đến
các nước phương Tây để học hỏi. Họ nơn nóng cái gì cũng muốn biết, từ kỹ thuật,
quân sự, chế độ chính trị cho đến tư tưởng, phong tục tập quán. Họ ra đi bằng nhiều
cách khác nhau, kẻ đi Âu, người đi Mĩ, kẻ đi chính thức, người trốn xuống các tàu
bn. Họ đã có dịp quan sát một cách tổng quan toàn bộ nền văn minh Âu - Mỹ,
những thành quả to lớn của của cách mạng công nghiệp, những điều mới mẻ trong cơ
cấu của chế độ tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong q trình học hỏi cái mới, Nhật Bản
khơng để mất đi cái đã có, mà lúc nào cũng chủ trương phải giữ lại tinh thần của Nhật


19

Bản với niềm tự hào: “Người Âu Châu không dạy cho người Nhật mà chính vì người
Nhật tự mình muốn học hỏi các phương pháp tổ chức dân sự và quân sự của phương
Tây” [51].
Các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã học hỏi về cách thức tổ chức chính trị phương
Tây, cẩn thận thử áp dụng chúng vào xã hội Nhật Bản. Chính phủ chọn ra các sinh
viên ưu tú gửi đi du học, bất kể là nam hay nữ, dựa vào năng khiếu của từng người gửi

đến các nước phương Tây và học hỏi những tinh hoa văn hóa của các nước đem để áp
dụng. Họ không chọn một quốc gia nào làm kiểu mẫu, mà chọn mơ hình tốt nhất ở mỗi
lĩnh vực của mỗi nước. Khi phái đoàn Nhật Bản đặt chân lên đất nước Anh, họ nhận
thấy nước Anh đã đạt được những thành tựu to lớn từ cuộc cách mạng công nghiệp ở
Anh và đưa nước này trở thành “công xưởng thế giới”, “mậu dịch lập quốc”. Họ đã
tìm thấy điểm chung giữa Nhật Bản với Anh đều là những quốc gia hải đảo, trong khi
đó Hải quân Anh là lực lượng hải quân lớn nhất và mạnh nhất trên thế giới, đóng vai
trị chủ yếu trong việc thiết lập nên một đế quốc Anh có sức mạnh vượt trội. Do đó
Nhật Bản đã tiếp thu mơ hình tổ chức hải qn của Anh Quốc để xây dựng quân đội.
Mặc dù Anh theo chế độ quân chủ lập hiến nhưng Anh có một nền dân chủ phát triển
cao nhất thế giới đương thời, tuy nhiên vai trị của hồng đế nước Anh chỉ là hư quyền.
Về điểm này thì hầu hết người Nhật đều cho rằng nền dân chủ của Anh không phù hợp
với điều kiện của Nhật. Khi đến nước Pháp, sứ đoàn Nhật Bản nhận thấy thấy rằng nền
cộng hoà Pháp chứa đựng tính bất ổn, dễ xảy ra các cuộc đấu tranh giai cấp, xã hội đặc
biệt khi mà những vết tích của cuộc chiến tranh Pháp – Phổ vẫn còn tồn tại. Vì vậy,
chế độ chính trị Pháp cũng khơng phải là hình mẫu mà Nhật Bản cần noi theo. Nước
Nga cũng vậy, mặc dù sau cải cách nông nô Nga đã đạt được những thành tựu đáng kể,
nhưng về văn minh và dân chủ, Nga còn lạc hậu hơn nhiều so với Anh, Pháp, Mỹ hay
Đức, thậm chí là với Áo và Ý. Chính vì vậy, Nhật Bản cũng khơng thể học hỏi nước
Nga trong việc tổ chức bộ máy nhà nước được.
Sau khi khảo sát cụ thể các nước phương Tây, sứ đoàn “đã đề xuất cụ thể các
phương sách có hiệu quả để tiếp nhận văn minh phương Tây. Trước hết, Nhật Bản cần
phải mời chuyên gia của những nước nào, chuyên gia lĩnh vực nào để giúp cho việc
đẩy nhanh q trình cận đại hóa đất nước Nhật Bản” [21, tr.55]. Chính vì vậy, bên
cạnh những sinh viên ưu tú gửi đi du học, Nhật Bản còn sẵn sàng trả số lương hậu hĩnh
cho các giáo sư, chuyên gia phương Tây để họ dạy tại các trường đại học, trường dạy


20


nghề, cố vấn cho các công ty tư nhân và các cơ quan của chính phủ Nhật Bản. Đặc
biệt, tháng 3 – 1882, Ito Hirobumi đã lãnh đạo một phái đoàn sang châu Âu để nghiên
cứu Hiến pháp của các nước phương Tây. Khi đến nước Đức, ông nhận thấy nền quân
chủ lập hiến, tập trung quyền lực như ở Đức có thể phù hợp với Nhật Bản trên con
đường xây dựng một quốc gia phú quốc cường binh và ông nhận thấy rằng đây chính
là con đường chính trị mà Nhật Bản phải đi. Đồng thời, tại đây Ito Hiribumi đã được
hai giáo sư Gneist và Stein hướng dẫn về lý luận của Hiến pháp Đức để xây dựng một
Hiến pháp mới riêng của Nhật Bản. Hiến pháp Minh Trị trên cơ sở đã ra đời, giống
như khuôn mẫu của nó là Hiến pháp Phổ nhằm thiết lập một chế độ quân chủ lập hiến
dựa trên quyền lực đa dạng của Thiên hồng.
Như vậy, sau một thời gian tìm hiểu các nước phương Tây thì Nhật Bản đã
mang những thành tựu của các nước này về xây dựng một Nhật Bản hùng mạnh. Đó là
học hỏi nước Anh về Hải quân và Hàng hải thương thuyền, nước Pháp về luật pháp và
tổ chức chính quyền địa phương, nước Đức về quân đội và Y khoa, còn Hoa Kỳ được
chú ý về cách khai thác thương mại để nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện bộ máy
nhà nước Nhật Bản, tạo điều kiện ổn định xã hội đưa Nhật Bản sánh kịp với các nước
Âu - Mỹ.


21

Chương 2:
TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH CỦA NHẬT BẢN
THỜI MINH TRỊ (1868 - 1912)
2.1. ơ sở pháp lý để xây dựng bộ máy hành chính Nhật Bản thời Minh Trị
2.1.1. ơ chế tam quyền phân lập
Mơ hình nhà nước “tam quyền phân lập” ra đời gắn liền với cuộc đấu tranh của
giai cấp tư sản chống lại chế độ phong kiến, là bước tiến bộ so với chế độ quân chủ
phong kiến. Nó trở thành nguyên tắc cơ bản để tổ chức hoạt động của nhà nước tư sản.
Tam quyền phân lập hay còn hiểu theo nghĩa phân chia quyền lực là một mơ

hình quản lý nhà nước. Cơ chế tam quyền phân lập được thiết lập nhằm kiềm chế,
kiểm sốt với mục đích cân bằng quyền lực, tiêu diệt lạm quyền, tiếm quyền trong hệ
thống chính trị nói chung và cơ cấu tổ chức nhà nước nói riêng. Phân chia biệt lập
trong 3 nhánh quyền lực - người của nhánh quyền lực này không thể nằm trong nhánh
quyền lực khác, do đó nó tạo ra tam quyền phân lập một cách tuyệt đối.
Lý thuyết về tam quyền phân lập được nêu ra đầu tiên bởi các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại Aritoteles (384 - 322 TCN) và được hoàn thiện thành học thuyết hoàn
chỉnh bởi nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp là ông Montesquie (1869 - 1755). Nội dung
cốt lõi của học thuyết tam quyền phân lập cho rằng, quyền lực nhà nước ln có xu
hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trị của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực là xuất
hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai. Do vậy, để
đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân, ngăn ngừa các hành vi lạm quyền của
các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước thì phải thiết lập pháp chế nhằm giới hạn
quyền lực nhà nước. Biện pháp tốt nhất để chống lạm quyền là giới hạn quyền lực
bằng các công cụ pháp lý và cách thực hiện không phải là tập trung quyền lực, mà là
phân chia nó ra. Theo cơ chế này, thì một nhà nước có 3 nhánh cơ quan quyền lực căn
bản và chủ chốt: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Quyền lập pháp
được giao cho quốc hội. Quốc hội thường có 2 dạng: đơn viện (1 viện) hoặc lưỡng
viện (2 viện) gồm Thượng viện và Hạ viện. Quyền hành pháp được giao cho Tổng
thống hoặc Thủ tướng xây dựng nội các chính phủ điều hành. Trong tác phẩm “Tinh
thần pháp luật” Montesquieu cho rằng “Cơ quan lập pháp có hai bộ phận ràng buộc
nhau bằng chức năng ngăn cản bên này đối với bên kia. Cả hai bộ phận đều bị ràng


22

buộc bởi quyền hành pháp, mà quyền hành pháp thì cũng bị ràng buộc bởi quyền lập
pháp” [50]. Quyền tư pháp được giao cho Tòa án tối cao và hệ thống hai cấp cơ bản sơ thẩm và phúc thẩm, tòa án cấp trên là tòa phúc thẩm cho các bản án - quyết định
của tòa cấp dưới. Tuy nhiên, phân lập không phải cô lập, mà là sự “phân cơng” rạch
rịi, đồng thời kiềm chế nhau để mỗi nhánh quyền lực không thể lạm quyền. Ba quyền

cũng “phối hợp” nhau và thống nhất trong tay dân, thể hiện ở nội dung cụ thể trong
Hiến pháp. Một mục tiêu của Hiến pháp là để dân không mất quyền khi trao, để dân có
thể truất quyền, địi lại quyền nhằm đảm bảo tính dân chủ trong nhân dân.
Chính quyền Minh Trị lên nắm quyền với mong muốn đưa Nhật Bản từng bước
tiến lên và trở thành một cường quốc. Do đó, trong q trình tìm tịi và học hỏi các
nước phương Tây, chính quyền Minh Trị nhận thấy rằng, cơ chế tam quyền phân lập
rất phù hợp với Nhật Bản nếu muốn xây dựng bộ máy nhà nước theo mơ hình qn
chủ lập hiến. Chính vì vậy, ngày 11 tháng 2 năm 1889, chính phủ mới đã thơng qua
bản Hiến pháp Minh Trị. Nội dung của Hiến pháp đã quy định việc phân chia quyền
lực nhà nước Nhật Bản thành 3 quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư
pháp. Quyền lập pháp được giao cho quốc hội. Quốc hội Nhật Bản gồm có 2 viện là
viện Quý tộc và viện Dân biểu. Nội các là cơ quan nắm quyền hành pháp, đứng đầu
nội các là thủ tướng chính phủ. Quyền tư pháp được giao cho Tòa án tối cao. Bên cạnh
đó, Hiến pháp 1889 cũng quy định về địa vị pháp lý của Thiên hồng, theo đó Thiên
hồng vẫn nắm quyền thống trị đất nước và có quyền hạn rất lớn, vì vậy mà chức năng
của Quốc hội và Nội các Nhật Bản phần nào bị hạn chế. Tuy nhiên, việc phân chia này
nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước không nằm trong tay một thế lực nào, đồng thời
hạn chế vai trị của Thiên hồng Nhật Bản, phần nào đó đã đảm bảo được một mức độ
nhất định về tính dân chủ cho nhân dân.
Có thể nói, ưu điểm quan trọng nhất của cơ chế tam quyền phân lập là tránh
được sự chuyên quyền, độc tài trong thực hiện quyền lực nhà nước. Đánh dấu sự
chuyển biến từ việc sử dụng “quyền lực dã man” trong các xã hội chuyên chế sang
việc thực thi quyền lực văn minh trong xã hội dân chủ. Loại bỏ chế độ quân chủ
chuyên chế, độc tài - mảnh đất tốt cho sự lộng quyền, bức rào cản của dân chủ và phát
triển xã hội. Sự hình thành và phát triển của lý thuyết này gắn liền với quá trình đấu
tranh cho bình đẳng, tự do và tiến bộ xã hội. Lấy pháp luật làm tối thượng, lấy bảo
đảm các quyền tự do cơng dân làm mục đích cuối cùng. Ph. Ăngghen cũng đã đánh


23


giá: “Phân quyền được xem như là nguyên tắc thiêng liêng và không thể xâm phạm
trên thực tế, về thực chất nó khơng có gì khác là sự phân cơng công việc lao động
được áp dụng đối với bộ máy nhà nước nhằm đơn giản hoá và để kiểm tra” [4, tr.405].
Tuy nhiên, do phân quyền nên dễ dẫn tới sự tranh chấp, kìm hãm lẫn nhau giữa
các cơ quan nhà nước nhằm giành quyền lợi nhiều hơn trong thực thi quyền lực nhà
nước. Đồng thời cũng tạo nên sự thiếu đồng bộ, thống nhất và gắn kết giữa các cơ
quan nhà nước. Vận hành bộ máy nhà nước mới theo cơ chế tam quyền phân lập, vì
vậy Nhật Bản cũng không thể tránh khỏi những hạn chế trên, sự mâu thuẩn thể hiện
ngay chính trong nội dung của Hiến pháp 1889. Một mặt, Hiến pháp quy định phân
chia quyền lực để đảm bảo quyền lực nhà nước không tập trung vào tay một thế lực
nào, mặt khác lại quy định quyền lực rất lớn của Thiên hoàng, lấn át lên các nhánh
quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp. Chính sự mâu thuẩn này đã đưa đến sự ra đời
của chính thể chính trị ở Nhật Bản đó là sự dung hợp của hai đặc điểm trên.
2.1.2. Mơ hình nhà nước quân chủ lập hiến nhất nguyên
Mục tiêu trong cuộc cải cách hành chính của Nhật Bản là xóa bỏ chế độ
phong kiến cũ, đồng thời xác lập một mơ hình nhà nước mới theo chế độ qn chủ
lập hiến. Sau khi tham khảo mơ hình chính trị của nhiều nước phương Tây, Nhật
Bản đã lựa chọn mơ hình nước Phổ làm hình mẫu cho đất nước mình, bởi lẽ Nhật
Bản đã tìm được những điểm tương đồng với đối với đất nước của họ từ phía nước
Phổ. Lúc này, Phổ là đất nước mà nền quân chủ đang thống trị có có vai trị rất lớn
trong việc thống nhất quốc gia. Đồng thời, nội dung của Hiến pháp Phổ bảo trọng
tính dân tộc, đề cao quốc thể, tơn trọng hồng đế, vì vậy hợp với truyền thống cố
hữu của Nhật Bản là coi trọng vai trò của Thiên hồng. Mặt khác, nếu chọn mơ hình
của nước Phổ sẽ phù hợp với những ý đồ chính trị của các quan chức trong chính
phủ Nhật Bản, việc tơn thờ Thiên hoàng sẽ tạo điều kiện cho những người trong bộ
máy quan lại dễ bề hoạt động hơn khi núp dưới tấm bình phong che chắn của Thiên
hồng. Trên cơ sở đó, năm 1889 Đại Nhật Bản đế quốc Hiến pháp đã ra đời khẳng
định về mặt pháp lý bản chất của nhà nước Nhật Bản là nền chuyên chế của Thiên
hoàng dựa trên cơ sở liên minh phong kiến, quân phiệt tư sản. Hiến pháp nêu rõ:

“Đế chế Nhật Bản sẽ được cai trị bởi một dòng họ của Thiên hồng mn đời khơng
thể bị phá vỡ” Đồng thời, Thiên hồng cịn có quyền “kiểm sốt qn đội, đứng đầu
Lục quân và Hải quân, có quyền tuyên chiến và giảng hòa hay ký kết các điều


24

khoản, Thiên hồng cũng có quyền lực tuyệt đối trong Hồng tộc, tơn giáo và các lễ
nghi” [13, tr.53]. Bên cạnh đó, Thiên hồng cịn có quyền triệu tập và giai tán Quốc
hội, trong những trường hợp khẩn cấp Quốc hội khơng thể triệu tập họp được, thì
Thiên hồng có quyền ra những chiếu lệnh có chức năng tạm thời thay thế cho sắc
lệnh mà không cần thông qua Quốc hội. Ngồi ra, Thiên hồng cịn có quyền tu
chỉnh Hiến pháp. Như vậy, Hiến pháp 1889 đã xây dựng nên một mơ hình nhà nước
mà trong đó những quyền lực có tính chất tuyệt đối đều dành cho vua Minh Trị, cho
thấy thực chất của nhà nước Nhật Bản thời kỳ này là nhà nước tập trung cao độ mọi
quyền lực vào tay Thiên hồng.
Mặt khác, ở Nhật Bản tín ngưỡng truyền thống phát triển rất mạnh mẽ đặc
biệt là: Thần đạo, tư tưởng thần đạo chi phối hầu như toàn bộ đời sống tâm linh của
người dân Nhật Bản và nó đã tạo nên một hình ảnh Thiên hồng vĩ đại trong mắt
người dân Nhật Bản. Các vị vua chúa đều cho rằng mình là con cháu của các vị
thần, Thiên hoàng được đặt ngang hàng với thần linh và được xem như là biểu
tượng của đất nước Nhật Bản. Ở Nhật Bản vị thần tối cao là nữ thần Mặt Trời
Amaterasu. Do đó, cờ nước Nhật có hình Mặt Trời. Đồng thời, từ xa xưa trong lịch
sử Nhật Bản người dân đã được giáo dục về lòng “trung quân ái quốc”, họ rất đề cao
và tự hào về dịng dõi của mình, họ cho rằng: “Nhật Bản là nước của Thần đạo sinh
ra và vua Nhật Bản là dịng dõi chính quyền của thần, cho nên phàm là người Nhật
Bản ai cũng tin tưởng, kính thờ, tơn trọng, không bao giờ được xâm phạm hay nghi
hoặc vua. Sự tin tưởng đó chơn chặt vào tim óc của người Nhật Bản cứng như đinh
đóng vậy” [35, tr.12]. Thần đạo chính là cơ sở hay nói đúng hơn là hệ tư tưởng của
chính quyền Thiên hồng Nhật Bản hình thành và tồn tại. Chính vì vậy, khi tiếp thu

mơ hình nhà nước quân chủ chuyên chế của phương Tây thì vai trị của Thiên hồng
vẫn được đề cao và nắm quyền thống trị trong bộ máy nhà nước, đây cũng là cơ sở
để hình thành nên mơ hình nhà nước quân chủ lập hiến mang tính nhất nguyên đặc
thù ở Nhật Bản. Tuy nhiên, việc trao cho Thiên hoàng qua nhiều quyền lực làm cho
thể chế chính trị Nhật Bản mang màu sắc của một nền quân chủ tuyệt đối, nó làm
hạn chế vai trị của các cơ quan khác trong bộ máy hành chính.
Như vậy, chính quyền Minh Trị đã tiếp thu mơ hình chính trị của nước Phổ,
để xây dựng một nhà nước Nhật Bản theo kiểu nước Phổ thống nhất, đặc biệt coi
trọng vai trò của vua, bên cạnh hệ tư tưởng truyền thống cố hữu của đất nước này đã


25

góp phần hồn thiện bộ máy nhà nước tạo nên một bộ máy hành chính quân chủ lập
hiến nhất nguyên mang tính đặc thù, rất riêng của Nhật Bản.
2.1.3. Năm lời thề của Thiên Hoàng Minh Trị năm 1868
Thiên hoàng Minh Trị là con trai của Thiên hoàng Hiếu Minh. Ngày 30 - 1 1867, Thiên hoàng Hiếu Minh băng hà ở tuổi 35, hoàng tử Meiji (Minh Trị) lên nối
ngôi vua cha khi mới 15 tuổi. Lúc này, các Đại danh (Daimyo) và giai cấp tư sản nhân
sự kiện đó dẫn 1000 Samurai về Tokyo lấy cớ ủng hộ Thiên hoàng đánh bại và lật đổ
chế độ Mạc phủ Tokugawa vào tháng 12 - 1867. Tháng 1 - 1868, Meiji (Minh Trị)
chính thức lấy lại quyền điều hành đất nước từ tay Mạc phủ, chính thức chấm dứt 265
năm phong kiến dưới triều Mạc phủ.
Sau khi lên ngôi, Thiên hoàng Minh Trị đã tiến hành cuộc cải cách nhằm xóa
bỏ những điều lệ cũ đồng thời cải cách lại đất nước để bắt kịp với các nước phương
Tây đưa Nhật Bản đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Việc làm đầu tiên của Thiên
hồng là cơng bố 5 lời tuyên thệ vào năm 1868. Đây là một lời tun bố chung về mục
đích của triều đình Minh Trị để củng cố sĩ khí và giành được sự ủng hộ tài chính cho
chính phủ mới. Do đó, tháng 3 năm 1868, Minh Trị Thiên hoàng đã triệu tập toàn bộ
triều thần văn võ, cùng các bậc phiên chúa chư hầu làm lễ rất nghiêm trang, long
trọng, để tế cáo với trời đất tổ tiên, đọc lời thề gồm có 5 khoản:

- Điều 1: Dự trù thiết lập hội đồng (Quốc hội) rộng rãi khắp nơi, để lấy thảo
luận quyết định cho mọi thảo luận cơng cộng
Chính quyền Minh Trị lên ngôi đã lựa chọn và phát triển đất nước theo con
đường tư bản chủ nghĩa để hợp với thời và thế đuổi kịp phương Tây, đồng thời xây
dựng một thể chế chính trị theo mơ hình nhà nước qn chủ lập hiến. Chính vì vậy,
học hỏi các nước phương Tây, Thiên hoàng Minh Trị đã đề nghị thành lập Quốc hội,
đây là cơ quan có vai trị quan trọng trong bộ máy nhà nước, mọi công việc của quốc
gia đều phải thông qua Quốc hội để tiến hành thảo luận rồi mới đi đến quyết định cuối
cùng, đảm bảo tính dân chủ trong bộ máy hành chính. Thực hiện lời thề của Thiên
hoàng Minh Trị, Hiến pháp 1889 ra đời đã tuyên bố thành lập Quốc hội, đây là cơ
quan nắm quyền lập pháp trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước Nhật Bản.
- Điều 2: Mọi giai cấp cao hay thấp phải đoàn kết thi hành việc quản lý đất
nước


×